Tải bản đầy đủ (.docx) (164 trang)

Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (755.65 KB, 164 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG

THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Mỹ học
Mã số: 9 22 90 07

LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên

[

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn của GS. TS Nguyễn Văn Huyên. Các số liệu, kết quả nêu trong luận
án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án

Đỗ Thị Thanh Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1


Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN............................5
1.1. Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về thị hiếu thẩm mỹ và thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên............................................................................... 5
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và giải pháp về thị hiếu thẩm
mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam............................................. 15
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với luận án............26
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ THỊ
HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT
NAM............................................................................................................... 28
2.1. Thị hiếu thẩm mỹ.............................................................................................. 28
2.2. Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam......................44
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY........................................... 59
3.1. Ưu điểm của thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt
Nam hiện nay.................................................................................................. 59
3.2. Hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra đối với thị hiếu thẩm mỹ của sinh
viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.................................................. 72
CHƯƠNG 4 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NÂNG CAO THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG
ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.......................................................... 104
4.1 Phương hướng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên các trường đại
học ở Việt Nam.............................................................................................. 104
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên các
trường đại học ở Việt Nam............................................................................ 109
KẾT LUẬN............................................................................................................134
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIÁ....................................137
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................... 140
PHỤ LỤC.............................................................................................................. 150



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển con người toàn diện và hài hòa là mục đích và lý tưởng của xã hội ta.
Con người phát triển toàn diện và hài hòa nghĩa là con người phát triển cả về thể chất
và tinh thần, cả lý trí và tình cảm, cả năng lực và kỹ năng hoạt động sống, biết sáng
tạo đồng thời biết hưởng thụ các sản phẩm, các giá trị do chính mình sáng tạo ra.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện nay, sự nhìn nhận về phát triển con
người có phần thiên lệch; đặc biệt, do chạy theo lợi ích vật chất thuần túy mà không
ít người đã tuyệt đối hóa giá trị vật chất, xem nhẹ hoặc quên đi giá trị tinh thần của
con người. Thực tế, đời sống tinh thần là vô cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân
nói riêng và đối với xã hội nói chung. Lịch sử phát triển xã hội cho thấy, nhiều khi
đời sống vật chất đầy đủ, thậm chí dư thừa, nhưng con người lại rơi vào bế tắc trong
lý tưởng và mục đích sống. Khủng hoảng tinh thần đã làm cho nhiều quan hệ xã hội
bị đảo lộn, xảy ra nhiều hành vi tiêu cực. Quan niệm không đầy đủ về đời sống
thẩm mỹ làm cho đời sống tinh thần nghèo nàn.
Trong cấu trúc phát triển con người, theo giá trị truyền thống quý báu của ông
cha ta là con người phải phát triển đầy đủ các phương diện của một nhân cách hoàn
thiện: đức, trí, thể, mỹ. Đó là con người phát triển đầy đủ các phẩm chất, nhân cách
ở trình độ cao. Đức - Trí- Thể - Mỹ chính là tiêu chí xây dựng và phát triển con
người của hầu hết các nền giáo dục tiến bộ trên toàn thế giới, ở mọi thời đại. Tuy
nhiên, xã hội ta hiện nay đang xảy ra nhiều chuyển đổi phức tạp, nhất là sự thay đổi
các quan hệ giá trị, sự quan tâm đến việc giáo dục, xây dựng và phát triển con người
theo tiêu chí Chân – Thiện – Mỹ chưa được đầy đủ, và nhiều khi còn thiên lệch các
hệ giá trị, các thang giá trị, các chuẩn mực đánh giá xã hội, làm đảo lộn thang giá trị
trong việc đánh giá con người và từ đó lệch lạc, phiến diện trong giáo dục và xây
dựng con người toàn diện.
Thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành ý thức thẩm mỹ của con người, là
cơ sở cho mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ. Thị hiếu thẩm

mỹ lành mạnh có vai trò to lớn trong xây dựng nền văn hóa mới, con người mới ở
nước ta mà mục tiêu trọng tâm là tạo cơ sở đúng đắn cho mọi hoạt động sống cũng


như mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể. Thị hiếu
thẩm mỹ không chỉ biểu hiện quá trình tự phát triển của cá nhân mà còn thể hiện
trình độ giáo dục thẩm mỹ trong nhà trường và ngoài xã hội. Luật giáo dục năm 2005
đã nhấn mạnh: “Quan tâm đầy đủ đến giáo dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân,
giáo dục sức khỏe và thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên là yêu cầu chiến lược phát triển
giáo dục trong giai đoạn mới ở nước ta” [142]. Có thể nói, cùng với giáo dục đạo đức,
trí tuệ, thể chất, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ là nhiệm vụ quan trọng đối với sự phát
triển nhu cầu và lý tưởng tiên tiến của con người Việt Nam giai đoạn mới.
Thế hệ trẻ nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng là lực lượng quan trọng, có
vai trò quyết định đến vận mệnh, tương lai của đất nước. Hồ Chí Minh đã đánh giá cao
vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước. Người khẳng định tuổi trẻ
không những là người kế tục các thế hệ đi trước mà còn là tương lai của đất nước, của
dân tộc. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ, mặt trái của toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế
và kinh tế thị trường đang tác động mạnh tới đời sống tinh thần sinh viên. Sự du nhập
ngày một nhiều các sản phẩm văn hóa, lối sống từ bên ngoài vào nước ta khiến cho
nhu cầu và thị hiếu của sinh viên có nhiều biểu hiện phức tạp. Đặc biệt là hiện nay,
bên cạnh đa số sinh viên có ước mơ, hoài bão lớn lao, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp,
có ý thức thẩm mỹ trong sáng, lành mạnh…vẫn còn một bộ phận sinh viên thờ ơ, sống
thực dụng, chạy theo những trào lưu, xu hướng, thị hiếu lệch lạc.
Trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, khi đề cập tới văn hóa
nghệ thuật, Đảng ta đã cảnh báo: “môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành
mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục,…Còn ít những tác phẩm văn học, nghệ
thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác phẩm chạy theo thị hiếu
tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt động lý luận, phê bình văn học,
nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng tác…Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu
dễ dãi, thiếu chọn lọc sản phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống

văn hóa của một bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ” [23, tr.125].
Từ những vấn đề cấp bách nêu trên, việc nghiên cứu khoa học thẩm mỹ và thị
hiếu thẩm mỹ nói chung, thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên, sinh viên trong các
trường đại học ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề cấp bách hiện nay. Đề góp phần
giải quyết những vấn đề cấp bách nêu trên trong đời sống thẩm mỹ nói chung,
trong thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên nói riêng, đặc biệt là thực hiện tinh thần theo


quan điểm của Đảng ta, nghiên cứu sinh chọn đề tài: “Thị hiếu thẩm mỹ của sinh
viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học của
mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích: Trên cơ sở lý luận về thị hiếu thẩm mỹ (THTM), luận án làm rõ
nội dung, đặc điểm THTM của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam; khảo sát,
đánh giá thực trạng THTM của sinh viên đại học hiện nay, từ đó đề ra phương
hướng và các giải pháp nâng cao THTM của sinh viên các trường đại học ở Việt
Nam.
*

Nhiệm vụ: Từ yêu cầu trên, luận án cần giải quyết và làm rõ những

nội dung căn bản sau:
Một là: Nghiên cứu tổng quan các công trình tiêu biểu về văn hóa thẩm mỹ và
thị hiếu thẩm mỹ, từ đó đặt ra những vấn đề nghiên cứu tiếp theo.
Hai là: Làm rõ lý luận về thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
đại học ở Việt Nam.
Ba là: Phân tích, đánh giá thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên đại học
Việt Nam.
Bốn là: Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ cho sinh viên các trường đại học ở Việt Nam thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
*

Đối tượng nghiên cứu của luận án là : THTM của sinh viên các

trường đại học ở Việt Nam hiện nay, từ 2013-2014 đến nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Do THTM là vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên quan
đến nhiều lĩnh vực như xã hội học, văn hóa học, nghệ thuật học, tâm lý học. Luận án
nghiên cứu THTM của sinh viên các trường đại học được tác giả nghiên cứu từ chuyên
ngành triết học, cụ thể là mỹ học. Do dung lượng luận án có giới hạn và việc xác định
mục tiêu của luận án, cho nên chúng tôi giới hạn phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng khảo sát: Luận án tập trung nghiên cứu THTM của sinh viên
khối các trường đại học không thuộc chuyên ngành văn hóa - nghệ thuật, cụ thể
là khối ngành kinh tế, khoa học xã hôi trên phạm vi cả nước.
THTM được khảo sát chủ yếu trong các loại hình: văn học, âm nhạc, điện
ảnh, thời trang.


