Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

tiểu luận lý luận nhà nước và pháp luật tăng cường thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh tuyên quang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.1 KB, 25 trang )

Đề Tài: tăng cường thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang.
MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ". Câu nói
toát lên sự đồng nhất, tính xuyên suốt của những vấn đề xoay xung quanh chữ
DÂN. Với ý nghĩa đó, dân là "tất cả". Bắt đầu từ DÂN, mọi việc do DÂN, kết cục
vì DÂN. DÂN vừa là điểm xuất phát, vừa là mục tiêu cuối cùng. DÂN là chủ thể
xuyên suốt, là động lực quyết định mọi sự phát triển: "mọi việc do dân".
80 năm qua, vận dụng những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, về mối quan hệ giữa dân chủ và nhà nước, giữa
Đảng và nhân dân, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phát huy dân chủ, nhất là dân chủ
ở cơ sở trong mọi hoạt động đời sống xã hội.
Quá trình thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở đã làm chuyển biến đáng kể
nhận thức của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể, phát huy được quyền làm chủ trực
tiếp của cán bộ, công chức, người lao động, góp phần tích cực, hiệu quả vào công
tác xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, xây dựng khối đoàn kết trong cơ
quan, đơn vị, giữ vững ổn định chính trị từ cơ sở, tạo động lực quan trọng để hoàn
thành nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
Tìm hiểu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở có ý nghĩa quan trọng
trong việc đề ra những nội dung, hình thức, giải pháp thiết thực, hiệu quả, nhằm
nâng cao ý thức thực hiện pháp luật của người dân trong quá trình thực hiện dân
chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Sống và làm việc theo Hiến pháp và
pháp luật”, phát huy mạnh mẽ dân chủ ở cơ sở với quyền tham gia ngày một rộng
1


rãi, bình đẳng và thiết thực của nhân dân vào việc quản lý xã hội của Nhà nước là
động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ xã hội, đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn mới.


Bên cạnh những cố gắng và thành tựu bước đầu đạt được, việc thực hiện pháp
luật về dân chủ trên từng địa phương còn có những hạn chế, thiếu sót, do những
nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau. Có nơi, có lúc, quyền làm chủ của
nhân dân chưa thực sự được tôn trọng và phát huy một cách tối đa. Các chủ thể thực
hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở chưa thực làm tròn vai trò, trách nhiệm, quyền và
nghĩa vụ trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Với những lý do đó, học viên xin chọn đề tài Tăng cường Thực hiện pháp
luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang làm tiểu luận môn Lý
luËn về nhà nước và pháp luật.
• Mục đích nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận không chỉ dừng lại ở mục đích nghiên cứu
các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở mà trên cơ sở phân tích những
vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở; từ việc đánh giá
thực trạng thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Tuyên
Quang. Trong đó tiểu luận nêu bật lên vấn đề thực hiện pháp luật về dân chủ
cơ sở góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền; bảo vệ quyền con người và
đấu tranh phòng chống tham nhũng đồng thời tiểu luận đề xuất những quan
điểm, giải pháp nhằm đẩy mạnh việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
• Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành nghiên cứu việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên
địa bàn tỉnh Tuyên Quang.

2


• Kết cấu của tiểu luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, tiểu
luận gồm 3 chương.
Chương1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.

Chương 2. Thực trạng thự hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
tỉnh Tuyên Quang.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ.
1.1.

NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ TRONG
ĐIỀU KIỆN XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN, BẢO VỆ
QUYỀN CON NGƯỜI TRONG NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY

Hiện nay, chúng ta đã và đang xây dựng nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Ngay
trong Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã xác định là: Có Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do
Đảng Cộng sản lãnh đạo Không những thế, cả thế giới nói chung và chúng ta
nói riêng đang trong thời kỳ bảo đảm, bảo vệ quyền con ngƣời. Vi phạm dân
chủ tức là vi phạm về quyền con người Về phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong nhân dân và gắn trực tiếp
với việc thực hiện Nghị quyết TW 4 "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng
Đảng trong tình hình hiện nay"
1.1.

Khái niệm, đặc điểm, nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
3


1.1.1. Khái niệm pháp luật về dân chủ ở cơ sở
1.1.1.1


Khái niệm dân chủ, khái niệm về dân chủ cơ sở

a) Khái niệm dân chủ:
Dân chủ là khát vọng được làm chủ, là quyền tự nhiên của con người trong
đó có quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và quyền
làm chủ đó có lúc, có nơi đã được những người cầm quyền trong lịch sử nhận thức
và thể chế thành pháp luật thực định cùng các thiết chế chính trị - xã hội khác.
Song, chỉ đến khi nền dân chủ vô sản – dân chủ xã hội chủ nghĩa ra đời, thì đó mới
là chế độ dân chủ thực sự, dân chủ của đa số nhân dân với sự đảm bảo thực hiện
của pháp luật, của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì
dân.
- Quan điểm của Hồ Chí Minh về dân chủ:
Tiếp thu và kế thừa các quan điểm về “dân chủ” của nhân loại, Hồ Chí Minh
lý giải khái niệm “dân chủ” một cách đơn giản, hết sức cô đọng và dễ hiểu, dễ thực
hiện và kiểm soát. Người nói: “ Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ” 1,
“nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”2. Người viết:
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra

1 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr 251.
2 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr 525.

4


Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân3
Như vậy, “dân là chủ” và “dân làm chủ” là cốt lõi trong khái niệm “dân chủ”
của Hồ Chí Minh. Quan điểm trên thể hiện nội dung cơ bản mà nhân loại thừa
nhận: dân chủ nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân.
b) Khái niệm dân chủ cơ sở:
Bất cứ một tổ chức nào, xét theo hệ thống cấu trúc, cũng bao gồm hệ thống
cấu trúc từ nhỏ đến lớn. Những cấu trúc nhỏ nhất trong một hệ thống có tư
cách nhờ một chỉnh thể tương đối hoàn chỉnh, độc lập, là nền tảng cho toàn
bộ hệ thống được gọi là cơ sở. Cơ sở là “tế bào” của hệ thống. Bất cứ một
công dân, một thành viên nào của tổ chức cũng đều gắn bó và sinh sống, lao
động, học tập ở một cơ sở nhất định trong hệ thống. Đó chính là xã, phường,
cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế cơ sở…nơi diễn ra các quan hệ nhiều
mặt giữa các tầng lớp nhân dân. Hệ thống chính trị của nước ta được tổ chức
và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc cơ bản của nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa, đƣợc tổ chức thành 4 cấp: trung ươmg, tỉnh, huyện
và xã (cơ sở) là cấp cuối cùng.
1.1.1 Khái niệm pháp luật về dân chủ cơ sở
Pháp luật về dân chủ là những quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành và đảm bảo
thực hiện, điều chỉnh những quan hệ phát sinh giữa Nhà nƣớc, các tổ chức chính
trị, chính trị xã hội, tổ chức kinh tế và công dân nhằm đảm bảo cho công dân thực
hiện quyền làm chủ trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.
1.1.2 Nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở
3 Hồ Chí Minh toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995, tr 698.

