Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Nho giáo và ảnh hưởng đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông dân việt nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.29 KB, 30 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thứ nhất – Nho giáo là một học thuyết chính trị – xã hội và đạo đức,
xuất hiện từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc (770 – 221 trước công nguyên).
Nho giáo và đạo đức Nho giáo du nhập vào Việt Nam và tồn tại hàng nghìn
năm trong xã hội Việt Nam nói chung và trong đời sống tinh thần người nông
dân nói riêng. Sự có mặt lâu dài đó đã khiến cho xã hội Việt Nam, văn hóa
Việt Nam, con người Việt Nam trong lịch sử và hiện tại đều bị ảnh hưởng của
Nho giáo. Sự ảnh hưởng đó vừa mang tính tích cực vừa mang tính không tích
cực. Sự ảnh hưởng đó có phạm vi rộng khắp từ cá nhân cho đến gia đình và
xã hội, từ sinh hoạt cho đến học tập, công tác. Sự ảnh hưởng đối với cá nhân
là trong nếp cảm, nếp nghĩ trong tác phong và phong cách sống hàng ngày với
gia đình là trong gia phong, gia kỷ, gia pháp. Với xã hội là trong tinh thần,
của con người trước nhiệm vụ và việc làm. Ảnh hưởng đó tất nhiên là không
đều nhau, nhiều ít, đậm nhạt khác nhau, tuỳ theo hoàn cảnh mỗi người, mỗi
gia đình, mỗi tầng lớp xã hội. Dù dưới dạng nào, đó cũng là những nét chịu sự
ảnh hưởng, chúng tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào sự mong
muốn và nhận định của người nào.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang ra sức quyết tâm xây dựng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bên cạnh đó việc tuyên truyền xây dựng đời
sống văn hóa mới trong nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5
(khoá VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Vì vậy, việc tuyên truyền giáo dục đạo đức mới cho nông dân trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là rất quan trọng. Qua đó, việc giáo
dục, tuyên truyền Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cho nông dân và tiếp
tục phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; kế thừa có chọn lọc

1



những tinh hoa văn hóa của nhân loại; xây dựng con người mới, đời sống mới
ở dân cư như xây dựng “gia đình văn hóa mới”; “làng văn hóa mới”….
Thứ hai: Chọn đề tài này nghiên cứu sẽ giúp người nghiên cứu nâng cao
nhận thức của mình về những ảnh hưởng của Nho giáo đối với việc giáo dục
đạo đức mới cho nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước và có những giải pháp nhằm phát huy những yếu tố tích cực và
hạn chế những yếu tố không tích cực.
Qua quá trình nghiên cứu, sẽ giúp người nghiên cứu nắm bắt được các tri
thức cần thiết như: Hoàn cảnh, nội dung chính của học thuyết Nho giáo, quá
trình du nhập cũng như những ảnh hưởng của nó đối với việc giáo dục đạo
đức mới cho nông dân Việt Nam. Đây cũng sẽ là tri thức vô cùng quan trọng
đối với người đang theo học chuyên ngành công tác tư tưởng, những chiến sỹ
tương lai trên mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng.
Thứ ba: Nghiên cứu đề tài này còn giúp những người quan tâm đến Nho
giáo, ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức mới cho
nông dân Việt Nam hiện nay và có cái nhìn nhận đánh giá đúng về những ảnh
hưởng tích cực và không tích cực của nó. Qua đó rút ra những giải pháp nhằm
phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt không tích cực trong việc
giáo dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thứ tư: Nghiên cứu đề tài này thành công sẽ góp phần trang bị hệ thống
lý luận về những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với việc giáo
dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Bao gồm: Hệ thống lý luận về mặt nội dung, những mặt ảnh
hưởng của nó đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông dân trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

2



Với các lý do trên, người nghiên cứu tự nhận thấy việc lựa chọn đề tài
này là hoàn toàn đúng đắn, bởi nghiên cứu đề tài này phù hợp với thực tiễn và
những đòi hỏi về nhận thức của người nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu của đề tài
Chúng ta biết những ảnh hưởng của tư tưởng đạo đức Nho giáo rất quan
trọng đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì vậy chúng tôi xác định mục đích
lớn nhất của việc nghiên cứu đề tài này là đưa ra một phương hướng và giải
pháp nhằm phát huy những mặt tích cực và hạn chế những mặt không tích cực
của tư tưởng đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông
dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định các nhiệm vụ cụ
thể của đề tài như sau:
- Nhiệm vụ thứ nhất: Xác định các cơ sở lý thuyết cho đề tài để tiến hành
làm rõ nội dung.
- Nhiệm vụ thứ hai: Phân tích đánh giá những ảnh hưởng của tư tưởng
đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
- Nhiệm vụ thứ ba: Trên cơ sở phân tích những ảnh hưởng đó, người
nghiên cứu sẽ đề ra phương hướng, giải pháp có tính khả thi để phát huy
những mặt tích cực và hạn chế những mặt không tích cực của tư tưởng đạo
đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, hoàn thành mục đích nghiên cứu, người
nghiên cứu tiến hành các phương pháp sau:

3



Đề tài vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử lôgíc trên cơ sở nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin. Sau khi
nghiên cứu tài liệu, thu thập thông tin người nghiên cứu tiến hành tổng hợp,
phân tích để làm rõ nội dung vấn đề nghiên cứu; sử dụng phương pháp so
sánh đánh giá, phương pháp suy luận một cách biện chứng, lôgíc để đưa ra
các giải pháp để đạt được mục đích nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quan điểm Nho giáo về đạo đức và
ảnh hưởng của nó đối với việc giáo dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu.
Ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục đạo đức mới cho
nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
tiểu luận gồm 3 chương và 6 tiết.

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHO GIÁO VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA ĐẠO ĐỨC NHO
GIÁO TRONG HỌC THUYẾ NHO GIÁO
1.1 Hoàn cảnh ra đời của tư tưởng Nho giáo
Học thuyết Nho giáo xuất hiện thời Xuân Thu – Chiến Quốc (770 – 221
trước công nguyên). Đây là thời kỳ biến động trong lịch sử Trung Hoa cổ đại.

