Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu luận cao học môn báo chí điều tra những vấn đề đạo đức, trách nhiệm xã hội của nhà báo điều tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.69 KB, 23 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
I. Những vấn đề về đạo đức của Nhà báo.........................................................3
1. Khái niệm đạo đức, đạo đức của Nhà báo....................................................3
2. Vấn đề đạo đức nhà báo................................................................................3
3. Sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nói chung và nhà báo điều
tra nói riêng.......................................................................................................7
II. Trách nhiệm xã hội của nhà báo.................................................................13
1. Khái niệm trách nhiệm xã hội.....................................................................13
2. Trách nhiệm xã hội của người làm báo, đặc biệt là báo điều tra trong xã
hội hiện nay.....................................................................................................15
III. Giải pháp...................................................................................................17
KẾT LUẬN....................................................................................................19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................20


MỞ ĐẦU
Tác phẩm báo chí là thuật ngữ chỉ một sản phẩm tư duy của nhà báo,
mà đối tượng nghiên cứu và phản ánh của nó là hiện thực khách quan, hình
thức của tác phẩm báo chí luôn tương ứng với nội dung thông tin. Tác phẩm
báo chí tồn tại ở những hình thức cụ thể: tin, tường thuật, phản ánh, phỏng
vấn, phóng sự, điều tra, bình luận xã luận… là bộ phận cấu thành sản phẩm
báo chí, có giá trị tạo dư luận xã hội, tác động tới nhận thức và hành vi của
người tiếp nhận thông tin.
Hoạt động báo chí là một hoạt động truyền thông đại chúng. Sản phẩm
của hoạt động báo chí chuyển tải tới công chúng những thông tin thời sự về
các sự kiện, vấn đề, sự vật, hiện tượng, con người xảy ra hàng ngày, hàng giờ
trong đời sống xã hội thông qua đó đem lại những giá trị thông tin cho công
chúng xã hội, đảm bảo tính thông tin là chức năng quan trọng đầu tiên của


một tác phẩm báo chí. Để đạt được hiệu quả thông tin, một tác phẩm báo chí
phải đạt các tiêu chí như: mới, thời sự, cập nhật; chân thực, khách quan; có ý
nghĩa xã hội, mang lại giá trị giáo dục và nhân văn… Ngoài ra, tác phẩm báo
chí còn phải đảm nhiệm các chức năng xã hội khác như: định hướng dư luận
xã hội; giám sát, quản lý và phản biện xã hội; giáo dục và giải trí. Các nhà báo
chuyên nghiệp đều phải tuân thủ các bước tiến hành cơ bản trong quy trình
sáng tạo một tác phẩm báo chí là: Nghiên cứu, thâm nhập thực tiễn, phát hiện
đề tài; Thu thập thông tin, dữ liệu; Thể hiện tác phẩm; Tự biên tập tác phẩm;
Tổ chức tác phẩm trên sản phẩm báo chí, phát tán thông tin; Theo dõi, nắm
bắt và xử lý thông tin phản hồi.1
Trong suốt quá trình sáng tạo tác phẩm báo chí, kể từ lúc manh nha đến
khi hoàn thành một sản phẩm cụ thể, yêu cầu về năng lực chuyên môn của
nhà báo luôn phải gắn với những chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp và trách
1 />
1


nhiệm xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động báo chí, đặc biệt là các bài
điều tra, không phải lúc nào các nhà báo cũng thực hiện tốt những yêu cầu
này, theo đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị thông tin của tác phẩm báo
chí và làm mất niềm tin của công chúng đối với báo chí. Nguyên nhân chính
của vấn đề này là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp, sự thờ ơ, vô trách nhiệm
của nhà báo ở từng khâu trong quy trình sáng tạo tác phẩm. Thông qua bài
viết này, em xin được nêu lên những vấn đề về đạo đức, trách nhiệm xã hội
của Nhà báo điều tra, để từ đó nhận thức tốt hơn về nghề nghiệp và giá trị
nghề nghiệp mà bản thân đang nỗ lưc theo đuổi.

2



NỘI DUNG
I. Những vấn đề về đạo đức của Nhà báo.
1. Khái niệm đạo đức, đạo đức của Nhà báo.
“Đạo đức là những tiêu chuẩn, nguyên tắc được xã hội thừa nhận, quy
định hành vi của con người đối với nhau và đối với xã hội. Các nguyên tắc
đạo đức giống như những chiếc máy điều chỉnh hành vi của con người,
nhưng không mang tính chất cưỡng chế mà mang tính tự giác (...) Trên cơ sở
lí tưởng và trách nhiệm đạo đức đã hình thành nên quan niệm về lương tâm
và lòng tự trọng của nhà báo chuyên nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp bao gồm
các nguyên tắc xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn.
Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này và dựa vào tính chất của những
hành vi, mỗi nhà báo sẽ phải chịu đựng sự tự xỉ vả, xấu hổ, phải tự kết tội,
hoặc được khích lệ, tự hào, phấn khởi và hạnh phúc”. 2
Quan niệm đạo đức của nghề báo dù nhìn ở góc độ nào cũng đều dựa
trên cơ sở đạo đức xã hội để đánh giá đúng sai, tốt xấu. Đạo đức nghề báo
đối với những cá nhân người làm báo không có bản lĩnh, lập trường không
đủ vững vàng khi đứng trước vô vàn cám dỗ lại càng dễ bị đem ra lợi dụng,
càng dễ lung lay.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, ở môi trường như hiện nay, trong sự
phát triển chung của nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh và lợi nhuận là điều
không thể tránh khỏi. Việc lợi dụng báo chí để đảm bảo lợi nhuận, doanh thu
hay chỉ đơn giản vì một lợi ích nào đó, đôi khi ép một số cá nhân người làm
báo đến việc phải sử dụng những thông tin phi nhân bản, cũng đôi lúc đã xem
nhẹ đạo đức nghề nghiệp của mình.
2. Vấn đề đạo đức nhà báo.
Đại hội lần thứ VI, Hội Nhà báo Việt Nam (tháng 3/1995), các đại biểu đã
thông qua “Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí” gồm 10 điều cụ thể như sau:
2 Dương Xuân Sơn, Đinh Hường, Trần Quang: Cơ sở lý luận báo chí - truyền thông, Nxb Văn hóa - thông
tin, H., 1995, tr. 252.