5


Nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa các quyền, các giá trị
của dân chủ đã đƣợc quy định trong Hiến pháp. Đó là các quyền về chính trị, kinh
tế, văn hóa, xã hội, trong đó có quyền tự do bầu cử và ứng cử (Điều 54), quyền của

nhân dân lao động đƣợc tham gia vào quản lý Nhà nƣớc (Điều 53), quyền tự do
ngôn luận, quyền đƣợc thông tin (Điều 69), quyền của nhân dân đƣợc kiểm tra,
giám sát hoạt động của bộ máy và cán bộ công chức Nhà nƣớc ( Điều 8), quyền
bình đẳng nam nữ (Điều 63)… Sau một quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, để nâng cao giá trị pháp lý của các quy định về dân chủ ở cơ sở, UBTVQH đã
ban hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phƣờng, thị trấn (thay thế Nghị định
79/2003/NĐ-CP) số 34/2007/PL-UBTVQH11 gồm có các nội dung:
Một là, những nội dung cần công khai để dân biết
Hai là, những nội dung nhân dân đƣợc bàn và quyết định trực tiếp
Ba là, những nội dung, hình thức mà nhân dân bàn, biểu quyết, tham gia ý
kiến để cấp có thẩm quyền quyết định
Bốn là, những nội dung nhân dân giám sát
Năm là, trách nhiệm tổ chức thực hiện dân chủ cơ sở
1.2. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cơ sở
1.2.1. Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Khái niệm về thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những
quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế
hợp pháp của các chủ thể pháp luật.
Khái niệm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là hoạt động có mục đích làm cho
những quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ cơ sở đi vào cuộc sống
nhằm phát huy cao độ quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân trong phát
6


triển kinh tế, văn hoá – xã hội đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội giàu đẹp,
công bằng, dân chủ, văn minh, xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong
sạch, vững mạnh.

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, thực hiện pháp luật về dân chủ cơ
sở chủ yếu là tập trung thực hiện những nội dung quy định của Pháp lệnh thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34/ 2007- PL- UBTVQH11) được Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20 tháng 04 năm 2007.
1.2.2 Đặc điểm thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở là thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân ở xã, phường, thị trấn, khác với thực hiện pháp luật trong các lĩnh vực, các
ngành luật khác ở các chủ thể, phạm vi, nội dung và các hình thức thực hiện.
Chủ thể thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở trước hết là chính quyền( Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân) cấp xã, các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội ở cơ sở xã và các cơ quan Nhà nước có liên quan dến việc
thực hiện quyền dân chủ ở xã, các công dân sinh sống trong địa bàn xã. Nhưng
năng lực pháp lý của chủ thể lại được quy định trong các văn bản pháp luật khác.
Phạm vi thực hiện pháp luật được triển khai trên địa bàn từng xã, phường, thị trấn
cụ thể với những nội dung phát sinh trong việc đảm bảo thực hiện phương châm “
dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra” trong quản lý Nhà nước, quản lý xã hội,
tổ chức đời sống cộng đồng của nhân dân.
Phạm vi thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở diễn ra giữa các chủ thể mà
một bên bao giờ cũng là công dân sống trong một đơn vị hành chính lãnh thổ hoặc
những đơn vị quần cư nhỏ nhất.
Chế độ và trách nhiệm pháp lý của các chủ thể trong thực hiện pháp luật về
dân chủ cơ sở vừa mang tính chất quản lý hành chính vừa mang tính chất tự quản.
7


Tính chất, mức độ của các chế tài xử phạt vi phạm chung chung, mang tính
định tính chứ chưa phải định lượng.
Nội dung thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở rất rộng lớn, có liên quan
trực tiếp đến quyền và lợi ích của người dân nơi cư trú, được thực hiện theo
phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, trong đó các việc biết,

bàn, làm, kiểm tra có mối quan hệ chặt chẽ và chất lượng thực hiện nội dung này
ảnh hưởng quyết định đối với việc thực hiện nội dung tiếp theo.
1.2.3 Hình thức thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở
Hình thức thực hiện pháp luật là cách thức mà các chủ thể tiến hành các hoạt
động có mục đích làm cho các quy định của pháp luật đi vào cuộc sống. Các quy
phạm pháp luật rất phong phú nên hình thức thực hiện chúng cũng rất phong phú
và khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động thực hiện pháp luật, có thể xác
định thực hiện pháp luật bao gồm các hình thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp
luật, sử dụng pháp luật, áp dụng pháp luật.
Trong đó:
Thi hành pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, các chủ thể pháp
luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành động tích cực.
Sử dụng pháp luật là hình thức trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện
quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi mà pháp luật cho phép), ở hình
thức này các chủ thể pháp luật có thể thực hiện hoặc không thực hiện quyền được
pháp luật cho phép theo ý chí của mình.
Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở được thực hiện chủ yếu ở hình thức sử
dụng pháp luật (đối với chủ thể là công dân) và áp dụng pháp luật (đối với chủ thể
là chính quyền và các tổ chức chính trị cơ sở)
8


1.3. Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường.
1.3.1. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần mở rộng dân
chủ, đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Thứ nhất, thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần hiện thực
hóa các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về dân
chủ trong thực tiễn đời sống của nhân dân ở cơ sở.
Thứ hai, thực hiện pháp luật dân chủ ở xã, phường là phường thức
quản lý đảm bảo trên thực tế các quyền dân chủ của nhân dân. Nhân dân

