MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................1
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ VĂN HOÁ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.........................................................................................................3
1.1. Dịch vụ văn hoá, đặc điểm và vai trò của dịch vụ văn hoá trong nền kinh
tế thị trường.......................................................................................................3
1.2. Nội dung và sự cần thiết tăng cường quản lý Nhà nước đối với dịch vụ
văn hoá trong nền kinh tế thị trường.................................................................4
1.2.1. Quan niệm và đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch
vụ văn hoá trong nền kinh tế thị trường............................................................4
1.2.2. Sự cần thiết khách quan về quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hóa
trong nền kinh tế thị trường...............................................................................6
1.2.3. Nội dung quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá..............................7
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH
VỤ VĂN HOÁ CỦA THÀNH PHỐ NHA TRANG......................................9
2.1. Khái quát về tình hình phát triển dịch vụ văn hoá của thành phố Nha
Trang.................................................................................................................9
2.2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá ở thành
phố Nha Trang.................................................................................................12
2.2.1. Kết quả thực hiện pháp luật và các chính sách có liên quan đến hoạt
động dịch vụ văn hoá......................................................................................12
2.2.2. Công tác cấp duyệt và kiểm tra giấy phép hoạt động dịch vụ văn hoá.15
2.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ........................16
2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra.................................................................18
2.3. Đánh giá chung về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá ở
thành phố Nha Trang.......................................................................................18
2.3.1. Những mặt tích cực và nguyên nhân.....................................................18
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân:...........................................................20
2.4. Giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá...........23
2.4.1. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, định hướng nhận thức
trong xã hội đối với dịch vụ văn hóa..............................................................23
2.4.2. Xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch các loại dịch vụ văn hóa:. .23
2.4.3. Củng cố tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý, tăng cường
công tác phối hợp, cải cách các thủ tục hành chính liên quan nhằm đáp ứng
yêu cầu phát triển dịch vụ văn hóa.................................................................24
2.4.4. Quy định về cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật, nhân viên phục vụ.. 25
2.4.5. Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát về dịch vụ văn hóa.....25
KẾT LUẬN....................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................28
1
LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn hai mươi lăm năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nước ta đã
đạt được thành tựu to lớn và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng. Góp phần vào những thành tựu to lớn ấy có
đóng góp không nhỏ của lĩnh vực văn hoá. Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, Nhà nước ta luôn coi trọng các chính sách đầu tư cho văn hoá, đầu tư
nhân tố con người, khuyến khích và tạo điều kiện để nhân dân tham gia sáng
tạo văn hóa và hưởng thụ văn hóa ngày càng nhiều hơn, các dịch vụ văn hóa
được khuyến khích đầu tư phát triển, chủ trương xã hội hoá trên lĩnh vực văn
hoá được triển khai rộng rãi.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa trên lĩnh vực văn hóa, thời gian qua,
trên địa bàn thành phố Nha Trang đã nhanh chóng phát triển nhiều loại hình
dịch vụ văn hóa như karaoke, băng đĩa hình, trò chơi điện tử, Internet… thu
hút đông đảo các tầng lớp trong xã hội tham gia, góp phần làm phong phú đời
sống văn hoá tinh thần trong nhân dân. Khẳng định chính sách của Nhà nước
ta đã ban hành là phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội và khẳng định
nền tảng tinh thần được quan tâm nhiều hơn.
Tuy nhiên, trong tiến trình hội nhập sự tiếp cận văn hoá đã nảy sinh
không ít các biểu hiện tiêu cực trong các loại hình dịch vụ văn hóa, tác động
xấu đến tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên và quần chúng nhân dân, nhất là đối tượng thanh thiếu niên. Dư luận xã
hội và các phương tiện truyền thông đại chúng đã phản ánh với nhiều mức độ
khác nhau. Cơ quan chức năng cũng rất khó khăn, lúng túng và bị động trong
công tác quản lý đối với một số loại hình dịch vụ văn hóa.
Thực trạng đó cần phải tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với các
dịch vụ văn hoá.
Chính vì vậy, qua tìm hiểu, nghiên cứu em chọn đề tài: “Tăng cường
2
hiệu lực quản lý nhà nước đối với dịch vụ văn hóa ở thành phố Nha Trang,
Khánh Hòa” làm tiểu luận kết thúc cho môn học Quản lý nhà nước trên các
lĩnh vực trọng yếu.
3
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DỊCH VỤ VĂN HOÁ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Dịch vụ văn hoá, đặc điểm và vai trò của dịch vụ văn hoá trong nền
kinh tế thị trường
- Khái niệm dịch vụ văn hoá
Dịch vụ văn hóa là những hoạt động trên lĩnh vực văn hóa có tổ chức
và được trả công, nhằm phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của
công chúng.
Dịch vụ văn hóa tồn tại ở nhiều dạng: văn hóa phi vật thể, văn hóa tâm
linh, văn hóa du lịch, văn hóa giải trí, văn hóa sinh hoạt xã hội…Những nhân
tố ảnh hưởng đến dịch vụ vụ văn hóa bao gồm: nhân tố thời đại, nhân tố
truyền thống, nhân tố lịch sử.
- Đặc điểm của dịch vụ văn hóa
Dịch vụ văn hoá là loại hình dịch vụ đời sống nhằm thoả mãn nhu cầu
con người, làm cho con người sống ngày càng văn minh, hiện đại. thực tế
hiện nay cho thấy, ở nhiều nước trên thế giới, khi thu nhập của người dân tăng
lên, đủ ăn, đủ mặc thì hoạt động dịch vụ văn hoá không thể thiếu. Theo đó,
dịch vụ văn hoá có các đặc điểm như sau:
- Giá trị sử dụng của sản phẩm dịch vụ không có hình thái vật thể (hữu
hình) mà tồn tại dưới hình thái phi vật thể.
- Quá trình sản xuất ra hàng hóa dịch vụ hướng vào phục vụ trực tiếp
người tiêu dùng với tư cách là những khách hàng (chữa bệnh, dạy học, cắt tóc,
may đo…); quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra đồng thời.