3


1. Mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam là phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nhà báo hoạt động trong bất
kỳ lĩnh vực nào cũng hướng về mục tiêu cao cả đó.
2. Báo chí thực hiện quyền thông tin của nhân dân. Nhà báo phải khách
quan, trung thực, tôn trọng sự thật. Mọi thông tin đưa ra công luận phải phản
ánh đúng bản chất sự thật khách quan trong bối cảnh xã hội của nó, tuyệt đối
không được xuyên tạc hoặc cường điệu sự việc, sự kiện. Nhà báo có trách
nhiệm cung cấp cho công chúng hình ảnh chân thực, đúng bản chất về quá trình
của sự kiện và tình huống được thông tin, thông qua đó hướng dẫn dư luận.
3. Báo chí là phương tiện thông tin thiết yếu với đời sống xã hội, là công
cụ văn hóa. Nhà báo tôn trọng và thực hiện tự do báo chí, chịu trách nhiệm
trước xã hội, trước nhân dân và tự do hành nghề trong khuôn khổ luật pháp.
Nhà báo thực hiện đúng tôn chỉ của cơ quan báo chí; không vì bất kỳ sức ép
nào mà làm trái mục tiêu cao cả của báo chí Việt Nam, đi ngược lại lợi ích của
đất nước.
4. Cùng với quyền tự do thông tin, thực hiện quyền trả lời và quyền cải
chính trên báo chí là một nguyên tắc cấu thành tự do dân chủ báo chí. Nhà
báo có quyền kiên trì quan điểm và thông tin đúng đắn của mình, nhưng tôn
trọng quyền trả lời và quyền cải chính của công dân theo đúng luật pháp.
5. Nhà báo có nghĩa vụ bảo vệ nguồn tin và giữ bí mật do người khác
cung cấp, phù hợp với luật pháp.
6. Báo chí Việt Nam phát huy văn hoá dân tộc đồng thời tôn trọng các
nền văn hoá khác và những giá trị tinh thần phổ biến của loài người: phấn đấu
vì đại đoàn kết dân tộc, vì hoà bình hữu nghị, hiểu biết giữa các dân tộc và
quốc gia trên thế giới.
4



7. Nhà báo góp phần phát triển lợi ích cộng đồng, tồn trọng quyền con
người, không lợi dụng thông tin để xúc phạm nhân phẩm và làm thiệt hại đến
lợi ích người khác.
8. Nhà báo luôn luôn giữ phẩm chất trong sáng, không vụ lợi. Tuyệt đối
không vì lợi ích cá nhân mà cố tình công bố hoặc bỏ qua không công bố một
thông tin. Nhà báo không được dùng uy tín của mình để trục lợi.
9. Nhà báo tôn trọng chính kiến và quan điểm xã hội, nghề nghiệp của
đồng nghiệp; đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong hoạt động và đời sống;
đấu tranh không khoan nhượng chống mọi hành vi làm tổn hại đến đất nước,
lợi ích nhân dân và trái với đạo đức báo chí.
10. Nhà báo sống lành mạnh, văn minh, khát khao học hỏi, khiêm tốn
cầu tiến bộ. Nâng cao bản lĩnh, trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của mình là ước
vọng và sự phấn đấu suốt đời của người làm báo.3
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Hội Nhà báo Việt Nam đã
thông qua Quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam
gồm 9 điều:
1. Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Luôn gắn bó với nhân dân, hết lòng phục vụ nhân dân.
3. Hành nghề trung thực, khách quan, tôn trọng sự thật.
4. Sống lành mạnh, trong sáng, không được lợi dụng nghề nghiệp để vụ
lợi và làm trái pháp luật.

3 Quy ước đạo đức nghề nghiệp báo chí

5


5. Gương mẫu chấp hành pháp luật, làm tròn nghĩa vụ công dân, làm tốt

trách nhiệm xã hội.
6. Bảo vệ bí mật quốc gia, nguồn tin và giữ bí mật cho người cung cấp
thông tin.
7. Tôn trọng, đoàn kết, hợp tác giúp đỡ đồng nghiệp trong hoạt động
nghề nghiệp.
8. Thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, văn hóa, nghiệp
vụ, khiêm tốn cầu tiến bộ.
9. Giữ gìn và phát huy văn hóa dân tộc đồng thời tiếp thu có chọn lọc
các nền văn hóa khác.
Đạo đức nhà báo gắn liền với phẩm chất nghề nghiệp. Việc nâng cao
đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ những người làm báo cũng chính là nâng
cao tư tưởng, tính chân thật, tính chiến đấu của các sản phẩm báo chí, hướng
nội dung thông tin vào nhiệm vụ trung tâm là phục vụ sự nghiệp bảo vệ độc
lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nâng cao đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo, xét cho cùng cũng chính là nhằm nâng cao trình độ tư duy, phẩm
chất chính trị và nghiệp vụ của người phóng viên. Đạo đức của người làm báo
khi tác nghiệp trước hết là sự trung thực với nguồn tin. Bản chất của thông tin
phải là trung thực, khách quan, nhất là đốỉ với những nhà báo điều tra đứng
trước các biểu hiện tham nhũng tiêu cực. Sản phẩm báo chí phải thể hiện
được quan điểm, chính kiến của nhà báo, của cơ quan báo chí. Một bài báo
chỉ cung cấp thông tin một cách thuần tuý thì chưa đủ mà còn phải phân tích,
đánh giá ở nhiều góc độ một cách khách quan. Chính kiến ở đây trước hết là
phải được đặt trên cơ sở của tính khách quan, trung thực, phản ánh đúng bản
chất của sự thật.
6