được hưởng quyền chính trị cơ bản nhất của người công dân: quyền bầu
cử. Thứ ba, thông qua thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở giúp Đảng
và Nhà nước hoàn thiện đường lối, chính sách về dân chủ nói chung, dân
chủ ở cơ sở nói riêng.
1.3.2 Vai trò của thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở đối với hoạt
động của chính quyền cơ sở.
Thứ nhất, việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị
trấn vừa là điều kiện, vừa là yêu cầu nhằm kiện toàn và nâng cao chất
lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Thứ hai, thông qua việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở mà hệ
thống chính trị ngày càng nâng cao năng lực tổ chức triển khai nhiệm vụ,
phát triển và bồi dưỡng nguồn cán bộ kế cận cho đội ngũ cán bộ, công
chức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tập hợp đoàn viên, hội viên, điều hòa
và gắn kết các nhóm lợi ích, những vấn đề nảy sinh được phát hiện kịp
thời, các khó khăn được tháo gỡ và ngày càng thu hút được sự tham gia
rộng rãi của người dân vào các công việc quản lý nhà nước, quản lý xã
hội.
1.3.3. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần phát triển kinh
tế, văn hóa – xã hội; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
cơ sở
Thứ nhất, thực hiện pháp lệnh về dân chủ ở xã, phường, thị trấn bảo
đảm và góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội hơn. Nhà nước thực
hiện chính sách quản lý và phát triển kinh tế - xã hội thông qua chính sách
vĩ mô và vi mô.
Thứ hai, thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường cũng là cơ sở để
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

9



1.3.4. Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở góp phần xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, đấu tranh phòng chống quan liêu, tham
nhũng, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác
Thứ nhất, trong điều kiện một đảng cầm quyền, thực hiện dân chủ là
một giải pháp hạn chế sự tha hóa của quyền lực nhà nước.
Thứ hai, thực hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở không còn là một khẩu
hiệu chung chung mà đã trở thành những quy phạm pháp luật quy định cụ
thể quyền của người dân, nhân dân đã có công cụ để thực hiện quyền làm
chủ của mình ở cơ sở.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUNANG.
2.1. Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Tuyên Quang.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi phía Đông Bắc, cách thủ đô Hà Nội khoảng
165 km, có toạ độ địa lý 21o30’- 22o40’ vĩ độ Bắc và 103o50’-105040’ kinh độ
Đông, phía Bắc giáp tỉnh Hà Giang, phía Đông giáp tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên,
phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc, Phú Thọ.
Theo Niên giám thống kê năm 2015, dân số Tuyên Quang có 760.289 người,
với 198.175 hộ gia đình, mật độ dân số là 130 người/km2.
Tuyên Quang có 07 đơn vị hành chính, bao gồm: Thành phố Tuyên Quang
(đô thị loại III) và 6 huyện: Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na Hang
và Lâm Bình.
Đến nay Đảng bộ tỉnh có 11 đảng bộ trực thuộc, 494 tổ chức cơ sở đảng,
3.487 chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở với 51.945 đảng viên.
2.2. Quá trình triển khai và kết quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang.
Sau hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước cơ chế chính sách
của Đảng, Nhà nước, địa phương từng bước được đổi mới trên các lĩnh vực: Kinh
tế, xã hội nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần trong nhân dân và giữ vững
ổn định anh ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh. Tuyên Quang là
một trong những tỉnh nghèo trong các tỉnh miền núi phía Bắc. Nhanh chóng thoát

nghèo, trở thành tỉnh khá trong các tỉnh miền núi phía Bắc .
10


2.2.1 Quá trình triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở
Tuyên Quang đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cán bộ,
đảng viên, nhân dân và chủ doanh nghiệp về thực hiện Quy chế dân chủ gắn
với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Chỉ thị số 05 của Bộ
Chính trị gắn với các phong trào thi đua yêu nước.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng
Phát huy quy chế dân chủ, nhất là trong bê tông hóa đường giao thông
nông thôn, kiên cố hóa kênh mương, bê tông hóa đường giao thông nội đồng
và vùng sản xuất hàng hóa, xây dựng nhà văn hóa thôn bản, chương trình
xây dựng nông thôn mới, phổ cập giáo dục cho trẻ mầm non 5 tuổi, cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, tổ chức Lễ hội thành Tuyên…
Xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở cần phải tiếp tục nâng
cao nhận thức chính trị về công tác thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc
biệt là đối với nhóm người đứng đầu là người thực thi chính sách liên quan
trực tiếp đến người dân. Các địa phương cần tăng cường tính công khai minh
bạch trong tổ chức thực hiện các cơ chế chính sách; tiếp tục xây dựng và
phát triển mô hình tự quản của cộng đồng dân cư. Thực hiện tốt công tác tiếp
dân và đối thoại với dân, đặc biệt khi có những việc phức tạp nảy sinh.
Vai trò của ủy ban mặt trận tổ quốc
Ủy ban MTTQ các cấp đã chú trọng phối hợp với các cơ quan chức
năng, các tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp đẩy mạnh tuyên truyền, phổ
biến Pháp lệnh số 34 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ
ở xã, phường, thị trấn.
Mặt trận và các tổ chức đoàn thể đã có nhiều hoạt độngt hiết thực, đại
diện cho quyền làm chủ, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của
đoàn viên, hội viên và ngƣời lao động. Các đoàn thể cơ sở phối hợp chặt chẽ

với chính quyền địa phƣơng, thủ trƣởng các cơ quan, doanh nghiệp tuyên
truyền, vận động đoàn viên, hội viên quán triệt thực hiện chủ trƣơng của