Chế độ chiếm hữu nô lệ nhà Chu đã suy tàn, chế độ Phong kiến sơ kỳ đang
hình thành. Bước chuyển biến lớn lao đã làm đảo lộn mọi trật tự cũ. Các lực
lượng, các tập đoàn xã hội với lợi ích và quyền lực khác nhau liên tiếp gây ra
những cuộc chiến tranh khốc liệt để thôn tính lẫn nhau với tham vọng giành
quyền bá chủ thiên hạ.
Về chính trị – xã hội vào thời Xuân Thu, nhà Chu suy yếu, tàn mạt, mệnh
lệnh của Thiên tử không được các nước chư hầu tuân thủ, trật tự, lễ nghĩa bị
phá bỏ, cương thường đảo lộn, đạo đức băng hoại. Lễ nhà Chu với tư cách là
thể chế chính trị trở thành hình thức cứng nhắc. Nạn chư hầu tiếm quyền, đại
phu tiếm lễ, thứ dân loạn luân xảy ra thường xuyên. Chế độ chính trị mục nát,
trật tự xã hội rối ren đã đẩy quần chúng nhân dân vào thảm cảnh đói nghèo, ly
tán, bị áp bức bóc lột… Họ hoang mang và luôn khao khát cuộc sống an bình,
yên ổn trong một quốc gia thống nhất. Nhu cầu khát vọng này trở thành một
nhu cầu lịch sử đối với xã hội Trung Hoa cổ đại và đặt ra những vấn đề triết
học, chính trị xã hội, luân lý đạo đức, pháp luật…. cho tầng lớp trí thức Trung
Hoa thời đó giải quyết. Vì thế xuất hiện nhiều học thuyết chính trị khác nhau,
đại diện cho các giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau. Song tất cả đều nhằm tạo
ra mục đích thực tiễn cấp bách nhất để “cứu đời, cứu người” tìm những biện
pháp khả thi để vãn hồi trật tự xã hội, thống nhất giang sơn dưới quyền của
một minh quân tài ba sáng suốt. Chính bầu không khí học thuật sôi sục này đã
nảy sinh những con người “khổng lồ” trước các tư tưởng triết học, chính trị,
5


xã hội, luân lý, đạo đức….để lại dấu ấn gần như vĩnh hằng cho các thế hệ sau.
Trong đó ảnh hưởng lớn nhất là Nho gia, Mặc gia và Pháp gia.
Nho giáo là một học thuyết chính trị – xã hội và đạo đức. Tư tưởng của
Nho giáo đã trải qua nhiều thời đại khác nhau, mỗi giai đoạn đều có những
học thuyết phản ánh ý chí, nguyện vọng của các giai cấp cơ bản của giai đoạn
đó. Ở Trung Hoa cổ đại, những đại biểu xuất sắc cho tư tưởng, học thuyết

chính trị, đạo đức của Nho giáo phải kể đến là: Khổng Tử, Mạnh Tử và Tuân
Tử. Những tác phẩm của hệ tư tưởng Nho giáo là Bộ sách “tứ thư” gồm:
Luận ngữ, đại học, trung dung, và Mạnh Tử.
Hệ tư tưởng Nho giáo thừa nhận sự thống trị của giai cấp phong kiến,
đứng đầu là thiên tử, có sự phân chia đẳng cấp xã hội: người lao động là hạng
tiểu nhân, yếu kém; tầng lớp trên là hạng quân tử, cao sang. Chính vì cốt lõi
tư tưởng đó, hệ tư tưởng Nho giáo được giai cấp phong kiến Trung Quốc qua
các thời đại sử dụng làm tư tưởng thống trị. Là cơ sở cho việc định ra đường
lối, sách lược cai trị đất nước của giai cấp phong kiến phương Đông.
Vấn đề cơ bản của Nho giáo là tập trung vào việc nghiên cứu các mối
quan hệ giữa con người với con người trong gia đình và xã hội. Nho giáo đã
có tác dụng nhất định trong việc ổn định trật tự xã hội phong kiến. Tư tưởng
chính trị Nho giáo là tiếng nói của tầng lớp quí tộc đang mất dần quyền lực,
muốn khôi phục lại địa vị cho lịch sử đã vượt qua, củng cố và bảo vệ xã hội
phong kiến trong suốt một thời gian dài hàng ngàn năm.
1.2 Nội dung về đạo đức trong tư tưởng Nho giáo
Tư tưởng đạo đức Nho giáo tập trung chủ yếu trong luân-thường hay còn
gọi là tam cương-ngũ thường-tam tòng tứ đức, giai cấp phong kiến đề cao mối
quan hệ này làm tư tưởng thống trị xã hội.
Trong quan niệm của Nho giáo, đạo đức làm một khái niệm rộng lớn hơn
là đạo đức ta thường nói hàng ngày, tức là những nguyên tắc, những quy
phạm để đánh giá, nhận định xem đâu là xấu, đâu là tốt, đâu là phải, đâu là

6


trái. Khái niệm đạo đức Nho giáo còn là sự biểu hiện của “tính” của thiên tính
của “đạo”. Nó không những là tính riêng của con người mà cũng là tính chung
cho cả trời đất, nhà Nho và Nho giáo nhìn gì cũng theo con mắt đạo đức, trời,
người, lịch sử không coi trọng tính khách quan của sự vật. Hơn nữa, đạo đức

Nho giáo lại là phương châm, phương hướng của việc trị nước. Từ đó, Nho
giáo đề ra những chuẩn mực về đạo đức, qua đó mỗi người tự rèn luyện, học
tập những chuẩn mực do Nho giáo đặt ra. Tư tưởng đó được các triều đại
phong kiến, khai thác, sử dụng và còn ảnh hưởng đến ngày nay.
Nội dung cơ bản của đạo đức Nho giáo tập trung vào 3 phạm trù lớn:
Nhân-lễ-nghĩa-chính danh của Khổng Tử.
“Lễ” là quy tắc, chuẩn mực ứng xử của mỗi con người trong xã hội. Khi
thực hiện quan hệ xã hội mỗi người phải tuân theo “Lễ”. Và chỉ có tuân theo
“lễ” xã hội mới trật tự, thực hiện cai trị vương đạo. “Lễ” có tác dụng điều chỉnh
hành vi con người trong quan hệ ứng xử “không học lễ, không có gì làm chỗ
dựa” (Quế thi – Luận ngữ), “Lễ” có tác dụng hình thành thói quen đạo đức.
Chính danh là xác định danh phận, thứ bậc mọi người trong xã hội. Danh
phải phù hợp với thực, “danh chính ngôn mới thuận”. Nói không thuận thì
việc không thành, việc không thành nhạc không dấy lên thì hình phạt không
cho phép. Hình phạt không đúng phép thì dân không đặt tay vào đâu. Ông đưa
ra quan niệm danh phải hợp với thực, nếu không hợp với nhau thì gọi tên ra
người ta sẽ không hiểu – lý luận không xuôi, mọi việc sẽ không thành, lễ nhạc
binh pháp không định được, xã hội sẽ hỗn loạn, vì vậy, ông yêu cầu vua phải
ra vua, cha phải ra cha, con phải ra con, phải làm tròn bổn phận thì danh mới
đúng với thực.
Nhân là chuẩn mực ứng xử giữa người với người, là một giá trị đạo đức
xã hội. Nhân là thương yêu, là khoan dung với mọi người. “Kỷ dục lập nhi,
lập nhân”, muốn mình lập thân thì cũng làm cho người khác lập thân. “Kỷ dục
đạt nhi, đạt nhân” muốn mình thành đạt thì phải giúp người khác thành đạt; “lỉ

