Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Phân tích những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu thực hiện chính sách dân tộc của đảng và nhà nước việt nam đánh giá triển khai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.27 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................................1
B. NỘI DUNG..................................................................................................2
Chương 1. NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC.........2
1.1. Khái niệm dân tộc......................................................................................2
1.2. Quan điểm về mối quan hệ dân tộc - giai cấp, hai xu hướng phát triển của
dân tộc và Cương lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác – Lênin...............................5
Chương 2. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ QUAN ĐIỂM
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
VIỆT NAM.....................................................................................................10
2.1. Tình hình và đặc điểm của dân tộc Việt Nam..........................................10
2.2. Chính sách dân tộc từ năm 1986 đến nay.................................................12
2.2.1. Nội dung................................................................................................12
2.2.2. Hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước từ năm
1986 đến nay...................................................................................................15
2.3. Quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng và Nhà nước ta..............17
Chương 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI....20
3.1. Tăng cường tuyên truyền đường lối, chính sách về vấn đề dân tộc của
Đảng và Nhà nước...........................................................................................20
3.2. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở miền núi, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số.........................................................................................22
3.3. Tập trung xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh, đủ
sức lãnh đạo thực hiện các chương trình về phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội,
giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội............................................23
C. KẾT LUẬN...............................................................................................25
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................26


A.MỞ ĐẦU
Việt Nam là một quốc gia thống nhất, đa dân tộc, đa tín ngưỡng,


tôn giáo. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, đồng bào
các dân tộc, tôn giáo luôn luôn đoàn kết, chung tay đấu tranh với “thiên
tai, địch họa”, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh. Trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định vấn đề dân tộc, vấn đề
tôn giáo và công tác dân tộc, công tác tôn giáo là vấn đề chiến lược có
tầm quan trọng đặc biệt; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo, phát
huy truyền thống và sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là
một đảm bảo quan trọng cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng của
toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Quán triệt những quan điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, ngay từ đầu, Đảng
ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra những nguyên tắc và định hướng
chiến lược về chính sách dân tộc ở Việt Nam, đó là đoàn kết, bình đẳng,
tương trợ giữa các dân tộc. Có thể khẳng định chính sách dân tộc của
Đảng ta luôn được quán triệt và triển khai thực hiện nhất quán trong mọi
thời kỳ. Tuy nhiên, trong mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, chính sách dân tộc
của Đảng luôn được bổ sung, hoàn thiện đáp ứng yêu cầu thực tiễn và sự
phát triển của đất nước. Với quan điểm cách mạng là sáng tạo không
ngừng, trong thời kỳ đổi mới, chính sách dân tộc của Đảng ta vừa đảm
bảo tính nhất quán, vừa đổi mới trước yêu cầu phát triển và hội nhập
nhằm giải quyết thành công vấn đề dân tộc ở nước ta hiện nay và trong
tương lai. Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của việc nghiên
cứu vấn đề nên trong học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học tôi đã lựa
chọn đề tài: “Phân tích những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ
yếu thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Đánh giá triển khai thực hiện chính sách dân tộc từ năm 1986 đến
nay”. Để nghiên cứu viết tiểu luận. Trong quá trình làm bài, dù đã có
nhiều cố gắng nghiên cứu tìm hiểu song do những hạn chế nên bài làm
của em không tránh khỏi những thiếu xót, hạn chế, rất mong nhận được
1



những ý kiến đóng góp của thầy cô và các bạn để bài tiểu luận của em
được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn !
B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.1. Khái niệm dân tộc
Khái niệm dân tộc được sử dụng trong nhiều ngành khoa học,
trong phạm vi khác nnhau; dân tộc và những vấn đề dân tộc được các
nhà khoa học như sử học, triết học, tâm lý học, khoa học quản lý…
nghiên cứu.
Theo Tiếng Việt khái niệm “ Dân tộc” là khái niệm đa nghĩa, đa
cấp độ.
- Theo nghĩa rộng: Dân tộc đồng nghĩa với Quốc gia dân tộc
(National) đồng chính trị - xã hội được hợp thành bởi nhiều thành phần
dân tộc ( nhiều dân tộc); đồng nghĩa với quốc gia đa dân tộc; đồng
nghĩa với nhà nước thống nhất của các dân tộc, nhà nước thống nhất
của các dân tộc, nhà nước chung của tất cả các thành phần dân tộc đang
sống ở Việt Nam, với bốn đặc trưng chủ yếu:
+ Có lãnh thổ chung
+ Ngôn ngữ giao tiếp chung
+ Phương thức kinh tế chung
+ Tâm lý chung biểu hiện trong văn hóa
- Theo nghĩa hẹp: Dân tộc đồng nghĩa với tộc người với ba đặc
trưng chủ yếu:
+ Có ngôn ngữ tộc người
+ Văn hóa tộc người
+ Ý thức tự giác tộc người
- Đặc trưng của dân tộc
+ Có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế. Đây là đặc

trưng quan trọng nhất của dân tộc. Các mối quan hệ kinh tế là cơ sở
liên kết các bộ phận, các thành viên của dân tộc, tạo nên nền tẳng
vững chắc của cộng đồng dân tộc.

2


+ Có thể ngôn ngữ riêng và có thể có chữ viết riêng ( trên cơ sở
ngôn ngữ chung của quốc gia) làm công cụ giao tiếp trên mọi lĩnh vực:
kinh tế, văn hóa, tình cảm…
+ Có nét tâm lý ( nét tâm lý dân tộc) biểu hiện kết tinh trong nền
văn hóa dân tộc và tạo nên bản sắc riêng của nền văn hóa dân tộc, gắn
bó với nền văn hóa của cả cộng đồng các dân tộc (quốc gia dân tộc).
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có
đủ khác đặc trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn
bó chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định.
Như vậy, cộng đồng người ổn định chỉ trở thành dân tộc khi có
đủ các đặc trưng trên, các đặc trưng của dân tộc là một chỉnh thể gắn bó
chặt chẽ với nhau, đồng thời mỗi đặc trưng có một vị trí xác định. Sự
tổng hợp các đặc trưng nêu trên làm cho các cộng đồng dân tộc được đề
cập ở đây - về thực chất là một cộng đồng xã hội - tộc người, trong đó
những nhân tố tộc người đan kết, hoà quyện vào các nhân tố xã hội.
Điều đó làm cho khái niệm dân tộc khác với các khái niệm sắc tộc,
chủng tộc - thường chỉ căn cứ vào các đặc điểm tự nhiên, chẳng hạn
màu da hay cấu tạo tự nhiên của các bộ phận trong cơ thể để phân loại
cộng đồng người.
* Qúa trình hình thành dân tộc: nghiên cứu khái niệm và các đặc
trưng của dân tộc cần thấy rằng: khái niệm dân tộc và khái niệm quốc
gia gắn bó chặt chẽ với nhau. Bởi vì, dân tộc ra đời trong một quốc gia
nhất định, thông thường thì những nhân tố hình thành dân tộc chín

