Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn Hà Tĩnh, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 93 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG TRUNG DŨNG



THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG,
THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH






LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành Chính trị học








Hà Nội – 2013




2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG TRUNG DŨNG



THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG,
THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Thu Hƣơng







Hà Nội – 2013



3
LỜI CAM ĐOAN


Luận văn “Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường,
thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” là công trình khoa học
của riêng tôi. Các nội dung, số liệu được nêu trong Luận
văn có nguồn gốc rõ ràng, đảm bảo độ tin cậy, chính xác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về cam kết của mình.

Tác giả



Hoàng Trung Dũng























4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNH : Công nghiệp hóa
HĐND : Hội đồng nhân dân
HĐH : Hiện đại hóa
KTXH : Kinh tế - xã hội
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc

QCDC : Quy chế dân chủ
QPAN : Quốc phòng - an ninh
UBND : Ủy ban nhân dân
XHCN : Xã hội chủ nghĩa





























1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
2
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ THỰC
HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN
9
1.1.
Nhận thức chung về Dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở
9
1.1.1.
Một số khái niệm
9
1.1.2.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ và Dân chủ xã hội chủ nghĩa
12
1.1.3.
Thực hiện Quy chế dân chủ, nội dung quan trọng của dân
chủ ở xã, phường, thị trấn ở nước ta
18
1.2.
Thực hiện Quy chế dân chủ xã, phường, thị trấn là phương
thức phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta
25
1.2.1.

Tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở xã,
phường, thị trấn
25
1.2.2.
Những định hướng phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay
27
Chƣơng 2: QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ,
PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NAY
31
2.1.
Vị trí địa lý, tình hình kinh tế, chính trị, VHXH của tỉnh Hà
Tĩnh
31
2.2.
Những điều kiện tác động đến quá trình thực hiện Quy chế
dân chủ
33
2.3.
Nội dung, cách thức triển khai QCDC ở xã, phường, thị trấn
của tỉnh Hà Tĩnh
34
2.4.
Kết quả trên các lĩnh vực, nguyên nhân thành công, hạn chế
39
2.5.
Một số bài học kinh nghiệm trong việc triển khai Quy chế
dân chủ ở xã, phường, thị trấn
53

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP TIẾP TỤC THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
56
3.1.
Dự báo tình hình và phương hướng thực hiện quy chế dân
chủ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh
56
3.2.
Những giải pháp chủ yếu thực hiện QCDC ở xã, phường, thị
trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới
59
KẾT LUẬN
73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
77
PHỤ LỤC
82

2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là mục tiêu, là khát vọng hướng tới của con người và xã hội
loài người, là nhu cầu khách quan đối với sự phát triển bền vững của tất cả
các nước. Ngày nay, cuộc đấu tranh vì dân chủ, vì sự tiến bộ xã hội đang trở
thành một xu thế tất yếu của thời đại.
Đối với nước ta, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản
Việt Nam luôn nhận thức rõ tầm quan trọng của dân chủ. Trong giai đoạn đổi
mới và hội nhập quốc tế hiện nay, vấn đề dân chủ lại càng được đề cao, dân
chủ XHCN được khẳng định là bản chất của chế độ, là mục tiêu, động lực của

sự phát triển.
Nền dân chủ XHCN và việc đảm bảo dân chủ ở Việt Nam không chỉ
được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế
hoá và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp, hệ thống pháp luật của Nhà
nước. Đặc biệt, kể từ khi Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành Chỉ thị 30 -
CT/TW, ngày 18/12/1998 về “Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở”, nền dân chủ XHCN được triển khai đồng bộ, rõ nét hơn. Theo đó, Quốc
hội, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về vấn đề thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là sự thể hiện quyết tâm củng cố, hoàn
thiện, phát triển nền dân chủ XHCN trong công cuộc đổi mới của Đảng và
Nhà nước ta; phản ánh tâm tư, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân,
đáp ứng nhu cầu và phù hợp với xu thế phát triển của đất nước theo định
hướng XHCN.
Là một địa phương ở khu vực Bắc miền Trung, sau hơn 15 năm triển
khai thực hiện Chỉ thị 30 - CT/TW của Bộ Chính trị về Quy chế dân chủ ở cơ
sở, nhìn chung trên mọi mặt đời sống, chính trị, xã hội của tỉnh Hà Tĩnh có
nhiều chuyển biến tích cực.
Triển khai thực hiện QCDC ở xã, phường, thị trấn (sau đây gọi tắt là
Dân chủ ở cơ sở) đã tạo động lực giúp Hà Tĩnh khơi dậy tiềm năng, nguồn lực