4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa
Mác- Lênin, cũng như các quan điểm của Đảng Cộng sản về văn hóa văn nghệ, về
xây dựng và phát triển con người toàn diện, hài hòa. Luận án cũng kế thừa kết quả
nghiên cứu và những công trình liên quan đến đề tài trong và ngoài nước.
*

Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phương pháp nghiên

cứu: Lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, so sánh đối
chiếu, khái quát hóa, gắn lý luận với thực tiễn v.v...

5. Những đóng góp mới của luận án
- Từ góc độ mỹ học, luận án đã góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận
cơ bản về THTM theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin , tư tưởng Hồ Chí Minh
và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận THTM, luận án đã phân tích và khái quát được nội dung
và đặc điểm THTM của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam.
-

Bằng số liệu gián tiếp và trực tiếp (do nghiên cứu sinh tự khảo sát),

luận án đã phân tích làm rõ thực trạng (ưu điểm và hạn chế) trong THTM của
sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
-

Đề xuất được phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao

THTM của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam.
6. Ý nghĩa của luận án
*

Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần làm sâu sắc THTM của sinh viên

nước ta trong xây dựng và phát triển con người toàn diện của Đảng, Nhà nước
ta.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo mỹ học nói chung, THTM nói riêng ở các trường
Đại học, Học viện và những ai quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
án gồm 4 chương 9 tiết.



TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ HIẾU
THẨM MỸ VÀ THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN
Tình hình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mỹ là một trong những phạm trù trung tâm của mỹ học, nó
cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như văn học,
văn hóa, tâm lý học, v.v... Từ chuyên ngành triết học nói chung, mỹ học nói riêng,
ngay từ thế kỷ XVII-XVIII, một số nhà triết học phương Tây đã quan tâm nghiên
cứu về THTM.
Tuy nhiên, người có công trình nghiên cứu đồ sộ và đi sâu lý giải vấn đề
THTM phải nói đến I.Kant - nhà triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIII- XIX với tác
phẩm Phê phán năng lực phán đoán (Bùi Văn Nam Sơn dịch). Kant gọi THTM là
phán đoán thẩm mỹ hay phán đoán sở thích. Kant coi sự phán đoán thẩm mỹ là sự
hài lòng do cách thức cảm nhận của chủ thể trước đối tượng thẩm mỹ, và ông khẳng
định, không có một nguyên tắc khách quan nào cho sở thích.
Ở Nga, các nhà dân chủ cách mạng Nga cũng bắt đầu đi sâu nghiên cứu
THTM. Tiêu biểu cho các nhà tư tưởng này là Tsecnưsepxki, Plêkhanốp. Plêkhanốp
trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã hội (Từ Lâm dịch) có phần viết về “Bàn
về nghệ thuật” đã lý giải mọi THTM đều có nguồn gốc xã hội, nghĩa là THTM phụ
thuộc vào điều kiện sống của con người. Tsecnưsepxki coi nghệ thuật là cuộc sống,
cho nên ông quan niệm THTM ở mỗi người phụ thuộc vào đời sống vật chất và tinh
thần của con người.
Nhiều vấn đề THTM đã được đề cập trong các giáo trình mỹ học của Liên Xô.
Có thể kể đến các giáo trình mỹ học đã được dịch ra tiếng Việt như: Những phạm
trù mỹ học cơ bản của IU.B.Bôrép (Trường Đại học Tổng hợp xuất bản. Hà Nội
1974), Nguyên lý mỹ học Mác-Lênin của V.Xcachersiccốp - I.U.A.Lukin; (Nxb Sách
giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội 1984; Mỹ học Mác-Lênin Tập 1 của



M.F.Ốpxiannhicốp, Nxb Văn hóa, Hà Nội 1987, v.v... Những giáo trình trên không
chuyên bàn về THTM song ở một số tiết, tiểu tiết đã đi sâu làm rõ những vấn đề của
THTM. Tuy nhiên, với tính chất là giáo trình, vấn đề THTM chỉ được nghiên cứu
trong hệ thống nguyên lý chung, chưa được tách ra thành những phần cụ thể, độc
lập và chỉ được dành một dung lượng rất khiêm tốn. Chỉ riêng V.Razumnưi (1962),
đã viết cuốn sách nhỏ Bàn về thị hiếu nghệ thuật tốt (Nxb Văn hóa nghệ thuật, Bộ
Văn hóa, do Hồ Quý Truyện dịch). Tác giả đã đưa ra quan niệm của cá nhân thế
nào là thị hiếu nghệ thuật tốt. Quan điểm chung của các công trình (giáo trình) nêu
trên ở Liên Xô về THTM là luôn xuất phát từ triết học Duy vật biện chứng và Duy
vật lịch sử để lý giải nguồn gốc và bản chất của THTM.Trong cuốn Tâm lý văn
nghệ (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991) Chu Quang Tiềm tuy không đề cập trực
tiếp đến THTM nhưng ông đã làm rõ một số điều kiện cần thiết cho chủ thể thưởng
thức và đánh giá thẩm mỹ, qua đó thể hiện quan điểm của ông về THTM.
Ở Việt Nam, vấn đề THTM đã được nghiên cứu khá nhiều từ nửa sau của thế
kỷ XX (nhất là những thập niên 70-80). Trước Cách mạng tháng Tám, một số nhà
nghiên cứu đã ít nhiều bàn tới thị hiếu nghệ thuật thông qua cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh trong lĩnh vực
văn chương nhằm xây dựng và bảo vệ nền văn học cách mạng. Tiêu biểu là các nhà
lý luận Hải Triều, Hoài Thanh, Hoài Chân... Sau Cách mạng tháng Tám, trong cuộc
kháng chiến chống Pháp, vấn đề THTM dường như bị bỏ ngỏ cho đến sau 1954 khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu Triết học
Mác- Lênin, vấn đề THTM mới được quan tâm nhiều hơn.
Năm 1963, tác giả Vũ Khiêu trong cuốn Đẹp đã đề cập đến THTM và mối
quan hệ giữa THTM với “mode” của thanh niên. Sau đó Phạm Khiêm Ích trong
Thông báo Triết học số 16-1970 đã có bài bàn về Cơ sở khoa học của vấn đề thị
hiếu thẩm mỹ. Tác giả Đỗ Huy viết bài Xây dựng thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh trên
Tạp chí Thanh niên, số 6, tháng 7-1973, Như Thiết - Đỗ Huy với bài Mấy vấn đề về
thị hiếu thẩm mỹ trên tạp chí Triết học số 3, 1976, Như Thiết với tác phẩm Quán
triệt tính Đảng… Có thể nói, những tác phẩm nêu trên đã trên cơ sở triết học và mỹ