muồi không tách rời với sự chín muồi của những nhân tố hình thành
quốc gia – chúng bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau.
Nếu như cộng đồng thị tộc (trong xã hội nguyên thuỷ) mang tính
thuần tuý tộc người, trong đó quan hệ huyết thống còn đóng vai trò chi
phối tuyệt đối, thì ở cộng đồng bộ lạc và liên minh bộ lạc (xuất hiện
vào cuối xã hội nguyên thuỷ) đã xuất hiện dưới dạng đầu tiên những
thiết chế chính trị – xã hội, trong đó những quan hệ tộc người xen với

3


những quan hệ chính trị – xã hội. Cộng đồng bộ tộc xuất hiện vào thời
kỳ xã hội có sự phân chia rõ rệt hơn về giai cấp và sau đó là sự xuất
hiện nhà nước – quốc gia. Từ đây, sự cố kết bộ tộc là nhân tố quan
trọng trong sự hình thành và củng cố quốc gia; ngược lại, sự hình
thành, củng cố quốc gia là điều kiện có ý nghĩa quyết định sự củng cố
và phát triển của cộng đồng bộ tộc, là sự chuẩn bị quan trọng nhất để
cộng đồng bộ tộc chuyển lên một hình thức cao hơn – tức là dân tộc.
Tính tộc người và tính chính trị - xã hội đó ghi đậm vào tâm trí
của đông đảo dân cư ý thức gắn bó quyền lợi và nghĩa vụ của mình với
dân tộc, với nhà nước, quốc gia. Tình cảm đối với dân tộc hoà nhập vào
tình cảm đối với Tổ quốc và trở thành một trong những giá trị thiêng
liêng, bền vững của nhiều thế hệ con người ở nhiều dân tộc, quốc gia.
Tình cảm ấy xuất hiện và được củng cố trong quá trình lịch sử dựng
nước và giữ nước lâu dài, trở thành nét truyền thống đặc sắc của các
dân tộc, quốc gia đó.
Nhận thức vấn đề này không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn có
ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Bởi vì, công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới – từ cơ sở kinh tế đến kiến trúc thượng tầng và các
quan hệ xã hội không thể thiếu nội dung cải tạo, xây dựng cộng đồng

dân tộc và các mối quan hệ dân tộc. Ngược lại, việc cải tạo, xây dựng
cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc không thể tách rời công
cuộc cải tạo, xây dựng toàn diện xã hội mà trước hết là xây dựng chế
độ chính trị - xã hội, xây dựng nhà nước theo con đường tiến bộ.
Dân tộc xã hội chủ nghĩa chỉ xuất hiện do kết quả của sự cải tạo,
xây dựng từng bước cộng đồng dân tộc và các mối quan hệ dân tộc theo
các nguyên lý của chủ nghĩa xã hội khoa học. Đồng thời, dân tộc xã hội
chủ nghĩa chỉ có thể xuất hiện do kết quả của công cuộc cải tạo, xây
dựng toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội để từng bước củng cố
chế độ xã hội chủ nghĩa.

4


Tuy nhiên, trong thực tiễn, không nên xem nhẹ hoặc làm lu mờ
những nhân tố dân tộc tồn tại lâu dài trong một cộng đồng quốc gia
gồm nhiều dân tộc. Nhân tố dân tộc đó được biểu hiện nổi bật nhất
trong văn hoá, nghệ thuật, ngôn ngữ, phong tục, tập quán, tâm lý và
tình cảm; chúng hoà quyện vào nhau tạo thành một thể thống nhất trong
đa dạng về bản sắc dân tộc; là căn cứ chủ yếu để phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác. Điều đó đòi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa trong khi
hoạch định và thực hiện mọi chính sách chung của quốc gia, cần chú ý
đến tính đặc thù của cộng đồng gồm nhiều dân tộc, hơn nữa, cần có
những chính sách riêng đáp ứng những đòi hỏi chính đáng mang tính
đặc thù của từng dân tộc.
1.2. Quan điểm về mối quan hệ dân tộc - giai
cấp, hai xu hướng phát triển của dân tộc và Cương
lĩnh dân tộc của Chủ nghĩa Mác – Lênin
* Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong xã
hội

Dân tộc là sản phẩm của một quá trình phát triển của xã hội loài
người. Trước khi xuất hiện dân tộc, loài người đã trải qua các hình thức
cộng đồng từ thấp đến cao: Thị tộc, bào tộc, bộ lạc, bộ tộc.
Dân tộc xuất hiện làm nảy sinh mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc
với vấn đề giai cấp, chú nghĩa Mác – Lê nin đã từng luận chứng về mối
quan hệ này. Khi đặt vấn đề dân tộc trong tiến trình cách mạng xã hội
chủ nghĩa V.I.Lênin đã chỉ rõ: “ Không được tuyệt đối hóa vấn đề dân
tộc, không được đặt vấn đề dân tộc lên trên vấn đề giai cấp, không
được biến nó thành một thứ báu vật” đồng thời Lênin còn nhắc nhở
chúng ta không được xem nhẹ vấn đề dân tộc, không được sa vào thái
độ “ hư vô dân tộc”. Thực chất đó là mối quan hệ biện chứng giữa vấn
đề giai cấp và vấn đề dân tộc; khi nhận thức mối quan hệ này cần phải
trên cả hai phương diện:

5


Thứ nhất, vấn đề dân tộc là bộ phận của vấn đề giai cấp, phụ
thuộc vào cuộc đấu tranh giai cấp. Bởi vì:
Một là, dân tộc chỉ ra đời khi điều kiện kinh tế - xã hội đạt mức
độ phát triển nhất định, dân tộc nảy sinh trước hết là do kết quả của sự
biến đổi trong cơ sở kinh tế - xã hội, chứ không phải trước hết do sự
biến đổi trong các nhân tố tộc người ( dĩ nhiên các nhân tố này có vai
trò quan trọng của chúng.
Hai là, từ khi dân tộc xuất hiện, phong trào dân tộc thường gắn
liền với vấn đề giai cấp mà nội dung là dân chủ, V.I.Lênin đã nêu yêu
sách về quyền dân tộc tự quyết, chính nội dung dân chủ đòi hỏi nêu ra
yêu sách về quyền dân tộc tự quyết và khẳng định nó như một yêu sách
mang tính tiến bộ và cách mạng. Trong phong trào giải phóng dân tộc
ngày nay, nội dung dân chủ hướng tới mục tiêu giải phóng những người

lao động khỏi ách áp bức về giái cấp để từ đó thoát khỏi tình trạng bị
nô dịch về dân tộc bao giờ cũng có ý nghĩa quyết định.
Ba là, trong công cuộc xây dựng xã hội mới, nếu không biết gắn
liền quá trình xây dựng kinh tế - xã hội với thực hiện chính sách giai
cấp đúng đắn thì việc củng cố quan hệ giữa các dân tộc không thể đạt
kết quả vững chắc.
Không có sự biến đổi trong lĩnh vực kinh tế - xã hội thông qua
việc giải quyết mâu thuẫn giai cấp nhằm xóa bỏ tình trạng người bóc
lột người thực hiện sự bình đẳng xã hội thì không thể tạo nên sự biến
đổi về chất trong mỗi dân tộc và trong mối quan hệ giữa các dân tộc.
Nguyên nhân của sự căng thẳng trong vấn đề dân tộc, trước hết là
những vấn đề kinh tế - xã hội. Nói một cách khác, mâu thuẫn giữa các
dân tộc có tính đa nhân tố - những mâu thuẫn kinh tế xã hội đan xen với
những mâu thuẫn trong các vấn đề văn hóa tộc người, ngôn ngữ, tôn
giáo, lãnh thổ…nhưng trong đó, mâu thuẫn kinh tế - xã hội bao giờ
cũng đóng vai trò quyết định nhất.

6


Thứ hai, tính độc lập tương đối và tầm quan trọng đặc biệt của
vấn đề dân tộc. Điều này biểu hiện ở chỗ:
Một là, tuy dân tộc chỉ xuất hiện trên cơ sở sự chín muồi của
những điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng nếu chưa có sự chín muồi của
những nhân tố tộc người – ý thức dân tộc, tâm lý dân tộc, tình cảm dân
tộc, phong tục, tập quán, ngôn ngữ, văn hóa dân tộc thì dân tộc cũng
chưa thể xuất hiện
Hai là, sự xuất hiện và phát triển của dân tộc có những quy luật
nội tại. Chính điều đó làm cho loài người đã trải qua nhiều hình thức
cộng đồng người từ thấp đến cao: Thị tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc.

Ba là, sau khi chịu sự quy định của nhân tố kinh tế - xã hội, nhân
tố dân tộc bao giờ cũng phát huy tác động trở lại đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Điều này được minh chứng như ở Phương Tây trước
đây, chủ nghĩa tư bản ra đời đã dẫn tới sự hình thành dân tộc; ngược lại,
sự hình thành dân tộc đã đáp ứng nhu cầu của chủ nghĩa tư bản về tổ
chức sản xuất, phân công lao động xã hội và trao đổi sản phẩm trên
phạm vi rộng lớn của thị trường dân tộc, phù hợp với trình độ mà lực
lượng sản xuất đã đạt được. Hoặc ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa,
quá trình đồng hóa, cưỡng bức thông qua các chính sách cai trị mà
chính quyền thực dân thi hành đã dẫn tới sự suy thoái của hàng loạt dân
tộc trong các quốc gia đó. Những quốc gia này do phải tồn tại trong
môi trường nô lệ đã phải buộc chấp nhận ở mức độ khác nhau do sự
xâm thực của văn hóa thực dân với nhiều độc tố, làm cho nhiều giá trị
văn hóa dân tộc bị băng hoại, ý thức dân tộc bị xuyên tạc, tình cảm dân
tộc bị làm cho lệch lạc đã làm cho nhiều dân tộc, trong một thời gian
dài, không thể định hướng con đường phát triển độc lập, tự chủ của
mình.
Trong thời đại ngày nay, các dân tộc bị áp bức đều lấy điểm khởi
đầu của con đường giải phóng dân tộc mình là việc khôi phục nền độc
lập dân tộc, khẳng định quyền tự chủ, hồi sinh những giá trị dân tộc. Ở

7


nhiều nước, ý thức xã hội chủ nghĩa được hình thành dần dần không chỉ
do tiến trình của đấu tranh giai cấp mà còn do quá trình đấu tranh giải
phóng dân tộc. Điều đó, chứng tỏ rằng việc giải phóng các nhân tố dân
tộc phát triển tự do và đầy đủ là do nhu cầu khách quan của sự tiến bộ,
là một trong những điều kiện tất yếu cho sự tiến bộ.
* Xu hướng khách quan trong sự phát triển dân tộc