3
vật chất, tinh thần trong nhân dân; củng cố khối đoàn kết thống nhất trong
Đảng bộ, nhân dân; là cơ sở để các địa phương xây dựng phong cách ứng xử
của người lãnh đạo, quản lý; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; nâng cao năng lực
lãnh đạo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp ủy, chính quyền; làm cầu nối
cho nhân dân sát cánh bên Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể để thực
hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, việc triển khai thực hiện QCDC trên địa
bàn Hà Tĩnh vẫn còn nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến quá trình sự phát triển.
Nhận thức về QCDC của một số cấp ủy, chính quyền địa phương, của

cán bộ, đảng viên, trong đó có một số người đứng đầu chưa đầy đủ. Một số
quy định của Đảng và Nhà nước về thực hiện dân chủ chưa được cụ thể hóa
phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương. Tình trạng phân hóa giàu
nghèo có xu hướng gia tăng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với
bình quân chung cả nước. Điều kiện tiếp cận các dịch vụ giáo dục, văn hóa
trong nhân dân giữa các vùng, miền chưa đồng đều.
Một số nơi quyền làm chủ của nhân dân bị vi phạm. Nhân dân chưa
được hưởng đầy đủ quyền được biết, được bàn, được kiểm tra, thực hiện các
chủ trương, nhiệm vụ của địa phương, nhất là huy động nguồn lực đóng góp
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tham gia đền bù, giải phóng mặt
bằng, thực hiện chế độ, chính sách, cung cấp thông tin về công tác quản lý đất
đai, tài nguyên, khoáng sản, ngân sách Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
của công, sách nhiễu chưa được ngăn chặn triệt để.
Trình độ dân trí nhìn chung chưa đồng đều; ý thức về dân chủ chưa
cao, khả năng nhận thức về văn hóa dân chủ còn nhiều bất cập; một bộ phận
nhân dân chưa thấy hết nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, đi ngược lại lợi ích
cộng đồng xã hội. Hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ quá trớn, vi phạm kỷ
luật, kỷ cương, vi phạm pháp luật còn xảy ra ở không ít các địa phương.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến
hòa bình”, lợi dụng chiêu bài “dân chủ, nhân quyền”, “tôn giáo” để chia rẽ
khối đại đoàn kết dân tộc.

4
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa tỉnh Hà Tĩnh sớm thoát khỏi tình
trạng tỉnh nghèo, sớm trở thành tỉnh có công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
phát triển theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2010
- 2015, các cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ, các ban, ngành, đoàn thể cần
triển khai đồng bộ các giải pháp, trong đó yếu tố hết sức quan trọng là tạo sự
đồng thuận, thống nhất cao trong nhân dân. Do đó, tập trung thực hiện QCDC
ở cơ sở là yêu cầu khách quan, cần thiết, là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa có

tính chiến lược lâu dài.
Từ thực tiễn việc thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
thời gian qua và xuất phát từ yêu cầu khách quan của quá trình dân chủ hóa,
đồng thời để làm tài liệu cho các cấp, các ngành tham khảo trong việc thực
hiện dân chủ, tôi chọn nội dung “Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường,
thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp Cao học
chuyên ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bàn về vấn đề dân chủ, đến nay đã có nhiều công trình khoa học nghiên
cứu ở những phạm vi khác nhau; được đề cập trong nhiều đề tài, bài viết, một
số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ. Trong đó, có thể khái quát thành các
nhóm công trình sau:
* Các công trình đề cập tới dân chủ nói chung
- Cuốn sách: Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh (2009) của Phạm
Văn Bính (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, nêu những vấn đề lý luận, thực
tiễn của phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, những yêu cầu đặt ra trong việc
vận dụng phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh để hoàn thiện phương pháp lãnh
đạo dân chủ của Đảng về chính trị, cải cách bộ máy, hoàn thiện chức năng
quản lý nhà nước trong phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát
triển ý thức công dân và năng lực thực hiện dân chủ XHCN của đội ngũ cán
bộ…củng cố khối liên minh công - nông - trí thức, tăng cường pháp chế,
chống khuynh hướng dân chủ cực đoan.

5
- Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình
đổi mới (2010) của Giáo sư - Tiến sỹ Hoàng Chí Bảo, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, nêu rõ tầm quan trọng của dân chủ đặc biệt là dân chủ cơ sở ở nông
thôn từ khi triển khai công cuộc đổi mới đất nước đến nay; đề xuất các giải
pháp góp phần thực hiện hiệu quả việc phát huy dân chủ trong đời sống xã hội,
tạo động lực, mục tiêu cho việc xây dựng thành công mô hình chủ nghĩa xã