học Mác-Lênin, đã đi sâu phân tích làm rõ bước đầu, song có tính nền tảng theo


nhận thức và lý giải những vấn đề căn cốt của THTM ở nước ta trong cuối thập niên
70 đầu những năm 80 thế kỷ trước.
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu này vẫn chưa có chuyên khảo riêng nghiên cứu về
vấn đề THTM. Trong các giáo trình Mỹ học đã xuất bản, vấn đề THTM chưa được
tách ra thành các chương, phần độc lập, mà chỉ được trình bày rải rác ở một số khía
cạnh hoặc được đan xen vào các vấn đề khác. Có thể kể đến một số cuốn như: Tìm
hiểu Mỹ học Mác - Lênin, Nxb Văn hóa - 1979 của tác giả Hoài Lam; Mỹ học MácLênin, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1985 của tác giả Đỗ Văn
Khang và Đỗ Huy; Hoài Lam - Nguyễn Hồng Mai, Đặng Hồng Chương, Giáo trình
Mỹ học, trường Đại học Văn hóa, 1991; Vũ Minh Tâm, Mỹ học và giáo dục thẩm
mỹ, Nxb Giáo dục, 2000; Đỗ Văn Khang, Mỹ học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia,
2002; Lê Ngọc Trà - Lâm Vinh - Huỳnh Như Phương, Giáo trình Mỹ học đại cương,
Nxb Giáo dục, 2003.
Có thể nói, người quan tâm nghiên cứu và có nhiều công trình về THTM là tác
giả Đỗ Huy. Chủ đề THTM đã được ông đề cập ở một số công trình: Mỹ học khoa
học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2001 và Mỹ học với tư
cách là một khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà nội, 2006. Cuốn Đạo đức học, mỹ
học và đời sống văn hóa nghệ thuật đã tập hợp một số bài viết về THTM. Các tác
giả đưa ra khái niệm thị hiếu và THTM, bản chất xã hội và đặc trưng chủ yếu của
THTM. Đặc trưng cơ bản của THTM đó là: sự phản ứng mau lẹ, sự hào hứng, tính
cá biệt và tính hệ thống hình tượng.
Cuốn Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống của tác giả Nguyễn Chương Nhiếp,
năm 2004, Nxb Chính trị Quốc gia. Cuốn sách được triển khai từ luận án tiến sĩ bảo
vệ năm 2000 có tên Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó trong đời sống thẩm mỹ.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên nghiên cứu một cách bài bản và đi vào nhiều
khía cạnh của THTM. Cuốn sách có 3 chương, trong đó có 2 chương bàn về lý luận
THTM. Chương 1 - Một số vấn đề lý luận về thị hiếu thẩm mỹ và đời sống thẩm mỹ
nghiên cứu về thị hiếu và THTM. Ở đây, tác giả trình bày những vấn đề liên quan

đến đời sống thẩm mỹ và cấu trúc của nó. Chương 2 nghiên cứu về vai trò của thị
hiếu thẩm mỹ trong đời sống thẩm mỹ, trình bày mối quan hệ giữa THTM và đời
sống


thẩm mỹ. Theo tác giả, vai trò của THTM đối với đời sống thẩm mỹ thể hiện trên ba
lĩnh vực: thưởng thức thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ và sáng tạo thẩm mỹ. Tác giả cho
rằng THTM là sự phản ánh đời sống thẩm mỹ, ở đâu có đời sống thẩm mỹ ở đó có
THTM. Tuy nhiên, THTM cũng có tính độc lập tương đối với đời sống thẩm mỹ. Tính
độc lập tương đối này nói lên tính đa dạng, tính nhiều màu sắc, tính khác biệt trong
đời sống thẩm mỹ.
Tác giả Nguyễn Chương Nhiếp cũng đã công bố một số bài viết chuyên sâu về
THTM, có thể kể đến như Vai trò của thị hiếu trong đánh giá thẩm mỹ, Tạp chí Triết
học 1996, số 4 trang 23-28; Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ trong thưởng thức và đánh
giá nghệ thuật, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật 1999, số 9, trang 7-10; Nghệ thuật và
vấn đề giáo dục thị hiếu thẩm mỹ, Tạp chí Mỹ thuật thời nay 1996, số 12, trang 3840… Trong các bài viết này, tác giả đã lý giải vai trò của THTM trong đánh giá
thẩm mỹ và nhận định việc nâng cao năng lực thụ cảm, bồi dưỡng lý tưởng thẩm
mỹ cao đẹp là con đường rèn luyện THTM lành mạnh. Sự thử thách của thị hiếu
thông qua đánh giá mốt, nghệ thuật và các hoạt động thẩm mỹ. Theo ông, năng lực
THTM chính là giải pháp nâng cao khả năng thưởng thức, đánh giá và sáng tạo các giá
trị thẩm mỹ của mỗi người.
Trong các bài khác Tính cá nhân và tính xã hội của thị hiếu thẩm mỹ, Tạp chí
Triết học 1999, số 4 trang 55 - 57; Mấy suy nghĩ về bản chất xã hội của thị hiếu
thẩm mỹ, Tạp chí Tâm lý 1999, số 5, trang 11-17. Tác giả Nguyễn Chương Nhiếp đã
chỉ ra sự thống nhất giữa mặt cá nhân và mặt xã hội trong THTM. Tác giả cho rằng
không thể có THTM tồn tại bên ngoài cá nhân, chính những tố chất sinh học bẩm
sinh, điều kiện tâm sinh lý của cá nhân làm nên tính cá nhân. Tuy nhiên, THTM
không phải là cái thuần túy cá nhân, tách rời khỏi quan hệ thẩm mỹ với hiện thực.
Mọi quan hệ thẩm mỹ đều gắn với tính quy định lịch sử - xã hội của nó. Các nhu
cầu, thị hiếu, lý tưởng cũng không nằm ngoài các quan hệ dân tộc, giai cấp, thời đại.

Trong bài Tính quy luật trong sự hình thành và phát triển THTM, tạp chí Triết
học, số 4, 2002, tác giả Nguyễn Chương Nhiếp nhận định: như mọi hiện tượng xã
hội khác thì THTM cũng mang tính quy luật. Có ba loại quy luật thường xuyên chi
phối, tác động đến sự hình thành và phát triển của nó, đó là quy luật xã hội, quy luật


tâm lý và quy luật thẩm mỹ. Quy luật xã hội giải thích sự phát sinh, phát triển và tiêu
vong của các loại thị hiếu, các loại “mốt”. Quy luật tâm lý thể hiện sự thích ứng giữa
nhu cầu tình cảm của con người và đối tượng bên ngoài. Nó cũng như quy luật cung
cầu trên thị trường. Còn quy luật thẩm mỹ là sự tổng hòa những quy luật xã hội và
tâm lý. Nó đặc biệt chú ý quy luật của cái hài hòa; quy luật chi phối, tác động lẫn nhau
giữa nội dung và hình thức. Các quy luật này là cơ sở để giải thích mọi hiện tượng
THTM.
Tác giả Dương Viết Á, trong cuốn Mỹ học âm nhạc, quan niệm: Thị hiếu là sở
thích riêng của từng con người trong xã hội, ở đây đã bước đầu có sự đánh giá thẩm
mỹ, nhưng dù sao cũng chưa phải là sự đánh giá có tính chất lý tính mà nặng về tính
chất bản năng, mặc dù là bản năng của con người xã hội, bản năng này nằm trong
cái tổng thể của một con người tư duy, trực quan và chưa thoát khỏi sự chi phối
mạnh mẽ của những cảm xúc thẩm mỹ. Xét quá trình nhận thức, nó thuộc giai đoạn
trực quan sinh động nên nó tác động đặc biệt rõ ràng và sâu sắc vào giai đoạn đầu
trong quá trình thưởng thức âm nhạc.
Nhà nghiên cứu Đỗ Huy đã công bố nhiều bài về THTM như Mấy vấn đề của
THTM trong xã hội ta hiện nay đăng Tạp chí Triết học 1976, số 3, trang 65- 72;
Giáo dục thẩm mỹ và vấn đề hình thành các khả năng sáng tạo, Tạp chí Triết học
1983, số 3 trang 85-95; Hướng đến việc xây dựng các THTM tốt vì sự phát triển
phong phú và lành mạnh của con người Việt Nam hiện nay, tạp chí Nghiên cứu
nghệ thuật, 1984, số 3, trang 20-23. Các bài viết đã nhấn mạnh, THTM là biểu hiện
ổn định của năng lực xúc cảm thẩm mỹ và là cơ sở cho việc thưởng thức và sáng tạo
những cái đẹp. Nhờ THTM đúng, mạnh và sâu mà chủ thể có thể phản ứng ngay tức
khắc cái mới, cái đúng, cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài. Đồng thời, THTM cũng giúp

cho con người có khả năng phát hiện nhanh nhạy cái mới, cái hay cần cổ vũ, cái xấu
cần xóa bỏ.
Trong giáo trình Mỹ học đại cương (Nguyễn Văn Huyên chủ biên), Nxb Chính
trị quốc gia Hà Nội, 2004. Ở chương 5 - Chủ thể thẩm mỹ, các tác giả đã phân tích
và khái quát một cách hệ thống về THTM. Tác giả đi từ khái niệm nền tảng là thị
hiếu để bóc tách nội hàm khái niệm THTM, đặc trưng của THTM v.v… Từ chuyên
ngành triết học, cách tiếp cận và xác định nội dung của THTM trong công trình này