11


Đảng và Chính phủ về xây dựng, thực hiện QCDC, phản ánh tâm tƣ, nguyện
vọng của đoàn viên, hội viên và nhân dân với các cấp ủy, chính quyền Kết
2.2.2 kết quả thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở.
Thông qua tuyên truyền và vận động nhân dân hiểu và thực hiện đúng
quyền lợi, nghĩa vu được quy định trong việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở, đồng thời phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Tại các xã, phường, thị
trấn, đến nay phần lớn người đứng đầu đã hiểu rõ vai trò, tầm quan trọng của
Quy chế dân chủ ở cơ sở trong thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà
nước. Bởi vậy, tất cả các chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đều thực hiện
một cách công khai, minh bạch theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”. Công tác tiếp dân có sự chuyển biến rõ nét, có lịch tiếp
dân, phân công lãnh đạo và các đoàn thể tiếp dân vào các ngày trong tuần.
MTTQ các cấp còn tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan trong
việc giám sát thực hiện giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, đề
nghị của công dân. Chuyển biến rõ nét nhất là việc chính quyền các cấp đã
tăng cường mở rộng các cuộc đối thoại với nhân dân, những vấn đề khó,
những bức xúc trong nhân dân được những người đứng đầu chính quyền các
cấp tổ chức đối thoại, trao đổi, giải đáp trực tiếp với người dân, doanh
nghiệp và có kết luận xử lý theo đúng quy định. Việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo được chú trọng giải quyết từ cơ sở.
Đối với các cơ quan hành chính Nhà nước và đơn vị sự nghiệp
công lập.
việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở đã gắn với thực hiện Luật
Công chức, viên chức. Lãnh đạo cấp ủy, người đứng đầu coi trọng việc thực

hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng, phát huy vai trò của các đoàn
thể, lắng nghe ý kiến của tập thể, cán bộ, công chức, viên chức, người lao
động, do đó đã tạo sự đồng thuận trong thực hiện các nhiệm vụ của cơ quan,
đơn vị.
Đối với các doanh nghiệp
12


Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã từng bước đi vào nền
nếp và có hiệu quả. Các tổ chức công đoàn cơ sở đã phối hợp với người lao động
tổ chức hội nghị người lao động để bàn các biện pháp thực hiện các chỉ tiêu, kế
hoạch sản xuất kinh doanh; đánh giá việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể, chế
độ bảo hộ lao động; xây dựng quy chế tiền lương, tiền thưởng, cách sử dụng các
quỹ phúc lợi...
Cùng với đó, công tác hòa giải ở cơ sở cũng được MTTQ các cấp thực hiện
có hiệu quả.
Hiện nay, toàn tỉnh có 2.099 tổ hòa giải với 12.896 hòa giải viên. Nhiều tổ
hòa giải hoạt động có hiệu quả, xử lý kịp thời những nảy sinh bức xúc ngay tại khu
dân cư, góp phần làm giảm tình trạng đơn, thư khiếu kiện vượt cấp. Trong năm
2016, các tổ hòa giải đã tiếp nhận hòa giải 3.304 vụ việc, trong đó hòa giải thành
2.746 vụ việc, hòa giải không thành 171 vụ, 87 vụ đang tiếp tục hòa giải. Ngoài ra,
toàn tỉnh có 141 ban Thanh tra nhân dân, trong năm 2016, ban Thanh tra nhân dân
các xã, phường, thị trấn đã thực hiện giám sát 256 vụ việc. Các hoạt động giám sát
chủ yếu tập trung vào hoạt động của chính quyền các cấp, hoạt động của đại biểu
dân cử, giám sát làm đường bê tông tại các thôn, xóm, bản, tổ nhân dân và các
khoản thu, chi đóng góp của nhân dân dân... Qua đó, phát huy vai trò và quyền làm
chủ của nhân dân thông qua MTTQ để tham gia đóng góp ý kiến cho những thiếu
sót, tồn tại trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội trong việc thực hiện
các nội dung của Quy chế.
2.3. HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
TUYÊN QUANG
2.3.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở Trình độ dân trí thấp là một yếu tố cơ bản nhất ảnh hưởng đến việc thực hiện
dân chủ ở cơ sở.
13


- Nền kinh tế khó khăn, nghèo đói kéo dài cũng sẽ ảnh hƣởng rất lớn đến việc
thực hiên dân chủ ở cơ sở.
- Ngoài ra phong tục tập quán của từng địa phƣơng cũng ảnh hƣởng rất lớn đến
việc thực hiện dân chủ cơ sở.
2.3.2. Hạn chế
Một số xã, phường, thị trấn, cơ quan và doanh nghiệp Nhà nước chưa thực sự
nghiêm túc đã dẫn đến tình trạng một số cán bộ tự đề cao quyền hạn của mình,
buông lỏng quản lý Nhà nước, còn biểu hiện quan liêu, mệnh lệnh, xa rời dân,
không chịu lắng nghe ý kiến của nhân dân, chƣa thực hiện tốt những nội dung của
QCDC, có tư tưởng cục bộ gây mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân.
Nhận thức và trách nhiệm của một số cấp ủy Đảng, chính quyền đoàn thể ở
cơ sở đối với việc xây dựng và thực hiện QCDC chưa đầy đủ, chưa đồng đều; còn
thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc, phối hợp trong tổ chức thực
hiện.
Một số cơ sở xây dựng và thực hiện QCDC thiếu chủ động, thường xuyên,
chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, quốc phòng – an ninh
và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng, cũng cố chính quyền, cải cách hành
chính, xây dựng Mặt trận, đoàn thể vững mạnh.
Một số nơi việc xây dựng và thực hiện QCDC chất lƣợng chƣa cao, việc
công khai những nội dung cho dân biết chƣa đầy đủ, thiếu cụ thể và dẫn đến việc
nội bộ không thống nhất, đơn thư khiếu nại còn nhiều, cá biệt có nơi còn vi phạm
quyền làm chủ của nhân dân.
Một số cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa gương mẫu thực hiện QCDC,

nhất là trong việc thực hiện nghĩa vụ công dân, dân chủ chưa đi đôi với kỉ cương
pháp luật, thậm chí còn lợi dụng dân để khiếu kiện đông người, gây rối trật tự, làm
mất ổn định tình hình ở một số địa phƣơng, đơn vị.
Vai trò Mặt trận, các đoàn thể đối với việc tham gia xây dựng và thực hiện
QCDC chưa được phát huy đầy đủ và thường xuyên, việc phối hợp thực hiện
QCDC cơ sở với các cấp, các ngành chưa đồng bộ, thực hiện chức năng kiểm tra,
giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận, các đoàn thể còn hạn chế. Công tác tuyên
14