7


sở bất dục vật thi ư nhân”: nhân là mong muốn tự lập, tự đạt tức là tự cường.
Nhân là giúp đỡ người, yêu thương người nhưng không phải là yêu thương tất

cả như nhau mà chỉ có bậc quân tử mới biết dùng người; “quân tử có thể bất
thân nhưng tiểu nhân thì chưa bao giờ là nhân cả” (Mạnh Tử).
Khác với Khổng Tử, Mạnh Tử coi trọng nghĩa, nghĩa ngang hàng với
nhân. Ông ủng hộ chế độ phân biệt đẳng cấp: Quân tử lao tâm, tiểu nhân lao
lực, quan hệ vua - tôi, nam – nữ.
Một tư tưởng chủ đạo trong Nho giáo đó là tư tưởng “thiên mệnh” đạo
được thi hành hay không là do mệnh trời (hiếu vấn luận ngữ). Khổng Tử cho
rằng chính danh là hợp với tự nhiên, “mệnh trời”: “vật các đắc kỳ sở” (mọi
vật đều có chỗ xác định của nó).
Kế thừa và phát huy tư tưởng thiên mệnh luận của Khổng Mạnh, và định
mệnh luận trong học thuyết âm dương của Đổng Trọng Thư (179 –104 trước
công nguyên) đã đề ra lý luận duy tâm thần bí với các luận đề “thần trao chính
quyền”, “thiên nhân cảm vọng” và quan niệm mệnh trời là vĩnh hằng. Trên cơ
sở triết lý đạo đức Khổng- Mạnh đề xướng, Đổng Trọng Thư tập hợp, hệ
thống hoá các phạm trù đạo đức, hình thành một hệ thống biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với con người làm nội dung và chuẩn mực cho sự giáo dục
hóa đạo đức phong kiến như Tam cương, Ngũ thường coi đây là tri thức có
tính tiên thiên hay thiên lý trời sinh ra người đã có. Coi đây là mối quan hệ cơ
bản nhất giữa con người với con người.
Theo Nho giáo: “Luân thường” là cái trời phú cho người, người sinh ra
đã có cái trời phú cho người gọi là tính luân thường mỗi phần có năm mối
quan hệ gọi là ngũ luân. Ngũ luân có thể tóm gọn lại trong hai mối quan hệ
lớn đó là trung – hiếu. Đạt được ngũ luân mới được gọi là “đạo” còn phải đạt
“đức” nữa thì mới trở thành người quân tử người đại trượng phu. Trong ngũ
thường Nho giáo xem nhân là cái gốc của đức: “yêu là nhân, phải là nghĩa,
hợp lý là lễ, thông đạt là trí, tri thư là tín”. Năm đức nhân đó là cái vốn của

8



con người là đức của trời phú cho, có thể mất dần đi trong cuộc sống. Vì vậy
cần phải học tập, tu dưỡng nhằm trở về với năm đức tính đó, tức là trở về với
người hiền, giữ cho tính không mất theo nó là thánh. Vì vậy phải học tập, tu
dưỡng để thành thánh hiền.
Tóm lại Nho giáo và đạo đức Nho giáo có quá trình ra đời và phát triển rất
phức tạp, do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội trong từng giai đoạn lịch sử
nhất định. Học thuyết nhân bản của Khổng – Mạnh đã được Đổng Trọng Thư
khai thác để xây dựng thành học thuyết duy tâm thần bí nhằm phục vụ lợi ích
cho giai cấp phong kiến. Do đó quá trình lịch sử, tư tưởng đạo đức Nho giáo
của Khổng – Mạnh và những học thuyết duy tâm của Đổng Trọng Thư đã du
nhập vào nước ta với những mặt tích cực và tiêu cực của nó, có ảnh hưởng nhất
định đến đời sống tinh thần người nông dân Việt Nam, vốn là một đất nước
chịu sự thống trị của chế độ phong kiến phương Bắc hàng nghìn năm mà nền
kinh tế đi lên từ nền lúa nước, với một đời sống cộng đồng làng xã, với những
cuộc chiến tranh từ phía Bắc tràn xuống, với hàng ngàn năm Bắc thuộc. Tư
tưởng đạo đức Nho giáo đó đã du nhập, phát triển và tồn tại cho đến ngày nay.

9


CHƯƠNG 2
NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VỚI
VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI CHO NÔNG DÂN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
2.1 Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Trung quốc là quê hương của Nho giáo, nhưng các nước láng giềng của
Trung Quốc cũng tiếp nhận Nho giáo. Học thuyết này đã chi phối đời sống chính
trị, tư tưởng, văn hóa và tôn giáo của một số nước Viễn Đông. Xã hội của các
nước trên có những nét giống với xã hội Trung Quốc nên dễ dàng du nhập và
bản địa hoá.

Nho giáo truyền vào Việt Nam trong một hoàn cảnh đặc biệt. Người Hán
xâm lược Việt Nam và đưa Nho giáo vào, lúc đầu Nho giáo là cái xa lạ với tư
tưởng và tập tục truyền thống của người Việt Nam nhưng về sau nó được bản
địa hoá và trở thành nhu cầu tinh thần của người Việt Nam.
Dưới thời kỳ Bắc thuộc, Nho giáo ở Việt Nam mới là hiện tượng có mặt
ở các trị sở của người phương Bắc. Về sau khi giành được độc lập, Nho giáo
dần dần quen thuộc với nhiều vùng của đất nước ta. Trong suốt một ngàn năm
Bắc thuộc dân tộc ta luôn bị bọn phong kiến Trung Quốc dùng chính sách
đồng hoá dân tộc trong nhiều lĩnh vực…
Khi các triều đại phong kiến Việt Nam thấy được giá trị của Nho giáo
trong việc trị nước thì họ chủ động du nhập và phát triển đạo này. Nhưng lúc
bây giờ, Nho giáo ở Trung Quốc dù là Nho giáo Trung ương tập quyền. Bản
thân nó đã khác với thời Khổng- Mạnh, đã mang các yếu tố tôn giáo. Do đó,
ngay từ đầu con mắt của giai cấp phong kiến thống trị Việt Nam đã nhìn Nho
giáo với hai tính chất: Học thuyết chính trị - đạo đức và tôn giáo. Có thể khái
quát những bước thăng trầm của Nho giáo qua một vài triều đại lớn.
a) Thời tiền Lý.
Thời Lý, tình hình chính triều ổn định hơn, việc học tập lựa chọn quan
chức đã trở nên cần thiết, vì thế Nho giáo có điều kiện để phát triển tuy chậm