thể hiện tính cơ bản và tính logic chặt chẽ. Cùng nghiên cứu về nội dung này, tác
giả Vũ Thị Thanh Hoài có bài Biện chứng cá nhân - xã hội trong THTM trên tạp chí
Nghiên cứu Văn hóa - Website trường Đại học Văn hóa. Tác giả này cho rằng, yếu
tố cá nhân trong THTM biểu hiện thông qua sự lựa chọn đối tượng để cảm thụ, đánh
giá hoàn toàn phụ thuộc vào sở thích riêng của mỗi người. THTM luôn là sự bộc lộ
cái tôi cá nhân và phơi bày cá tính. Mỗi chủ thể khi đánh giá thẩm mỹ lại đưa ra
những cảm nhận ở mức độ khác nhau. THTM vừa mang dấu ấn cá nhân độc đáo
riêng biệt, vừa ẩn chứa những quan niệm mang tính phổ biến trong một cộng đồng,
xã hội, thời đại nhất định. Mối quan hệ biện chứng cá nhân - xã hội trong THTM là
mối quan hệ vừa mang tính cá nhân vừa mang tính xã hội trong mỗi con người, là
sự chuyển hoá hài hoà giữa riêng và chung, cá biệt và phổ biến. Cái chung đã được
hoà tan, thẩm thấu và trở nên ổn định trong nét độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân.
Cho nên, một THTM đúng đắn, lành mạnh phải có sự hoà hợp của cả hai yếu tố: cá
nhân và xã hội.
Trước đó, vào năm 1986, Bộ Văn hóa đã tổ chức một hội thảo lớn với chủ đề
Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật. Hội thảo đã thu hút sự
tham gia của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài ngành Triết học. Những bài
viết trong hội thảo đã được tập hợp trong cuốn sách Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và
nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1987. Trong phần thứ nhất Một
số quan điểm lý luận chung, có những tác giả bàn nhiều đến vấn đề lý luận về
THTM như:

Tác giả Trần Độ với bài viết cùng tên với chủ đề của hội thảo đã nêu lên ý
nghĩa của việc nghiên cứu nhu cầu văn hóa và thị hiếu nghệ thuật. Theo tác giả, nhu
cầu văn hóa làm cho con người được phát triển toàn diện, ngày càng được nâng cao
về tâm hồn, tình cảm, nhân cách. Nó khiến cho mối quan hệ giữa người và người
ngày càng cao đẹp, cho nên thỏa mãn nhu cầu văn hóa chính là thực hiện mục đích
cao cả đó. Do vậy, nhu cầu văn hóa có mối quan hệ chặt chẽ với vấn đề thị hiếu.
Khi nói đến thị hiếu nghệ thuật, không thể không đề cập đến THTM. Trong bài viết
này, tác giả chưa bàn đến toàn bộ vấn đề của THTM mà chỉ giới hạn ở việc nghiên
cứu thái độ thẩm mỹ của người thưởng thức nghệ thuật đối với các môn nghệ thuật.


Theo tác giả, THTM và thị hiếu nghệ thuật luôn luôn tồn tại ở hai mặt hay hai cấp:
xã hội và cá nhân. Mỗi người có quyền có thị hiếu cá nhân, và vì vậy cũng phải có
trách nhiệm tôn trọng thị hiếu cá nhân của người khác. Mỗi công dân trong xã hội
phải biết bảo vệ những nguyên tắc xã hội của thị hiếu và biết chấp nhận sự phong
phú của thị hiếu. Không nên áp đặt thị hiếu cá nhân cho công chúng, nhất là người
lãnh đạo cũng như không ai nhân danh thị hiếu cá nhân để truyền bá những thị hiếu
phản động. Tác giả cũng chỉ ra dấu hiệu của thị hiếu cao và thị hiếu thấp, thị hiếu
lành mạnh và thị hiếu không lành mạnh. Thỏa mãn thị hiếu là một việc làm hết sức
phức tạp và tế nhị. Thị hiếu nào cũng cần phải được đáp ứng, dù thị hiếu thấp, thậm
chí nhiều khi là thị hiếu tầm thường. Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định, không
phải đáp ứng để thỏa mãn các thị hiếu đó mà đáp ứng là để nâng cao thị hiếu.
Các bài viết Bàn thêm về nhu cầu văn hóa và thị hiếu nghệ thuật của Hoàng
Như Mai, Một số suy nghĩ về nhu cầu văn hóa và thị hiếu nghệ thuật của Phạm Văn
Lý đã phân tích vấn đề quan trọng trong đời sống tinh thần con người đó là nhu cầu
văn hóa. Theo các tác giả, chính THTM tạo ra nhu cầu để thưởng thức thẩm mỹ.
Muốn có được thị hiếu nghệ thuật lành mạnh, thì mỗi cá nhân phải trên cơ sở
THTM lành mạnh. Các tác giả nhấn mạnh đến việc giáo dục thẩm mỹ và tầm quan
trọng trong việc hướng dẫn và rèn luyện thị hiếu nghệ thuật nhằm loại bỏ thị hiếu
tầm thường, rẻ tiền của công chúng chỉ để mua vui, thay vào đó là thị hiếu nghệ

thuật xã hội chủ nghĩa tràn đầy sức sống mới. Tác giả Hoàng Như Mai cho rằng,
muốn xây dựng thị hiếu mới phải có những sản phẩm nghệ thuật sắc sảo. Cái mới
chỉ thắng cái cũ khi nó hơn cái cũ. Nếu cái mới dở thì khó lòng tạo ra được thị hiếu
lành mạnh.
Cơ chế tâm lý của THTM và thị hiếu nghệ thuật là nhan đề bài viết của tác giả
Nguyễn Châu trong hội thảo. Tác giả khẳng định, THTM trước hết là một hiện
tượng, một quá trình tâm lý bao gồm các khâu nhu cầu - cảm xúc - thị hiếu. Các
khâu tác động qua lại với nhau, sự kết thúc của cái này là mở đầu cho cái kia. Đồng
thời, để tìm hiểu THTM và nhất là hướng dẫn nó, không thể không nắm cơ chế tâm
lý của nó. Bên cạnh đó, tác giả đã phân tích ngoài yếu tố xúc cảm ra, còn có yếu tố
trí tuệ. THTM chỉ có thể trở nên nhạy bén, sâu sắc và phong phú khi nó được bồi bổ


bằng trí tuệ. Yếu tố trí tuệ theo tác giả, có tác động quyết định đối với định hướng
của THTM. Các mặt trên trong cơ chế của THTM đó là biểu hiện ở từng cá nhân
riêng lẻ thì mối quan hệ giữa hòa đồng và tách biệt lại vượt quá phạm trù tâm lý cá
nhân để trực tiếp đi thẳng vào phạm trù tâm lý - xã hội.
Tác giả Đỗ Huy với bài viết Tính trực giác của THTM và thị hiếu nghệ thuật đã
nói tới trực giác THTM và biểu hiện tập trung của nó là chủ thể thẩm mỹ. Theo tác giả,
để giải thích tính trực giác của THTM và thị hiếu nghệ thuật, cũng như hướng tới việc
làm xuất hiện các thị hiếu nghệ thuật tốt trong đời sống xã hội, mỹ học Mác - Lênin
xuất phát từ ba con đường lớn là con đường sinh lý, bằng các phản ứng tâm lý và cuối
cùng là các điều kiện sinh lý, tâm lý. Khi định hướng, giáo dục rèn luyện tính trực giác
trong phán đoán thị hiếu nghệ thuật, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã gắn liền
toàn bộ vấn đề này vào phạm trù thực tiễn. Thực tiễn đã làm gắn bó giữa cá nhân và xã
hội, giữa vật chất và tinh thần. Thông qua đó mà tính phong phú của trực giác thị hiếu
thưởng thức, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật được hình thành.
Cũng trong hội thảo này, tác giả Trường Lưu với bài Mỹ học thực dụng chủ
nghĩa - nguồn gốc của thị hiếu nghệ thuật tầm thường ở Mỹ đã nhắc đến Giêmơ,
Điuây, Haosê và Lêvin... là những đại diện xuất sắc của chủ nghĩa thực dụng ở Mỹ.