hội ở Việt Nam.
- Cuốn sách: Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa (1992) của Đỗ
Nguyên Phương và Trần Ngọc Đường (chủ biên), Nhà xuất bản sự thật Hà
Nội, phân tích những nội dung cơ bản về vấn đề hệ thống chính trị và dân chủ
XHCN nêu trong văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng;
những nội dung cơ bản về Nhà nước pháp quyền với cải cách bộ máy Nhà
nước và hoàn thiện hệ thống chính trị.
- Cuốn sách: Về quá trình dân chủ hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay (2011) của Lê Minh Quân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia sự thật,
khái quát lịch sử hình thành, phát triển các mô hình dân chủ của nhân loại; chỉ
ra những xu hướng lớn của thế giới tác động đến quá trình dân chủ hóa như
phát triển bùng nổ của khoa học - công nghệ, xuất hiện nền kinh tế tri thức,
kinh tế thị trường, quá trình toàn cầu hóa; kiến giải vấn đề về xây dựng nhà
nước pháp quyền, cơ chế kiểm soát quyền lực, phát triển xã hội công dân, mở
rộng và phát huy dân chủ trong Đảng đối với quá trình dân chủ hóa ở Việt
Nam và một số vấn đề liên quan đến dân chủ hóa ở nước ta hiện nay.
- Cuốn sách: Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân (2011) của Nguyễn
Phú Trọng, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, tập hợp các bài viết, bài phát
biểu, thư của tác giả liên quan đến những vấn đề lý luận và thực tiễn về dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy dân chủ trong Đảng và
trong xã hội; về xây dựng đội ngũ cán bộ; đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng; xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân…

6
* Các công trình phản ánh về dân chủ trên các lĩnh vực, địa bàn cụ thể
- Cuốn sách: Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ thực tiễn của
tỉnh Thái Bình (2011) của Nguyễn Hồng Chuyên, Nhà xuất bản Tư pháp Hà

Nội, tập trung phân tích cơ sở lý luận về dân chủ ở cấp xã và Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam; đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về dân chủ ở
cấp xã trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Nêu các quan điểm và giải pháp đẩy mạnh
thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã trong điều kiện xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam.
- Cuốn sách: Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ
ở cơ sở (2004) của Trần Ngọc Khuê và Lê Kim Việt (chủ biên), Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, trình bày tổng quan các yếu tố tâm lý xã hội
trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở; phân tích mối quan hệ giữa các yếu
tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở; đề ra một số giải pháp
cơ bản nâng cao chất lượng, phân tích các yếu tố tâm lý xã hội cần chú ý
trong quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở, chỉ ra các yếu tố chủ yếu như vai trò
gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền; về thực
hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; về tâm lý xã hội nói chung; nhận thức của
đội ngũ cán bộ cơ sở; phong cách của người lãnh đạo quản lý cấp cơ sở; mối
quan hệ giữa nhu cầu và lợi ích trong triển khai thực hiện QCDC ở cơ sở; vấn
đề xây dựng quy ước, hương ước; tác động của tâm lý làng xã; tâm lý của phụ
nữ nông thôn; tâm lý của tôn giáo; những giải pháp thực hiện QCDC ở cơ sở.
* Các công trình liên quan trực tiếp đến chủ trương và thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
- Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tập I (1930 - 1954), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1993; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh, tập II (1954 - 1975), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; Lịch sử Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh tập III (1975 -
2010), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011; Truyền thống 75 năm
công tác Dân vận của Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh (1930 - 2000), Xí nghiệp in Hà
Tĩnh, 2005 và một số công trình liên quan khác của các ban, ngành.

7
Các công trình nêu trên nhìn chung tập trung đề cập đến đặc điểm, tình
hình, quá trình lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, ban, ngành, đoàn

thể trên lĩnh vực KTXH, QPAN, xây dựng đảng và các tổ chức trong hệ thống
chính trị qua các thời kỳ. Bàn về dân chủ, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
chưa thực sự rõ nét.
Như vậy, qua việc nghiên cứu các công trình, đề tài đề cập đến vấn đề dân
chủ nói chung cũng như vấn đề dân chủ trong các lĩnh vực, địa bàn, chưa có
công trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống đầy đủ, toàn diện về
vấn đề dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của tỉnh
Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở lý luận về dân chủ và dân chủ ở cơ sở của Việt Nam nói
chung, cùng với việc phân tích đánh giá quá trình thực hiện QCDC ở cơ sở
trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, luận văn chỉ ra thực trạng, đề xuất phương hướng,
giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện QCDC ở cơ sở của tỉnh Hà Tĩnh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Hệ thống hóa và làm rõ vấn đề lý luận về dân chủ, Quy chế thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Phân tích đặc điểm kinh tế, xã hội, chính trị của tỉnh Hà Tĩnh tác động
đến quá trình thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình thực hiện Quy chế
dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Đề xuất phương hướng, giải pháp đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong
thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn nghiên cứu quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở xã,
phường, thị trấn của tỉnh Hà Tĩnh từ năm 1998 đến nay.