Trong tác phẩm “ Ý kiến phê phấn về vấn đề dân tộc” Lênin đã
phát hiện hai xu hướng khách quan trong sự phát triển của dân tộc và
mối quan hệ giữa các dân tộc.
Thứ nhất, do sự thức tỉnh, sự trường thành của ý thức dân tộc
mà cộng đồng dân cư muốn tách ra để thành lập các cộng đồng dân
tộc độc lập, trong đó họ có quyền lựa chọn chế độ chính trị và con
đường phát triển của dân tộc mình.
Thứ hai, các dân tộc có xu hướng liên hiệp lại với nhau trên cơ
sở bình đẳng, tự nguyện, giúp đỡ lẫn nhau…phù hợp với xu hướng
khách quan, tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất, phù hợp với
nhu cầu mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa giữa các dân tộc. Cả hai xu
hướng đó là quy luật phổ biến của chủ nghĩa tư bản.
Sự vận động có tính mâu thuẫn nhưng thống nhất giữa hai xu
hướng đó là quy luật khách quan của sự phát triển dân tộc và mối quan
hệ giữa các dân tộc. Mỗi dân tộc tiến tới độc lập, tự chủ, phồn vinh và
các dân tộc không ngừng xích lại gần nhau.
* Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác – Lênin
Cương lĩnh nổi tiếng của Lênin về vấn đề dân tộc trong tác
phẩm “ Về quyền dân tộc tự quyết” được tóm tắt như sau: “ Các dân
tộc hoàn toàn bình đẳng, các dân tộc được quyền tự quyết: Liên hợp
công nhân tất cả các dân tộc lại”.
- Bình đẳng dân tộc là một nguyên tắc cực kì quan trọng trong
Cương lĩnh về vấn đề dân tộc của Lênin. Để thực hiện quyền bỉnh đẳng
giữa các dân tộc phải thủ tiêu tình trạng áp bức giai cấp để trên cơ sở
đó xóa bỏ tình trạng nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác; từng

8


bước khắc phục sự phát triển chênh lệch giữa các dân tộc, tạo điều kiện

để các dân tộc còn ở trình độ lạc hậu, bằng sự nỗ lực của chính mình
cùng với sự giúp đỡ của các dân tộc an hem phát triển nhanh trên con
đường tiến bộ; sự bình đẳng hoàn toàn, một sự bình đẳng toàn diện
giữa các dân tộc trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa phải được
thể hiện về mặt pháp lý và được thực hiện trong cuộc sống.
- Quyền tự quyết là nguyên tắc quan trọng thứ hai trong Cương
lĩnh về vấn đề dân tộc của Lênin. Quyền tự quyết là quyền làm chủ của
mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền lựa chọn chế độ
chính trị và con đường phát triển của dân tộc đó. Quyền tự quyết bao
gồm quyền tự do phân lập thành cộng đồng các dân tộc độc lập và
quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng.
V.I.Lênin triệt để đấu tranh chống áp bức dân tộc, đồng thời cũng
cương quyết đấu tranh gạt bỏ những trở ngại để các dân tộc ngày càng
xích lại gần nhau.
Ở nước ta, Đảng cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu ra và thực hiện quan điểm về quyền dân tộc tự quyết đúng đắn. Nội
dung cao nhất của quyền tự quyết là các dân tộc đoàn kết đấu tranh
giành và giữ vững nền độc lập dân tộc, cùng nhau xây dựng xã hội mới
để các dân tộc đều được phát triển tự do và được sống ấm no, hạnh
phúc.
Tuy nhiên, quyền bình đẳng và quyền tự quyết dân tộc không
phải tự nhiên mà có và đương nhiên được thực hiện, ngược lại, chúng
là kết quả của cuộc đấu tranh chống mọi thế lực xâm lược, áp bức dân
tộc và gây nên sự đồng hóa cưỡng bức giữa các dân tộc.
- “Liên hợp công nhân tất cả các dân tộc lại” là nguyên tắc thứ ba
trong Cương lĩnh về vấn đề dân tộc của Lênin. Đây là sự liên minh
quốc tế trong cuộc đấu tranh chống áp bức giai cấp và dân tộc, vì sự
giải phóng dân tộc và xã hội. Lênin kiên trì nguyên tắc thống nhất giữa
các nhiệm vụ dân tộc và quốc tế của giai cấp công nhân. Lênin cho


9


rằng, việc giải phóng khỏi ách tư bản, việc xây dựng xã hội chủ nghĩa
và Cộng sản chủ nghĩa là nhiệm vụ quốc tế của tất cả những người vô
sản, của tất cả nhân dân lao động các nước. Chủ nghĩa quốc tế vô sản
thể hiện tính chất chung của những quyền lợi cơ bản và những ý
nguyện tiến bộ của nhân dân lao động tất cả các dân tộc, về nguồn gốc
và bản chất, nó đối lập với chủ nghĩa dân tộc tư sản gây sự hằn thù và
chia rẽ giữa các dân tộc.

10


Chương 2
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ QUAN ĐIỂM THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
2.1. Tình hình và đặc điểm của dân tộc Việt Nam
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc thống nhất gồm 54 dân tộc.
Dân tộc Kinh chiếm 87% dân số; 53 dân tộc còn lại chiếm 13% dân số,
phân bố rải rác trên địa bàn cả nước. 10 dân tộc có số dân từ dưới 1
triệu đến 100 ngàn người là: Tày, Nùng, Thái, Mường, Khơme, Mông,
Dao, Giarai, Bana, Êđê; 20 dân tộc có số dân dưới 100 ngàn người; 16
dân tộc có số dân từ dưới 10 ngàn người đến 1 ngàn người; 6 dân tộc có
số dân dưới 1 ngàn người Cống, Si La, Pu Péo, Rơ Măm, Ơ Đu, Brâu).
Đặc trưng nổi bật trong quan hệ giữa các dân tộc ở nước ta là sự
cố kết dân tộc, hoà hợp dân tộc trong một cộng đồng thống nhất đã trở
thành truyền thống, thành sức mạnh và đã được thử thách trong các
cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước
qua mấy ngàn năm lịch sử cho đến ngày nay.

Do những yếu tố đặc thù của nền kinh tế trồng lúa nước, một kết
cấu công xã nông thôn bền chặt sớm xuất hiện. Trải qua lịch sử liên tục
chống ngoại xâm, dân tộc ta đã hình thành rất sớm và trở thành một
quốc gia dân tộc thống nhất ngay dưới chế độ phong kiến. Đoàn kết là
xu hướng khách quan cố kết các dân tộc trên cơ sở có chung lợi ích, có
chung vận mệnh lịch sử, chung một tương lai, tiền đồ.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt cố kết tạo nên tính cộng đồng chung, có
nơi có lúc vẫn xảy ra hiện tượng tiêu cực trong quan hệ dân tộc. Chủ
nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lại luôn luôn dùng mọi thủ đoạn
chia rẽ dân tộc và can thiệp vào nội bộ nước ta. Do đó, phát huy truyền
thống đoàn kết, xoá bỏ thành kiến, nghi kỵ dân tộc và kiên quyết đập
tan mọi âm mưu chia rẽ dân tộc của kẻ thù là nhiệm vụ trọng yếu của
nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa hiện nay.