Họ là những người bảo vệ cho sự thoát ly của nghệ thuật khỏi những nguyên tắc của
đời sống xã hội; các tác phẩm nghệ thuật càng ít công chúng quý mến thì giá trị
nghệ thuật của nó càng cao. Họ ra sức bào chữa những hiện tượng suy đồi của chủ
nghĩa hiện đại. Sự che giấu kêu gọi hướng tới cái "kinh nghiệm tự do" có dụng ý dắt
dẫn nghệ sĩ từ bỏ việc tham gia tích cực vào đời sống xã hội, từ bỏ đấu tranh cho
một xã hội mới.
Có thể nói, khi nghiên cứu về THTM, các tác giả, từ các cách tiếp cận khác
nhau, ở các mức độ chuyên sâu khác nhau đã bàn về khái niệm, bản chất, đặc trưng,
vai trò của THTM, tính quy luật trong sự hình thành và phát triển THTM, cũng như
mối quan hệ giữa THTM và thị hiếu nghệ thuật.
Tình hình nghiên cứu liên quan đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài liên quan đến THTM của sinh viên hầu
hết được đề cập trong các công trình nghiên cứu về giáo dục thẩm mỹ nói chung.
Có thể kể đến các công trình có tính căn bản như Văn hóa thẩm mỹ của
người


Xôviết của M.X. Cagan (Trường ĐH tổng hợp Leningrat, 1976); Những vấn đề và
sự hình thành hệ thống giáo dục thẩm mỹ của Liên Xô của N.I.Kiasenko; Nhu cầu
thẩm mỹ của I.A.Gidarian, Matxcơva, 1976, bản dịch tiếng Việt: do Hồ Quý Truyện
dịch 3 chương và bản dịch của Văn Bích 5 chương trong đó phần nội dung nói về
THTM của thanh niên. Trong công trình này, tác giả đã nghiên cứu nhu cầu thẩm
mỹ dưới góc độ tâm lý học, chỉ ra nguồn gốc phát sinh của nhu cầu đó và hoạt động
sáng tạo tiêu dùng nghệ thuật. Người nghiên cứu sâu sắc về vấn đề thụ cảm thẩm
mỹ và tâm lý thụ cảm theo lứa tuổi là P.M.Iacốpxơn. Ông đã nghiên cứu về những
nội dung rất gần với THTM. Trong Tâm lý học của thụ cảm nghệ thuật (Thư viện
Viện Triết,1983), ông đã đi sâu vào một số lĩnh vực lớn nghiên cứu quá trình thụ
cảm thẩm mỹ theo nhóm và lứa tuổi nhằm làm rõ những dấu hiệu, tiêu chuẩn cơ bản
và các giá trị đối với việc truyền cảm thẩm mỹ theo lứa tuổi, trình độ văn hóa, nghề
nghiệp và các nhóm xã hội, đồng thời mô tả các điều kiện phát triển thụ cảm thẩm

mỹ trên cơ sở nghiên cứu các bậc thang thụ cảm thẩm mỹ.
Tuy những công trình của các tác giả nước ngoài không đề cập một cách trực
tiếp nhưng qua nội dung đã khẳng định rằng, THTM là sự thể hiện khả năng đánh
giá, lựa chọn của chủ thể cảm thụ trước các hiện tượng thẩm mỹ, là yếu tố tác động,
THTM chi phối mạnh mẽ, sâu sắc đến năng lực cảm thụ thẩm mỹ của mọi lứa tuổi,
nhất là giới trẻ.
Ở Việt Nam, nghiên cứu lý luận về THTM gắn với vai trò của giáo dục THTM
ở tuổi trẻ được quan tâm nhiều hơn, nhất là khi vấn đề xây dựng mẫu con người lí
tưởng cho xã hội mới xã hội chủ nghĩa được đặt ra.
Những công trình tiêu biểu đó là:
Tác giả Lê Đức Nga với bài Thế nào là thị hiếu nghệ thuật lành mạnh trong
sách Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Nxb Văn hóa, Hà
Nội, 1987 đã đề cập đến mặt ý thức quan điểm của thị hiếu, bản chất xã hội của thị
hiếu thường dễ quan sát, và qua đó có thể xác định chuẩn lành mạnh. Thị hiếu nghệ
thuật lành mạnh phản ánh trình độ đúng đắn, trình độ giác ngộ chính trị, xã hội
nghiêm túc. Chuẩn mực lành mạnh của thị hiếu này có thể quan sát được ở ba mặt
hợp thành của nó: Một là, ý thức thẩm mỹ trong tâm lý văn hóa của người đó. Hai
là, ứng xử công khai tán thành hay phản đối, nhiệt tình hay lạnh nhạt với nghệ thuật


có nội dung tiến bộ. Ba là, năng lực sáng tạo và tham gia sáng tạo những tác phẩm
có nội dung phản ánh chân thực con người mới, có sức thuyết phục hùng hồn của
những hình thức tân tiến vừa dân tộc lại vừa hiện đại.
Tác giả Đỗ Huy với một số bài viết tiêu biểu về Mấy vấn đề giáo dục thẩm mỹ
ở lứa tuổi thanh niên, Tạp chí Triết học số 2,1981; tr.147-163. Giáo dục thẩm mỹ và
sự nghiệp xây dựng con người mới, Tạp chí Triết học số 4, 1982; Nguyễn Văn
Huyên với bài viết Một số vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho thanh niên, Tạp chí Nghiên
cứu nghệ thuật, số 4, tr.16-18. Các bài viết đã tập trung vào việc phân tích tính tất
yếu của việc giáo dục thẩm mỹ ở lứa tuổi thanh niên, bản chất của việc giáo dục
thẩm mỹ đối với lứa tuổi thanh niên. Các tác giả khẳng định, bản chất của việc giáo

dục thẩm mỹ cho thanh niên là chủ động xây dựng những thị hiếu tốt, phong phú,
lành mạnh cho họ. Bởi vì THTM là năng lực tình cảm ổn định của tuổi trẻ, thường
xuyên tham gia vào việc lựa chọn những "mốt" mới cho nên giáo dục thẩm mỹ cho
lứa tuổi thanh niên, chủ yếu nhất là giáo dục thị hiếu. Có giáo dục thị hiếu đúng thì
dù trong hoàn cảnh nào thanh niên cũng biết đưa cái đẹp chân chính vào cuộc sống
của mình. Và gần đây nhất, tác giả Đỗ Huy có bài viết Giáo dục thị hiếu nghệ thuật
cho thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay đăng tải trên tạp chí Triết học số 12, 2014. Bài viết
là đánh giá sâu sắc của tác giả về thị hiếu nghệ thuật của thế hệ thanh thiếu niên
hiện nay. Trên cơ sở phân tích một số quan điểm khác nhau về thị hiếu, THTM và
thị hiếu nghệ thuật, tác giả bài viết đã đưa ra định nghĩa về thị hiếu nghệ thuật và
chỉ rõ đâu là thị hiếu tốt, thị hiếu xấu, thị hiếu lành mạnh, thị hiếu không lành mạnh,
thị hiếu thấp và thị hiếu cao cũng như vai trò của thị hiếu nghệ thuật trong thưởng
thức, đánh giá và sáng tạo nghệ thuật. Cuối bài viết, tác giả khẳng định tầm quan
trọng của việc giáo dục thị hiếu nghệ thuật tốt cho thế hệ trẻ hiện nay ở nước ta.
Công trình mới nhất nghiên cứu về thị hiếu của thanh niên là cuốn THTM của
giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Văn nghệ, năm 2013, tác giả Nguyễn
Thị Hậu chủ biên. Trong đó có một số bài viết tiêu biểu như Định hướng THTM cho
giới trẻ hiện nay của Hồ Bá Thâm, tr.174-185; Xây dựng THTM cho thanh niên của
Lê Thị Ngọc Dung, tr 200 - 211; Giáo dục THTM cho thanh niên thành phố Hồ Chí
Minh đáp ứng nhu cầu vươn tới cái đẹp của tác giả Lê Thị Thanh Tâm; tr 211-219.