8

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; các chủ trương của
Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện
QCDC ở cơ sở; kế thừa kết quả nghiên cứu của một số tác giả qua các luận
văn, đề tài, bài viết đã được công bố.
- Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của khoa học chính trị,
kết hợp với phương pháp nghiên cứu phân tích, tổng hợp, thống kê, hệ thống
hóa, lôgic - lịch sử, so sánh…đặc biệt là việc khảo sát thực tiễn để giải quyết
nội dung của đề tài.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Khái quát những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân thực hiện Quy chế
dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong cả nước và của tỉnh Hà Tĩnh. Dự báo xu
hướng, nêu phương hướng, giải pháp cụ thể của địa phương, góp phần đẩy
mạnh, hoàn thiện việc thực hiện Quy chế dân chủ XHCN.
- Đề tài góp phần nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhân dân về văn hóa dân chủ, phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn
dân, tạo động lực trong nhân dân tham gia thực hiện nhiệm vụ chính trị của
địa phương.
- Luận văn phân tích toàn diện, hệ thống vấn đề thực hiện QCDC làm
tài liệu tham khảo cho các cấp ủy đảng, chính quyền triển khai hiệu quả Quy
chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
- Sử dụng làm tài liệu phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng trong
Trường Chính trị tỉnh và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện, thị,
thành của tỉnh.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.



9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở XÃ, PHƢỜNG, THỊ TRẤN

1.1. Nhận thức chung về dân chủ và Quy chế dân chủ ở xã,
phƣờng, thị trấn
1.1.1. Một số khái niệm
Dân chủ là hiện tượng lịch sử - xã hội, gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người và xã hội loài người. Theo nguồn gốc của tiếng
Hy Lạp, dân chủ gồm 2 từ “demos” có nghĩa là nhân dân, “kratos” có nghĩa là
quyền uy, sự cai trị. Như vậy theo nghĩa gốc, dân chủ là quyền làm chủ của
nhân dân, là trạng thái tổ chức xã hội trong đó quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân.
Trong tiếng Việt, thuật ngữ dân chủ có ba hàm nghĩa: chỉ chế độ xã
hội; chỉ quyền của người dân và chỉ một phương thức công tác, phong cách
quản lý, lãnh đạo [59, tr.137].
Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Dân chủ là có quyền tham gia, bàn bạc
vào công việc chung, được tôn trọng quyền lợi của từng thành viên trong xã
hội”. Dân chủ là khái niệm để chỉ “Chế độ chính trị theo đó quyền làm chủ
thuộc về nhân dân”.
Ban đầu, khái niệm dân chủ được xem xét về mặt chính trị và pháp
luật, về sau mang ý nghĩa rộng hơn, thể hiện ở các lĩnh vực đời sống xã hội
như kinh tế, VHXH, mối quan hệ giữa con người, giữa cá nhân với cộng
đồng, giữa công dân với nhà nước…
Khi xã hội loài người chưa phân chia giai cấp, dân chủ được thể hiện
dưới hình thức tự quản của cộng đồng. Mọi thành viên có quyền tham gia và
quyết định những công việc chung. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng
suất lao động tăng lên, sản phẩm làm ra dư thừa, xuất hiện chế độ tư hữu, xã
hội phân chia giai cấp và mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt, hình thức tổ


10
chức xã hội Nhà nước ra đời, trạng thái sơ khai của dân chủ dần bị tan rã. Với
sự xuất hiện của Nhà nước, quyền lực cộng đồng xã hội chuyển hoá thành
quyền lực Nhà nước. Dân chủ mang bản chất giai cấp và trở thành mục tiêu
đấu tranh, giành, giữ và phát triển của nhân loại.
Lịch sử của dân chủ cũng cho thấy các giai cấp thống trị khác nhau
hiện thực hoá chế độ dân chủ theo lập trường và lợi ích của mình. V.l Lê nin
tổng kết: “Chế độ dân chủ là một hình thức Nhà nước, một trong những hình
thái của Nhà nước. Cho nên cũng như mọi Nhà nước, chế độ dân chủ là việc
thi hành có tổ chức, có hệ thống sự cưỡng bức đối với người ta” [40, tr.123].
Đặc trưng cơ bản của quá trình chuyển đổi quyền lực từ chế độ cộng
sản nguyên thuỷ sang chế độ chiếm hữu nô lệ là quyền lực của nhân dân được
thể hiện trong các tổ chức tự quản theo tập quán, truyền thống (của xã hội
cộng sản nguyên thuỷ) biến thành quyền lực của giai cấp thống trị (trong xã
hội chiếm hữu nô lệ) được thể chế hoá bằng chế độ nhà nước với sự cưỡng
bức là chủ yếu. Chế độ dân chủ gắn với một chế độ xã hội cụ thể và một giai
cấp cầm quyền nhất định, đó là chủ nô.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, chế độ phong kiến ra đời
thay thế chế độ chiếm hữu nô lệ. Quyền lực xã hội bị thâu tóm vào tay nhà
vua, quyền dân chủ của nhân dân lao động bị thu hẹp.
Với sự phát triển của nền đại công nghiệp, thương nghiệp, quan hệ sản
xuất phong kiến dần bị xóa bỏ. Giai cấp tư sản ra đời, nền dân chủ tư sản xuất
hiện với nhiều mặt tiến bộ so với các chế độ dân chủ trước đó nhưng phạm vi
của nó chỉ bó hẹp trong một bộ phận là giai cấp tư sản. Khái niệm tự do, dân
chủ, bình đẳng bị che lấp bởi quan hệ bóc lột. Nhân dân lao động và người
nghèo vẫn chưa được hưởng quyền dân chủ thực sự.
Khi giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động đánh đổ ách thống
trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền, thiết lập nền dân chủ XHCN, quyền
làm chủ của nhân dân mới trở thành thực chất.