10


chạp nhưng chắc chắn. Nhà Lý tổ chức việc học mô phỏng theo lối học của nhà
Đường trong đó học cả tam giáo, trong đó Phật giáo là thịnh hành nhất. Tuy
vậy nhà Lý cũng thấy rằng Phật giáo không phải là đạo trị nước. Hơn nữa lại ở
vị thế một nước láng giềng có nhiều quan hệ văn hóa và chủng tộc với Trung
Quốc, muốn trị nước, củng cố chính quyền, nhà Lý không cậy vào Nho giáo.
b) Thời Hậu Lê.
Triều Minh xâm lược Việt Nam với âm mưu thủ tiêu văn hóa Việt Nam

nhằm Hán hoá dân tộc Việt Nam, chúng đập phá, đốt hết di sản văn hóa của
người Việt. Truyền bá gieo rắc những tư tưởng mê tín dị đoan, truyền bá Nho
giáo, một đạo nho đã suy đồi không như đạo Khổng – Mạnh (Nho giáo
nguyên thuỷ). Tuy nhiên Nho giáo lúc này có vai trò nhất định trong việc Cứu
nước và trở thành quốc giáo dưới thời Lê. Nho giáo lúc này có sự pha tạp nhất
định với các giáo phái khác như Pháp gia, Âm dương gia, Phật giáo vì nó có
một thời kỳ chung sống với nhau ít nhiều có ảnh hưởng của nhau. Các nho sỹ
của hệ thống vua quan trong triều đình đều tiếp nhận nó, thậm chí đem cái tập
tục truyền thống thượng võ của dân tộc bằng nghi lễ của Nho giáo.
Do đó, việc giáo dục Nho giáo và thi cử nội dung Nho giáo cũng phát
triển mạnh. Nhà nước mở các trường, xây dựng lại văn miếu, lập nhà Thái
học. Ở nông thôn nhiều thầy đồ mở trường thôn ấp làm cho kẻ sỹ ngày càng
đông, Nho giáo trở thành một tầng lớp xã hội quan trọng.
Tới Lê Mạc Nho giáo suy dần cùng với sự suy thoái của triều đại phong
kiến: “vua không ra vua, tôi không ra tôi, cương thường tan giã, vương đạo lu
mờ, đức trị tiêu tan, Phật giáo trỗi dậy, Thiên chúa giáo len vào có chỗ đứng
trong nước ta”1.
c) Thời Nguyễn.

1

Trần Văn Giầu: Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam thế kỷ XIX đến cách mạng tháng Tám.
Nxb Khoa học xã hội

11


Khi Tây Sơn lên nắm quyền, đất nước quay về một mối, Nho giáo lại
được phục hội trở thành quốc giáo. Nho giáo trở thành vũ khí tư tưởng cho
chế độ phong kiến triều Nguyễn để thống trị xã hội.

Triều Nguyễn rất đề cao Nho giáo, quan tâm đến việc học hành thi cử,
chọn nhân tài để củng cố chính quyền thống trị. Đặc biệt vua Tự Đức đã diễn
Nôm cuốn “Luận ngữ” của Khổng Tử để mọi người tiếp thu. Nho giáo thời
Nguyễn tiếp thu và học tập Khổng – Mạnh là qua Hán nho và Tống nho theo
yêu cầu của xã hội và sự phát triển của Nho giáo đã đi quá xa và vượt trệch
con đường của Khổng – Mạnh. Chẳng hạn khi nói đến trời, quỷ thần Khổng
Tử nên ra không bàn luận đến, thậm chí còn nghi ngờ. Ông quan tâm đến
mệnh của con người phải tuân theo mệnh năng hoạt động để đạt được mệnh
trời “tri thiên mệnh”. Thiên đạo thời Nguyễn thì rất đề cao trời, coi trời là ý
trí, trời trao đất trao dân cho vua, vua trụ mệnh trời mà trị dân.
2.2 Những ảnh hưởng của đạo đức Nho giáo đối với việc giáo dục
đạo đức mới cho nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước
Sản sinh trong chế độ phong kiến và trải qua hàng ngàn năm duy trì chế
độ ấy, Nho giáo đã in dấu ấn của mình vào ý thức và cuộc sống gia đình
người Trung Hoa và người Việt Nam thủa trước từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Dấu ấn này có cả hai mặt tích cực và không tích cực, tuỳ theo những
điều kiện lịch sử và xã hội mà thay đổi mầu sắc, song cho đến nay vẫn chưa
phải đã biến mất. Nhìn đại thể, kết hợp nghiên cứu với tìm hiểu thực tế xã hội,
chúng ta có thể nhận ra những điểm chủ yếu của từng mặt.
2.2.1 Những ảnh hưởng tích cực
Không như các tôn giáo khác khuyên răn con người đi tìm những giải
thoát huyền bí ở bên ngoài cuộc sống nhân gian, Nho giáo kiên trì gắn bó con
người với những cộng đồng từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao tình nghĩa và

12


trách nhiệm của con người đối với gia đình là sâu sắc và nặng nề, đồng thời là
đầu mối của tình cảm cũng như trách nhiệm đối với nước và thiên hạ.

Nho giáo tích cực nêu cao ý nghĩa của giáo dục gia đình. Ở nước ta thủa
trước, nói chung các gia đình “thường thường bậc trung” trở lên, nhất là các
gia đình “nho sĩ, có một mạng lưới giáo dục trải rộng hầu khắp đất nước với
một nội dung và một phương pháp thấp nhất. Chính mạng lưới ấy đã tạo nên
một quốc phong chung cho cả nước trên một cái nền chung là Nho phong.
Về quan hệ giữa người và người trong toàn thiên hạ. Nho giáo đề ra đức
nhân là đức cao quý nhất chứa đựng rất nhiều ý nghĩa tốt đẹp. Tinh tuý chủ
nghĩa nhân đạo của Nho giáo là ở đó. Và nó cũng bắt đầu thể hiện cuộc sống
gia đình. Lòng cha, mẹ thương yêu con cái là đức từ, lòng yêu thương cha mẹ
là đức hiếu, lòng anh em yêu thương nhau là đức lương, đức đễ. Đạt tới đỉnh
cao của đức nhân bao gồm cả các đức kia, con người không phải chỉ thân
thương “riêng cha mẹ mình là cha mẹ” (bất độc thân kỳ thân), cũng phải chỉ
“thân thương riêng con mình là con” (bất độc tử kỳ tử), do đó mọi người già
thân thương mọi người trẻ như con, mọi người trẻ cũng thân thương mọi
người già như cha mẹ và những người cùng thế hệ với nhau thì “bốn biển đều
là anh em” (tứ hải giai huynh đệ).
Trong cuộc sống cộng đồng của con người, Nho giáo đặc biệt coi trọng
kỷ cương, trật tự. Điều này cũng bắt đầu từ gia đình: Có tề gia được mới trị
quốc được, có trị quốc được mới bình thiên hạ được. Nho giáo quan niệm,
xây dựng gia đình có nhân nghĩa và có lễ nghĩa tức là xây dựng gia đình có
đạo đức và có văn hóa để từ đó mà đưa nước và thiên hạ đến tới cuộc sống
văn minh và hữu đạo, thực hiện thiên hạ đại đồng.
2.2.2 Những ảnh hưởng không tích cực
a) Tư tưởng gia trưởng.
Trong xã hội phong kiến người ta cho rằng quan hệ giữa người với người
cốt thiết nhất và thân mật nhất là quan hệ gia đình. Trong gia đình, người gia