Các tác giả đã chỉ rõ việc giáo dục định hướng THTM không phải là chuyện nhỏ mà
xét một cách toàn diện sâu xa, nó là nội dung quan trọng trong việc hình thành nhân
cách con người. Nó là hoạt động mang tính xã hội cao vì thế giáo dục không chỉ bao
gồm nhà trường, gia đình mà cần phải huy động sự hưởng ứng của cả xã hội.
Qua bài viết THTM và những biến đổi trong thanh niên thành phố Hồ Chí
Minh của tác giả Ngô Hoài Sơn, tác giả đã đưa ra một số vấn đề chung về THTM,
các quan niệm, ba cấp độ của THTM và quá trình hình thành THTM. Đặc biệt là
các yếu tố tác động đến quá trình hình thành THTM như nguồn thông tin mà chủ

thể tiếp cận; yếu tố chủ quan của chủ thể và dư luận của nhóm cộng đồng mà chủ
thể tồn tại. Theo tác giả, THTM trong thanh niên là khuynh hướng về thẩm mỹ của
thanh niên trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, tình hình nghiên cứu liên quan THTM của sinh viên còn khiêm tốn,
chủ yếu nằm trong nghiên cứu về THTM của công chúng nói chung. Tuy nhiên, từ
các công trình nghiên cứu trên đây về THTM, các nhà mỹ học đã xác lập quan niệm
cơ bản về THTM cho các đối tượng, trong đó có thanh niên sinh viên.
TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP VỀ THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở
VIỆT NAM.
Ở Việt Nam từ trước đến nay, các công trình nghiên cứu thực trạng và giải
pháp về THTM của đối tượng sinh viên không nhiều. Cũng như ở nước ngoài, vấn
đề THTM của sinh viên chỉ được đề cập chủ yếu trong các công trình viết về giáo
dục thẩm mỹ hoặc được đề cập trong đối tượng thanh niên nói chung. Có thể kể đến
các cuốn như: Tuổi trẻ thẩm mỹ của tác giả Hoàng Thiệu Khang (Nxb Trẻ, TP Hồ
Chí Minh 1987), Giáo dục thẩm mỹ - món nợ đối với thế hệ trẻ của Đỗ Xuân Hà
(Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997); Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển nhân cách con
người Việt Nam trong thế kỉ mới (Nguyễn Văn Huyên chủ biên, Nxb Văn hóa Thông
tin, Hà Nội 2001); Xã hội học Thanh niên của tác giả Đặng Cảnh Khanh (Nxb
Chính trị quốc gia, Hà nội 2006),… Đây là những công trình nghiên cứu phân tích
những biến đổi trong lối sống của thanh niên ở thời kì mới và một số định hướng lối
sống cho thế hệ thanh niên.
Trên cơ sở đi sâu nghiên cứu bản chất, đặc trưng, cấu trúc của THTM và đời


sống thẩm mỹ, tác giả Nguyễn Chương Nhiếp trong cuốn THTM trong đời sống,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004 đã dành chương cuối của cuốn sách - Nâng
cao THTM trong đời sống thẩm mỹ ở nước ta hiện nay để trình bày thực trạng và đề
xuất những giải pháp khả thi nhằm nâng cao và phát huy vai trò của THTM nói
riêng, đời sống tinh thần nói chung ở nước ta hiện nay. Trước hết, Nguyễn Chương

Nhiếp khẳng định, nâng cao THTM và phát huy vai trò của nó trong đời sống thẩm
mỹ là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp đổi mới. Đồng thời xây dựng và phát triển
nền văn hóa nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề quan trọng trong
việc nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu, cần tăng cường giáo dục THTM
trong đời sống. Tác giả đã khái quát về tình hình THTM và đời sống thẩm mỹ của
nước ta hiện nay. Những mặt tích cực như văn hóa nghệ thuật đã cố gắng đáp ứng
nhu cầu và THTM của nhân dân ngày càng theo hướng đa dạng hóa, năng động hóa.
Sự phát triển đa dạng của THTM đã làm cho nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ của
công chúng ngày càng phong phú đồng thời làm cho đời sống thẩm mỹ của chúng ta
đang có những diễn biến phức tạp và có phần đáng lo ngại. Những năm qua, nhu
cầu và THTM của công chúng có nhiều biến động. Tác giả cũng chỉ ra sự khác biệt
giữa thị hiếu của công chúng lớn tuổi và công chúng trẻ. Nhất là thực trạng một bộ
phận thanh thiếu niên ưa thích những cái gì khác lạ của văn hóa nghệ thuật nước
ngoài mà dường như quay lưng lại với văn hóa nghệ thuật dân tộc. Đồng thời nêu
lên xu hướng chuyển từ nhu cầu đọc sang nhu cầu nghe nhìn. Điện ảnh là loại hình
nghệ thuật thu hút được đông đảo quần chúng nhất. Mặt khác, sở thích trong thưởng
thức điện ảnh ở các tầng lớp xã hội cũng không giống nhau. Học sinh, sinh viên
thích thể loại phim tâm lý tình cảm (50,6%) hơn phim nghệ thuật (25,1%). Tác giả
Nguyễn Chương Nhiếp đã đưa ra những nhận định về chất lượng phim ảnh ít tạo
được sự hấp dẫn đối với người thưởng thức. Lĩnh vực văn chương cũng nằm trong
tình trạng tương tự, sách dịch chiếm tỉ lệ áp đảo với những nội dung thiếu nhân văn,
ngôn từ sách cẩu thả. Những điều đáng lo ngại lại thu hút rất nhiều giới trẻ. Rõ ràng
là trong đời sống thẩm mỹ ở nước ta hiện nay đang có sự chuyển đổi các sở thích
của mình. Công chúng trong nước, đặc biệt là giới trẻ đang hưởng thụ các sản phẩm
văn hóa nghệ thuật ngoại lai du nhập vào đời sống thẩm mỹ ở nước ta phần lớn nằm
ngoài sự kiểm soát. Trong chương này, tác giả cũng đưa ra những giải pháp: xây


dựng và phát triển nền văn hóa nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn
đề có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao và phát huy vai trò của thị hiếu; nền

văn hóa nghệ thuật tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là cơ sở và điều kiện để nâng
cao và phát huy vai trò của THTM. Điều này không chỉ tạo ra môi trường thoáng
rộng cho mỗi người được tự do thể hiện THTM, mà còn là môi trường tốt nhất cho
mỗi người được phát triển, được nâng cao và phát huy đầy đủ THTM của mình
trong đời sống thẩm mỹ. Giải pháp quan trọng nữa mà tác giả đề cập đó là tăng
cường giáo dục THTM. Trong đó ông đã đưa ra hai nguyên tắc về giáo dục thẩm
mỹ đó là nguyên tắc đảm bảo sự thống nhất giữa giáo dục thẩm mỹ, giáo dục chính
trị và giáo dục đạo đức trong việc nâng cao THTM và nguyên tắc bảo đảm tính đa
dạng của các hình thức giáo dục THTM. Đồng thời với hai nguyên tắc là ba nội
dung quan trọng trong việc giáo dục THTM đó là trang bị tri thức thẩm mỹ, giáo
dục lý tưởng và định hướng nhu cầu thẩm mỹ cho công chúng. Ngoài ra, xây dựng
chương trình giáo dục thẩm mỹ toàn dân, xã hội hóa các hoạt động văn hóa nghệ
thuật, sáng tạo ngày càng nhiều và phổ biến rộng rãi các tác phẩm nghệ thuật có
chất lượng cao, loại trừ các phản văn hóa phẩm cũng là một giải pháp quan trọng
nhằm nâng cao và phát huy vai trò của THTM trong đời sống thẩm mỹ ở nước ta
cũng được tác giả đề cập đến.
Ngoài cuốn sách chuyên biệt trên, trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục thẩm mỹ cho thế hệ trẻ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, tác giả Nguyễn
Chương Nhiếp cũng ít nhiều nhắc đến THTM của học sinh, sinh viên trong bài Tư
tưởng Hồ Chí Minh định hướng nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh cho thế hệ trẻ và bài
Vì những thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh của thế hệ trẻ theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tác giả đã có những đánh giá và nhận định mang tính gợi mở cho việc định hướng
nhu cầu thẩm mỹ tốt đẹp cho thế hệ trẻ ngày nay theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh.
Cuốn sách Thỏa mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Nxb
Văn hóa, Hà Nội, 1987, dành phần thứ hai bàn về vấn đề giáo dục THTM, nâng cao
trình độ thưởng thức một số loại hình nghệ thuật trong công chúng và vai trò trách
nhiệm của người nghệ sĩ có nhiều bài viết đề cập đến đối tượng người trẻ, tiêu biểu
có thể kể đến như:
Tác giả Phan Kế An với bài Thị hiếu nghệ thuật là cái mới đã đi vào khía