Mục đích cao nhất của nền dân chủ XHCN là giải phóng con người và
xã hội loài người, xây dựng một xã hội không có giai cấp, mọi người đều bình

11
đẳng, tự do; đây là nền dân chủ tiến bộ nhất. Nền dân chủ XHCN có cơ sở
kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất; tác động mạnh mẽ đến các
quyền tự do về chính trị, tư tưởng, văn hóa và các lĩnh vực khác.
Ở nền dân chủ XHCN, những giá trị dân chủ được thể chế hoá thành
pháp luật, thành hệ thống chính trị, trong đó Nhà nước là trụ cột. Dân chủ là
mục tiêu, động lực của phát triển. Các giá trị dân chủ trở thành phổ biến, chi
phối mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mọi công dân và tổ chức xã hội đều
có khả năng nhận thức, vận dụng làm chủ bản thân và làm chủ xã hội. Theo
C.Mác một nền dân chủ thật sự phải gắn liền với sự nghiệp của nhân dân “Chế độ
dân chủ là câu đố đã được giải đáp của mọi hình thức chế độ nhà nước…ngày
càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện
thực và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân” [42, tr.349].
Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số nhân dân lao động, được thực
hiện bằng Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Trong nền dân chủ XHCN, nhà nước là công cụ quyền lực để thực
hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, luôn chịu sự giám sát của nhân dân.
Nhà nước và nhân dân có mối liên hệ chặt chẽ, thường xuyên. Cán bộ, công
chức Nhà nước là người đại diện cho pháp luật để bảo vệ nhân dân. Để tồn
tại và khẳng định rõ vị thế, Nhà nước phải đề ra những cơ chế, biện pháp
kiểm soát, ngăn ngừa, xử lý tệ quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm trong
cán bộ; giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng
cao ý thức pháp luật.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất XHCN
đang trong quá trình phát triển, dân chủ từng bước được hoàn thiện nên quyền
dân chủ của nhân dân có lúc, có nơi chưa được thực hiện đầy đủ. Sau cuộc
cách mạng lật đổ ách thống trị của giai cấp phong kiến, nền dân chủ mới được

hình thành. Trong giai đoạn đổi mới, Đảng tập trung lãnh đạo thực hiện
nhiệm vụ xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho nền dân chủ XHCN.

12
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận
dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể, trong
đó có tư tưởng về dân chủ. Bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN ngày
càng được củng cố, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Về khái niệm Quy chế được hiểu: Mang tính chất ràng buộc. Tùy vào
phạm vi chức năng của cơ quan ban hành, quy chế có những tác động trong
phạm vi khác nhau.
Về khái niệm Quy chế dân chủ ở cơ sở: Đây là cụm từ viết tắt nói về
Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Như vậy: Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn là những quy định cụ
thể về trách nhiệm của chính quyền cơ sở trong việc bảo đảm quyền và nghĩa
vụ, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân theo quy định của pháp luật;
đảm bảo để nhân dân được biết, được bàn, được thực hiện, được kiểm tra các
công việc của chính quyền cơ sở.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về dân chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa
Trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng dân chủ của
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin vào điều kiện cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
đã đề ra những quan điểm, giải pháp sát với yêu cầu thực tiễn, phù hợp với xu
thế khách quan để xây dựng một nền dân chủ mới gắn liền với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng con người trong thời đại mới.
Khi bàn về vai trò dân chủ, Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bầu trời
không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới này không gì mạnh bằng lực
lượng đoàn kết của nhân dân dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” [43,
tr.279]. Người cho rằng làm cách mạng phải biết dựa vào sức dân, dựa vào
quần chúng. Là cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn đức, luyện tài, cần,

kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, chống tham ô, lãng phí, xây dựng một thiết
chế vững mạnh để thực hành dân chủ. Dân chủ là động lực, là sức mạnh để
xây dựng một xã hội ấm no, tự do, bình đẳng, hạnh phúc; dân chủ không chỉ

13
là quyền lực thuộc về nhân dân mà làm sao để nhân dân được hưởng quyền
dân chủ, biết dùng quyền của mình để thể hiện trách nhiệm, bổn phận.
Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều vì dân
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân
Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân
Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [44, tr.698].
Để thực hiện quyền làm chủ, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân
không chỉ có quyền mà điều quan trọng là phải có năng lực làm chủ. “Mọi người
Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến
thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà” [43, tr.40].
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn biết khơi dậy sức mạnh của nhân dân bằng
cách giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lợi ích, trách nhiệm, quyền hạn và
bổn phận đối với nhiệm vụ xây dựng quê hương, đất nước. Người yêu cầu
“Bất kỳ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân,
cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động
viên và tổ chức toàn dân ra thi hành” [45, tr.233].
Chế độ của ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là
đầy tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình
Chính phủ. Chính phủ thì việc to, việc nhỏ đều nhằm mục đích
phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy, nhân dân lại có nhiệm vụ
giúp đỡ Chính phủ theo đúng kỷ luật của Chính phủ và làm đúng

chính sách của Chính phủ, để Chính phủ làm tròn phận sự mà
nhân dân đã giao phó [22, tr.368].
Trong các bài viết, bài nói chuyện, Hồ Chí Minh luôn nghiêm khắc phê
bình tệ quan liêu, xa dân, độc đoán, gia trưởng, mất dân chủ của một bộ phận
cán bộ.