Nước ta đã ban hành Luật báo chí năm 2016 do Quốc hội khóa 13 thông
qua quy định rất rõ ràng, cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Hội Nhà báo Việt
Nam, trong đó có nhiệm vụ ban hành, tổ chức thực hiện Quy định đạo đức

nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam. Tuy nhiên, ngay cả khi chưa xây
dựng được một bộ quy tắc ứng xử, bản thân mỗi người làm báo cũng cần tự
nhận thức được tầm quan trọng của đạo đức nghề nghiệp của cái nghiệp mà
mình đang làm đến đâu, giống như trong phát biểu của ông Hồ Quang Lợi –
phó chủ tịch thường trực Hội Nhà báo Việt Nam đã khẳng định “đạo đức báo
chí đang trở thành một vấn đề có tính cốt lõi, nền tảng của hoạt động báo chí
ngày nay. Nếu xa rời nền tảng đó, báo chí không thể hoàn thành trách nhiệm
đối với xã hội.”
Nhà báo Lê Thanh Phong – thuộc báo Lao động đưa ra quan điểm của
mình: “Nói đúng sự thật là tôn chỉ cao đẹp nhất của nghề báo”. Trong môi
trường báo chí cạnh tranh như hiện nay, đặt ra yêu cầu rất cao đối với người
làm báo, buộc họ phải năng động hơn, nhạy bén hơn, luôn phải làm mới mình
để thích nghi với sự phát triển chung của nghề, yêu nghề và sống được với
nghề, cũng vì nhạy bén như vậy họ mới có thể nhiệt huyết với nghề mà không
màng đến những cám dỗ để đem đến những sản phẩm khách quan, đáp ứng
khát khao sự thật mà khán, thính giả cần.
3. Sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo nói chung và nhà
báo điều tra nói riêng.
- Thứ nhất, nhà báo không nghiên cứu, không đi sâu nghiên cứu, thâm
nhập thực tiễn để phát hiện đề tài sáng tạo tác phẩm mà chỉ sao chép, bịa đặt
thông tin, hư cấu chi tiết trong tác phẩm, dẫn tới gây hậu quả xấu cho dư luận
xã hội.
Khâu đầu tiên trong quá trình tạo ra tác phẩm của người làm báo nói
chung và báo điều tra nói riêng là nghiên cứu, thâm nhập thực tiễn để phát
hiện đề tài. Giống như khi đi tình nguyện xa, các bạn trẻ thường có hoạt động
“tiền trạm”, làm báo cũng vậy, cần có sự đầu tư, cần có thực tiễn bởi có sự
7


hiểu biết căn bản về đề tài thì mới tạo ra được tác phẩm có chiều sâu, có giá

trị, mới đáp ứng được thị hiếu của người xem, người nghe.
Thực tế, còn tồn tại nhiều sản phẩm báo chí, nhiều ấn phẩm điều tra
theo từng kỳ chưa hấp dẫn hoặc làm mất niềm tin đối với công chúng là do
tác giả bịa đặt, sao chép, làm sai lệch thông tin về các sự kiện, vấn đề. Đây là
kết quả lao động của các phóng viên, cộng tác viên chỉ ngồi ở nhà, trước màn
hình máy tính, gõ bàn phím tạo ra tác phẩm. Đơn cử, vụ việc gần đây nhất do
VTV chỉ đạo sản xuất, vụ việc “cây chổi quét rau”. Việc đưa tin thì rất đơn
giản, nhưng hậu quả từ những thông tin sai lệch, xa rời thực tế khiến cho
những người nông dân sống bằng nghề trồng rau phải gánh chịu là không hề
nhỏ. Theo đó, VTV đã bị phạt 50 triệu đồng và phải cải chính vụ việc. Tuy
nhiên lòng tin của người dân đối với VTV đã bị giảm sút đáng kể.
- Thứ hai, tác phẩm sai số liệu, nhầm lẫn thông tin, nhà báo bị kiện – lỗi
vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo trong sử dụng các phương pháp thu
thập thông tin, dữ liệu.
Khi thu thập thông tin, dữ liệu sáng tạo tác phẩm báo chí đều sử dụng ít
nhất 3 phương pháp: quan sát, phỏng vấn, nghiên cứu tư liệu. Ngoài ra, còn
có các phương pháp khác như: điều tra xã hội học, thảo luận nhóm, lập diễn
đàn trao đổi thông tin…
Thực tiễn hoạt động báo chí ở nước ta tồn tại những người làm báo thể
hiện sự yếu kém trong kỹ năng thu thập thông tin, dữ liệu sáng tạo tác phẩm
báo chí, những thông tin trong các tác phẩm của họ sẽ hời hợt, nông cạn, thậm
chí là sai lệch, bịa đặt, vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
Nhiều tác phẩm báo chí mang tính chủ quan, võ đoán dẫn đến sai sự thật,
áp đặt suy luận cá nhân lên một tác phẩm báo chí thể hiện sự non yếu của nhà
báo trong sử dụng phương pháp quan sát thu thập thông tin, dữ liệu sáng tạo tác
phẩm báo chí, người làm báo trong trường hợp này mới chỉ quan sát bằng cảm
tính chứ chưa quan sát bằng lý tính, mới chỉ điều tra sơ sài bằng “con mắt, cái
tai” chứ chưa dùng “tâm” để điều tra. Có thể đưa ra một số ví dụ để minh
8