11


Hình thái cư trú xen kẽ giữa các dân tộc ngày càng tăng, tuy
trong từng khu vực nhất định có những dân tộc sống tương đối tập
trung, nhưng không thành địa bàn riêng biệt. Do đó, các dân tộc ở nước
ta không có lãnh thổ riêng, không có nền kinh tế riêng và sự thống nhất
hữu cơ giữa dân tộc và quốc gia trên mọi mặt của đời sống xã hội ngày
càng được củng cố.
Do điều kiện tự nhiên, xã hội và hậu quả của các chế độ áp bức
bóc lột trong lịch sử nên trình độ phát triển kinh tế, văn hoá... giữa các
dân tộc còn khác biệt, chênh lệch nhau.
Tình trạng chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá...
giữa các dân tộc, giữa các vùng dân cư là một đặc trưng cần quan tâm
nhằm từng bước khắc phục sự chênh lệch đó để thực hiện bình đẳng,

đoàn kết dân tộc ở nước ta. Nhiều vùng dân tộc thiểu số canh tác còn ở
trình độ rất thấp, chủ yếu dựa vào khai thác tự nhiên. Đời sống vật chất
của bà con dân tộc thiểu số còn thiếu thốn, tình trạng nghèo đói kéo dài,
thuốc chữa bệnh khan hiếm, nạn mù chữ và tái mù chữ còn ở nhiều nơi.
Đường giao thông và phương tiện đi lại nhiều vùng rất khó khăn; điện,
nước phục vụ cho sản xuất đời sống nhiều vùng còn rất thiếu; thông tin,
bưu điện nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu của đời sống, nhất là ở vùng
cao, vùng xa xôi hẻo lánh...
Cùng với nền văn hoá cộng đồng, mỗi dân tộc trong đại gia đình
các dân tộc Việt Nam đều có đời sống văn hoá mang bản sắc riêng rất
phong phú. Bởi vì, bất cứ dân tộc nào, dù nhiều người hay ít người, đều
có nền văn hoá riêng, phản ánh truyền thống lịch sử, đời sống tinh thần,
niềm tự hào của dân tộc bằng những bản sắc độc đáo. Đặc trưng của sắc
thái văn hoá dân tộc bao gồm: ngôn ngữ tiếng nói, văn học, nghệ thuật,
tình cảm dân tộc, y phục, phong tục tập quán, quan hệ gia đình, dòng
họ... Một số dân tộc có chữ viết riêng (Khơme, Chăm, Thái, Mông,
Giarai, Êđê ). Một số dân tộc thiểu số gắn với một vài tôn giáo truyền
thống (Khơme – với đạo Phật; Chăm – với Islam, Bàlamôn ); một vài
12


dân tộc gắn với đạo Tin Lành, đạo Thiên Chúa... Vì vậy, Đảng và Nhà
nước ta luôn luôn tôn trọng bản sắc văn hoá riêng và tôn trọng tự do tín
ngưỡng của mỗi dân tộc. Sự phát triển đa dạng mang bản sắc văn hoá
của từng dân tộc càng làm phong phú thêm nền văn hoá của cả cộng
đồng.
Các dân tộc thiểu số tuy chỉ chiếm 13% dân số cả nước nhưng lại
cư trú trên các địa bàn có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh
tế, quốc phòng, an ninh và giao lưu quốc tế, đó là các vùng biên giới,
vùng rừng núi cao, hải đảo... Nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số

trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến. Một số dân tộc có quan
hệ dòng tộc với các dân tộc ở các nước láng giềng và khu vực.
Xuất phát từ tình hình, đặc trưng cơ bản của dân tộc Việt Nam,
Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm đến vấn đề chính sách dân tộc
xem xét nó như là vấn đề xã hội - chính trị rộng lớn, toàn diện gắn liền
với các mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa.
2.2. Chính sách dân tộc từ năm 1986 đến nay
2.2.1. Nội dung
Chính sách dân tộc của Đảng trong thời kì này vẫn là phát huy
sức mạnh đoàn kết dân tộc, tranh thủ sự ủng hộ quốc tế, phát huy mọi
nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước.
Trong thời kì này, phải chú ý về sự đổi mới tư duy, đổi mới chính
sách dân tộc. Dấu mốc của thời kì đổi mới là từ Đại hội VI (1986). Đại
hội VI của Đảng có nhấn mạnh: “ Đẩy mạnh ba cuộc cách mạng ở vùng
đồng bào dân tộc. Bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện tốt hơn chính sách
dân tộc”.
Nội dung mới trong chính sách dân tộc thời kì này là tạo mọi
điều kiện để các dân tộc phát triển và củng cố sự thống nhất, tăng
cường sức mạnh của cộng đồng quốc gia; mở rộng quan hệ quốc tế.
Sau Đại hội VI, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 22/NQ-TW ngày
27/11/1989; Chính phủ ra quyết định 72/QĐ-HĐBT ngày 13-3-1990 về

13


một số chủ trương chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Đây là giai đoạn đánh dấu sự đổi mới tích cực trong tư duy và chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.
Tiếp theo là Đại hội VII, VIII và IX xác định rõ thêm về quan