14
Có nhiều cán bộ không bàn bạc, không giải thích với dân, không để
cho dân chúng phát biểu ý kiến, giải quyết các vấn đề, chỉ bắt buộc
dân chúng làm theo mệnh lệnh. Thậm chí khi dân chúng đề ra ý kiến
và nêu rõ vấn đề, họ cũng tìm cách dìm đi. Họ chỉ theo ý kiến của họ.
Kết quả làm cho dân chúng nghi ngờ, uất ức, bất bình [44, tr.334].
Người khẳng định “Có lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn
mấy cũng làm được, không có thì việc gì cũng không xong. Dân chúng biết
giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những
người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra” [44, tr.335].
Trong Di chúc của Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn
dặn: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt
Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [43, tr.624].
Thực hiện tư tưởng của Người, hơn 82 năm qua, kể từ khi thành lập
đến nay (3/2/1930), Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi dân chủ là nội dung
quan trọng của đường lối cách mạng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân đấu tranh thực hiện cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội luôn gắn bó mật thiết với nhau.
Nội dung dân chủ trong giai đoạn đầu của cách mạng là đem lại ruộng đất cho
dân cày. Sau cách mạng dân tộc dân chủ thành công, Đảng đã lãnh đạo cách
mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cách mạng XHCN nhằm mục
đích giải phóng xã hội, giải phóng con người, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân ở trình độ cao hơn, toàn diện hơn để xây dựng một xã hội dân chủ,

công bằng, đem lại ấm no, hạnh phúc và những giá trị tiến bộ, cao cả cho
nhân dân.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (1976) của Đảng Cộng sản Việt
Nam xác định việc xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN là một trong bốn
mục tiêu cơ bản của cách mạng XHCN. Đến Đại hội lần thứ V của Đảng
(1982), quan điểm đó tiếp tục được cụ thể hoá.

15
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986), mở đầu sự nghiệp đổi
mới của Đảng đã khẳng định “Đổi mới phải lấy dân làm gốc”. Đại hội Đại
biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh:
Xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao động
làm chủ và toàn bộ tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị nước ta
trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền
dân chủ XHCN, đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân [21, tr.19].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), tiếp tục khẳng định:
Xây dựng nền dân chủ XHCN là một nội dung cơ bản của đổi mới
hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể để
thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra đối
với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực
hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện,
làm chủ trực tiếp và các hình thức tự quản tại cơ sở [22, tr.43].
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001) đã tạo nên một
bước ngoặt lớn, được đánh giá là đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi
mới. Tại Đại hội, nội dung dân chủ được nêu thông qua tổng kết toàn bộ quá
trình lãnh đạo cách mạng từ 1930 đến 2001, 15 năm đổi mới (1986 - 2001).
Đại hội đã khẳng định, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức
mạnh làm chủ của nhân dân là động lực chủ yếu để thực hiện thắng lợi mục
tiêu “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh” [27, tr.22].
Để phát huy sức mạnh của nhân dân trong thời kỳ mới, Đại hội đề ra
chủ trương củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là
vấn đề thực hành dân chủ trong nội bộ các tổ chức. Đại hội xác định, thực
hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở
theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân
trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy dân chủ đại diện, quy

16
định cụ thể việc thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với các tổ chức và
cán bộ cơ sở; củng cố, tăng cường mối quan hệ giữa hệ thống chính trị với
dân theo phương châm “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân, nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”.
Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, nhận thức về vấn đề dân chủ
và thực hành dân chủ trong Đảng, trong xã hội đã có nhiều bước phát triển
mới, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI sửa đổi (Điều 9) nêu rõ:
“Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó là: Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu
cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cơ quan lãnh đạo cao
nhất của Đảng là đại hội đại biểu toàn quốc…Tổ chức đảng và đảng viên phải
chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục
tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức…”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI khẳng định:
Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội:
Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng

đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới [30, tr.70].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) cũng chỉ rõ:
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu,
vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được