chứng cho sự non yếu của nhà báo khi điều tra, quan sát, thu thập thông tin, dữ
liệu. Trên kênh Truyền hình An ninh (ANTV) của Bộ Công an, có chuyên mục
“Camera giấu kín”. Trong một kịch bản phát sóng, nhóm làm chuyên mục đã
mời một sinh viên người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam đóng vai người
hành nghề “Xe ôm Tây”. Nhà đài muốn xem “khách ta” và những người cùng
hành nghề chạy xe ôm của ta sẽ ứng xử ra sao với tình huống này. Nhóm làm
chuyên mục đã tổ chức ghi hình tại nhiều điểm khác nhau ở Hà Nội như cổng
trường đại học, cổng bệnh viện, bến xe… Ngay chiều hôm đó, trên một số tờ
báo mạng, trang tin điện tử đã xuất hiện các bài viết về sự kiện này với những
dòng tít mùi mẫn kiểu “Một tấm gương sinh viên nước ngoài vượt khó”, “Xe
ôm Tây”… Tiếp đó là hoàng loạt các comment tán dương theo kiểu “Họ ở tận
bên Tây sang học mà còn tranh thủ chạy xe ôm kiếm sống, tại sao mình cũng là
sinh viên, lại không chạy xe ôm kiếm thêm nhỉ…”
Ví dụ trên cho thấy các tác giả viết bài không có thói quen đọc báo,
không xem truyền hình, không đi thực tế nên mới không biết đó là một tình
huống tác nghiệp của các đồng nghiệp. Như vậy, ngay cả thời gian để tìm hiểu
đề tài còn không được chú trọng thì liệu việc trau chuốt cho một quá trình
điều tra để tạo ra sản phẩm báo chí ở lĩnh vực điều tra liệu có đảm bảo chất
lượng hay không? Những nhà báo này không những nhà báo đã vi phạm tính
chân thực, khách quan mà còn vi phạm cả tính nhân văn trong hoạt động báo
chí.
Đối với việc sử dụng phương pháp phỏng vấn để thu thập thông tin, dữ
liệu, hiện nay vì sao nhiều người ngại tiếp xúc với báo giới, vì nhiều nhân vật
trả lời phỏng vấn đã trở thành nạn nhân của báo chí, bị nhà báo “nhét miệng”
những câu trả lời sai sự thật. Trong thực tế hoạt động báo chí, khi sử
dụng phương pháp nghiên cứu tư liệu để thu thập thông tin, dữ liệu, một số
nhà báo đã tự khoe khả năng copy, paste lành nghề của mình trên các trang
mạng; vậy, thử hỏi thao tác điều tra của những nhà báo này khi tác nghiệp
9



diễn ra ở đâu trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện sản phẩm của mình.
Đây cũng là câu chuyện vi phạm đạo đức nghề nghiệp của nhà báo.4
Người làm báo sáng tạo tác phẩm báo chí có thể dựa vào nhiều nhiều
dạng thức khác nhau của thông tin, từ tư liệu chữ viết, tư liệu âm thanh đến tư
liệu hình ảnh … Việc nghiên cứu, thu thập tư liệu để phát hiện các chi tiết đặc
sắc, có cơ sở để dẫn chứng phân tích, lập luận, chứng minh cho đề tài mình
thể hiện trong tác phẩm. Tuy nhiên, không phải nhà báo nào khi tác nghiệp
cũng sử dụng tốt phương pháp này. Nhiều người làm báo chủ yếu trông cậy
vào việc thu nhận các văn bản báo cáo hoặc thông cáo báo chí, sau đó chế tác
thành tác phẩm. Việc “xào nấu” này cũng là sự vi phạm đạo đức nghề nghiệp
của nhà báo mà hiện nay rất phổ biến. Nhà bảo chỉ có thể sử dụng các báo
cáo, thông cáo báo chí với tư cách là những tài liệu cung cấp thông tin, chứ
không được phép “chế biến” các báo cáo, thông cáo báo chí thành tác phẩm
báo chí. Đứng trước những chi tiết, con số được đưa vào báo cáo, thông cáo
báo chí những người làm báo cần phải sáng suốt lựa chọn bởi nó thường chỉ
là những chi tiết, số liệu chủ quan, mang nặng tính thành tích mà cá nhân, tổ
chức muốn quảng bá cho hình ảnh của mình vẽ ra.
- Thứ ba, mục đích thông tin không rõ ràng, lạm dụng những chi tiết
giật gân, câu khách, tác phẩm thiếu tính khách quan, chân thực và giá trị nhân
văn – vi phạm đạo đức nghề nghiệp trong bước thể hiện tác phẩm báo chí.
Thể hiện tác phẩm thành một sản phầm cụ thể là bước quan trọng trong
quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí. Chọn thể loại nào, kết cấu gì, chi tiết ra
sao, ngôn ngữ biểu đạt thế nào, đó là khâu quan trọng quyết định nội dung,
hình thức của một tác phẩm báo chí. Chủ tịch Hồ Chí Minh – người thầy lỗi
lạc của nền báo chí cách mạng Việt Nam đã đưa ra bài học báo chí bổ ích cho
các nhà báo bằng các câu hỏi là: viết cho ai? viết để làm gì? Viết như thế nào?
Các nhà báo chuyên nghiệp, có thương hiệu trong báo giới thường làm rất tốt
4 />