cạnh cái mới trong thị hiếu nghệ thuật, vì theo ông, cái mới là yêu cầu chính đáng
của thị hiếu nghệ thuật. Tác giả đã chỉ ra thế nào là cái mới trong nghệ thuật và
trong thị hiếu nghệ thuật. Đồng thời đề cập đến những vấn đề đặt ra khi tiếp nhận
cái mới để tránh những chuyện dễ dãi trong việc tiếp nhận vì ông cho rằng nghệ
thuật dễ tính nhất, nhưng cũng khắt khe nhất. Để minh chứng cho điều này, ông
nhắc đến một thực trạng trong giới mỹ thuật là có những người nhân danh cái mới
để từ chối những yêu cầu của cuộc sống. Họ đi vào những chủ đề "một mình mình
biết, một mình mình hay" không ăn nhập gì với cuộc sống hiện tại. Nhấn mạnh điều
này, ở một chừng mực nào đó tác giả cho rằng, nghệ sĩ sáng tạo cũng chịu trách
nhiệm về những thị hiếu tầm thường và thấp kém của công chúng. Đồng thời nhắc
nhở giới trẻ có xu hướng đạt tới cái mới bằng bất cứ giá nào và cần tỉnh táo trong
việc thưởng thức nghệ thuật.
Trong bài Thưởng thức nghệ thuật (tr.159 - 177) tác giả Dương Viết Á lại nói
đến sự rung cảm đầu tiên của người thưởng thức khi tiếp xúc với tác phẩm nghệ
thuật. Theo ông, nói đến thưởng thức nghệ thuật là nói đến tác động của THTM của
từng con người cụ thể, THTM thuộc phạm trù cái riêng, do đó phải tôn trong thị
hiếu cá nhân. Trong bài viết của mình, tác giả cũng chỉ ra tình trạng dừng lại ở giai
đoạn "thưởng", nghĩa là chỉ tìm đến với nghệ thuật để giải khuây... nói cách khác, họ
tìm đến tác phẩm nghệ thuật để quên trong say và say để quên. Trước một bức tranh,
một pho tượng đẹp người ta chỉ thấy đẹp và dừng lại ở đó. Có người đọc sách, xem
phim chỉ cốt để biết kết thúc câu chuyện của số phận nào đó, và chỉ dừng lại nhận
thức như vậy mà thôi. Lối thưởng thức hời hợt đó đặt ra trước mắt những người làm
công tác văn hóa văn nghệ, mỹ học sự trăn trở và trách nhiệm cần giải quyết vấn đề.
Sự thật không thể buông lỏng khâu giáo dục THTM cho công chúng. Ông đã chỉ rõ
hai nguyên nhân là từ phía người nghệ sĩ sáng tác và từ phía người thưởng thức nghệ
thuật. Nếu người nghệ sĩ sáng tác hay biểu diễn cần có một vốn sống (trực tiếp hay
gián tiếp), cần có một vốn tri thức (càng rộng bấy nhiêu càng hay bấy nhiêu) để xây
dựng một hình tượng nghệ thuật, thì người thưởng thức cũng cần phải nâng cao

(càng cao càng tốt) hiểu biết, tri thức mới thấy được, đón được cái hay, cái đẹp của
tác phẩm. Tác giả cho rằng, vạch ra được nguyên nhân hình


thành THTM cũng có thể tìm cách để mở rộng thị hiếu, nâng cao thị hiếu thậm chí
thay đổi thị hiếu. Không thể coi thị hiếu như là một sản phẩm, một kết quả của một
quá trình để đi đến chỗ chờ đợi sự vận động của khách quan được chủ quan hóa;
song cũng không thể nóng vội, áp đặt, mệnh lệnh trong vấn đề xây dựng THTM
lành mạnh. Giáo dục thẩm mỹ nói chung và xây dựng THTM nói riêng là công việc
vừa khoa học vừa nghệ thuật; khoa học trong nghiên cứu và vận dụng quy luật hình
thành thị hiếu; nghệ thuật trong biện pháp cụ thể đối với từng đối tượng cụ thể.
Thị hiếu âm nhạc ngoài những nét cơ bản của THTM, thị hiếu nghệ thuật nói
chung còn mang những nét đặc thù riêng biệt xuất phát từ tính cách đặc thù nghệ
thuật âm nhạc. Đây là nhận định của tác giả Vũ Tự Lân trong bài Bàn về giáo dục
thị hiếu âm nhạc lành mạnh cho quần chúng, tr.191- 198. Ông nhắc tới thực trạng
về thị hiếu âm nhạc, nhất là quan điểm của công chúng về cơn sốt nhạc nhẹ khi có ý
kiến cho rằng nhạc nhẹ là âm nhạc phù hợp nhất với thời đại hiện nay. Còn nhạc
kinh điển - bác học đã lỗi thời, nhạc "bảo tàng", nhạc dân tộc cổ truyền là "áo the,
khăn xếp", chỉ phù hợp với tâm sinh lý người thời xưa. Ngược lại, cũng có người
quá hoảng hốt trước sự lan tràn của loại nhạc pop, rock, kêu gọi sự ngăn cấm thứ
nhạc "sập sình" và tất cả bị ghép vào một khái niệm "nhạc thương mại, nhạc thực
dân mới". Theo tác giả, đó là những suy nghĩ cực đoan và có phần quá đơn giản và
nay đã dần được uốn nắn.
Tác giả Nguyễn Thị Minh Châu có bài Giá trị nghệ thuật và nhân văn qua tác
phẩm âm nhạc số 2/2014, tr.45-48 Tạp chí Văn hóa nghệ thuật. Qua bài viết này, tác
giả luận bàn đến giá trị nghệ thuật qua các tác phẩm âm nhạc. Từ đó cho thấy, tác
phẩm âm nhạc có giá trị nghệ thuật và tính nhân văn sẽ tạo nên môi trường giáo dục
tốt, nhưng vẫn còn đó, những tác phẩm man “tính hủy diệt” gây cực đoan, phản cảm
trong đời sống âm nhạc ở Việt Nam đã làm khô cằn và vô vị đối với THTM của
công chúng thưởng thức.

Qua bài Ảnh hưởng văn hóa Hàn Quốc đến showbiz Việt số 2/2014, tr.45-48
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tác giả Nguyễn Tiến Mạnh đã chỉ ra sự ảnh hưởng của
văn hóa Hàn Quốc đến showbiz Việt Nam. Từ đó cho thấy rằng, có một bộ phận ca
sỹ dập khuôn, bắt chước một cách máy móc văn hóa Hàn Quốc trong các sản phẩm


của mình. Điều này có những tác động và ảnh hưởng tiêu cực tới THTM âm nhạc
của giới trẻ hiện nay.
Tác giả Hoàng Trần Doãn qua bài viết Sự thay đổi của khán giả điện ảnh hôm
nay số 9/2006, tr.46-49 Tạp chí Văn hóa nghệ thuật cho rằng sự phát triển của xã
hội luôn dẫn đến sự thay đổi nhiều yếu tố trong nó, trong đó có cả những khán giả
điện ảnh. Trong bài viết này, tác giả đề cập một cách tổng quát sự thay đổi của khán
giả điện ảnh. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm tìm hứơng đi cho điện ảnh cụ thể
là đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu của khán giả ngày nay.
Tác giả Đinh Kim Long với bài Một số vấn đề thị hiếu và trình độ lĩnh hội giá
trị tác phẩm của khán giả điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh đã sử dụng kết quả điều
tra, nghiên cứu xã hội học về khán giả điện ảnh thành phố Hồ Chí Minh. Theo số
liệu này, 80,7% số người được hỏi ý kiến trả lời: "Điện ảnh là bộ môn nghệ thuật ưa
thích", đặc biệt trong số này có tới 76,6% khẳng định xem phim là hình thức sinh
hoạt văn nghệ họ say mê hơn cả. Các cuộc điều tra, nghiên cứu ở các địa phương
khác đều cho kết quả tương tự như vậy. Tuy nhiên, tác giả cũng nêu ra thực trạng là
bên cạnh sự phát triển thị hiếu xem phim lành mạnh, trong cuộc điều tra này cũng
nhận thấy khán giả điện ảnh hiện nay còn những biểu hiện lệch lạc cần uốn nắn.
Trong các nhóm khán giả thuộc các thành phần xã hội khác nhau, lứa tuổi khác nhau,
trình độ học vấn khác nhau, nhóm nào cũng có bộ phận khán giả có biểu hiện thị
hiếu lệch lạc về mặt này mặt khác. Theo kết quả điều tra, những người đến với phim
ảnh chỉ vì nghe nói phim có "pha hấp dẫn" khán giả thuộc nhóm tuổi 16 - 20 chiếm
tỉ lệ cao nhất: 33%. Theo tác giả, đây là lứa tuổi mới lớn lên - phần lớn còn đang đi
học, họ còn mang tính hồn nhiên. Trong sinh hoạt, lứa tuổi này còn nặng chạy theo ý
thích, cảm tính… Vì thế sự hấp dẫn của một số cảnh nào đó trong phim có tác dụng