13



trưởng quyết định tất cả ý mình và sai khiến con cháu, em út bằng tình cảm,
ban ơn cũng như bằng uy tín ra lệnh của người cha, người ông, chú, anh cả….
Từ nhà, tác phong gia trưởng được mở rộng ra đến phạm vi làng xã, quận
huyện, cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể…. Đối với mọi người thuộc quyền quản
lý và lãnh đạo của mình, vị thủ trưởng - gia trưởng dù có hay không có quan
hệ bà con, họ hàng, khi vỗ về giao việc cũng như khi của trách lỗi lầm, đều
luôn tỏ ra xuất phát từ “tình thương” và “lòng tin” riêng của bên trên, đặc biệt
quan tâm đến kẻ dưới “trong nhà” nhiều khi thật linh động và trái nguyên tắc.
Ảnh hưởng của lối sống gia trưởng đã làm cho người phụ nữ, người làm
con chỉ có thái độ phục tùng, chỉ biết vâng dạ, gây cho họ một thói quen ngoài
xã hội chỉ biết vâng vâng, dạ dạ, khúm núm với cấp trên, tuân thủ cấp trên
một cách răm rắp, không có chính kiến. Tư tưởng này đã kìm hãm tính năng
động sáng tạo của con người, tình cảm gia đình hơn là pháp luật Nhà nước
như “phép vua thualệ làng” là biểu hiện tính gia trưởng cục bộ địa phương
trong đời sống nông thôn hiện tại.
Do ảnh hưởng của lối sống gia trưởng, không ít những người làm con
trong các gia đình nông dân không được lựa chọn tương lai cuộc sống của
mình; người phụ nữ một mặt không được học hành, trình độ văn hóa thấp.
Mặt khác, luôn bận bịu với công việc đồng áng, nội gia gia đình, vì vậy họ
không còn đâu thời gian để tham gia công việc xã hội. Sự tuyệt đối hoá một
chiều quyền uy gia trưởng, quan hệ cha con buộc người làm con phải tuân
theo lời cha, mẹ một cách tuyệt đối, không kể đúng sai là những nét cực đoan
trong đạo đức Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng trong đời sống tinh thần người
nông dân Việt Nam hiện nay.
b) Tư tưởng chủ nghĩa vị kỷ gia đình.
Đó là thói luôn luôn mưu cầu tư lợi bằng mánh khoé bất chính, ích kỷ
hại nhân, từ trên lĩnh vực kinh tế đến các lĩnh vực văn hóa, chính trị, xã hội,
tất cả trước hết đều nhằm giành phần lợi riêng và ưu thế về cho cá nhân

14



mình, gia đình mình so với người khác và gia đình khác. Trong mọi trường
hợp, đồng thời với việc “thủ thân”, con người luôn mang nặng tình nghĩa
gia đình, họ tộc. Họ luôn tính toán xoay xở cái lợi cái danh vì những quan hệ
cha con, vợ chồng, anh em, chú bác…. hoặc rộng hơn nữa là trong quan hệ
họ tộc. Chủ nghĩa vị kỷ gia đình dẫn dắt con người đi đến chỗ đặt “lợi nhà”
lên trên “nghĩa nước” hay vì bổng lộc danh giá của “người cha” mà làm
những việc đê hèn, nhục nhã hay là gian ác, tàn bạo. Đương nhiên, từ trên
cao xuống dưới thấp, chủ nghĩa vị kỷ gia đình thường ngày làm nảy sinh
những sự tranh giành, chèn ép nhau giữa nhà này với nhà khác, giữa họ tộc
này với họ tộc khác có khi kéo dài vài thế hệ. Cũng từ đó mà nhiều khi hình
thành những phe cánh, những bè phái gia đình, họ tộc xung đột với nhau rất
phức tạp và gay go.
c) Tư tưởng gia đình trị
Chúng ta đều biết, chế độ quân chủ phong kiến là chế độ gia đình trị về
cơ bản. Một người làm Hoàng đế thì cả họ, hoàng gia hoặc tôn thất hình thành
bộ máy to lớn để bảo vệ quyền uy và thế lực ngự trị của thiên tử. Trong các
thái ấp, bọn công thần, hầu bá, tử, nam cũng đều dựa vào gia đình mà cai trị.
Xuống đến làng, xã ở đâu mà kỳ hào, lý dịch chủ yếu thuộc vào một gia tộc
lớn có thế mạnh áp đảo thì ở đó tập đoàn hưởng chức chỉ là công cụ do gia tộc
ấy sử dụng để áp đặt ý chí của mình đối với dân làng, nhiều khi vượt cả luật
pháp nhà vua. Ngày nay, có người cho rằng đó là biểu hiện của tinh thần dân
chủ trong nông thôn cũ. Thật ra, lệ làng ấy nói chung thường là ý chí của thế
lực hào lý gia đình trị hơn là ý nguyện của đông đảo nông dân lao động.
Sau cách mạng tháng Tám, trong xã hội mới, đế vương không còn, công
thần không còn, kỳ hào, lý dịch cũng không có. Nhưng không phải bóng dáng
của chế độ phong kiến đã hết. Sự thật cho thấy không ít cơ quan địa phương,
tổ chức …vẫn hình thành những hạt nhân gia đình nắm chặt những khâu then
chốt và trọng yếu của công tác lãnh đạo và quản lý. Các hạt nhân ấy cũng


15


chính là những trung tâm điều kiển các hoạt động gia đình. Bên cạnh đó, tư
tưởng “một người làm quan cả họ được nhờ”, đặc biệt trong xã hội nông thôn
có tính cộng đồng cao, khi một người có quyền chức trong làng xã thì cả họ
được nhờ vả. Những người này thường tìm cách để lôi kéo con cháu trong họ
hàng của mình vào các địa vị trong làng xã. Sự phân biệt uy tín, sức mạnh
giữa các dòng họ được thể hiện qua những người có chức, quyền trong làng
xã. Dẫn đến sự phân chia bè cánh trong làng xã, các chính quyền làng xã trù
dập lẫn nhau giữa các dòng họ ở trong xã hội nông thôn. Không ít nông dân
còn có thói hư danh, vị lợi theo họ cứ có danh là có lợi nên thường kèn cựa
lẫn nhau làm cho nét đẹp nông thôn ngày càng bị mai một.
d) Tư tưởng trọng nam khinh nữ.
Quan niệm của Nho giáo xem phụ nữ phải tam tòng: Tại gia tòng phụ,
xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Người phụ nữ được xem là hạng “tiểu
nhân”, “trai năm thê bảy thiếp” “gái chính chuyên một chồng” hay “liệt nữ
bất giá nhị phu” con gái chỉ được lấy một chồng; quan niệm con gái là hạng
thấp kém và dốt nát dù dạy dỗ đến đâu thì vẫn dốt. Xã hội phân biệt nam,
nữ “trọng nam khinh nữ”. Trong đạo đức Nho giáo vị trí người chồng là
chủ gia đình, người vợ phải phục tùng, tuân thủ chồng, người vợ chỉ là cái
bóng của chồng. Mọi công việc trong gia đình từ nuôi dạy con cái cho đến
công việc đồng áng, nội trợ đều đổ lên đầu người phụ nữ. Nặng nề hơn người
vợ phải đạt được những yêu cầu mà Nho giáo và chế độ phong kiến đã đề ra:
Tam tòng, tứ đức rất khắt khe, người phụ nữ phải có tứ đức (công, dung,
ngôn, hạnh) thì mới tam tòng được, ngược lại tam tòng để thực hiện tứ đức.
Ngày nay quan niệm tam tòng trong xã hội nông thôn và nông dân đã bị
thu hẹp lại rất nhiều nhưng chưa hết. Gái goá đi bước nữa là điều cực kỳ khó
khăn, nào là dư luận xã hội quan niệm cổ hủ…. Tuy nó không có trong văn

