MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.
Lí do và tính cấp thiết của đề tài.
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn luôn
coi trọng yếu tố con người; coi con người là nguồn lực quý báu nhất, có vai
trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay là sự nghiệp xây dựng và
sáng tạo to lớn của nhân dân ta, đồng thời là một quá trình cải biến xã hội sâu
sắc, đòi hỏi phải đẩy mạnh việc xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn
diện về chính trị, tư tưởng, trí tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý
thức cộng đồng, lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, có lối sống
văn hóa, quan hệ hài hòa trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
Việc nghiên cứu con người Việt Nam hiện nay cũng thể hiện một xu thế
chung của sự phát triển khoa học trên thế giới trong vài thập kỷ gần đây là
nghiên cứu con người với tính cách là nhân tố trung tâm, là nguồn lực quan
trọng quyết định của sự phát triển kinh tế - xã hội. Xu thế này phù hợp và đáp
ứng với quan điểm chỉ đạo cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi
mới là đặt con người vào vị trí trung tâm của quá trình phát triển, coi con
người vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng ta khẳng định: "Muốn tiến hành CNH, HĐH thắng lợi phải phát huy
nguồn lực con người, yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững.
Quan điểm này chính là sự kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về con
người. Từ lâu, Người đã chỉ rõ: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi
ích trăm năm thì phải trồng người", "Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải
có con người xã hội chủ nghĩa". Và trong Bản Di chúc để lại cho toàn Đảng,
toàn dân, Người đã căn dặn: "Đầu tiên là công việc đối với con người"; "Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết
2
Là sinh viên chuyên ngành CNXHKH đã được trang bị những kiến
thức cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đường lối cách
mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, được sự quan tâm, hướng dẫn của thầy cô
trong khoa, sự giúp đỡ của các bạn đồng môn tôi nhận thấy vấn đề nhân tố
con người, phát huy nhân tố con người là vấn đề mà CNXHKH cần phải được
quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa. Việc nghiên cứu vấn đề này phải đứng trên
lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu vì
vậy tác giả chọn đề tài: “Quan niệm cơ bản về nhân tố con người, phát huy
nhân tố con người. Các quan điểm chủ đạo đối với quá trình phát huy nhân tố
con người ở Việt Nam hiện nay”.
2.Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Khách thể nghiên cứu của đề tài: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin
về nhân tố con người, quan điểm chủ đạo đối với quá trình phát huy nhân tố
con người ở Việt Nam hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu: hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa MácLênin về con người và các nội dung, chiến lược xây dựng xây dựng nhân tố
con người ở Việt Nam hiện nay.
Đối tượng khảo sát: nghiên cứu và làm sáng tỏ những luận đểm cơ bản
của CNDVLS về nhân tố con người và các nội dung, chính sách, chiến lược
đối với quá trình phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.
Chúng ta tìm một số tài liệu : giáo trình “ Chủ nghĩa xã hội khoa học”
của khoa CNXHKH, Học viện Báo chí và Tuyên truyền; giáo trình “Nguồn
lực con người, xây dựng nhân tố con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của” của Trường Đại học quốc gia Hà Nội.
3. Tình hình nghiên cứu có liên quan.
Vấn đề con người luôn là mối quan tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu
khác nhau. Mỗi một nhà nghiên cứu lại đưa ra những quan điểm cho riêng
mình. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu được công bố rất rộng rãi và
được bạn đọc mến mộ. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tác giả đã tìm
3
thêm một số công trình nghiên cứu có liên quan, tiêu biểu là một số công trình
như sau:
Giáo trình: “Chủ nghĩa xã hội khoa học” của khoa CNXHKH, Học
viện Báo chí và Tuyên truyền. Trong giáo trình có những nội dung liên quan
tới quá trình phát triển nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay.
Giáo trình: “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam” của nhà xuất bản Lý luận chính trị Hà Nội-2005.
Giáo trình: “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin” của
Bộ giáo dục và đào tạo trong đó có quan điểm chủ nghĩa duy vật lịch sử về
con người và vai trò sáng tạo về lịch sử của quần chúng nhân dân, triển vọng
của xã hội chủ nghĩa- tương lai của xã hội chủ nghĩa trong phát triển con
người.
Văn kiện Đại hội VI với vấn đề phát triển nguồn nhân lực.
Sự khác biệt của tiểu luận với các công trình nghiên cứu khoa học trên
là ở chỗ tiểu luận không rập khuôn máy móc những công trình khoa học trên
mà chỉ tìm hiểu tham khảo, nhận xét đồng thời trích dẫn những quan điểm
quan trọng có liên quan đến đề tài tiểu luận.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu và đóng góp của đề tài.