10


điều này. Hoạt động có chủ ý về chọn lựa thể loại, chi tiết, bố cục tác phẩm
làm nên sự thành công trong nghề nghiệp của các nhà báo chuyên nghiệp.
Thường thì họ đặt ra câu hỏi khi thể hiện tác phẩm là: Đối tượng mà tác phẩm
hướng tới là ai, tác phẩm có tác động gì đến lợi ích của quốc gia, cộng đồng
hay cá nhân hay không, hiệu quả, hậu quả mà nó đem lại là gì? Từ đó, các nhà
báo mới quyết định chọn hình thức thể loại nào thể hiện sẽ tạo hiệu quả thông
tin, hấp dẫn công chúng.
Trong thực tiễn hoạt động báo chí, vẫn còn không ít các nhà báo thể
hiện sự non yếu ở bước sáng tạo này. Các tác phẩm của họ thường không rõ
mục đích thông tin, chưa rành mạch về thể loại, chưa khéo léo trong xây dựng
bố cục tác phẩm, chưa tinh xảo trong chọn lựa chi tiết, chưa giỏi về sử dụng
ngôn ngữ biểu đạt. Sự non yếu về năng lực sáng tạo của nhà báo, tất yếu trên
mặt báo sẽ xuất hiện những “tác phẩm báo chí” vô thưởng, vô phạt, kém hấp
dẫn hoặc gây hậu quả xã hội nghiêm trọng.5
- Thứ tư, không tự biên tập tác phẩm của mình, nhà báo vô tình hoặc cố
ý để lọt sai sót, đánh đố biên tập viên.
Những nhà báo có kinh nghiệm, nghiêm túc với nghề sau khi viết bài
xong thường đọc đi đọc lại nhiều lần, sửa chữa câu văn, lược bỏ những chi
tiết rườm rà, sai, bổ sung những chi tiết mới. Không biên tập viên nào có thể
biên tập tác phẩm tốt hơn là do chính tác giả tự biên tập. Các biên tập viên
biên tập tác phẩm của phóng viên, cộng tác viên chỉ là để làm cho các tác
phẩm đó tốt hơn khi nó được tổ chức trên sản phẩm báo chí.
Trong thực tế hoạt động báo chí, vẫn ít nhiều tồn tại những người làm
báo “ngại” tiến hành bước này trong quy trình sáng tạo tác phẩm. Họ thường
đùn đẩy, phó thác trách nhiệm cho các biên tập viên. Các biên tập viên chuyên
nghiệp, tự trọng nghề nghiệp thường phải cố gắng “gạn đục, khơi trong” để
5 />

11


“nuôi đứa con tinh thần” mà các phóng viên, cộng tác viên đã “đẻ non”. Nếu
biên tập viên có chuyên môn yếu lại lười lao động, rất dễ họ sẽ để nguyên
những “đứa con tinh thần còi cọc, bệnh tật” đó để tổ chức trên các sản phẩm
báo chí và hậu quả là công chúng xã hội sẽ được thưởng thức những “món
ăn” kém hấp dẫn, thâm chí là độc hại.
- Thứ năm, vì lợi ích cá nhân, nhóm hoặc vì mục đích thương mại mà
coi nhẹ các chức năng, nguyên tắc hoạt động của báo chí khi tổ chức tác phẩm
trên các sản phẩm báo chí.
Tác phẩm báo chí là một trong những thành tố làm nên sản phẩm báo
chí. Một sản phẩm báo chí đúng, trúng và hấp dẫn công chúng là sản phẩm
được kết cấu bằng những tác phẩm báo chí có chất lượng cao. Để có một sản
phẩm báo chí chất lượng cao, ngoài việc phóng viên, cộng tác viên sáng tạo ra
các tác phẩm hấp dẫn thì những người chịu trách nhiệm tổ chức chúng trên
các sản phẩm phải thực sự công tâm, có đạo đức nghề nghiệp cao cả. Thực tế
hoạt động báo chí đã có những tổng biên tập, phó tổng biên tập, thư ký toà
soạn chủ ý hoặc “hồn nhiên” chỉ đạo phóng viên, cộng tác viên viết tin, bài
giật gân, câu khách, viết bài quảng cáo trá hình để đăng tải trên các sản phẩm
báo chí. Sở dĩ thuật ngữ “báo lá cải” ra đời cũng là do bức xúc của báo giới và
công luận xã hội về việc đang xuất hiện các sản phẩm báo chí chú trọng đăng
tải thông tin theo nhu cầu thì hiếu. Vì chạy theo thị hiếu tầm thường của một
phận công chúng hoặc vì mục đích thương mại rẻ tiền mà một số cơ quan báo
chí đã không màng đến các nguyên tắc, chức năng hoạt động khi áp dụng
cách làm này.
- Thứ sáu, không theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi từ hiệu
quả, hậu quả của tác phẩm báo chí.
Theo dõi, nắm bắt và xử lý thông tin phản hồi là một bước quan trọng
trong quy trình sáng tạo tác phẩm báo chí, thông qua đó nhà báo biết được tác