4
- Do không mang hình thái vật thể và do quá trình sản xuất đồng thời
cũng là quá trình tiêu dùng, nên hàng hóa dịch vụ không thể tồn tại độc lập,
không thể tích lũy hay dự trữ.
- Các loại hình dịch vụ văn hoá:
Dưới tác động của quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu và giao lưu
văn hóa thế giới, đã xuất hiện nhiều loại hình văn hóa ở nước ta: karaoke, vũ
trường, băng đĩa nhạc, cà phê video, internet…Các loại hình này ngày càng
phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu về đời sống tinh thần của con người.
1.2. Nội dung và sự cần thiết tăng cường quản lý Nhà nước đối với dịch
vụ văn hoá trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Quan niệm và đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch
vụ văn hoá trong nền kinh tế thị trường
- Quan niệm về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá.
Trên cơ sở nghiên cứu, tổng hợp những quan điểm hợp lý của nhiều quan
niệm khác nhau về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá, có
thể rút ra: “Quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá là phương
thức mà thông qua hệ thống các công cụ quản lý bao gồm pháp luật, chính
sách, quy hoạch, kế hoạch Nhà nước tác động vào đối tượng quản lý để định
hướng, điều chỉnh những hoạt động của xã hội về lĩnh vực văn hoá đi theo
đúng hướng, đúng mục đích theo chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
nước về phát triển văn hoá trong từng giai đoạn phát triển của đất nước”.
Như vậy, nói đến quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá là
nói đến cơ chế quản lý. Cơ chế đó, một mặt, phải tuân thủ các yêu cầu của
quy luật kinh tế khách quan; mặt khác, phải có một hệ thống công cụ như
pháp luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch...thích hợp để quản lý hoạt động
dịch vụ văn hoá. Quan niệm này bao hàm những nội dung cơ bản như: các cơ
quan nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hoá từ Trung
5
ương đến địa phương là chủ thể quản lý; các quan hệ xã hội vận động và phát
triển trong lĩnh vực dịch vụ văn hoá là đối tượng quản lý và hệ thống pháp
luật, chính sách, quy hoạch, kế hoạch,...là công cụ để Nhà nước thực hiện sự
quản lý.
- Đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá.
Một là, Nhà nước là người tổ chức và quản lý các hoạt động dịch vụ văn
hoá diễn ra trong nền kinh tế thị trường. Xuất phát từ đặc trưng của nền kinh
tế thị trường là tính phức tạp, năng động và nhạy cảm. Vì vậy, hoạt động dịch
vụ văn hoá đòi hỏi Nhà nước phải đề ra pháp luật, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch...và sử dụng các công cụ này để tổ chức và quản lý hoạt động
dịch vụ văn hoá.
Hai là, hệ thống công cụ như pháp luật, chính sách, chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch…phát triển dịch vụ văn hoá là cơ sở, là những công cụ để
Nhà nước tổ chức và quản lý hoạt động dịch vụ văn hoá.
Ba là, quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá đòi hỏi phải
có một bộ máy nhà nước mạnh, có hiệu lực, hiệu quả và một đội ngũ cán bộ
quản lý Nhà nước có trình độ, năng lực thực sự.
Bốn là, quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá còn xuất
phát từ chính nhu cầu khách quan của sự gia tăng vai trò của chính sách pháp
luật...trong nền kinh tế thị trường với tư cách là công cụ quản lý.
- Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá trong nền kinh
tế thị trường.
Vai trò quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn hoá được thực
hiện ở những khía cạnh sau:
- Vai trò quản lý Nhà nước thể hiện ở chỗ, Nhà nước trên cơ sở nắm bắt
những quy luật vận động khách quan của nền kinh tế, định hướng cho hoạt
động dịch vụ văn hoá phát triển theo hướng tích cực, hạn chế tiêu cực để
6
nhanh chóng đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nhà nước tạo cơ sở pháp lý, có
chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động dịch vụ
văn hoá.
- Trong quá trình tham gia hoạt động dịch vụ văn hoá, các tổ chức và cá
nhân không thể tự giải quyết những vấn đề vượt quá khả năng của mình trong
quá trình hoạt động cũng như vấn đề thủ tục hành chính trong dịch vụ văn
hoá. Do đó, cần phải có sự quản lý của Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho hoạt
động dịch vụ văn hoá phát triển.
1.2.2. Sự cần thiết khách quan về quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn
hóa trong nền kinh tế thị trường
- Do yêu cầu phải giữ gìn và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa phải hội tụ cả hai yếu tố: yêu nước
và tiến bộ. Yêu nước là truyền thống của dân tộc, yêu nước ngày nay cũng
chính là yêu chủ nghĩa xã hội; yếu tố tiến bộ ở đây, ngoài việc phát huy tinh
hoa văn hóa dân tộc, còn phải kế thừa và tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân
loại phù hợp với đặc điểm dân tộc Việt Nam.
Vấn đề quan trọng là định hướng hoạt động dịch vụ văn hóa trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Nếu không có định
hướng tốt, nếu buông lỏng sự hướng dẫn của cơ quan chức năng và vai trò
quản lý của nhà nước, thì sẽ dẫn đến hoạt động dịch vụ văn hóa tràn lan, vi
phạm pháp luật, tác động tiêu cực trong xã hội và ảnh hưởng đến thuần phong
mỹ tục của dân tộc.
- Do tác động của quá trình hội nhập nền kinh tế toàn cầu.
Cơ chế thị trường với tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh
và cung cầu đã kích thích tối đa tính năng động và sáng tạo của con người chủ thể của quản lý, đồng thời hướng các cơ sở sản xuất kinh doanh quan tâm
7
đến tính hiệu quả. Mặt trái tác động của cơ chế thị trường sẽ bộc lộ nhiều
khuyết điểm, không chỉ tác động về mặt kinh tế mà còn tác động đến thị hiếu,
nhân cách, thẩm mỹ, hành vi ứng xử của con người; mặt khác, quá trình hội
nhập nền kinh tế toàn cầu và việc Việt Nam là thành viên của tổ chức thương
mại quốc tế WTO, văn hóa và dịch vụ văn hóa nước ngoài tràn vào sẽ tác
động trực tiếp đến nhận thức, lối sống, thị hiếu, thẩm mỹ trong đời sống
người dân. Chính vì thế, đòi hỏi phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước
trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực văn hóa, hoạt động dịch vụ văn
hóa.