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là làm sáng tỏ những những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin về nhân tố con người phất huy nhân tố
con người và các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đối với quá trình phát huy
nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay. Từ đó giúp ta hiểu biết thêm, tự nâng
cao khả năng hiểu biết của mình.
Để có thể đạt được mục tiêu ấy tác giả cần phải thực hiện các nhiệm vụ
ngiên cứu như sau:
Tìm hiểu, phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước ta
trong việc xây dựng và phát triển con người.
4
Tìm hiểu phân tích các mục tiêu, chiến lược phát triển con người trong
thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và hệ phương pháp nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu vấn đề này phải đứng trên lập trường quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, các quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử để
nghiên cứu vấn đề.
Trên cơ sở phương pháp luận ấy tác giả đã xác định phương hướng chủ
đạo của việc nghiên cứu đề tài theo hình thức:
Phân tích- tổng hợp
Logic- lịch sử
Biện chứng
Khái quát
Đồng thời bên cạnh đó khi đi sâu vào khai thác vấn đề tác giả sẽ cố
gắng kết hợp với những phương pháp như thu thập, xử lý thông tin, các cách
tiếp cận của đề tài khi nghiên cứu.
6. Kết cấu, nội dung của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
bao gồm 3 chương và 6 tiết.
5
Chương 1:
Một số khái niệm cơ bản và quan niệm của chủ nghĩa
Mác- Lênin về con người.
1.1.
Những quan niệm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người.
1.1.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội.
Bản tính tự nhiên của con người thể hiện trên hai giác độ sau đây:
Thứ nhất, con người là kết quả tiến hóa và phát triển lâu dài của giới tự
nhiên, cơ sở khoa học của kết luận này đã được chứng minh bằng sự phát
triển của chủ nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên, đặc biệt là học thuyết của
Đácuyn về sự tiến hóa của các loài.
Thứ hai, con người là bộ phận của giới tự nhiên do đó những biến đổi
của giới tự nhiên và tác động của quy luật tự nhiên trực tiếp hoặc gián tiếp
thường xuyên quy định sự tồn tại của con người và xã hội loài người, nó là
môi trường trao đổi vật chất giữa con người với giới tự nhiên; ngược lại sự
biến đổi và hoạt động của con người luôn tác động trở lại môi trường tự nhiên
và làm biến đổi môi trường tự nhiên.
Tuy nhiên, con người cũng không đồng nhất với các tồn tại khác của
giới tự nhiên, nó có đặc tính xã hội. Bản tính xã hội của con người là bản tính
đặc thù của nó trong quan hệ với các tồn tại khác của giới tự nhiên. Bản tính
xã hội của con người thể hiện ở các mặt sau:
Một là, nguồn gốc hình thành con người không chỉ là quá trình tiến hóa
của giới tự nhiên mà trước hết và cơ bản nhất là nhân tố lao động. Chính nhờ
lao động mà con người có khả năng vượt qua loài động vật để tiến hóa và phát
triển thành người.
Hai là, sự tồn tại và phát triển của con người luôn bị chi phối bởi các
nhân tố xã hội và các quy luật xã hội. Xã hội biến đổi thì mỗi con người cũng
biến đổi và ngược lại, sự phát triển của mỗi cá nhân lại trở thành tiền đề cho
sự phát triển xã hội.
6
Hai phương diện tự nhiên và xã hội của con người tồn tại trong tính
thống nhất của nó, quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau, làm biến đổi lẫn
nhau, nhờ đó tạo nên khả năng hoạt động sáng tạo của con người trong quá
trình làm ra lịch sử của chính mình. Vì vậy, để lý giải bản tính sáng tạo của
con người cần kết hợp chặt chẽ cả hai phương diện tự nhiên và xã hội nhằm
tránh rơi vào phiến diện, không triệt để, dẫn đến những sai lầm trong nhận
thức và hoạt động thực tiễn.
1.1.2. Trong tính hiện thực của nó bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc Mác dã nêu lên luận đề nổi
tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá
nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội”.
Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng thoát ly
mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn luôn cụ thể, xác định
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định.
Trong điều kiện lịch sử đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người
tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và
tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai
cấp, dân tộc, thời đại; quan hệ chính trị, kinh tế; quan hệ cá nhân, gia đình, xã
hội...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội không có
nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó
muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết
là ở bản chất xã hội và đấy cũng là để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết
học trước Mác không thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái
bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ không thể là
duy cái duy nhất. Do đó cần phải thấy được các biểu hiện riêng biệt, phong
7
phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích trong
cộng đồng xã hội.