điểm chính sách dân tộc trong thời kì xây dựng và phát triển đất nước.
Đại hội IX của Đảng xác định: “ Vấn đề dân tộc và đoàn kết các
dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng”.
Hội nghị Trung ương 7 ( Khóa IX) cụ thể hóa thêm một bước: “
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản lâu dài,
đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã khẳng định: “Đảng ta
luôn coi vấn đề dân tộc… là vấn đề chiến lược, cơ bản, lâu dài của sự
nghiệp cách mạng nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam
bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, hiện
đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (tháng 1, năm 2011) của
Đảng tiếp tục khẳng định đường lối, quan điểm về vấn đề dân tộc, công
tác dân tộc: “Đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình
đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và
bảo vệ tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách, tạo chuyển biến rõ rệt
trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng dân tộc thiểu số. Tăng
cường kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả thực hiện các chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và nhà nước ở các cấp”. Từ đó đến nay,
Đảng và Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt chính sách nhằm giúp đỡ
đồng bào các dân tộc, đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, xóa bỏ dần
những hủ tục, thành kiến lạc hậu.
Cụ thể hóa Nghị quyết các kỳ Đại hội, Nhà nước ta đã có chính
sách phát triển toàn diện ở các vùng dân tộc và chính sách ưu tiên để
tạo điều kiện phát triển với một số dân tộc đặc biệt khó khăn như:
14



1. Chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (giai
đoạn 2001-2005 và 2006-2010) với mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo bình
quân mỗi năm từ 1,5- 2% (tương đương giảm 30 vạn hộ/ năm). Chương
trình đã áp dụng một số chính sách: hỗ trợ đất sản xuất, hỗ trợ làm nhà
ở, hỗ trợ về y tế, giáo dục, hướng dẫn cách làm ăn hiệu quả, dạy nghề
cho thanh niên trong độ tuổi lao động, cho hộ nghèo vay vốn tín dụng
ưu đãi đầu tư cho sản xuất, xây dựng cơ sở hạ tầng cho các xã nghèo…
2. Chương trình phát triển kinh tế- xã hội các xã đặc biệt khó
khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi - Chương trình 135 giai đoạn 1
(1998-2005) và giai đoạn 2 (2006-2010). Quy mô 50 tỉnh, 354 huyện,
1.946 xã khu vực 3 và 3.274 thôn, bản đặc biệt khó khăn của xã khu
vực 2. Mục tiêu tổng quát của CT 135 là: tạo sự chuyển biến nhanh về
sản xuất, thúc đâỷ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
sản xuất gắn với thị trường; cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần cho đồng bào dân tộc ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn một
cách bền vững, giảm khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa
các vùng trong cả nước; phấn đấu đến năm 2010, cơ bản không còn hộ
đói, giảm hộ nghèo xuống dưới 30%, trên 70% số hộ đạt mức thu nhập
bình quân đầu người trên 3,5, triệu đồng/năm…
3. Chương trình hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản xuất và nước sinh
hoạt cho hộ nghèo ( các Quyết định 134, 167, 74).
4. Chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện
nghèo nhất nước (Nghị quyết 30a).
5. Các chính sách phát triển kinh tế theo vùng: Quyết định 168 phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh khu vực Tây Nguyên; Quyết định
173 - phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh khu vực đồng bằng Sông Cửu
Long; Quyết định 186 - phát triển kinh tế - xã hội các tỉnh khu vực
miền núi phía Bắc…
6. Hệ thống các chính sách, chương trình dự án ưu đãi cho từng
lĩnh vực, ngành:


15


- Chính sách trợ giá, trợ cước vận chuyển các mặt hàng, vật tư thiết
yếu.
- Chính sách cấp không thu tiền cho 20 ấn phẩm báo, tạp chí phát
hành tại vùng đặc biệt khó khăn.
- Chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và dự án trồng
mới 5 triệu ha rừng.
- Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường cho khu vực
nông thôn, miền núi.
- Chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình.
- Chương trình y tế với các mục tiêu phòng chống các dịch bệnh
nguy hiểm, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo.
- Chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình cho vùng đặc
biệt khó khăn. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá - thông tin.
- Chương trình mục tiêu quốc gia về giáo dục, đào tạo (trong đó
có chương trình dạy và học tiếng nói, chữ viết cho một số DTTS;
Chương trình cử tuyển học sinh dân tộc thiểu số vào các trường Cao
đẳng, đại học...)
- Chiến lược bảo vệ môi trường miền núi và bảo vệ đa dạng sinh
học...
7. Ngoài ra còn có Chính sách hỗ trợ phát triển toàn diện một số
dân tộc đặc biệt ít người: dân tộc Si La (Lai Châu, Điện Biên), dân tộc Pu
Péo (Hà Giang), dân tộc Rơ Măm, dân tộc BRâu (Kon Tum), dân tộc Ơ
Đu (Nghệ An)…
* Những điểm mới trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta
Nhất quán các nguyên tắc: Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng trọng

giúp đỡ nahu cùng tiến bộ; song do yêu cầu của giai đoạn mới, ta
hướng tới thực hiện mục tiêu: các dân tộc cùng phát triển, củng cố sự
thống nhất của cộng đồng dân tộc, xây dựng đất nước giàu mạnh, mở
rộng quan hệ quốc tế. Như vậy, mỗi giai đoạn cần xác định rõ mục tiêu
và nội dung cụ thể của chính sách. Tính đúng đắn, snags tạo trong
chính sách dân tộc: Rất tổng hợp, toàn diện, song rất cụ thể.

16


2.2.2. Hiệu quả thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước từ năm 1986 đến nay
* Thành tựu
Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt
Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam XHCN. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia
rẽ dân tộc". Từ những nguyên tắc, định hướng trên, Nhà nước ta đã cụ
thể hoá thành các chính sách, chương trình, dự án... đồng thời có các
giải pháp cụ thể để giúp đồng bào các dân tộc ở miền núi đẩy mạnh
phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giữa miền núi với miền xuôi. Nhờ đó, Đảng và
Nhà nước ta đã động viên và phát huy được sức mạnh to lớn của các
dân tộc, tạo nên những chuyển biến quan trọng về kinh tế, văn hoá, xã
hội, quốc phòng, an ninh. Đến nay đã có 97, 42% số xã miền núi có
đường ô tô tới trung tâm, 98% huyện có điện lưới quốc gia, 64 % số hộ
được sử dụng điện, trên 60% xã có điện thoại; 90 % số xã được phủ
sóng phát thanh và 75% số xã được phủ sóng truyền hình; 100% số xã

vùng đồng bào dân tộc thiểu số đã có trường tiểu học, các trường phổ
thông dân tộc nội trú được hình thành ở cấp tỉnh, huyện tới cụm xã, thu
hút phần lớn con em đồng bào các dân tộc thiểu số tới trường. Hệ thống
trạm y tế được xây dựng tới tận cơ sở, việc khám chữa bệnh cho người
dân được quan tâm hơn. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội được giữ vững. Sức mạnh quốc phòng, an ninh được tăng cường.
Khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố, phát triển ngày càng vững
chắc.
* Hạn chế