17
thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực.
Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa
bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm [30, tr.84-85].
Nhằm khắc phục những hạn chế, khuyết điểm trong công tác xây dựng
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng trong
giai đoạn mới, Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI
đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay”. Nghị quyết chỉ ra một số khuyết điểm trong việc phát huy dân chủ trong
đảng: “Các nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc tự phê bình và phê bình
ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể
để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát” [33, tr.24]. Đó là cơ sở làm nảy
sinh bệnh mất dân chủ, độc đoán, gia trưởng, thiếu đoàn kết thống nhất trong
nội bộ các tổ chức đảng:
Phải phát huy thật sự dân chủ trong Đảng, thực hiện nghiêm túc
Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp của
Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Đổi mới việc lấy
phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng
đối tượng tham gia [33, tr.24,30].
Đến Hội nghị lần thứ bảy, khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng

đã thảo luận và nhất trí thông qua Kết luận: “Một số vấn đề về tiếp tục đổi
mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở” và ban hành
Nghị quyết số 25 - NQ/TW, ngày 3 tháng 6 năm 2013 “Về tăng cường và đổi
mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Dân vận trong tình hình mới”.
Đây là những đột phá về nội dung, phương thức lãnh đạo, tăng cường phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò của Nhà nước, của MTTQ
và các đoàn thể nhân dân, từ đó tạo phong trào quần chúng rộng lớn.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Tư, lần thứ Bảy, khóa
XI là cơ sở tạo điều kiện cho Đảng ta mở rộng và phát huy dân chủ trong xã
hội, đưa việc thực hiện QCDC ở cơ sở trở thành nhiệm vụ thường xuyên,
cấp bách.

18
Một nội dung gần đây được dư luận thế giới ghi nhận là chủ trương bỏ
phiếu tín nhiệm trong Quốc hội và HĐND các cấp. Thông qua việc bỏ phiếu
tín nhiệm, mỗi đại biểu dân cử càng ý thức rõ hơn trách nhiệm của mình, thấy
được những mặt ưu để phát huy, mặt hạn chế để khắc phục. Tuy vẫn còn một
số ý kiến khác nhau về hiệu quả nhưng đây được xem là một kênh đánh giá
công minh, khách quan, cần tiếp tục thực hiện trong thời gian tới.
Như vậy, dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là nội dung
xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Từ những phân tích trên cho thấy, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân; dân là chủ và dân làm chủ xã hội. Quyền lực đó là tối cao. Trong xã hội
có giai cấp, quyền lực ấy được uỷ quyền cho giai cấp cầm quyền để tổ chức
thành quyền lực chính trị nhằm quản lý xã hội mà trung tâm quyền lực là Nhà
nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, không phải lúc nào nhân dân lao động
cũng là chủ thể đích thực của quyền lực Nhà nước.
Dân chủ XHCN là một bước tiến trong quá trình phát triển và hoàn
thiện cơ chế thực thi dân chủ. Chỉ có chế độ dân chủ XHCN nhân dân lao
động mới thật sự là chủ và làm chủ. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động

thiết lập được những cơ chế đảm bảo cho nhân dân tham gia thực hiện và
kiểm soát quyền lực của mình. Dân chủ XHCN là đỉnh cao trong sự phát triển
về phương thức thực thi dân chủ và là sự kết tinh những giá trị dân chủ đã đạt
được trong lịch sử. Tuy nhiên, cũng như dân chủ nói chung, nền dân chủ
XHCN tiến dần từ thấp đến cao cùng với sự phát triển của chế độ XHCN.
Để thực hiện nền dân chủ XHCN đòi hỏi phải trải qua một thời kỳ lịch
sử lâu dài, khó khăn, phức tạp. Khi mô hình Chủ nghĩa xã hội hoàn thiện với
những đặc trưng cơ bản thì dân chủ XHCN mới thực sự thể hiện rõ bản chất.
1.1.3. Thực hiện Quy chế dân chủ nội dung quan trọng của dân chủ
cơ sở ở Việt Nam
1.1.3.1. Thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa
Nền dân chủ XHCN phải bảo đảm lợi ích thiết thực cho đông đảo nhân
dân lao động, nhân dân được thể hiện quyền làm chủ tham gia vào quá trình

19
tổ chức, xây dựng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội, bảo vệ thành quả cách
mạng và lợi ích của mình.
Nhà nước XHCN là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, công cụ quyền
lực phục vụ hoạt động tự do, làm chủ của mọi người dân nên phải tập hợp
quần chúng để họ cùng tham gia công việc tổ chức, xây dựng và quản lý xã
hội, chống tham nhũng, lãng phí, lạm dụng quyền lực Theo V.l.Lênin, để
xây dựng một nền dân chủ XHCN:
Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về
dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân
chủ cho những người đại diện nhân dân trong những cơ quan đại
biểu là đủ…mà phải thu hút toàn thể những người lao động, không
trừ một ai… [40, tr.68].
Để đảm bảo tập trung dân chủ, phải thực hiện tốt dân chủ trực tiếp và
dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là hình thức mọi công dân trực tiếp thể hiện ý chí và