bản nhưng nó vẫn rằng buộc họ làm cho họ khó vượt qua được. Tệ đánh vợ,

16


ngược đãi vợ, có vợ cả, vợ lẽ, sinh con trai để nỗi dõi tông đường vẫn còn phổ
biến đối với các gia đình nông thôn hiện nay.
Trong đời sống xã hội nông thôn, một họ phải có nhiều nhánh, nhiều chi,
một gia đình mà có nhiều xuất đinh trong họ là niềm tự hào. Gia đình nào
không có con trai thì cảm thấy không có thế trong họ, trong làng xã, cho đó là
sự “cụt cành”, triệt giống. Hiện tượng ly hôn mong có con trai nỗi dõi tông
đường cũng là một nguyên nhân gây gia tăng dân số, gây khó khăn cho vấn đề
vận động, tuyên truyền kế hoạch hoá gia đình, ảnh hưởng lớn đến chính sách
ổn định dân số và phát triển kinh tế của đất nước.
Mong muốn có con trai là tâm lý chung trong các gia đình nông dân Việt
Nam, tư tưởng “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” bằng mọi giá phải có con
trai đã chi phối nặng nề trong đời sống tinh thần người nông dân Việt Nam
hiện nay.
Những tàn dư tiêu cực này không chỉ ở nông thôn mà ngay các cơ quan,
xí nghiệp Nhà nước, khi đề bạt cán bộ phụ nữ thường bị xem nhẹ, thường ít
được học cao, vì tâm lý phụ nữ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc chồng con đã làm
giảm khả năng cống hiến của họ cho xã hội.
e) Tư tưởng thần bí tôn giáo.
Tư tưởng chủ đạo trong đạo đức Nho giáo là tư tưởng “Thiên mệnh”.
Nho giáo cho rằng con người sinh ra đã có “mệnh”, phải tuân theo mệnh trời,
thế giới bên ngoài do trời, ngay cả con người và số phận của họ cũng do trời
quy định. Đến thời kỳ Đổng Trọng Thư thì Trời lại trở thành một lực lượng
siêu nhiên, thần bí chi phối đời sống tâm lý tinh thần con người. Tư tưởng này
đã có tác động lớn đến đời sống tinh thần của nông dân Việt Nam. Tâm lý tin
vào số phận “cho hay muôn phận tại trời” cho rằng con người sinh ra đã có số

phận an bài dù có cố gắng đến đâu chăng nữa thì cũng không vượt qua được
cái số của mình phải chịu. Điều này nảy sinh tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không
có chí tiến thủ, vượt lên hoàn cảnh của người nông dân, nhất là trong lúc

17


gặp khó khăn như trong sản xuất hay trong đời sống đều qui đó là do
“Trời” qui định, gặp vận hạn cũng do trời quy định. Tư tưởng này đã nhấn
chìm người nông dân trong vòng xoáy luẩn quẩn không tìm ra được lối
thoát. Tư tưởng của họ luôn khép kín, bó hẹp “sau luỹ tre làng” thụ động
trước mọi đổi thay nhanh chóng của đời sống xã hội.
Bên cạnh đó, tệ nạn bói toán khá phổ biến mặc dù đã có nhiều chính
sách, biện pháp để khắc phục. Trong đời sống xã hội Việt Nam nói chung, đời
sống tinh thần người nông dân nói riêng thường thiên về đời sống “tâm linh”.
Dựa vào những tư tưởng thần bí trong Nho giáo nhiều người đã lợi dụng nó
để hành nghề mê tín dị đoan, bói toán. Do hạn chế về trình độ, người nông
dân tin vào thần thánh có thể phù hộ hay gây trở ngại cho cuộc sống của
mình. Phong tục thờ cúng tổ tiên là một nét đẹp trong truyền thống văn hóa
dân tộc, thể hiện lòng tôn kính của con cháu đối với người đã khuất. Những
nét đẹp này đang ngày bị mai một, người ta thờ cúng tổ tiên không phải vì
lòng tưởng nhớ mà vì làm như vậy tổ tiên mới phù hộ cho gia đình mới được
“vạn sự như ý”. Đời sống tâm linh đã tác động không ít đến đời sống tinh thần
của người nông dân trong xã hội nông thôn. Nhiều gia đình rất coi trọng các
“thầy” hành nghề bói toán, đề cao vai trò của họ một cách thái quá. Làm theo
những lời phán của các thầy bói dù đó không phải là sự thật, tin theo lời họ
một cách mù quáng, làm những việc trái pháp luật
g) Tư tưởng phục cổ.
Ngày nay, tính chất dân chủ được mở rộng hơn so với trước. Nếp sinh
hoạt có nhiều tiến bộ hơn, nhưng cũng có nhiều nếp sống cũ được khôi phục

lại như: Đình chùa, miếu mão, các lễ hội, các nhà thờ, dòng họ, những nghi lễ
rườm rà, tốn kém mang đậm mầu sắc mê tín dị đoan trong truyền thống văn
hóa nông thôn. Các thủ tục ma chay, cưới hỏi, lễ hội đình đám theo nghi lễ
phong kiến đang được trỗi dậy. Đạo đức Nho giáo đặc biệt đề cao “lễ”, những
chuẩn mực trong quan hệ ứng xử của con người. Tư tưởng này còn ảnh hưởng