1.1.3.Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là: con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định “ Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa
cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học
thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản
thân nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng
của tự nhiên, Ph.Ăngghen cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử phát
triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử
ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào
việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không
phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu
theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì con người lại càng tự mình làm ra lịch
sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn,
tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động
phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn
của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình
để làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo
mục đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của
mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch
sử của chính bản thân con người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người trong mối
quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động, biến đổi cũng không
8
phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống
đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong
tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể sáng tạo. Thông qua đó, bản chất con
người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động
và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng ( mặc dù không trùng khắp) với
sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
1.2.
Khái niệm nhân tố con người và phát huy nhân tố con người.
1.2.1. Khái niệm nhân tố con người.
•
Định nghĩa.
Nhân tố con người là toàn bộ những yếu tố nói lên khẳ năng, vai trò
tiềm năng của con người có thể phát huy, trở thành các hoạt động tích cực,
sáng tạo của con người thúc đẩy sự phát triển đời sống xã hội, đáp ứng yêu
cầu phát triển xã hội.
•
Các thành tố của con người.
Trình độ học vấn trình độ chuyên môn nghề nghiệp được đào tạo hoặc
tự đào tạo
Trình độ văn hóa, năng lực giao tiếp ứng xử trong quan hệ xã hội năng
lực phát hiện, xử lí các tình huống hoạt động chuyên môn
Phẩm chất đạo đức lối sống, ý thức chính trị- xã hội, trách mhieemj
công dân.
Các tiêu chí nói lên sức khỏe, thể chất con người.
Các thành tố trên có quan hệ hữu cơ, chỉnh thể với nhau, tạo nên một
tập hợp các chỉ báo nói lên khả năng, tiềm năng của cộng đồng, những nhóm
những tầng lớpcon người, có thể huy dộng, được sử dụng vào lao động sáng
tạo đáp ứng các nhu cầu của xã hội.
•
Các nội dung của nhân tố con người:
-
Đó là một chỉnh thể các giai cấp, tầng lớp xã hội liên kết nhau
chặt chẽ. Sự tác động qua lại giữa chúng và hoạt động của chúng bảo đảm cho
sự phát triển tiến bộ của xã hội. Nội dung này được phản ánh qua các tiêu chí
9
về ý thức giai cấp, ý thức trách nhiệm trước cộng đồng, ý thức về nghĩa vụ và
quyền lợi công dân,…
-
Nhân tố con người được hiểu là những chỉ tiêu về số lượng, chất
lượng nói lên khả năng của con người, của cộng đồng người như những khả
năng tiềm tàng cần khai thác, bồi dưỡng và phát huy. Đó là những tiêu chí về
số lượng lao động, tình hình sức khỏe, trình độ học vấn, tuổi thọ, mức sống…
-
Đó là những tiêu chí về nhân cách, về chức năng xã hội của con
người. Những tiêu chí này nói lên khả năng sáng tạo của cá nhân trong hệ
thống các quan hệ xã hội, bao gồm năng lực chuyên môn, kỹ thuật được đào
tạo lẫn thái độ lao động…
-
Các mặt nội dung này có mối quan hệ biện chứng. Cần tính đến
đầy đủ những nội dung đó khi hình thành chiến lược về con người trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
•
Nhân tố con người và vai trò của nó trong lực lượng sản xuất.
Con người là một thực thể sinh học, xã hội thống nhất. Thật vậy, con
người là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của quá trình tiến hoá lâu dài của
giới hữu sinh. Tính sinh học trong con người quy định sự hình thành những
hiện tượng và quá trình tâm lí trong con người là điều kiện quyết định sự tồn
tại của con người. Song con người không phải là động vật thuần tuý như các
động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nội dung văn hoá
lịch sử của nó. Con người là sản phẩm của xã hội mang bản tính xã hội. Con
người chỉ có thể tồn tại được khi tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật
chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết
định sự hình thành con người và ý thức của con người. Chính lao động đã quy
định bản chất xã hội của con người, quy định cái xã hội nơi con người tồn tại
và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân cách. Vì con người là sản phẩm
của tự nhiên và xã hội nên con người chịu sự chi phối của môi trường tự
nhiên và xã hội cùng các quy luật biến đổi của chúng.
Với tư cách là con người xã hội, là con người hoạt động thực tiễn, con
người sản xuất ra của cải vật chất, tác động vào tự nhiên để cải tạo tự nhiên,
nên con người chính là chủ thể cải tạo tự nhiên. Con người là sản phẩm của tự
10
nhiên, song con người có thể thống trị tự nhiên nếu biết nắm bắt và tuân theo
các quy luật của bản thân giới tự nhiên. Bằng hoạt động sản xuất con người
sáng tạo ra toàn bộ nền văn hoá vật chất và tinh thần. Mặc dù tự nhiên và xã
hội đều vận động theo quy luật khách quan, nhưng trong quá trình hoạt động,
con người luỗn uất phát từ nhu cầu động cơ và hứng thú, theo đuổi những
mục đích nhất định và do đó đã tìm cách hạn chế hay mở rộng phạm vi tác
dụng của quy luật cho phù hợp với nhu cầu và mục đích của mình.