phẩm của mình đem lại hiệu quả hay hậu quả xã hội. Xử lý thông tin phản hồi
12


là để nhà báo kịp thời giải quyết các tình huống đặt ra liên quan đến dư luận
xã hội mà tác phẩm của mình đem lại.
Phản hồi về hiệu quả, hậu quả do tác phẩm báo chí đem lại thường từ
các đối tượng như: Cơ quan quản lý tư tưởng – văn hoá (Ban Tuyên giáo
Trung ương, Ban Tuyên giáo các tỉnh, thành phố, huyện, ngành); Cơ quan
quản lý Nhà nước về báo chí và truyền thông (Bộ Thông tin và Truyền thông,
Bộ Ngoại giao, các Cục chuyên ngành: Cục Báo chí, Cục Phát thanh – Truyền
hình và Thông tin điện tử, Cục Thông tin đối ngoại…); Cơ quan chủ quản báo
chí (các Bộ, ngành, tổ chức đoàn thể xã hội, địa phương…); Các tập thể (các
cơ quan nhà nước, các tổ chức hội nghề nghiệp, các tổ chức phi chính phủ,
đơn vị tư nhân,…); Các đồng nghiệp báo chí (trong và ngoài cơ quan báo
chí); Cá nhân công luận xã hội.
Một trong những chức năng cơ bản và quan trọng của báo chí là tham
gia quản lý, giám sát và phản biện xã hội thông qua dư luận xã hội. Chỉ có
thông qua dư luận xã hội, báo chí mới làm tròn trách nhiệm của mình là cầu
nối quan trọng của Đảng, nhà nước với nhân dân; là tiếng nói của Đảng, Nhà
nước, diễn đàn của quần chúng nhân dân.
Thực tế thì sự phản hồi của các cơ quan quản lý và chủ quản báo chí,
của công chúng xã hội về hiệu quả, hậu quả từ các tác phẩm báo chí luôn diễn
ra và là điều tất yếu khách quan. Điều này thể hiện cho một nền báo chí tự do,
dân chủ, nhân văn. Các toà soạn, nhà báo thực sự chuyên nghiệp thường dũng
cảm nhận trách nhiệm xã hội về hiệu quả, hậu quả từ các tác phẩm của mình
công bố và họ càng làm tăng niềm tin của cơ quan quản lý, chủ quản và công
chúng đối với báo chí.
Có thể tiếp cận từ nhiều góc độ để luận bàn về sự vi phạm đạo đức nghề
nghiệp của nhà báo trong xử lý nguồn tin. Tiếp cận từ quy trình sáng tạo tác

phẩm báo chí cho thấy, không chỉ các nhà báo ở Việt Nam mà ở các nước trên thế
giới cũng có thể vi phạm đạo đức nghề nghiệp, nếu như các nhà báo tác nghiệp

13


chưa chuyên nghiệp, không am hiểu luật pháp và thiếu ý thức trách nhiệm xã hội,
nghĩa vụ công dân của mình. Một con sâu làm rầu nồi canh, người ta có thể đổ đi
để nấu nồi canh khác, nhưng một nhà báo, tác phẩm vi phạm đạo đức nghề
nghiệp không những gây hậu quả xã hội to lớn mà còn khó có thể lấy lại được
danh dự và uy tín của cơ quan báo chí, nền báo chí đối với công chúng xã hội.
II. Trách nhiệm xã hội của nhà báo.
1. Khái niệm trách nhiệm xã hội.
Trách nhiệm xã hội được hiểu là nghĩa vụ mà một cá nhân, tập thể phải
thực hiện đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là làm tăng đến mức tối đa
các tác dụng tích cực và giảm tới tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
Trong một cuộc hội thảo năm 1994, một số cán bộ giảng dạy báo chí đã
nêu câu hỏi: “Trách nhiệm báo chí: cái gì xã hội cần ở chúng ta? Một số diễn
giả nêu quan điểm: Vì đặc quyền xã hội và đặc quyền pháp lý, vì sức mạnh
mà các phóng viên nắm giữ, họ phải chịu trách nhiệm về những thông tin mà
công chúng cần, theo một cách thức thông minh và có cân nhắc”.
Như thế có nghĩa là, người phóng viên phải chịu trách nhiệm cả về
những thông tin mà họ quyết định không công bố. Như chúng ta đã biết, trách
nhiệm là một khái niệm lấp lánh, trong hệ thống hoạt động báo chí nó đồng
thời mang hai nghĩa: trách nhiệm của phóng viên đối với cơ quan báo chí và
trách nhiệm của cơ quan báo chí đối với xã hội.
Khi nói đến trách nhiệm thì rõ ràng, trước sau gì phóng viên cũng phải
“đo” trách nhiệm của họ bằng thước đo chung của thực tiễn nghề
nghiệp. Trách nhiệm là một vấn đề do học tập và do năng lực mà có. Nó là
việc báo tin, đánh thức người phóng viên dậy rồi cử anh ta đi dưới sự hướng

dẫn của những biên tập viên từng trải - sau đó sản phẩm truyền thông sẽ được
làm sáng tỏ hơn.
Trong nhiều văn bản khác nhau, các biên tập viên cũng chứng minh
tương tự, khi họ thu gọn vấn đề đạo đức báo chí vào trong phạm vi kỹ thuật

14


nghề nghiệp giống như phương pháp săn tin nhất định hay là vấn đề pháp luật
và vấn đề thị trường. Đối với họ, vấn đề đạo đức trong ngày thường khá cụ
thể. Cho nên họ không phải suy nghĩ nhiều lắm về trách nhiệm xã hội chung hoặc là họ không nhìn nhận chúng như là một vấn đề đặc biệt thuộc nghề
nghiệp, vì họ quan niệm rằng, đạo đức lao động là chuẩn mực chung cho mọi
người, không riêng gì nhà báo, mặc dù nhà báo gặp nhiều tình huống phải ứng
xử dựa trên nguyên tắc đạo đức nhiều hơn những nghề khác.
Nhu cầu đạo đức có tính thời sự này có thể nghiên cứu được vì lý do và
hệ quả của nó đối với bốn yếu tố ràng buộc hành vi báo chí như sau:
- Qui chế báo chí (Danh mục đạo đức học và sự trùng hợp với các qui
định pháp luật. Ví dụ như việc bảo vệ người cung cấp thông tin đồng thời
được ghi trong luật báo chí và qui ước đạo đức báo chí).
-