- Do tính chất xã hội hóa hoạt động văn hóa.
Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước về văn hóa bằng các biện pháp
chuyên môn và kinh tế là điều kiện cần thiết để phát triển văn hóa lành
mạnh phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu phát triển về nhân cách, trí tuệ
tình cảm, niềm vui và hạnh phúc của mỗi thành viên trong xã hội, mỗi gia
đình và cộng đồng.
Nhà nước cần mở rộng các nguồn thu để tăng ngân sách, tăng chi cho
các hoạt động văn hóa, vừa phát huy quyền lợi, vừa tăng cường nhận thức về
nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân tham gia dịch vụ văn hóa. Thực hiện điều
này cũng chính là thể hiện chủ trương của Đảng ta trong việc khắc phục xu
hướng “thương mại hóa”, không vì chạy theo lợi nhuận mà bất chấp những
quy định của pháp luật, làm phát sinh những biểu hiện tiêu cực trong hoạt
động dịch vụ văn hóa.
1.2.3. Nội dung quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá
- Tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật chung của Nhà nước liên quan
đến hoạt động dịch vụ văn hoá và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật,
chính sách phát triển hoạt động dịch vụ văn hoá mang tính đặc thù của địa
phương thuộc thẩm quyền.
8
- Quy hoạch phát triển dịch vụ văn hóa.
- Xây dựng bộ máy tổ chức quản lý dịch vụ văn hóa.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và trang bị phương tiện phục vụ cho
công tác quản lý dịch vụ văn hóa.
- Tổ chức kiểm tra, giám sát dịch vụ văn hóa.
9
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
ĐỐI VỚI DỊCH VỤ VĂN HOÁ
CỦA THÀNH PHỐ NHA TRANG
2.1. Khái quát về tình hình phát triển dịch vụ văn hoá của thành phố
Nha Trang
Trước yêu cầu hội nhập và phát triển, cùng với cả nước trong những năm
qua với những chính sách kinh tế năng động, thành phố Nha Trang đã và
đang là một thành phố có những bước phát triển mạnh về kinh tế, văn hoá, xã
hội. Sự phát triển đó đã thu hút được các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong
và ngoài nước quan tâm, đầu tư sản xuất kinh doanh vào địa bàn.
Cùng với sự phát triển đó, trong những năm qua hoạt động dịch vụ văn
hóa trên địa bàn thành phố cũng đã có những bước phát triển đáng kể cả về số
lượng, chất lượng, từng bước thích ứng với cơ chế thị trường, đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của các tầng lớp nhân dân, đồng thời góp phần tích cực
vào việc tuyên truyền phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước, nâng cao dân trí phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, bảo vệ
quốc phòng an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành
phố…
Từ khi có Nghị định 87-CP/CP của Chính phủ cho đến nay, các hoạt
động dịch vụ văn hoá do ngành văn hoá thông tin cấp giấy chứng nhận đều
được quản lý chặt chẽ và hoạt động có hiệu quả, đa số các chủ kinh doanh
dịch vụ văn hoá trên địa bàn đã có ý thức chấp hành pháp luật. Hệ thống
dịch vụ văn hoá do tư nhân đầu tư đã phát triển nhanh trên nhiều địa bàn,
khu vực, góp phần phục vụ và nâng cao đời sống tinh thần, hưởng thụ văn
hoá của cư dân.
10
Toàn thành phố có nhiều cơ sở kinh doanh dịch vụ Karaoke, đại lý
Internet, đại lý bán và cho thuê băng đĩa phim, ca nhạc, sân khấu và cơ sở
kinh doanh xuất bản phẩm.
Thống kê các dịch vụ văn hoá một số phường, xã
S
T
Karaoke
Đơn vị
T
1
P. Lộc Thọ
2
P. Xương Huân
3
4
5
6
7
8
9
Internet
đĩa hình
Cơ sở kinh
doanh xuất bản
ấn phẩm
S
Nhân
L
viên
8
2
21
12
24
5
5
2
8
59
19
38
2
2
3
14
5
0
2
0
2
0
7
10
4
1
3
0
1
3
20
8
2
6
0
2
6
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
96
53
106
07
07
05
22
3
P. Phước Long 2
P. Vạn Thạnh 0
P. Vạn Thắng 2
P. Vĩnh Nguyên 0
P. Phương Sài 1
X. Lương Sơn 0
X. Vĩnh Thái
4
Tổng số
Đại lý băng,
4
0
SL
Nhân
viên
SL
Nhân
viên
SL
Nhân
viên
Nguồn: Sở Văn hoá và Du lịch
Cùng với công tác tuyên truyền các quy định của pháp luật đối với hoạt
động Karaoke, phòng Văn hoá và Thông tin phối hợp với cơ quan chức năng
quản lý, kiểm tra chặt chẽ hoạt động Karaoke trên địa bàn, hướng dẫn công
tác quy hoạch nhà hàng Karaoke, đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020. Sau khi có Quyết định số 212/QĐ-UBND ngày 24/1/2008 của UBND
tỉnh Ninh Bình về việc quy hoạch nhà hàng kinh doanh Karaoke, trên địa bàn
tỉnh đến năm 2010, định hướng đến năm 2020. Thực hiện hương dẫn của Sở
Văn hoá, Thể thao và Du lịch để đảm bảo quyền lợi hợp pháp của người kinh
11
doanh và đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hoá của nhân dân thị xã, phòng Văn
hoá và Thông tin thành phố Nha Trang đã hướng dẫn thủ tục hồ sơ cho các tổ
chức, cá nhân có nhu cầu kinh doanh và tự tổ chức kiểm tra thẩm định; có
18/40 cơ sở kinh doanh Karaoke chưa được cấp giấy phép nhưng nhìn chung
đều hoạt động lành mạnh, không có các tệ nạn xã hội, điều kiện cơ sở vật chất
trang thiết bị tốt, phòng hát sáng sủa, thoáng đãng, việc hoạt động kinh doanh
phù hợp với quy định của pháp luật.