18


trong đời sống người nông dân. Mỗi làng quê Việt Nam lễ hội truyền thống
thường là các lễ hội làng, lễ thờ thần hoàng làng…. Chính sách của Đảng và
Nhà nước ta đó là phát triển nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc,
khôi phục lại những lễ hội truyền thống ở các làng quê. Không ít người đã lợi
dụng vào chính sách này để kinh doanh, buôn bán, thương mại hoá các nét
đẹp văn hóa truyền thống. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường những mặt trái
của nó đang từng ngày, từng giờ tác động tới đời sống tinh thần người nông
dân, những biểu hiện không tích cực của đạo đức Nho giáo đã ảnh hưởng sâu
sắc trong tâm lý nông dân dễ dàng trỗi dậy nếu không có sự quản lý chặt chẽ
bằng pháp luật của Nhà nước.
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT HUY NHỮNG
MẶT TÍCH CỰC CỦA ĐẠO ĐỨC NHO GIÁO ĐỐI VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC MỚI CHO NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC.
Sự tồn tại của đạo đức Nho giáo trong các gia đình nông dân Việt Nam
hiện nay là một tất yếu khách quan, nó đã trải qua một quá trình thâm nhập
lâu dài và có xu hướng phát triển dưới nhiều biểu hiện và hình thức khác
nhau. Có những yếu tố đã trở thành truyền thống của dân tộc ta. Vì vậy, việc
giáo dục đạo đức mới cho nông dân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là quan trọng và cần thiết. Qua đó, chúng ta tiếp tục phát huy

những truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta đồng thời hạn chế những
ảnh hưởng không tích cực của đạo đức Nho giáo. Để phát huy những yếu tố
tích cực và hạn chế những yếu tố không tích cực của đạo đức Nho giáo chúng
ta phải cần có một hệ thống giải pháp mang tính khoa học, theo một quy trình
khoa học.
3.1 Những phương hướng

19


Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 5 (khoá VIII) về
nhiệm vụ xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng con người mới, xã hội mới – xã hội chủ nghĩa; tiếp tục
phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng không tích
cực của đạo đức Nho giáo đang tồn tại và chi phối đời sống tinh thần người
nông dân cần tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về văn hóa, đạo đức.
- Đẩy mạnh việc tuyên truyền giáo dục đạo đức mới cho nông dân.
- Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn.
- Thực hiện dân chủ ở cơ sở.
3.2 Một số giải pháp nhằm phát huy những mặt tích cực của đạo đức
Nho giáo
Trong quá trình đổi mới, chúng ta phải ý thức rằng xây dựng cái mới trên
cơ sở cái cũ cần phải tiếp thu có chọn lọc những mặt tốt của xã hội cũ để lại,
tránh khuynh hướng xoá bỏ sạch hoặc kế thừa nguyên si. Để phát huy những
yếu tố tích cực và hạn chế những yếu tố không tích cực của đạo đức Nho giáo,
chúng ta cần thực hiện những giải pháp sau:
3.2.1 Tiếp tục phát huy việc tuyên truyền giáo dục đạo đức mới trong

nhân dân.
Nước ta trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đảng và
Nhà nước ta quyết tâm xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa,
trên nền tảng Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam
cho mọi hành động cách mạng. Hệ tư tưởng này là đỉnh cao của tinh hoa văn
hóa nhân loại, là đỉnh cao của trí tuệ đạo đức và nhân văn. Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức dân tộc Việt Nam đã được

20


thể hiện trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc ta, kế thừa tư tưởng đạo đức
phương Đông (đặc biệt là đạo đức Nho giáo), những tinh hoa đạo đức nhân
loại. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và
dân tộc ta.
Trong cương lĩnh đầu tiên Đảng ta đã chỉ rõ lực lượng cách mạng là liên
minh công - nông và trí thức, xác định công – nông là lực lượng lòng cốt, là
gốc của cách mệnh. Nông thôn là một lực lượng đông đảo nhất và trung
thành với cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh điều đó
là hoàn toàn đúng đắn. Chính vì lẽ đó, để phát huy sức mạnh của người nông
dân trong giai đoạn hiện nay, hạn chế những tiêu cực còn tồn tại trong đời
sống người nông dân đòi hỏi Đảng ta phải có chính sách thích hợp để tăng
cường tuyên truyền giáo dục đạo đức mới, đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần
cho nông dân. Làm cho Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trở
thành hệ tư tưởng chỉ phối, thống trị toàn bộ đời sống xã hội, giúp người nông
dân thấm nhuần đạo đức Hồ Chí Minh và vận dụng nó vào thực tiễn đời sống
trong nông thôn.
Thông qua việc tuyên truyền giáo dục chủ trương, đường lối, của Đảng, và
chính sách, pháp luật của Nhà nước để nông dân thực hiện đường lối của Đảng,

chính sách, pháp luật của Nhà nước. Trong quá trình giáo dục, đạo đức mới cho
nông dân cần phê phán những tư tưởng tiêu cực của tư tưởng tiểu tư sản đề cao
chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng phong kiến, vị kỷ, tính gia trưởng, óc bè phái, độc
đoán … Đó là những biểu hiện tiêu cực của đạo đức Nho giáo đang còn tồn tại
trong xã hội nông thôn cần được lên án và xoá bỏ. Tuyên truyền học tập luật
pháp trong nông dân để hệ thống pháp luật của Nhà nước phát huy hiệu quả
trong việc bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ cá nhân, gia đình và xã hội. Vì vậy, đi sâu
nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, bảo vệ phát huy và vận dụng sáng
tạo nó vào công cuộc đổi mới xã hội là nhiệm vụ quan trọng và cần thiết trong

21


công tác thực tiễn cũng như công tác tư tưởng, công tác lý luận của chúng ta
hiện nay.
3.2.2 Tiếp tục phát huy việc tuyên truyền đổi mới phát triển kinh tế,
đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Muốn hạn chế những biểu hiện tiêu cực của đạo đức Nho giáo trong
nông thôn hiện nay thì trước tiên và trên hết là phải đổi mới phát triển kinh tế
xã hội: Xoá bỏ thế độc canh thuần nông, tâm lý sản xuất nhỏ, manh mún đình
đốn, nền kinh tế mang tính chất tự cung tự cấp, lạc hậu của nền kinh tế tiểu
nông; phát triển nền kinh tế hàng hoá, thị trường trong nông dân, nông thôn.
Nhà nước có chính sách ưu đãi về vốn để nông dân mở rộng sản xuất. Đưa
khoa học kỹ thuật vào sản xuất theo hướng điện khí hoá, thuỷ lợi hoá để thực
hiện thâm canh tăng năng suất, luân canh gối vụ, cái đó vừa làm tăng năng
suất lao động vừa thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn
vừa cải thiện điều kiện lao động trong nông thôn.
Giáo dục cho nông dân nhận thức đúng đắn về sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nông dân phải coi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của chính mình. Chính nhờ công nghiệp

hoá, hiện đại hoá được áp dụng vào sản xuất nông nghiệp sẽ làm tăng năng
suất lao động, nâng cao đời sống của người nông dân; xoá bỏ được nền sản
xuất lạc hậu, manh mún tự cung tự cấp; mở mang ngành, nghề, phát huy được
thế mạnh của từng người; Khuyến khích và xây dựng những mô hình gia đình
làm kinh tế giỏi, lành mạnh về lối sống đạo đức mới: “mình vì mọi người,
mọi người vì mình”; giải quyết tốt việc làm trong nông thôn, thực hiện xoá
đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng.
Một khi kinh tế của người nông dân được phát triển đời sống được nâng
cao thì sẽ góp phần quan trọng trong việc đẩy lùi và đi đến xoá bỏ những biểu
hiện tiêu cực, cổ hủ của đạo đức Nho giáo còn tồn tại trong đời sống người
nông dân. Bởi lẽ tâm lý bảo thủ, trì trệ cổ hủ lạc hậu của người nông dân sẽ