Cơ cấu báo chí (Điều kiện chế định dành cho sự tự ràng buộc cá

nhân của hành vi báo chí).
- Chức năng báo chí (Sự thống nhất của nguyên tắc đạo đức học với ý
định đưa tin của phóng viên và mong muốn được thông tin của công chúng).
- Vai trò báo chí (Tính nhạy cảm của phóng viên đối với hoàn cảnh
dẫn tới quyết định mang tính đạo đức).
Trong vấn đề tự chịu trách nhiệm nghề nghiệp của phóng viên, trước hết
mỗi nhà báo cần xác định xem trong một tình huống cụ thể, cần ứng xử như thế

nào để phù hợp với quy tắc đạo đức. Sau đó mới có thể nói đến việc người
phóng viên được làm gì và muốn làm gì, nghĩa là họ có được sự nhạy cảm đạo
đức học thế nào. Trên mặt bằng chức năng, người phóng viên cần phải, được
phép và mong muốn mang lại điều mà xã hội và công chúng mong đợi.
2. Trách nhiệm xã hội của người làm báo, đặc biệt là báo điều tra
trong xã hội hiện nay.
Trách nhiệm xã hội đề cao quan điểm hoạt động vì lợi ích của đại bộ
phận công chúng (bao gồm lợi ích của Đảng, Nhà nước, quốc gia và toàn thể
15


nhân dân). Một hành vi là tốt hay xấu phải được xem xét dưới góc độ hậu quả
liên quan đến số đông (xã hội). Quyết định được đưa ra nhằm hướng tới mục
đích, hậu quả của hành vi sẽ quyết định xem hành vi đó đúng hay sai. Quan
niệm này là sự kết hợp giữa hành vi tốt và hành vi có ích.
Tư tưởng vì quyền lợi của đa số (toàn xã hội) chắc chắn sẽ được đại đa
số phóng viên báo chí nước ta chấp nhận và ngưỡng mộ. Nó giữ vai trò là
định hướng cho mô hình trách nhiệm xã hội của cơ quan truyền thông. Tất
nhiên là không phải mọi người đều đồng tình với quan niệm này. Có ý kiến
cho rằng, nếu như quan niệm vì lợi ích của đa số tự coi mình là đạo đức trách
nhiệm thì chưa hẳn đã chính xác. Mỗi một hành vi báo chí chỉ được xác định
khi nó gây ra tác động, trong khi đó lại không thể lường trước được tất cả các
tác động. Chẳng hạn như tin tức về vụ trẻ em ngộ độc khi ăn vải thiều ở Lục
Ngạn - Hà Bắc trước đây, hay ngay như vụ “cây chổi quét rau” đã đề cập ở
phần trên… Rõ ràng là tác giả của bản tin đó, trong khi bị sức ép của tính thời
sự, khó lòng mà biết trước hậu quả của tin tức v.v... Nhưng dù sao thì phép
tính lợi ích vẫn đang được thừa nhận và là yếu tố định hướng cho cuộc thảo
luận về đạo đức nghề báo. Lý thuyết vì lợi ích đa số này như là một thứ thước
đo dành cho hành vi báo chí hàng ngày nhằm chống lại động cơ cá nhân bị
khai thác triệt để và chủ nghĩa khoái lạc cá nhân. Đối với sự phân biệt giữa tự

do và lạm dụng tự do, kiểu quan niệm về đạo đức trách nhiệm đó chưa có
bằng chứng là đã mang lại lợi ích thực tế. Bởi vì tự do báo chí, suy cho cùng
cũng là sản phẩm của cơ chế báo chí. Mỗi đất nước, tuỳ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau như chính trị, xã hội, trình độ dân trí, mức sống vật chất v.v... để
có cơ chế báo chí thích hợp. Nếu đem quan niệm tự do của các nước khác áp
đặt lên kiểu tư duy của dân mình là phi khoa học. Chỉ lấy một ví dụ đơn giản:
ở Thuỵ điển tình trạng dân số giảm làm cho quốc hội của họ phải đau đầu để
nghĩ ra kế sách nhằm tăng dân số. Vì thế đã xuất hiện ý tưởng công bố rộng

16


rãi và tăng cường thời lượng chiếu phim sex trên màn ảnh nhỏ, và đương
nhiên là trên nhiều phương tiện truyền thông khác nữa. Đó là một quan niệm
về tự do. Trong khi đó chúng ta đang vất vả lắm trong công tác tuyên truyền,
thế mà hàng chục năm rồi vẫn chưa thực hiện được chủ trương mỗi cặp vợ
chồng chỉ nên có một hoặc hai con. Nếu để cho một số nhà báo nào đó được
tự do trong khoái lạc cá nhân thì công sức tuyên truyền cuả hàng trăm cơ quan
truyền thông và các tổ chức xã hội khác chỉ là công cốc. Đến như nước Mỹ
được mệnh danh là "thế giới tự do" vậy mà sau vụ khủng bố 11/9 nhân dân
cũng đồng ý với chính quyền là hạn chế tự do của dân để tăng cường an ninh
của đất nước. Cho nên tình trạng lạm dụng tự do báo chí không chỉ vi phạm
pháp luật mà còn vi phạm đạo đức. Dĩ nhiên cũng không thể hi sinh tự do của
đa số để dành quyền tự do cho thiểu số. Như vậy mỗi nhà báo sẽ có tự do khi
nhận thức đầy đủ quy luật của tự nhiên và xã hội, như Ăng ghen đã nói: “tự
do là tất yếu”.6
Vấn đề về đạo đức nghề nghiệp của báo chí hiện nay là phải tìm ra
những quy tắc cho phép nhà báo hành động hợp đạo đức trong ngày thường.
Các phóng viên, trong hoạt động nghiệp vụ cần áp dụng tính thực tế (thực
dụng) và tính qui nạp, căn cứ vào tình hình cụ thể dẫn đến quyết định mang