Cùng với một số cửa hàng này còn có một số khá đông đảo những bộ
phận kinh doanh không có giấy phép hoạt động trên thị trường. Đó là những
cửa hàng bán lẻ, những cửa hàng hoạt động không xin giấy phép, những cơ sở
tin học, những của hàng bán đồ điện tử hay những cửa hàng bán đồ lưu
niệm… mở thêm dịch vụ bán và cho thuê băng đĩa phim, ca nhạc, sân khấu.
Đây là bộ phận cực kỳ phức tạp, hoạt động kinh doanh chủ yếu là băng đĩa
phim, ca nhạc, sân khấu lậu, ngoài luồng, thậm chí có cả những băng đĩa
phim, ca nhạc, sân khấu có nội dung đồi trụy, độc hại, tạo nên một thị trường
tự do nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan chức năng. Vẫn còn hiện
tượng bày bán các ấn phẩm, xuất bản phẩm không có trong danh mục tại
một số cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng. Các hoạt động sản xuất kinh doanh băng
đĩa phim, ca nhạc, sân khấu của các đối tượng này đã trở thành mạng lưới
như một thị trường thứ hai, hoạt động ngầm rất sôi động tạo thành một hệ
thống thiếu tổ chức, song lại khá linh hoạt và nhịp nhàng.
Đĩa lậu, đĩa có nội dung không lành mạnh, kích động bạo lực xuất hiện
trên địa bàn thành phố. Mỗi cửa hàng chỉ có khoảng 50 đĩa có dán nhãn kiểm
soát được trưng bày, trong khi đó số lượng đĩa trung bình ở mỗi của hàng
khoảng từ 700 đến 1000 đĩa, số đĩa này là đĩa lậu, không được dán nhãn quản
lý. Đĩa lậu xuất hiện ngày càng nhiều trên địa bàn thành phố, do sự gọn nhẹ
của đĩa, có thể cất dấu số lượng nhiều trong hòm, tủ, chỉ cần trưng bày đại
12
diện, khi khách hàng cần mua, đối tượng kinh doanh mới đem ra. Do đó, hiện
nay trên địa bàn thành phố Nha Trang đĩa có dán nhãn quản lý có số lượng rất
ít.
2.2. Thực trạng công tác quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá ở
thành phố Nha Trang
2.2.1. Kết quả thực hiện pháp luật và các chính sách có liên quan đến
hoạt động dịch vụ văn hoá
Trong những năm qua, thực hiện sự chỉ đạo của Uỷ ban nhân dân tỉnh,
hướng dẫn của Sở Văn hoá Thông tin và Du lịch tỉnh Khánh Hòa và sự chỉ
đạo của Ban Thường vụ Thị uỷ, Uỷ ban nhân dân thành phố xây dựng kế
hoạch và bằng nhiều hình thức thông tin, tuyên truyền được thực hiện như tổ
chức các lớp tập huấn phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước, công bố trên báo, đài, tổ chức các đợt sinh hoạt, phổ biến thông tin trên
bản tin thị xã, biên tập in thành tài liệu để phát hành rộng rãi tuyên truyền các
văn bản và các hoạt động dịch vụ văn hoá nhất là kinh doanh xuất bản phẩm,
karaoke và Internet tới cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nhất là đội
ngũ cán bộ chuyên ngành và các đối tượng tham gia hoạt động dịch vụ nắm
được và hoạt động đúng pháp luật.
+ Về công tác triển khai văn bản, Uỷ ban nhân dân thành phố tập trung
chỉ đạo các cơ quan chuyên môn tổ chức triển khai các văn bản pháp quy của
Nhà nước như: Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 của Chính phủ
về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet; Chỉ thị 17/2005/CT-TTg
ngày 02/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc chấn chỉnh hoạt động tiêu
cực trong quán Bar, nhà hàng Karaoke, vũ trường; Thông tư liên tịch số
02/2005/TTLT/BCVT-VHTT-CA-KHĐT ngày 14/7/2005 của Bộ Bưu chính
viễn thông, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch đầu tư về quản
lý đại lý Internet; Thông tư 54/2006/TT-BVHTT ngày 24/5/2006 của Bộ Văn
hoá Thông tin về việc hướng dẫn quản lý quy hoạch nhà hàng Keraoke, vũ
13
trường; Thông tư 47/2006/TT-BTC, ngày 31/5/2006 của Bộ Tài chính; hướng
dẫn thi hành Nghị định số 124/2005/NĐ-CP, ngày 06/10/2005 của Chính phủ
quy định về biên lai thu tiền phát và quản lý, sử dụng tiền nộp phạt vi phạm
hành chính; Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính của Bộ Văn hoá Thông tin; Thông
tư số 03/2006/TTLT/BCVT, ngày 29/6/2006 của Bộ Bưu chính Viễn thông
sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Thông tư 05/2004/TT/BCVT, ngày
16/12/2004 về hướng dẫn một số điều về xử lý vi phạm hành chính và khiếu
nại, tố cáo quy định tại Chương 4 Nghị định số 55/2001/NĐ-CP của Chính
phủ về việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet; Thông tư số
69/2006/TT-BVHTT ngày 28/8/2006 của Bộ Văn hoá Thông tin, hướng dẫn
thực hiện một số quy định về kinh doanh vũ trường, Karaoke, trò chơi điện tử
quy định tại quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh dịch vụ văn hoá công
cộng kèm theo Nghị định 11/2006/NĐ-CP; Nghị định 103/2009/NĐ-CP ngày
06/11/2009 của Chính phủ về việc ban hành quy chế hoạt động văn hoá, kinh
doanh dịch vụ văn hoá công cộng. Công văn số 192/UBND-VP6 ngày 05