truyền vận động đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện chủ trương, chính sách
của Đảng và pháp luật Nhà nước thiếu chiều sâu, cụ thể.
2.3.3. Nguyên nhân
2.3.3.1 Nguyên nhân ưu điểm
Các cấp ủy Đảng,chính quyền,Mặt trận,đoàn thể đã nhận thức đúng đắn tầm
quan trọng của chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng thực hiện QCDC nên đã tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa việc xây dựng và thực hiện.
Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII), Các Nghị định của Chính
phủ về thực hiện QCDC trong các loại hình cơ sở và Pháp lệnh dân chủ của
UBTVQH (khóa XI) được ban hành kịp thời có sự điều chỉnh kịp thời phù hợp với
tình hình, đáp ứng nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, vì vậy được
đông đảo quần chúng hưởng ứng và thực hiện.
Ý thức trách nhiệm, trình độ dân trí, đời sống nhân dân đƣợc nâng cao,
chính sách pháp luật ngày càng được hoàn thiện đã góp phần để nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình.
Quá trình xây dựng, thực hiện QCDC đã gắn kết chặt chẽ với các tổ chức
động viên các tầng lớp nhân dân thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội, đảm
bảo Quốc phòng- An Ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, thực hiện tốt các
cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước, quan tâm các lợi ích chính đáng
của nhân dân.

Cấp Ủy và chính quyền các cấp đã coi trọng công tác kiểm tra, sơ kết, tổng
kết, kiểm điểm rút kinh nghiệm, khắc phục hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo chỉ
đạo; biểu dương khen thưởng kịp thời, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến.
2.3.3.2. Nguyên nhân khuyết điểm, hạn chế
Thứ nhất, do nhận thức về tầm quan trọng của việc thực hiện dân chủ chưa
cao
Một số cấp ủy, tổ chức đảng cơ sở chưa quán triệt sâu sắc Chỉ thị số 30CT/TW về xây dựng thực hiện QCDC; trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức
thực hiện QCDC còn có biểu hiện buông lỏng, xem nhẹ, có lúc thiếu kiểm tra, đôn
15


đốc, chƣa kịp thời phát hiện tiêu cực, sai sót nên còn để xảy ra tình trạng mất dân
chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Việc tạo môi trường, điều kiện phát huy dân chủ ở một số địa phương, cơ
quan, đơn vị chưa thường xuyên; cụ thể, việc thực hiện QCDC còn chậm; các nội
dung công khai dân chủ thực hiện chƣa đầy đủ theo quy định nên chưa tạo được sự
đoàn kết, thống nhất trong nội bộ.
Một bộ phận nhân dân nhận thức về chủ trương, chính sách, pháp luật, mối
quan hệ dân chủ với kỉ cương pháp luật, quyền lợi với nghĩa vụ công dân còn chưa
đầy đủ nên còn bị lợi dụng, lôi kéo, khiếu kiện đông ngƣời, gây rối trật tự công
cộng làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự, sản xuất và đời sống nhân dân, gây khó
khăn trong công việc chỉ đạo, điều hành.
Hệ thống chính trị ở cơ sở một số nơi chƣa vững mạnh, năng lực, trình độ
cán bộ còn yếu; sự phối hợp giữa Mặt trận, đoàn thể với các cấp chính quyền trong
việc tuyên truyền, vận động thực hiện QCDC còn thiếu chặt chẽ; cơ chế giám sát,
phản biện của Mặt trận, đoàn thể còn chậm được cụ thể hóa, trong thực hiện còn
lúng túng, hiệu quả chưa cao.
Thứ hai, do áp dụng pháp luật và xây dựng pháp luật về thực hiện dân chủ
chưa đảm bảo tính sáng tạo và phù hợp với thực tiễn, đặc thù của từng địa
phương, cơ quan, doanh nghiệp

Hầu như các cơ quan, đặc biệt là các Bộ, các cơ quan Uỷ ban nhân dân và
các cơ quan thuộc Chính phủ đã tiến hành xây dựng Quy chế thực hiện dân chủ ở
cơ quan mình, song các Quy chế này hầu nhƣ mang tính hình thức, là sự sao chép
lại Nghị định của Chính phủ.
Thứ ba, do việc xây dựng pháp luật về thực hiện dân chủ trong hoạt động
cảu các lĩnh vực chưa đáp ứng được các yêu cầu của kỹ thuật lập quy.
Thực trạng các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ quan
cho thấy còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí có nhiều điều luật không ăn
nhập gì với nội dung và mục đích của việc thực hiện dân chủ ở cơ quan. Tình trạng
này là do kỹ thuật lập quy còn yếu. Việc phân tích chính sách, đƣờng lối của Đảng
và các quy định pháp luật trong các văn bản pháp luật về dân chủ cơ sở chƣa đƣợc
thực hiện có hiệu quả. Các yêu cầu phù hợp về nội dung và đảm bảo kết cấu về
16


hình thức của văn bản chƣa đảm bảo. Bên cạnh đó, Quy trình lập quy chưa được
áp dụng một cách khoa học từ khâu soạn thảo đến thẩm định rồi thông qua.
2.3.4. Bài học kinh nghiệm
Qua 10 năm thực hiện Chỉ thi số 30-CT/TW của Bộ chính trị (khóa VIII) có
thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau :
Thứ nhất, Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, năng
lực tổ chức thực hiện của các cấp chính quyền, hiệu quả phối hợp của Mặt trận, các
đoàn thể đối với việc thực hiện QCDC.
Thứ hai, các cấp ủy Đảng phải coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức quán
triệt đầy đủ, sâu sắc tư tưởng, quan điểm chỉ đạo và nội dung Chỉ thị số 30-CT/TW
của Bộ chính trị (khóa VIII), các Nghị định của chính phủ về thực hiện QCDC
trong các loại hình cơ sở, Pháp lệnh dân chủ của UBTVQH 11. Đồng thời chủ
động đề ra biện pháp, kế hoạch phân công trách nhiệm cụ thể cho các tổ chức
chính trị xã hội trong hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân
thực hiện.