nguyện vọng của mình bình đẳng, không phân biệt giới tính, lứa tuổi, thành
phần xuất thân, địa vị xã hội Đây là hình thức hữu hiệu, tạo cho nhân dân
với tư cách là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực Nhà nước trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Theo quy định của Hiến pháp hiện
hành, hình thức dân chủ trực tiếp được thực hiện bằng phương thức sau: chế
độ bầu, bãi miễn đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND; quyền công dân tham
gia thảo luận các vấn đề chung, quan trọng của đất nước và của địa phương;
biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu dân ý [13, tr.21].
Dân chủ đại diện là hình thức cơ bản mà thông qua đó nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước, vận hành theo quy định của Hiến pháp. Theo cơ chế
này, nhân dân bầu ra cơ quan đại diện. Cơ quan đại diện trực tiếp nhận quyền
lực từ nhân dân nên còn được gọi là cơ quan quyền lực của Nhà nước; trong
đó Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, HĐND là cơ quan
quyền lực nhà nước của địa phương. Tính chất quyền lực nhà nước cao nhất

20
của Quốc hội thể hiện ở chỗ, Quốc hội thay mặt cho nhân dân cả nước quyết
định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước như lập hiến, lập pháp, các
chính sách cơ bản đối nội, đối ngoại, các nhiệm vụ KTXH, QPAN của đất
nước; thành lập các cơ quan nhà nước trung ương, quyết định những nguyên
tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, giám sát tối cao
đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Hội đồng nhân dân thay mặt cho
nhân dân địa phương quyết định các biện pháp nhằm xây dựng địa phương về
mọi mặt, đảm bảo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống của
nhân dân, thành lập ra các cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương; thực
hiện quyền giám sát hoạt động của cơ quan này và các cơ quan khác đóng
trên địa bàn [13, tr.22].
Dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện có quan hệ gắn bó hữu cơ với
nhau “Dân chủ trực tiếp phụ thuộc về năng lực nhận thức của mỗi người ;
Dân chủ đại diện phụ thuộc vào khả năng thực thi chức năng, nhiệm vụ của

người đại diện và cơ quan đại diện” [51, tr.167].
Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, trật tự, dân chủ được thể chế hoá
thành pháp luật và dân chủ trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật. Muốn
dân chủ cao thì kỷ luật phải nghiêm. Kỷ luật nghiêm mới bảo đảm việc mở
rộng dân chủ. Thực hiện dân chủ cũng có nghĩa là đổi mới tổ chức và phương
thức hoạt động của hệ thống chính trị, trong đó phải hết sức chú trọng đổi mới
phương thức quản lý của Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Như vậy, trong chế độ XHCN, thực hiện dân chủ là quá trình hiện thực
hoá những giá trị dân chủ vào đời sống xã hội để nhân dân được hưởng thành
quả cách mạng, được tham gia rộng rãi, tích cực, hiệu quả công việc quản lý
Nhà nước, quản lý xã hội.
1.1.3.2. Thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn là thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân lao động
Ở nước ta, cấp xã, phường, thị trấn là nơi triển khai, thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân trực tiếp và rộng rãi; là cấp gần dân nhất, tiếp nhận,
triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

21
luật của Nhà nước; theo dõi, giám sát, kiểm tra công dân thực hiện các nghĩa
vụ, pháp luật. Dân chủ và công bằng xã hội chỉ có thể biến thành sức mạnh
vật chất khi nó thâm nhập sâu vào quần chúng nhân dân, được nhân dân nói
chung, nông dân, nông thôn nói riêng quan tâm, ủng hộ. Trong quá trình dựng
nước và giữ nước, đặc biệt trong công cuộc đổi mới, người nông dân có vai
trò hết sức to lớn đối với nhiệm vụ phát triển KTXH, ổn định chính trị. Bởi
vậy, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân lao động ở cơ sở trước hết phải
hướng tới nông dân, nông nghiệp và nông thôn.
Ngày 18/02/1998, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 30 - CT/TW về “Xây
dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”. Ngày 11/5/1998, Chính phủ
ra Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế thực hiện dân
chủ ở xã. Ngày 28/3/2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Chỉ thị số 10 -

CT/TW „„Về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở‟‟. Ngày 7/7/2003, Chính phủ thông qua Nghị định 79/2003/
NĐ-CP về “Ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã” thay thế cho Nghị
định số 29/1998/NĐ - CP.
Để triển khai có hiệu lực, hiệu quả hoạt động dân chủ cấp xã, đồng
thời nâng tính pháp lý của việc thực hiện QCDC lên một bước mới, ngày
20/4/2007 Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 34 -
PL/UBTVQH về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay thế cho Nghị
định 79/2003 - NĐ/CP. Đây là những văn bản pháp lý, tạo điều kiện cho nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời là cơ sở để Nhà nước giám
sát, bảo đảm quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân.
Có thể thấy, trong hệ thống pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở của
Nhà nước ta hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện dân chủ
cấp xã có số lượng nhiều nhất và thường xuyên được Nhà nước ta sửa đổi, bổ
sung theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Điều đó nói lên rằng, cùng với
việc coi trọng vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở nói chung, Nhà nước ta đặc
biệt quan tâm tới vấn đề thực hiện dân chủ cấp xã.

×