tháng 9 năm 2006 của UBND tỉnh về việc cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh, giấy phép kinh doanh Karaoke, vũ trường và tiếp tục thực hiện Chỉ thị
số 17/2005/CT-TTg; Công văn số 229/UBND-VP6 ngày 12 tháng 9 năm 2007
của UBND tỉnh về quy hoạch Karaoke, vũ trường; Quyết định số 212/QĐUBND ngày 24 tháng 01 năm 2010 của UBND tỉnh về việc phê duỵêt quy
hoạch nhà hàng kinh doanh karaoke, vũ trường trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa
đến năm 2010, định hướng đến năm 2010; Văn bản số 132/CV-SVHTT ngày
15 tháng 9 năm 2006 của Sở Văn hoá - Thông tin về việc xây dựng quy hoạch
nhà hàng Karaoke, vũ trường và lắp đặt biển hiệu quảng cáo; Văn bản số
473/SVHTT-TTr ngày 09 tháng 10 năm 2010 của Sở Văn hoá -Thông tin về
việc kiểm tra quy hoạch hoạt động quảng cáo và Karaoke, vũ trường; Văn bản
số 551/SVHTT-QLNV ngày 20 tháng 11 năm 2011 của Sở Văn hoá - Thông
14
tin về việc hướng dẫn quy hoạch Karaoke, vũ trường, thiết kế, lắp đặt biển
hiệu quảng cáo gửi phòng VHTTTT các huyện, thị xã; Văn bản số
24/SVHTT-QLNV ngày 10 tháng 01 năm 2007 của Sở Văn hoá - Thông tin về
lịch làm việc về quy hoạch Karaoke, vũ trường, thiết kế, lắp đặt biển hiệu
quảng cáo; Văn bản số 308/SVHTT-QLNV ngày 01 tháng 6 năm 2011 của Sở
Văn hoá -Thông tin về việc hoàn chỉnh hồ sơ quy hoạch Karaoke, vũ trường,
viết vẽ, lắp đặt biển hiệu quảng cáo; Văn bản số 564/CV-SVHTT ngày 19
tháng 9 năm 2007 của Sở Văn hoá - Thông tin về việc quy hoạch Karaoke, vũ
trường, viết vẽ, lắp đặt biển hiệu quảng cáo; Văn bản số 561/SVHTT&DL ngày
19 tháng 9 năm 2014 của Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch về việc quy hoạch
Karaoke, vũ trường, viết vẽ, lắp đặt biển hiệu quảng cáo; Văn bản số
686/SVHTT&DL-NVVH ngày 06 tháng 8 năm 2014 của Sở Văn hoá, Thể thao
và Du lịch về việc cấp giấy phép Karaoke, vũ trường.
- Về các hình thức tuyên truyền phổ biến giáo dục các văn bản pháp luật:
Uỷ ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo ngành Tư pháp là cơ quan thường trực
thường xuyên đổi mới cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật phù hợp với đặc
điểm đối tượng, địa bàn để đưa pháp luật thực sự đến với nhân dân nhất là các
đối tượng kinh doanh dịch vụ.
- Hình thức tuyên truyền thông qua hội nghị được triển khai thực hiện có
hiệu quả. Trong 6 năm qua các cơ quan, đơn vị trong toàn thành phố xã đã tổ
chức được 1.060 hội nghị triển khai phổ biến pháp luật, thu hút được 137.001
lượt người tham dự.
- Việc tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng được quan
tâm, tăng cả về thời lượng và từng bước nâng cao về chất lượng
- Phòng Văn hoá và Thông tin, Trung tâm VHTTTT thành phố tiến hành
sao in các văn bản như Nghị định 87/CP, Chỉ thị 09/2000/CT-TTg,...tiến hành
mời các chủ cơ sở có liên quan đến hoạt động ở lĩnh vực văn hoá và dịch
vụ văn hoá đến học tập và trao đổi, đồng thời phối hợp với ban, ngành có
15
liên quan.
- Hoạt động phát hành các loại tài liệu tuyên truyền pháp luật đã đạt
được những kết quả rõ rệt hơn với việc đa dạng hoá các loại tài liệu, tăng
cường phát hành các tờ rơi, tờ gấp có nội dung đơn giản, dễ hiểu phù hợp với
từng loại đối tượng.
- Đối với ngành Giáo dục - Đào tạo thành phố phối hợp với các ngành
chức năng như công an, tư pháp, Ban Tuyên giáo Thành uỷ hàng năm tổ chức
các lớp tập huấn cho đội ngũ giáo viên trực tiếp giảng dạy môn đạo đức, môn
giáo dục công dân, giáo viên chính trị ở các trường tiểu học, THCS, THPT và
các trường dạy nghề về kiến thức pháp luật nhất là những văn bản quy định về
các hoạt động dịch vụ văn hoá.
2.2.2. Công tác cấp duyệt và kiểm tra giấy phép hoạt động dịch vụ văn hoá
Sự tăng trưởng kinh tế nói chung của tỉnh và thị xã đã tác động trực tiếp
đến sự phát triển của các lĩnh vực xã hội. Lĩnh vực dịch vụ văn hoá với rất
nhiều loại hình được các tầng lớp nhân dân, các tổ chức triển khai thực hiện.
Nhiều giấy phép con đã được Chính phủ bãi bỏ như: trò chơi điện tử, phát
hành báo, hát với nhau, kinh doanh băng đĩa nhạc, dạy khiêu vũ…Do vậy,
trên thực tế ngành văn hoá thông tin chỉ cấp giấy chứng nhận cho các loại
hình kinh doanh như băng đĩa hình, karaoke, khiêu vũ, trò chơi có thưởng.
Còn dịch vụ Internet do ngành Bưu điện ký hợp đồng với chủ cơ sở để họ tiến
hành đăng ký kinh doanh theo quy định.
Nghị định 87/CP của Chính phủ ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt
động văn hoá, dịch vụ văn hoá phát triển. Sau thời gian triển khai Nghị định
này, các hoạt động dịch vụ văn hoá đã từng bước ổn định, công tác cấp duyệt
và kiểm tra quản lý, cấp giấy phép được thực hiện theo đúng trình tự, đa số
các chủ kinh doanh đều tuân thủ và thực hiện đầy đủ các thủ tục kinh doanh.