lôi cuốn mạnh mẽ họ đến với phim. Nguyên nhân gây nên sự lệch lạc của thị hiếu
trong từng độ tuổi phần lớn do trình độ tư tưởng, chính trị, trình độ học vấn.
Cuốn THTM của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Văn nghệ,
năm 2013, Nguyễn Thị Hậu chủ biên tập hợp 18 bài viết của các nhà khoa học tại
hội thảo "Định hướng THTM cho giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh" do Viện Nghiên
cứu Phát triển thành phố Hồ Chí Minh tổ chức. Trong cuốn sách có một số bài viết
điển hình về thực trạng THTM của thanh niên như:


Bài viết THTM và những biến đổi trong thanh niên thành phố Hồ Chí Minh
của Ngô Hoài Sơn đề cập một số vấn đề chung về THTM và so sánh giữa THTM
trước đây và hiện nay để thấy được sự biến đổi trong thị hiếu của thanh niên về
THTM trong lĩnh vực nghệ thuật, THTM trong ứng xử giữa người với người,
THTM trong cách thể hiện bản thân và cuối cùng là THTM trong đối xử với môi
trường tự nhiên xung quanh. Trong bài viết của mình, tác giả chỉ ra ba nguyên
nhân của những biến đổi trong THTM của thanh niên hiện nay đó là: một là, nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu chuyển sang kinh tế thị trường làm cho không gian văn
hóa thay đổi; hai là, trong quá trình tìm kiếm con đường để khẳng định bản sắc cá
nhân trong bối cảnh mới, thanh niên bị tác động mạnh bởi những dòng sản phẩm
hoành tráng, có sức hút và mới lạ từ bên ngoài đổ vào; ba là, sự "đề kháng" của
cá nhân trước những trào lưu mới chưa mạnh mẽ ở mức phù hợp. Ở phần cuối, tác
giả Ngô Hoài Sơn đã đưa ra hai đề xuất lớn nhằm hình thành thị hiếu thẩm mỹ tích
cực, xóa bỏ những thị hiếu tầm thường trong thanh niên: mộộ̣t là, trang bị kiến
thức, tư duy mới nhưng phù hợp để thanh niên có thể tĩnh tâm trước trào lưu mới;
hai là, xã hội sớm định hình những chuẩn mực mới trong bối cảnh mới để tạo ra sự
“kiểm soát xã hội” một cách phù hợp. Trong một số bài viết khác: Thị hiếu thẩm
mỹ của thanh niên thành phố Hồ
Chí Minh trước những tác động từ "mở cửa", hội nhập, giao lưu văn hóa với cộng
đồng thế giới của tác giả Võ Xuân Đàn, tr.43-54; Những tác động của truyền thông
đến sự thay đổi của giới trẻ của tác giả Nguyễn Thị Hoài Hương, tr.63 - 74; Tác

động của Internet lên thị hiếu thẩm mỹ về văn hóa nghệ thuật của thanh niên hiện
nay của tác giả Hà Thanh Vân, tr.74 - 97; Thị hiếu thẩm mỹ đối với trang phục của
giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh hiện nay của tác giả Mai Thị Quế, tr.157-164; Ảnh
hưởng của văn hóa nước ngoài đến Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ, từ góc nhìn thời
trang Cosplay của tác giả Vũ Thị Thu Hương, tr.145-157. Các tác giả trên đã đề cập
đến mặt tích cực đặc biệt nhấn mạnh đến những tác động tiêu cực của quá trình mở
cửa hội nhập, giao lưu văn hóa với cộng đồng quốc tế đến THTM nói chung, trong
đó đáng chú ý nhất là thời trang. Lối ăn mặc phóng khoáng, phản cảm đang là trào
lưu được giới trẻ ưa chuộng. Đồng thời để khắc phục và hạn chế những ảnh hưởng
xấu của nền kinh tế thị trường, của toàn cầu hóa, các tác giả đã đưa ra những biện


pháp khái quát và cụ thể như: Kết hợp hài hòa giữa gia đình, nhà trường, xã hội để
giáo dục thanh niên; cần xác định rõ trách nhiệm của các thành phần xã hội đối với
nhiệm vụ giáo dục rèn luyện thanh niên không được đùn đẩy, né tránh, đổ lỗi trước
những nội dung công tác giáo dục, rèn luyện thanh niên. Bên cạnh đó, luôn quan
tâm đến công tác duy trì và phát triển các tổ chức thanh niên, đồng thời coi trọng
công tác tuyên truyền giáo dục thông qua phương tiện truyền thông để thanh niên có
đủ nhận biết tiếp thu, sàng lọc, tránh việc ngộ nhận, bắt chước những yếu tố độc hại
ảnh hưởng đến THTM.
Nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên qua các tác phẩm nghệ thuật của
Nguyễn Thanh Mai, tr.54-63; Tìm hiểu thị hiếu âm nhạc của giới trẻ qua các diễn
đàn Internet của Nguyễn Thị Thanh Vân, tr.97 - 111; Thị hiếu thẩm mỹ trong
thưởng thức âm nhạc của thanh niên thành phố Hồ Chí Minh hiện nay của Nguyễn
Hải Nguyên, tr.111 -123; Định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho thanh thiếu niên nhìn từ
góc độ âm nhạc của giới trẻ hiện nay của Lương Ngọc Thảo, tr.123-136. Các tác giả
của các bài viết trên đã khẳng định vai trò nâng cao THTM của nghệ thuật như sân
khấu, đặc biệt đối với thanh niên thì sức hút từ âm nhạc rất lớn. Tuy nhiên, các tác
giả cũng thừa nhận hiện trạng lộn xộn, thiếu định hướng trong thị hiếu âm nhạc của
thanh niên. Tác giả Nguyễn Hải Nguyên trong bài viết của mình đã chỉ rõ thực trạng

THTM của thanh niên trong thưởng thức âm nhạc đó là chuộng những dòng nhạc
du nhập từ nước ngoài hơn là nhạc dân tộc; Xu hướng thích nhạc nhìn hơn là nhạc
nghe, nghe bằng mắt nhiều hơn bằng tai. Nguyên nhân khiến thanh niên có xu
hướng thích thưởng thức những loại nhạc như hiện nay là do tâm lý lứa tuổi và việc
giáo dục âm nhạc trong nhà trường còn bị xem nhẹ. Thông qua việc phân tích các số
liệu xã hội học, các bài viết đều đưa ra những giải pháp nhằm định hướng THTM
trong thưởng thức âm nhạc của thanh niên như nâng cao vai trò giáo dục. Trong đó
giải pháp nổi bật là cần xem xét lại vai trò kiểm duyệt, biên tập của các cơ quan
chức năng đối với các sản phẩm văn hóa văn nghệ.
Nghiên cứu thực địa về thanh niên nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng
trong thời gian gần đây có công trình Ảnh hưởng của truyền thống gia đình đến
định hướng giá trị lứa tuổi đầu thanh niên (2002) của Cấn Hữu Hải. Đây là công
trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn rất công phu, cuốn sách đã tổng quan được


×