Thứ ba, thực hiện QCDC phải gắn liền với thực hiện các nhiệm vụ phát triển
kinh tế- xã hội, cũng cố quốc phòng- an ninh và cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn
đảng, cũng cố chính quyền, cải cách hành chính; Phát huy vai trò Mặt trận, các
đoàn thể. Phát huy Dân chủ phải gắn liền với kỷ cƣơng, kỷ luật; quyền lợi đi đôi
với nghĩa vụ.
Thứ tư, tăng cƣờng công tác kiểm tra, đôn đốc với việc thực hiện QCDC.
Giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn động, đơn thư khiếu nại, tố cáo của nhân dân,
xử lí nghiêm minh những vi phạm, kịp thời uốn nắn các biểu hiện lệch lạc. Chú
trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm, biểu dƣơng, khen thưởng kịp thời những
tập thể, cá nhân thực hiện tốt QCDC.
Thứ năm, phát huy vai trò tham mƣu của Ban chỉ đạo thực hiện QCDC các
cấp; thường xuyên cũng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo; Bổ sung sửa đổi quy chế hoạt
động. Phân công trách nhiệm cụ thể các thành viên. Duy trì tốt chế độ giao ban,
phản ánh tình hình, đề xuất kịp thời.

17


CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG.
3.1. QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH TUYÊN QUANG.
- Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở để đáp ứng vấn đề xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền ở Việt Nam hiện nay. Nhƣ ở trên chúng ta đã biết, xây dựng nhà
nƣớc pháp quyền sẽ bảo đảm được nền dân chủ và ngược lại thực hiện tốt dân chủ
là cơ sở để xây dựng nhà nước pháp quyền
- Thực hiện tốt dân chủ cơ sở để bảo vệ, bảo đảm tốt hơn các quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
- Thực hiện tốt dân chủ cơ sở góp phần đấu tranh phòng chống tham nhũng.
Việc công khai minh bạch đặc biệt là việc công khai tài chính sẽ là một yếu tố quan

trọng để giảm thiểu tình trạng tham nhũng, lãng phí xảy ra.
- Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở góp phần thiết thực vào việc bảo
đảm các quyền và lợi ích của ngƣời dân
- Thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở giúp xây dựng mối quan hệ bình
đẳng, đồng thuận giữa người dân với các cơ quan công quyền ở cơ sở
3.1.1 Nhiệm vụ chung
3.1.1.1. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt sâu sắc các quan
điểm, chủ trương của Đảng và các quy định của Nhà nước về thực hiện QCDC
ở cơ sở
Tập trung tuyên truyền sâu rộng nội dung Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính
trị ( khoá VIII), Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban bí thư ( khoá IX), Pháp lệnh 34 của
UBTVQH ( Khoá XI),các Nghị định 71,07,và Nghị định 87 về Dân chủ trong các
loại hình cơ sở
Việc tuyên truyền về thực hiện QCDC ở cơ sở gắn liền với việc giáo dục
nâng cao nhận thức của nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật
của Nhà nước. Tiếp tục thực hiện công cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chú Minh”.
18


Phát huy vai trò các cơ quan thông tin đại chúng trong công tác tuyên
truyền. Chú trọng công tác tuyên truyền ở cơ sở với nhiều hình thức; niêm yết các
văn bản của Nhà nước về dân chủ cơ sở tại trụ sở xã, phường, thị trấn, cơ quan,
doanh nghiệp, nhà văn hoá thôn bản, tiểu khu, phát hành tờ gấp tuyên truyền đến
từng hộ gia đình, tùng người dân.
3.1.1.2. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, phát huy vai
trò tiên phong gương mẫu của đảng viên trong thực hiện dân chủ ở cơ sở
Cấp uỷ, tổ chức đảng tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo để đưa ra việc xây dựng
và thực hiện QCDC thành nề nếp.
Tổ chức đảng, đảng viên gương mẫu thực hiện QCDC, chấp hành nghiêm kỷ

luật của Đảng, Pháp luật Nhà nước, đi đầu trong việc thực hiên QCDC; thực hiện
tốt quy chế chất vấn trong Đảng; đưa việc thực hiện dân chủ cơ sở thành một tiêu
chuẩn để xem xét chi bộ, đảng bộ trong sạch vững mạnh, đảng viên đủ tư cách,
đơn vị tiên tiến xuất sắc.
Cấp uỷ Đảng lãnh đạo thực hiện QCDC cơ sở gắn chặt với việc lãnh đạo
tăng cƣờng công tác dân vận của các cấp chính quyền,phát huy vai trò của Mặt
trận, đoàn thể để tạo hiệu quả tổng hợp.
3.1.1.3. Tập trung chỉ đạo thực hiện các nội dung của Pháp lệnh và các
Nghị định về dân chủ cơ sở; thực hiện QCDC cơ sở đi liền với giữ vững kĩ
cương, kỉ luật, quyền lợi gắn với trách nhiệm, Nghĩa vụ công dân; chống các
biểu hiện lợi dụng dân chủ để vi phạm pháp luật
Chính quyền các cấp tăng cường phổ biến nâng cao hiểu biết pháp luật cho
nhân dân. Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các nội dung của pháp lệnh và nghị định
về QCDC ở các loại hình cơ sở; rà soát bổ sung, sửa đổi các quy chế, hương ước.
Phân công cụ thể trách nhiệm của các thành viên trong việc giải quyết các vấn đề
gay cấn ở địa phƣơng, cơ quan, đơn vị; đông thời có kế hoạch chỉ đạo thực hiện
hiệu quả
Nâng cao chất lượng hoạt động của HĐND, UBND, nhất là cấp cơ sở, đổi
mới việc tiếp xúc cử tri để nắm tâm tƣ nguyện vọng nhân dân. Thực hiện tốt quy
chế phối hợp hoạt động giữa HĐND, UBND các cấp với Mặt trận,các đoàn thể;
quy chế phối hợp hoạt động giữa thủ trưởng cơ quan, ban chấp hành công đoàn;
19


tiến hành hội nghị, đại hội cán bộ, công chức, viên chức, ngƣời lao động theo quy
định.
Chỉ đạo thực hiện tốt Chỉ thị 18/2000/CT-TT của Thủ tướng Chính phủ về
tăng cường công tác dân vận của chính quyền.
3.1.1.4. Phát huy vai trò của Mặt trận, các đoàn thể trong việc thực hiện
dân chủ đại diện; đồng thời vận động nhân dân phát huy dân chủ trực tiếp

trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở
Mặt trận, các đoàn thể nhân dân tiếp tục chỉ đạo đổi mới nội dung,
phương thức hoạt động nhằm thống nhất hành động các tổ chức thành viên
để tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia thiết thực trong thực
hiện dân chủ ở cơ sở.
Tăng cường vận động đoàn viên, hội viên và các tầng lớp nhân dân
phát huy dân chủ trực tiếp ở thôn, bản, tiểu khu nhằm tuyên truyền, vận
động nhân dân phát huy nguồn lực thực hiện các cchủ trƣơng chính sách,
pháp luật, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, đẩy mạnh các
phong trào thi đua lao động sản xuất, xây dựng đời sống văn hoá ở khu dân
cư; chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đoàn viên, hội viên và
nhân dân..
3.1.1.5. Tiếp tục cũng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của
Ban chỉ đạo QCDC ở các cấp; đẩy mạnh xây dựng các điển hình, kịp thời khen
thưởng tập thể, cá nhân thực hiện tốt QCDC ở cơ sở
Củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo các cấp theo quy định. Xây dựng, sửa đổi,
bổ sung quy chế hoạt động; phân công trách nhiệm cụ thể các thành viên Ban chỉ
đạo gắn với trách nhiệm cơ quan mà thành viên phụ trách nhằm phát huy chức
năng tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền trong chỉ đạo thực hiện QCDC.
Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức trong hệ thống chính
trị, các ngành, đoàn thể và cơ sở để kịp thời có giải pháp chỉ đạo thiết thực hiệu
quả. Hàng năm có chỉ đạo chuyên đề về thực hiện dân chủ; chỉ đạo xây dựng các
đơn vị điển hình thực hiện tốt QCDC ở các loại hình để rút kinh nghiệm và nhân
rộng
20


3.1.1.6. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của đảng; kiểm tra,
thanh tra, giám sát của chính quyền, kết hộ kiểm tra, giám sát của các tổ chức
đoàn thể và của cộng đông dân cư; trực tiếp giám sát của người dân

Cấp uỷ đảng, HĐND, UBND các cấp hàng năm theo chức năng, nhiệm vụ
của từng tổ chức có kế hoạch kiểm tra chuyên đề về thực hiện QCDC.
Mặt trận và đoàn thể tăng cƣờng giám sát các hoạt động của chính quyền
các cấp; giám sát đảng viên, cán bộ công chức ở địa bàn dân cư
3.1.2. Các nhiệm vụ cụ thể
- Tiếp tục triển khai, thực hiện các nội dung về QCDC ở cơ sở theo tinh thần
Kết luận số 65-KL/TW của Ban Bí thƣ và chỉ thị số 36-CT/TU của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy về tiếp thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị; phải gắn với
nhiệm vụ chính trị của địa phƣơng, đơn vị và triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị
quyết đại hội Đảng các cấp, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 BCH Trung ương Đảng
(khóa XI)
- Nâng cao nhận thức trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt
trận và các đoàn thể, đặc biệt là người đứng đầu các địa phương, đơn vị về việc rà
soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các quy chế, quy định, nội quy sát với đặc điểm
tình hình của cơ quan, đơn vị, cơ sở; thực hiện tốt Quy chế công tác dân vận của hệ
thống chính trị.
- Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng đối với Mặt trận và các
đoàn thể trong việc phát huy vai trò của các hội đồng tư vấn, dân chủ đại diện, mở
rộng dân chủ trực tiếp, tăng cƣờng công tác giám sát, phản biện trong việc thực
hiện QCDC
- Ban chỉ đạo các cấp tăng cường công tác tham mưu cho cấp ủy, chính
quyền trong chỉ đạo thực hiện QCDC, kịp thời kiện toàn, bổ sung thành viên BCĐ,
phân công trách nhiệm cụ thể của các thành viên. Xây dựng kế hoạch kiểm tra của
BCĐ, các thành viên BCĐ theo chức trách, nhiệm vụ được phân công.
- Tiến hành tổ chức tổng kết, đánh giá kịp thời việc xây dựng và thực hiện
QCDC, triển khai xây dựng nhiệm vụ công tác của năm 2013. Chỉ đạo xây dựng
các mô hình, điển hình làm tốt QCDC trong xây dựng nông thôn mới dể nhân rộng;
21



kịp thời biểu dương, khen thưởng những tập thể, các cá nhân có nhiều thành tích
thiết thực trong thực hiện QCDC ở cơ sở
3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH TUYEN QUANG

3.2.1. Nâng cao nhận thức của các chủ thể thực hiện pháp luật về vai
trò, tầm quan trọng và nội dung của pháp luật về dân chủ cơ sở
Phải luôn luôn quán triệt quan điểm dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển xã hội.
Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về dân chủ cơ sở. Cần phải đƣa ra nhiều
văn bản quy phạm pháp luật về dân chủ mang tính khoa học, hợp lý tránh tình
trạng lỏng lẽo hoặc mâu thuẫn.
Cần làm rõ hơn các quyền của ngƣời dân nhƣng bên cạnh đó cũng phải xác
định rõ trách nhiệm của chính quyền cơ sở, các cán bộ lãnh đạo địa phƣơng trong
việc thực hiện pháp luật về dân chủ cơ sở.
Trong bối cảnh chúng ta đang sửa đổi, bổ sung Hiến pháp việc đƣa dân chủ
trực tiếp và xác định rõ trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng vào nội dung cần
quan tâm sửa đổi bổ sung là một vấn đề hết sức cần thiết. Cần xác định lại tổ chức
của chính quyền địa phƣơng để thực hiện pháp luật về dân chủ có kết quả cao và
thật sự hiệu quả
3.2.2. Đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị
ở xã, thị trấn gắn với việc thực hiện nội dung pháp luật về dân chủ ở cơ
sở
Phải thực hiện dân chủ trong Ðảng, trong bộ máy nhà nước và các đoàn thể
xã hội đặc biệt là hệ thống chính trị ở xã, phường, thị trấn;
Trong hệ thống chính trị, Ðảng là lực lượng duy nhất lãnh đạo. Muốn tránh
nguy cơ độc đoán chuyên quyền - những biểu hiện thƣờng thấy của mất dân chủ thì đảng phải luôn đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính
trị, mà trong đó cơ bản nhất là đối với nhà nước.
22