Ngày 18/01/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định 11/2006/NĐ-CP về
16
quy chế hoạt động văn hoá, kinh doanh dịch vụ văn hoá công cộng (thay thế
cho Nghị định 87/CP) đã tồn tại hơn 10 năm. Theo đó, tổ chức và cá nhân có
giấy phép đăng ký kinh doanh đều phải tuân thủ những quy định của Nghị
định này.
Công tác quản lý kiểm tra việc thực hiện thủ tục đăng ký giấy phép cho
thấy hầu hết các cơ sở đều có ý thức chấp hành. Thực hiện Nghị định số
103/2009/NĐ-CP về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hoá và kinh doanh
dịch vụ văn hoá công cộng, từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương đã phê duyệt quy hoạch vũ trường, karaoke thì Sở Văn
hoá, Thể thao và Du lịch được cấp mới giấy phép kinh doanh Karaoke theo
quy hoạch đã được phê duỵêt. Đây là thuận lợi lớn để công tác quản lý Nhà
nước về dịch vụ văn hoá đạt hiệu quả cao.
2.2.3. Tổ chức bộ máy quản lý và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII đã nêu “Trước thử thách mới đòi hỏi
Đảng ta phải xây dựng một đội ngũ cán bộ vừa có bản lĩnh chính trị vững
vàng, vừa có kiến thức năng lực và uy tín để lãnh đạo đất nước vượt qua
những thử thách tiến lên, đây là khâu then chốt có ý nghĩa quyết định sự
nghiệp cách mạng của Đảng. Trong toàn bộ nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
Đảng thì nhiệm vụ đổi mới cán bộ là quan trọng nhất.”
Thấm nhuần quan điểm ấy, nhằm quản lý, định hướng hoạt động dịch vụ
văn hoá để nâng cao đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân, phục vụ tích
cực trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị của thành phố. Trong
những năm qua, UBND thành phố luôn quan tâm đến công tác xây dựng đội
ngũ cán bộ nói chung, cán bộ ngành văn hoá nói riêng. Đội ngũ cán bộ quản lý
văn hoá từng bước phát triển cả về số lượng và chất lượng. Số lượng tăng theo
sự phát triển kinh tế văn hoá xã hội, đồng thời chất lượng được nâng lên rõ rệt
qua công tác đào tạo, bồi dưỡng, từng bước đáp ứng được nhu cầu nhiệm vụ
17
đặt ra.
- Tuyển dụng cán bộ là một hoạt động của quản lý hành chính Nhà nước,
theo đó Nhà nước chọn lựa một số người có đủ tiêu chuẩn, năng lực, phẩm
chất vào những vị trí nhất định của bộ máy hành chính.
- Công tác bố trí, phân công cho cán bộ văn hoá được UBND thị xã quan
tâm, căn cứ vào kết quả tuyển dụng đã bố trí đúng người, đúng việc, phù hợp
với sở trường của từng cán bộ. Do vậy đã phát huy được khả năng, năng lực
của đội ngũ cán bộ công chức văn hoá từ thị xã đến cơ sở.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Nhà nước luôn được UBND thành
phố quan tâm, đã xây dựng được kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về
hành chính, pháp luật, tin học và ngoại ngũ, quản lý hành chính nhà nước.
Công tác đào tạo luôn gắn với sử dụng và kế hoạch tạo nguồn. Kết hợp đào
tạo chính quy với các hình thức đào tạo, bồi dưỡng thích hợp đối với từng loại
cán bộ. Có chế độ bắt buộc công chức tự học tự nghiên cứu, cập nhật và đổi
mới kiến thức nâng cao kỹ năng chuyên môn. Trong 5 năm qua, từ 2010 –
2015, UBND thành phố đã cử 10 đồng chí theo học chương trình cao cấp
chính trị, 20 đồng chí qua lớp quản lý Nhà nước, 8 đồng chí theo học chương
trình tin học B, 3 đồng chí học nghiệp vụ Thanh tra Nhà nước.
Đồng thời với việc xây dựng đội ngũ cán bộ của cơ quan chuyên môn,
UBND thành phố đã quan tâm chỉ đạo các cơ quan liên quan như Công an,
lựa chọn, bố trí các đồng chí cán bộ có kinh nghiệm tham gia đội an ninh; Đội
quản lý thị trường, Thanh tra Nhà nước. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công
tác văn hoá của các xã, phường. Phối hợp với MTTQ và các đoàn thể tham
gia công tác tuyên truyền, vận động giáo dục.
2.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra
Công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động dịch vụ văn hoá trên địa bàn
thành phố được duy trì thường xuyên, giải quyết kịp thời những đơn thư khiếu
18
nại, tố cáo của nhân dân, không để tồn đọng kéo dài vượt cấp nhằm thực hiện
tốt những quy định của pháp luật về đảm bảo an ninh, trật tự, vệ sinh môi
trường... Trong những năm qua, hoạt động của các đội, các đoàn kiểm tra liên
ngành, chuyên ngành của tỉnh, thị xã và các xã, phường đã đạt được những
kết quả đáng kể. Lực lượng kiểm tra ngành công an, đội quản lý thị trường
cũng đã tổ chức khảo sát, thâm nhập vào các địa bàn, cơ sở kinh doanh hoạt
động dịch vụ văn hoá có dấu hiệu vi phạm pháp luật, có đơn thư tố giác, phản
ánh của nhân dân.
2.3. Đánh giá chung về quản lý Nhà nước đối với hoạt động dịch vụ văn
hoá ở thành phố Nha Trang
2.3.1. Những mặt tích cực và nguyên nhân.
* Những mặt tích cực, thời gian qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn song
công tác quản lý Nhà nước về hoạt động dịch văn hoá trên địa bàn thành phố
Nha Trang đã có bước chuyển rất tích cực, góp phần quan trọng thúc đấy hoạt
động dịch vụ văn hoá phát triển, cụ thể là:
Thứ nhất, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức
hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước trong lĩnh
vực hoạt động dịch vụ văn hoá từ thị xã đến cơ sở được chú trọng. Bên cạnh
đó, việc chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các cơ chế, chính
sách, đề án, dự án phát triển dịch vụ văn hoá của thị xã có tiến bộ hơn. Điều
đó đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân
tham gia kinh doanh dịch vụ văn hoá, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước về dịch vụ văn hoá trên địa bàn thị xã.