17


Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhìn chung tình hình
kinh tế-xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số vẫn trong tình trạng
chậm phát triển và phát triển chưa đồng đều, vững chắc. Đời sống của
một bộ phận đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, nhất là
vùng biên giới vẫn còn nghèo, lạc hậu. Khoảng cách tụt hậu về kinh tế,
văn hoá, xã hội so với mức bình quân chung của cả nước chưa được thu
hẹp; một số vấn đề bức xúc trên các lĩnh vực đời sống văn hoá, xã hội
chậm được giải quyết. Trong khi đó bộ máy Đảng, chính quyền ở một
số nơi còn quan liêu, xa dân, chưa sâu sát thực tế, chưa nắm bắt được
tâm tư, nguyện vọng của đồng bào, thậm chí còn để xảy ra tham
nhũng, tiêu cực, vi phạm chính sách dân tộc... Lợi dụng tình hình trên,
các thế lực thù địch và những phần tử xấu triệt để khai thác, khoét sâu
mâu thuẫn này để thực hiện chiến lược " diễn biến hoà bình", bạo loạn
lật đổ, nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết các dân tộc, phá hoại sự nghiệp
cách mạng của nhân dân ta. Một mặt, chúng ra sức tuyên truyền, tán
phát tài liệu phản động vu khống, xuyên tạc đường lối, chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta; mặt khác, chúng tìm mọi

cách mua chuộc, dụ dỗ, lừa gạt, kích động đồng bào các dân tộc thiểu
số đòi lại đất của người Kinh, của nông trường, lâm trường và các
doanh nghiệp nhà nước; xúi dục đồng bào kéo lên huyện, lên tỉnh khiếu
kiện tràn lan, phá rối trật tự; tung tin thất thiệt gây mâu thuẫn nội bộ
nhân dân, làm cho tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở
địa phương, cơ sở có lúc rất căng thẳng, tiềm ẩn những yếu tố gây mất
ổn định chính trị trên địa bàn. Vụ lôi kéo đồng bào dân tộc thiểu số ở
các tỉnh phía Bắc tạo ra làn sóng di cư tự do đến các "vùng đất hứa" để
thành lập cái gọi là "khu tự trị" ; vụ kích động đồng bào Khơ-me vượt
biên trái phép và gây tranh chấp đất đai với đồng bào Kinh ở miền Tây
Nam Bộ; đặc biệt, vụ gây bạo loạn chính trị đòi thành lập "nhà nước Đê
Ga tự trị" ở Tây Nguyên (năm 2001 và 2004)... là những minh chứng
18


cụ thể về âm mưu, thủ đoạn thâm độc của các thế lực thù địch lợi dụng
vấn đề dân tộc, tôn giáo để gây mất đoàn kết nội bộ nhân dân các dân
tộc, chia rẽ giữa Đảng, chính quyền với nhân dân, làm mất ổn định
chính trị, tạo cớ can thiệp, ngăn cản, phá hoại sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta.
2.3. Quan điểm giải quyết vấn đề dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta
- Về dân tộc, đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng nước ta. Đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên
minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
- Dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu

dài; đồng thời là vấn đề cấp bách hiện nay của công cuộc đổi mới đất
nước. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, yêu
thương, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lấy mục tiêu xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ,
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương
đồng, xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp
nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc;
đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tập
hợp, đoàn kết mọi người vào mặt trận chung, tăng cường đồng thuận xã
hội.
- Thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc là quan điểm nhất quán
của Đảng ta trong giải quyết vấn đề dân tộc, chính sách dân tộc. Các
dân tộc có dân số dù ít hay nhiều, ở trình độ phát triển cao hay thấp đều

19


bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng,
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Đoàn kết dân tộc phải trên cơ sở lấy mục tiêu xây dựng đất
nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm điểm tương đồng;
tập hợp, đoàn kết mọi người vào một mặt trận chung, tăng cường đối
thoại xã hội, đảm bảo thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
thương yêu, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Luôn tôn trọng lẫn
nhau về lợi ích, truyền thống, văn hoá, ngôn ngữ, phong tục tập quán

của các dân tộc; dân tộc có trình độ phát triển cao phải có trách nhiệm
giúp đỡ dân tộc có trình độ phát triển thấp, vùng kinh tế - xã hội phát
triển phải giúp đỡ vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển, nhằm đảm bảo
các dân tộc có điều kiện phát triển toàn diện, tiến kịp trình độ phát triển
chung của cả nước. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ đoàn
kết dân tộc; tránh tư tưởng kỳ thị dân tộc, tư tưởng ỷ lại trông chờ vào
sự hỗ trợ của Trung ương và tương trợ của dân tộc khác.
+ Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng ở vùng dân tộc và miền núi, gắn tăng trưởng kinh tế với
giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước.
+ Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc, khai
thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái, phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự
cường của đồng bào các dân tộc.
+ Công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn
bộ hệ thống chính trị.
Năm quan điểm nêu trên vừa cơ bản, vừa có giá trị lâu dài trong
20


công tác dân tộc ở nước ta, đòi hỏi phải nắm vững và quán triệt thực
hiện chặt chẽ, nhất quán trong giải quyết vấn đề dân tộc, nhất là các cơ
sở có nhiều dân tộc thiểu số.