dấu ấn đạo đức.
Mặt khác, nên chăng những cuộc tập huấn thường niên về đạo đức nghề
nghiệp cho các nhà báo, đặc biệt là nhà báo trẻ phải được cơ quan quản lí lưu
ý. Căn cứ vào nội dung của “Quy ước đạo đức báo chí Việt Nam” để rút ra
những bài học thực tiễn. Một trong những chức năng chủ yếu của báo chí
nước ta là giáo dục. Nhà báo là nhà giáo dục bằng phương tiện thông tin. Mà
“nhà giáo dục lại rất cần được giáo dục”.7
6 />7 />
17


III. Giải pháp.
Để chấn chỉnh, tiến tới khắc phục, loại bỏ những khuynh hướng lệch
lạc, biểu hiện tiêu cực trong đời sống báo chí cả nước; bên cạnh đổi mới mạnh
mẽ công tác quản lý Nhà nước đáp ứng yêu cầu phát triển báo chí trong thời
đại bùng nổ thông tin, việc cần làm ngay là các cấp hội, các cơ quan chủ quản
mà trực tiếp là lãnh đạo các cơ quan thông tấn, báo chí và đội ngũ cán bộ,
phóng viên phải luôn coi trọng công tác giáo dục, rèn luyện phẩm
chất đạo đức, bản lĩnh chính trị, luôn đề cao trách nhiệm xã hội trong hoạt
động báo chí. Cốt lõi của đạo đức, bản lĩnh chính trị của nhà báo là lòng tin,
lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân; luôn kiên định,
bình tĩnh, sáng suốt, đề cao tính chiến đấu trước những âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch, trước những biểu hiện tiêu cực trong đời sống xã hội.
Trách nhiệm xã hội của nhà báo là trách nhiệm trước Đảng, trước dân, được
thể hiện qua lương tâm, năng lực, trình độ, kỹ năng, lòng yêu nghề, trách
nhiệm với nghề của nhà báo và biểu hiện cụ thể trong mỗi tin, bài, hình ảnh
trên mỗi số báo, mỗi chương trình phát sóng đều đưa đến cho công chúng
những thông tin chân thật, khách quan... Hơn nữa, đối với mỗi người làm báo,
như chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “để làm trọn nhiệm vụ tuyên truyền,
tổ chức, hướng dẫn, thì các báo chí ta cần phải gần gũi quần chúng hơn nữa,

đi sâu vào công việc thực tế hơn nữa, cách làm việc của các báo chí phải cải
thiện hơn nữa”. Nhân dân là đối tượng tác động của báo chí nên “Nhiệm vụ
của báo chí là phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”. Người làm báo phải
đặt lợi ích của nhân dân, của đất nước lên trên lợi ích của bản thân. Người làm
báo phải phản ánh được những tâm tư, tình cảm, nhu cầu, lợi ích của nhân
dân. Đồng thời hướng dẫn, thuyết phục, tổ chức, giáo dục nhân dân theo
Đảng. Phụng sự nhân dân với người làm báo chính là tác phẩm làm ra phải
hướng tới quần chúng nhân dân, “mỗi tư tưởng, mỗi câu nói, mỗi chữ viết,
phải tỏ rõ cái tư tưởng và lòng ước ao của quần chúng”. Cá nhân người làm
báo phải nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình trong việc xây dựng
18


môi trường báo lành mạnh, tôn trọng đạo đức nghề nghiệp của bản thân,
không ngừng học tập, trau dồi kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ.

19


KẾT LUẬN
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí cũng
là một loại “hàng hóa” đặc biệt. Áp lực về kinh tế trong bối cảnh cạnh tranh
thông tin mạnh mẽ, toàn diện đã và đang đặt báo chí, nhất là báo in trước
những khó khăn, thách thức ngày càng gay gắt. Đạo đức và trách nhiệm xã
hội của nhà báo là một trong những nhân tố chủ yếu để bảo đảm cho sự phát
triển ổn định, bền vững của từng cơ quan báo chí và “sức khỏe” của cả nền
báo chí nước nhà. Bởi vậy, vấn đề đạo đức và trách nhiệm xã hội của nhà báo
đặc biệt là những nhà báo hoạt động trong lĩnh vực điều tra luôn là điểm nóng
trong xã hội, cần được quan tâm, khen thưởng và điều chỉnh kịp thời góp

phần tạo nên một môi trường báo lành lạnh, đảm bảo luôn cho ra đời những
sản phẩm báo chí khách quan, trung thực, giữ vững lòng tin trong quần chúng
nhân dân.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Thông tin và Truyền thông, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật
Báo chí, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Báo chí, H. 2007.
2. Hà Đăng, Nâng cao năng lực và phẩm chất của phóng viên báo chí
trong thời kỳ công nghiệp hoá – hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, H.
2002
3. Hội Nhà báo Việt Nam, Trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân
của nhà báo, H.1998
4. Bài viết Đạo đức của nhà báo trong quy trình sáng tạo tác phẩm báo
chí
TS. Hà Huy Phượng (Phó trưởng Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và
Tuyên truyền)
5. Các trang web:
/> />%A5/tabid/194/newsId/9151/ModuleId/935/language/vi-VN/Default.aspx
/>%A5/tabid/194/newsId/8411/ModuleId/935/language/vi-VN/Default.aspx
/>BaiViet=281
/>
21


/> /> />
22




×