Thứ hai, công tác đào tạo, bồi dưỡng và hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nguồn
nhân lực cho hoạt động dịch vụ văn hoá được tăng cường, đã tạo điều kiện để
các cơ sở đào tạo đa dạng hoá chuyên ngành đào tạo, nâng cao kiến thức về
kỹ năng giao tiếp, phục vụ...cho lực lượng lao động ngành dịch vụ văn hoá.
19
Thứ ba, công tác kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động dịch vụ văn hoá
được duy trì thường xuyên, góp phần ổn định thị trường, đẩy mạnh các hoạt
động dịch vụ văn hoá, giữ gìn kỷ cương pháp luật trong hoạt động dịch vụ
văn hoá trên địa bàn thị xã.
* Nguyên nhân của kết quả đạt được.
- Thứ nhất, các cấp uỷ đảng, cơ quan quản lý Nhà nước, cán bộ lãnh đạo,
chỉ đạo, quản lý đã nhận thức chủ trương quá trình tổ chức và quản lý hoạt
động dịch vụ văn hoá là việc thực hiện đúng quy luật vận động và phát triển
văn hoá do Đảng và Nhà nước như là động lực có khả năng thúc đẩy sự phát
triển văn hoá trong thời kỳ mới, đồng thời tháo gỡ được những vướng mắc
trong thời kỳ bao cấp trước đây. Hầu hết các địa phương, các ngành, các cấp
đều quan tâm đến lĩnh vực hoạt động dịch vụ văn hoá, đưa vào kế hoạch,
chương trình công tác của mình.
- Thứ hai, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và tổ chức
hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước trong lĩnh
vực hoạt động dịch vụ văn hoá từ thị xã đến cơ sở được chú trọng. Bên cạnh
đó, việc chỉ đạo xây dựng và tổ chức triển khai thực hiện các cơ chế, chính
sách, đề án, dự án phát triển dịch vụ văn hoá của thị xã có tiến bộ hơn. Điều
đó đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của tổ chức, cá nhân
tham gia hoạt động dịch vụ văn hoá, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý Nhà nước về hoạt động văn hoá trên địa bàn thị xã.
- Thứ ba, kết quả quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá ở thành phố
Nha Trang là do được sự hướng dẫn kịp thời của Sở Văn hoá, Thể thao và Du
lịch, sự chỉ đạo của Thị uỷ, HĐND, UBND thị xã, sự phối hợp chặt chẽ giữa
các ban ngành liên quan trong công tác quản lý và chấn chỉnh các hoạt động
dịch vụ văn hoá
- Thứ tư, các đội kiểm tra liên ngành đã tập trung tăng cường công tác
20
kiểm tra, nhất là đối với các điểm nóng trên địa bàn, kiểm tra các cơ sở kinh
doanh dịch vụ văn hoá và các loại hình dịch vụ khác có liên quan đến môi
trường văn hoá, góp phần ổn định an ninh, trật tự và giảm tệ nạn xã hội.
- Thứ năm, các ban, ngành đoàn thể và nhân dân trên địa bàn thành phố
đã có chuyển biến nhận thức, xác định vai trò và nhiệm vụ của mình trong
việc thực hiện Chỉ thị 17 của Thủ tướng Chính phủ. Đã tổ chức triển khai nội
dung chỉ thị đến từng hội viên, thành viên và cán bộ, công chức trong cơ
quan; xây dựng kế hoạch thực hiện, tích cực tham gia các hoạt động và phối
hợp kịp thời với các đơn vị liên quan, góp phần thực hiện hiệu quả Chỉ thị 17
của Thủ tướng Chính phủ.
- Thứ sáu, bộ máy quản lý Nhà nước về hoạt động dịch vụ văn hoá trên
địa bàn thành phố từng bước được sắp xếp lại, đã có sự phối hợp giữa các cơ
quan chuyên môn của thị xã trong việc xử lý các hành vi vi phạm các quy
định của Nhà nước trong lĩnh vực này. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý
Nhà nước về hoạt động văn hoá từng bước được nâng lên. Công tác đào tạo,
bồi dưỡng nguồn nhân lực cho ngành văn hoá đã được quan tâm thực hiện.
- Thứ bảy, trong quá trình triển khai và thực hiện, đã kịp thời tổ chức hội
nghị sơ kết nhằm đánh giá, rút kinh nghiệm những mặt được và chưa được, đề
ra biện pháp thực hiện trong thời gian tới.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân:
* Những hạn chế.
- Hoạt động dịch vụ văn hoá là một loại hình có tính đặc thù, phát triển
rất nhanh, đa dạng, nhạy cảm và phức tạp. Công tác tuyên truyền phổ biến
chính sách pháp luật, các quy định về hoạt động dịch vụ văn hoá cho người
dân và việc nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư về vai trò của dịch vụ
văn hoá trong phát triển kinh tế - xã hội mặc dù đã được các cấp, các ngành
thực hiện khá tích cực, song hiệu quả còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu.
21
Sự phối kết hợp của các cấp, các ngành liên quan chưa chặt chẽ. Hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực văn hoá chưa đồng bộ, chưa kịp thời.
- Công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch trong thời gian qua chưa
thực sự được quan tâm, chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa theo kịp yêu cầu
phát triển. Các điểm hoạt động chủ yếu là tự phát, xen kẽ trong các khu dân
cư, do đó gây ảnh hưởng đến hoạt động chung của cộng đồng.
- Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hoá từ thành phố đến cơ sở còn có
những bất cập. Đối tượng hoạt động thì hết sức tinh vi và có xu hướng lẩn
tránh sự quản lý của chính quyền để thu lợi nhuận. Bên cạnh đó là sự quản lý
chưa nghiêm của một số bậc phụ huynh. Tình trạng thiếu việc làm, các điểm
vui chơi, giải trí chưa đáp ứng được yêu cầu.