21


Chương 3
NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN

CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Tăng cường tuyên truyền đường lối, chính sách về vấn đề
dân tộc của Đảng và Nhà nước
Cần tăng cường việc tuyên truyền đường lối, chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước cho mọi đối tượng, từ cán bộ, đảng viên cho đến
từng người dân. Song song với việc khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và
tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cần chú ý giáo dục sâu rộng ý thức tự hào dân
tộc, tính tự lực tự cường dân tộc và ý thức quốc gia dân tộc. Phải hiểu
rằng sự bình đẳng giữa các dân tộc đặt ra yêu cầu thực hiện công bằng
xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi. Thực hiện công
bằng không nghĩa là dàn đều, bình quân chủ nghĩa mà phải quan tâm,
chú ý đến những đặc điểm và điều kiện phát triển riêng của mỗi vùng,
miền, mỗi dân tộc.
Bồi dưỡng nâng cao nhận thức và sự hiểu biết về các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào dân tộc thiểu số, đồng
thời phát hiện những chính sách chưa phù hợp để kiến nghị với các cấp,
các ngành kịp thời điều chỉnh. Gắn công tác tư tưởng với việc đẩy
mạnh và duy trì thường xuyên các hoạt động phong trào quần chúng;
đồng thời tăng cường kiểm tra thực hiện các chính sách kinh tế- xã hội,
kịp thời giải quyết các vấn đề phát sinh ngay từ cơ sở.
- Nâng cao hiệu quả thông tin tuyên truyền
Cần đấu tranh khắc phục dần nạn mê tín, dị đoan, thay đổi tập
quán làm ăn, phong cách sống của đồng bào. Tăng cường giáo dục lòng
tự hào về những giá trị văn hóa của các dân tộc, đồng thời vạch rõ
những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; khắc phục cho được
tình trạng khá phổ biến hiện nay trong đồng bào dân tộc là ý tưởng ỷ lại
vào Nhà nước.

22



- Tiến hành các cuộc điều tra dư luận xã hội, nắm bắt chính xác
diễn biến tư tưởng và tâm trạng xã hội trong cán bộ đảng viên và quần
chúng nhân dân vùng miền núi, vùng dân tộc thiểu số.
- Sử dụng đa dạng các hình thức tuyên truyền. cần coi trọng
công tác giáo dục thuyết phục và tổ chức dưới nhiều hình thức khác
nhau như giao lưu, trao đổi, đối thoại… Việc tuyên truyền phải coi
trọng lợi ích của quần chúng, tranh tuyên truyền chung chung mà phải
đi trực tiếp vào vấn đề. Do trình độ dân trí thấp, hầu hết đồng bào còn
nặng về tư duy hình tượng nên thường nhìn vào những việc làm cụ thể.
Do đó tuyên truyền phải đi đôi với dẫn chứng thực tiễn cụ thể và gắn
với lợi ích của đồng bào.
Hình thức tuyên truyền phải phong phú, đa dạng và thích hợp
như nói, viết, chú thích tranh ảnh bằng tiếng phố thông kết hợp với
tiếng của đồng bào ở vùng địa phương.
- Tăng cường đầu tư xây dựng, nâng cao chất lượng của các
chương trình phát thanh, truyền hình bằng các ngôn ngữ dân tộc thiểu
số; xây dựng các trạm truyền thanh ở cơ sở, vì đây là những phương tiện
tuyên truyền hiệu quả nhất trong đồng bào các dân tộc. Các chương trình
phát thanh bằng tiếng dân tộc phải luôn bám sát các vấn đề thời sự,
chính trị, kinh tế, xã hội… và các vấn đề mà đồng bào quan tâm, đặc biệt
là vấn đề dân tộc, sắc tộc và tôn giáo.
· Tăng cường công tác giáo dục cán bộ đảng viên
Cần tăng cường giáo dục, quản lý cán bộ đảng viên công tác tại
vùng đồng bào dân tộc thiếu số, cần phải tuyên truyền rộng rãi trong
cán bộ, đảng viên để có nhận thức đúng đắn về bản chất, điều kiện tồn
tại và đặc điểm của tôn giáo ở nước ta. Cần xác đinh rằng tôn giáo tín
ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân và
nó sẽ còn tồn tại lâu dài. Chỉ khi cán bộ đảng viên nhận thức đứng đắn
về tín ngưỡng, tôn giáo thì mới có thể khắc phục được tâm lý nóng vội,


23


coi tôn giáo là đối tượng theo dõi, vô hình chung đẩy đồng bào có tôn
giáo về phía địch, đi theo sự dẫn dắt của các thế lực thù địch.
Ngoài ra cũng cần phải quán triệt sâu sắc trong nhận thức của đội
ngũ cán bộ cơ sở về vai trò, vị trí chiến lược quan trọng của đồng bào
các dân tộc đối với sự ổn định và phát triển bền vững kinh tế- xã hội
của đất nước. Mỗi cán bộ phải tôn trọng cuộc sống của đồng bào, ưu
tiên đúng mức lợi ích của đồng bào, chú trọng tính đặc thù và những
đặc điểm truyền thống văn hóa, tâm lý, trình độ kinh tế - xã hội của
họ.
3.2. Thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế-xã hội ở miền
núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Đặc biệt, phải tiếp tục quán triệt và thực hiện tốt các Nghị quyết
của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng-an
ninh trên địa bàn chiến lược, nhất là những địa bàn có vị trí quan trọng
về quốc phòng-an ninh, đông đồng bào dân tộc như Tây Bắc, Tây
Nguyên, Tây Nam Bộ, Tây Nghệ An... Trong đó từng địa phương cần
phải xác định được giải pháp, hệ thống giải pháp sát thực, phù hợp với
đặc điểm, tình hình nhiệm vụ nhằm khai thác tốt nhất tiềm năng, thế
mạnh cho sự nghiệp phát triển toàn diện của địa phương, phấn đấu từng
bước thu hẹp khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng và
các dân tộc. Coi trọng đầu tư, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng như
giao thông, thuỷ lợi, điện lưới, thông tin liên lạc, trường học, trạm xá,
nước sinh hoạt... tạo nền tảng, cơ sở vật chất để cho đồng bào các dân
tộc phát huy nội lực, khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đẩy
mạnh phát triển sản xuất, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá. Tích
cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng

phát triển kinh tế hàng hoá; đổi mới cơ chế đầu tư, quản lý cho thích
hợp với từng vùng, từng địa phương; có chính sách ưu đãi, hỗ trợ vốn
cho các tỉnh miền núi phát triển khoa học và chuyển giao công nghệ ở
các vùng trên địa bàn. Tăng cường hoạt động khuyến lâm, khuyến
24


×