3.2.3. Gắn việc thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở với việc phát
triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh quốc phòng
Sự phát triển của dân chủ phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội,
năng lực nhận thức của công dân và chính quyền do đó thực hiện dân chủ không
thể tách rời phát triển kinh tế - xã hội. Không có dân chủ trong điều kiện đói
nghèo, an ninh không được đảm bảo, người dân chỉ có thể phát huy quyền làm chủ
khi nỗi lo mưu sinh không còn là nỗi lo thường trực.
3.2.4. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí, xây dựng chính quyền cơ sở thực sự trong sạch vững mạnh
Phải bảo đảm các thể chế dân chủ đƣợc chế định bằng nguyên tắc, luật pháp
và các chuẩn mực văn hóa đạo đức. Ðối với xã hội, một mặt, pháp luật ghi nhận và
thể chế hóa quyền con ngƣời, quyền công dân và bảo đảm về mặt pháp lý cho các
quyền đó được thực hiện; mặt khác, pháp luật trở thành phương tiện để các thành
viên của xã hội có điều kiện bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình ...
3.2.5. Kịp thời sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và đề xuất những kiến
nghị nhằm từng bước bảo đảm thực hiện pháp luật về dân chủ ở cơ sở
Thực tiễn sinh động là nơi kiểm nghiệm đúng đắn nhất mọi chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Do đó, việc thường
xuyên sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm, từng bước hoàn thiện pháp luật về dân
chủ nói chung và dân chủ ở cơ sở là một giải pháp góp phần nâng cao và đảm thực
hiện pháp luật về dân chủ
3.2.6. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở
Như chúng ta cũng đã thấy rằng, các văn bản pháp luật quy định về dân chủ
cơ sở vẫn có nhiều mâu thuẫn, thiếu sót. Trong đó tình trạng các văn bản này
không đảm bảo tính pháp lý vì có các văn bản có giá trị pháp lý cao hơn ảnh
hƣởng đến hoặc cùng điều chỉnh về một vấn đề. Mặt khác, tính không thống nhất,
không đồng bộ giữa các văn bản này kể các quy định trong cùng một văn bản gây
khó khăn cho việc khi áp dụng hay kể cả những quy định không mang tính chất
khả thi, không thể áp dụng trong thực tế. Nhìn chung, một số văn bản vẫn còn thiếu

tính khoa học
23


3.2.7. Tăng cường đối thoại giữa người dân và các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quy chế dân chủ
Việc đối thoại giữa ngƣời dân với các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
dân chủ cơ sở sẽ là cơ hội để ngƣời dân nói lên tâm tƣ nguyện vọng của mình, giải
quyết đƣợc những thắc mắc mà mình gặp phải, để hiểu rõ hơn về quyền lợi cũng
như nghĩa vụ của mình đồng thời cũng xác định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ
chức, người có thẩm quyền trong việc bảo đảm các quyền và nghĩa vụ đó, trách
nhiệm của những người này ra sao khi họ vi phạm đến quyền và lợi ích của người
dân.
3.2.8. Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, kỹ năng sử dụng quy
định pháp luật về dân chủ cơ sở
Việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật sẽ giúp cho người
dân nắm bắt được pháp luật một cách kịp thời, sẽ hiểu rõ hơn về quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Sẽ biết cách thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như thế
nào. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của hoạt
động thực thi pháp luật, là cầu nối để chuyển tải pháp luật vào cuộc sống, làm cho
mọi công dân được tiếp cận với pháp luật.
KẾT LUẬN
Dân chủ là mục tiêu quan trọng của Đảng, Nhà nước ta, và đồng thời cũng là nhu
cầu, nguyện vọng thiết tha của nhân dân.
Dân chủ là yêu cầu, là nguyên tắc hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị từ
Trung ương tới cơ sở, trong đó dân chủ ở cơ sở là bộ phận quan trọng, đảm bảo
phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Pháp luật về dân chủ ở cơ sở là một
nội dung quan trọng của pháp luật về dân chủ, bao gồm hệ thống các quy phạm
pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa Nhà nước, các tổ chức chính trị, chính trị - xã
hội và công dân diễn ra ở cơ sở. Các quy phạm đó đƣợc thể hiện ở nhiều văn bản

quy phạm pháp luật nhưng được quy định và thể hiện tập trung chủ yếu tại các
Nghị định 29, 79 CP/CP và được hoàn thiện thành Pháp lệnh số 34/2007 về thực
hiện dân chủ ở cơ sở xã, phường, thị trấn.
Sau gần 14 năm thực hiện dân chủ cơ sở nước ta đã có những chuyển biến về mọi
mặt của đời sống, kinh tế - xã hội. Trong đó nền kinh tế phát triển mới một mức độ
24


cao, đảm bảo mọi mặt cho đời sống nhân dân. Xã hội dần dần ổn định. Người dân
phát huy quyền làm chủ của mình một cách có hiệu quả trên cả hai hình thức: Dân
chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Quyền và nghĩa vụ của công dân cũng đã được
hiểu và tiến hành một cách có hiệu quả. Các cơ quan nhà nƣớc, các doanh nghiệp
cũng đã phát huy hết vai trò trách nhiệm của mình trong việc xây dựng và cũng cố
nền dân chủ, tạo cho trong lòng nhân dân lòng tin vào các cơ quan nhà nước.
Với sự nhận thức nước ta là một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân cũng như nguyên tắc dân biết, dân bàn, dân làm dân kiểm tra đã
không ít người nghiên cứu về vấn đề dân chủ cơ sở. Căn cứ vào tình hình thực hiện
pháp luật về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang trong những năm vừa
qua đã có nhiều chuyển biến tích cực song bên cạnh đó còn có nhiều hạn chế thiếu
sót. Đề tài của tác giả góp một phần nhỏ trong việc tìm hiểu các quy định của pháp
luật về dân chủ cơ sở, đánh giá thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh
Tuyên Quang, những vấn đề đã đạt được, những vấn đề còn bất cập, hạn chế cũng
từ đó tìm ra những nguyên nhân và giải pháp để giúp cho việc thực hiện pháp luật
về dân chủ cơ sở trên địa bàn tỉnh Tuyên Quang được tốt hơn trong thời gian tới.

25


×