- Theo quy định, các điểm bán và cho thuê băng đĩa có giấy phép hoạt
động thì phải có nguồn cung cấp băng đĩa hợp pháp, có bản quyền (do công ty
Điện ảnh và chiếu bóng cung cấp). Trên thực tế, lượng băng đĩa do Công ty
Điện ảnh cung cấp không nhiều, phần lớn các ấn phẩm băng đĩa đang lưu
hành tại các cửa hàng kinh doanh trên phần lớn là tự sao chép, in nối bản trái
phép hoặc nhập lậu, không rõ nguồn gốc. Cùng với sự "bùng nổ" thị trường
băng đĩa lậu, là sự phát triển ồ ạt các điểm đại lý Internet công cộng và trò
chơi điện tử. Bên cạnh những tiện ích, thì xung quanh những điểm dịch vụ
Internet và trò chơi điện tử vẫn tồn tại những hạn chế, tiềm ẩn nguy cơ khó
lường. Phần lớn "khách hàng" đều trong độ tuổi thanh thiếu niên, học sinh,
truy cập mạng để chát hoặc chơi game, trong đó có nhiều trò chơi bạo lực
hoặc bị biến tướng thành tệ nạn cờ bạc, cá độ, ăn thua gây mất trật tự an ninh
công cộng. Đối với lĩnh vực hoạt động karaoke, không ít các các cơ sở kinh
doanh dịch vụ karaoke có biểu hiện vi phạm và tìm mọi cách đối phó, gây khó
khăn cho công tác thanh tra, kiểm tra, nhiều phòng hát không đạt tiêu chuẩn
theo quy định hoặc để khách hát đến hơn 12h đêm.
22
* Những nguyên nhân của những hạn chế.
- Trong những năm qua, cơ chế chính sách pháp luật chung liên quan đến
phát triển kinh tế nói chung và dịch vụ văn hoá nói riêng còn chậm được sửa
đổi, chưa đồng bộ, thiếu nhất quán và thiếu thông thoáng; việc ban hành các
văn bản hướng dẫn thực hiện, hướng dẫn tổ chức hoạt động dịch vụ văn hoá
còn chậm, chưa kịp thời gây khó khăn cho hoạt động ở các địa phương. Nội
dung, phương thức và phương pháp tuyên truyền phổ biến giáo dục chính
sách pháp luật hình thức còn nghèo nàn, đơn điệu và chưa phù hợp với điều
kiện thực tế của thị xã.
- Một số cấp uỷ, chính quyền và ngành chưa thực sự nhận thức đầy đủ về
vai trò quản lý Nhà nước ở lĩnh vực dịch vụ văn hoá chưa đồng bộ, chưa
thường xuyên. Một số đơn vị còn lúng túng trong thực hiện chức năng định
hướng và quản lý các hoạt động dịch vụ văn hoá. Chưa quan tâm trong việc
xây dựng đề án, mô hình tổ chức và quản lý các hoạt động dịch vụ văn hoá
trên địa bàn.
- Công tác quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá tuy được tăng
cường song vẫn còn tình trạng thiếu kiên quyết trong xử lý đối với một số
điểm kinh doanh vi phạm. Ý thức tuân thủ pháp luật của một số cơ sở kinh
doanh dịch vụ văn hoá không nghiêm, tình hình vi phạm các quy định trong
kinh doanh dịch vụ văn hoá còn khá phổ biến.
- Trách nhiệm phối hợp giám sát của quần chúng nhân dân, nhất là vai
trò nòng cốt của đoàn viên, hội viên, các đoàn thể chưa thể hiện sự tích cực,
có lúc thiếu sâu sát. Năng lực phối hợp, liên kết các lực lượng, các tổ chức,
đoàn thể do cơ quan chủ quản về văn hoá làm nòng cốt còn bộc lộ nhiều hạn
chế, thiếu cơ chế cần thiết, không đảm bảo sự liên kết lâu dài, vững chắc,
phần lớn chỉ thực hiện sự phối hợp theo từng phong trào, từng sự việc.
23
- Phạm vi thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở hoạt động chưa được xác
định rõ ràng. Phương thức, trình tự thanh tra, kiểm tra bộc lộ nhiều hạn chế,
chưa tạo được sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
liên quan gây ra sự chồng chéo và phiền hà cho các cơ sở.
2.4. Giải pháp tăng cường quản lý Nhà nước đối với dịch vụ văn hoá.
2.4.1. Tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, định hướng nhận thức
trong xã hội đối với dịch vụ văn hóa.
Trong thực tế hiện nay, còn một bộ phận nhân dân nhận thức về pháp
luật, cơ chế, chính sách về phát triển dịch vụ nói chung, dịch vụ văn hoá nói
riêng còn có mặt hạn chế. Vì vậy, đòi hỏi các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn
thể từ thị xã đến cơ sở, nhất là đối với những phường trung tâm cần phải tiếp
thu, quán triệt những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật
của Nhà nước và nhận thức về phát triển dịch vụ văn hoá một cách nghiêm
túc; đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến cơ chế, chính sách,
nhất là các văn bản hướng dẫn cụ thể của các cơ quan chuyên môn cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn thị xã để vừa góp phần đưa các quy
định pháp luật đi vào cuộc sống, tạo môi trường hoạt động dịch vụ văn hoá
lành mạnh vừa nâng cao nhận thức của họ về vai trò, ý nghĩa của dịch vụ văn
hoá trong phát triển kinh tế - xã hội, về yêu cầu hoàn thiện quản lý Nhà nước
đối với hoạt động dịch vụ văn hoá trong tình hình mới.
2.4.2. Xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch các loại dịch vụ văn hóa:
Căn cứ thực trạng kinh doanh hoạt động dịch vụ văn hóa hiện nay trên
địa bàn thành phố, công tác quy hoạch cần quan tâm:
- Quy định các điều kiện ràng buộc đối với các loại hình kinh doanh dịch
vụ văn hóa và các loại hình kinh doanh nhạy cảm.
- Giữ nguyên hiện trạng các điểm đang kinh doanh lành mạnh, xóa bỏ
dần các điểm kinh doanh mà trong quá trình kinh doanh thường xuyên có vi