22


được xoá bỏ nếu như kinh tế của họ được phát triển, đời sống được nâng cao,
nông dân sẽ được mở rộng tầm hiểu biết. Khi nhận thức của họ thay đổi thì
những biểu hiện tiêu cực của xã hội cũ sẽ dần dần được xoá bỏ theo.
3.2.3 Đẩy mạnh công cuộc vận động xây dựng đời sống xã hội ở nông thôn.
Cùng với đổi mới nhiều mặt đời sống xã hội, các nghi lễ tập tục cũ ở các
địa phương, làng xã trước đây được khôi phục. Đó là một nét đẹp thể hiện
tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, tình yêu quê hương đất nước. Tuy vậy
cùng với đó là những tệ nạn xã hội cũ có cơ hội trỗi dậy, khôi phục. Những
nghi lễ rườm rà đậm mầu sắc mê tín dị đoan. Vì vậy cần phải có định hướng
lấy đó để giáo dục truyền thống dân tộc, phê phán những hủ tục, tư tưởng mê
tín dị đoan đang ngày càng có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần
người nông dân Việt Nam hiện nay. Các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn
thể không được thờ ơ trước những hiện tượng vừa mang tính truyền thống
vừa có tính tôn giáo và cũng không ít những yếu tố mang tính mê tín dị đoan.
Để hạn chế những biểu hiện tiêu cực, chúng ta cần phải tuyên truyền, xây

dựng đời sống văn hóa mới trong nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Trung
ương 5 (khoá VIII) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc; thực hiện năm đức tính của con người Việt Nam trong thời đại
mới; phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, kế thừa có chọn
lọc những tinh hoa văn hoá của nhân loại; xây dựng con người mới, lối sống
mới; xây dựng đời sống văn hóa mới trong cưới hỏi đám tang, khôi phục nét
đẹp văn hóa truyền thống các lễ hội, bài trừ mê tín dị đoan trong xã hội nông
thôn; tạo điều kiện cho con người phát huy hết mọi năng lực của mình, phát
triển con người mới toàn diện; có chính sách đầu tư cho sự phát triển con
người. Thực hiện toàn dân xây dựng đời sống văn hóa mới ở khu dân cư như
việc xây dựng “gia đình văn hóa mới”, “làng văn hóa mới”, nếp sống mới
trong nông thôn hiện nay.

23


3.2.4 Phát huy vai trò của Hội Nông dân đối với việc giáo dục đạo đức
mới của nông dân trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Hội Nông dân Việt Nam là một tổ chức chính trị xã hội rộng lớn của giai
cấp nông dân, phát huy truyền thống cách mạng trong những năm qua, hoạt
động của các cấp Hội đã góp phần tích cực vào việc giáo dục tuyên truyền
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, động viên, tập hợp
hàng chục triệu hội viên nông dân hăng hái lao động sản xuất, nâng cao trình
độ văn hóa, giữ vững đoàn kết, ổn định chính trị, trật tự xã hội, xây dựng
nông thôn mới. Hội Nông dân các cấp đã phát động ba phong trào thi đua
lớn: Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau xoá đói giảm nghèo và làm giầu chính đáng.
Phong trào nông dân tham gia xây dựng nông thôn văn hóa, làng xã văn
hóa, thực hiện quốc phòng an ninh; vận động xây dựng nếp sống mới, bài trừ
các hủ tục lạc hậu cũng được các cấp Hội Nông dân quan tâm phát động trong

toàn thể hội viên.
Hiện nay, các cấp hội cũng đã và đang tiếp tục phát huy vai trò của mình
trong việc thực hiện tốt các nhiệm vụ: Quán triệt và thực hiện các Nghị quyết,
chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong
toàn thể hội viên và nông dân; nâng cao nhận thức, lao động sáng tạo, khai
thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền thực hiện tốt quy chế dân chủ….
để đẩy mạnh phát triển xã hội làm cho cuộc sống của nông dân ở các vùng
miền tiếp tục được nâng cao hơn nữa. Tăng cường vận động nông dân giúp
nhau xóa đói giảm nghèo và làm giầu chính đáng.
Bên cạnh đó, các cấp Hội tiếp tục đẩy mạnh ba phong trào thi đua lớn:
(Phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi, giúp nhau xoá đói
giảm nghèo và làm giầu chính đáng) một cách thiết thực và có hiệu quả, xây
dựng nông thôn mới, đảm bảo ổn định chính trị, quốc phòng an ninh.

24


Giai cấp nông dân Việt Nam phát huy truyền thống giầu lòng yêu nước
và nhiệt tình cách mạng, chịu đựng gian khổ, hy sinh; lao động cần cù sáng
tạo là đội quân chủ lực trong các cuộc cách mạng, khắc phục khó khăn cùng
với nhân dân cả nước tiếp tục góp phần to lớn vào sự nghiệp chung của công
cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
3.2.5 Phát huy quyền làm chủ của nông dân và thực hiện quy chế dân
chủ trong nông thôn
Mất dân chủ là điều kiện dung dưỡng tư tưởng địa vị, đẳng cấp, gia
trưởng cục bộ địa phương, trọng nam khinh nữ… có điều kiện để nảy nở và
phát triển. Ở đâu chưa có dân chủ thì ở đó những tiêu cực đạo đức phi vô sản
còn có điều kiện để tồn tại phát triển. “Dân chủ là của quý báu của nhân dân” 1
Thực hành dân chủ là chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn.
Để phát huy quyền làm chủ ủa người nông dân trong giai đoạn mới, phải

thực hiện quy chế dân chủ rộng rãi trong nông thôn. Nhưng dân chủ hoá phải
có nguyên tắc nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của tất cả các
thành viên trong xã hội từ đso tạo điều kiện chống lại mọi biểu hiện của tư
tưởng bảo thủ, trì trệ, cố chấp, đặc cấp, đặc quyền, đặc lợi, tạo điều kiện cơ
hội cho mọi người phát huy hết năng lực của bản thân nhất là đối với người
phụ nữ để họ tham gia, thể hiện năng lực và cống hiến cho xã hội. “Có dân
chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”1.
Để làm được điều đó, phải tăng cường hơn nữa việc tuyên truyền đường
lối, chính sách của Đảng những chủ trương, biện pháp của địa phương để
dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Khắc phục tệ quan liêu, hống hách,
lộng quyền, tham nhũng, tình trạng suy thoái về đạo đức vào lối sống của
một bộ phận cán bộ đảng viên ở khu vực nông thôn. Đưa ra nhiều hình thức
để tập hợp nông thôn, động viên họ tham gia vào các tổ chức chính trị – xã
hội, thông qua đó để bồi dưỡng giáo dục nông dân. Để thực hiện cơ chế dân
1
1

Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8 Nxb chính trị quốc gia Hà Nội 1996 tr279
Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6 Nxb chính trị quốc gia Hà Nội 1996 tr435

25


×