1.2.2. Khái niệm phát huy nhân tố con người
•
Định nghĩa.
Phát huy nhân tố con người là khái niệm dùng để chỉ một tập hợp công
cụ, phương tiện, cơ chế quản lý được xác định, vận hành nhằm khai thác, sử
dụng nhân tố con người một cách triệt để, có hiệu quả, hướng vào các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển đời sống xã hội. Phát huy nhân tố con người là toàn
bộ hoạt động nhằm khai thác, sử dụng tất cả những khẳ năng, điều kiện cho
hoạt động tích cực sáng tạo của con người trong hoàn cảnh có thể nhằm đẩy
nhanh tốc độ phát triển xã hội theo hướng tiến bộ.
•
Hiệu quả phát huy nhân tố con người.
Hiệu quả nhân tố con người sẽ là tập hợp các tiêu chí, các chỉ báo nói
lên các kết quả, các mục tiêu tổng thể về kinh tế, văn hóa, xã hội đạt được,
trong tương quan với phát huy số lượng, chất lượng các yếu tố của nhân tố
con người trong việc thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Hiệu quả phát huy nhân tố con người trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa phụ thuộc vào một hệ thống các yếu tố, các điều kiện khách quan và
chủ quan khác nhau trong đó, việc đề ra, thực hiện một hệ thống xã hội đúng
đắn , hài hòa…được coi là điều kiện chủ yếu, quyết định nhất. Bởi điều đó sẽ
tạo sự tác động to lớn không chỉ đối với nâng cao chất lượng nhân tố con
người, mà điều quan trọng chủ yếu hơn là sự tác động mạnh mẽ đối với hiệu
quả phát huy, huy động nhân tố con người biến nhân tố con người là tiềm
năng, thành động lực thực tế thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế xã hội.
11
Chương 2:
Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về con người và
phát huy nhân tố con người.
2.1. Quan điểm Hồ Chí Minh về con người và phát huy nhân tố con người.
2.1.1. Khái niệm "con người" trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh không có con người trừu tượng. Người
viết "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng
là đồng bào cả nước. Rộng hơn là cả loài người"
Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tồn tại như một phạm
trù bản thể luận có tính trừu tượng hóa và khái quát hóa, mà được đề cập đến
một cách cụ thể. Người dùng khái niệm này hay khái niệm khác để chỉ "con
người" và xem xét nó trong những bình diện khác nhau.
Trong những năm 20 của thế kỉ XX, người thường khái niệm: " người
bản xứ " " người bản xứ bị áp bức" , " người mất nước", " người bị bóc lột", "
người da vàng" " người da đen", " người vô sản", " người vô sản ở thuộc địa",
" người vô sản ở chính quốc", " người cùng khổ"... và đối lập với họ là những
tên : " thực dân thực dân độc ác", " viên chức tàn bạo", " bọn ăn bám đủ các
cỡ", " kẻ diễm phúc có đặc quyền đặc lợi", " đức ngài tư bản chủ nghĩa"...
Sau cách mạng tháng Tám, con người Việt Nam đã trở thành người tự
do cùng với toàn thể nhân dân làm chủ đất nước, thực hiện đại đoàn kết toàn
dân để kháng chiến chống Pháp. Người dùng các khái niệm: " đồng bào", "
nhân dân quốc", " dân dân" và qua đó đặt con người trong quan hệ gắn bó với
khối thống nhất của cộng đồng dân tộc.
Trong thời kì cải cách ruộng đất và cải tạo CNXH, Hồ Chí Minh đã nói
rõ con người trong mối quan hệ giai cấp như: lao động chân tay, lao động trí
óc, công nhân, nông dân tập thể, người chủ tập thể... ngoài các quan hệ xã hội
người còn xem xét con người theo giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp.
12
Cách tiếp cận cơ bản nhất của Hồ Chí Minh là thống nhất lập trường
giai cấp với dân tộc cũng như cách tiếp cận xuyên suốt tư tưởng Hồ Chí Minh
và là sự vận dụng sáng tạo lập trường giai cấp vô sản vào hoàn cảnh cụ thể
Việt Nam.
2.1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về phát huy nhân tố con người.
Để đạt được những mục tiêu trong cách mạng giải phóng dân tộc là:
độc lập dân tộc và nhân dân làm chủ đất nước, trong cách mạng XHCN là:
nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đất nước phát triển ... thì điều quan
trọng theo Hồ Chí Minh là phải nhận thức vận dụng và phát huy tất cả nguồn
lực của đất nước. Động lực hiểu một cách tóm tắt là tất cả những nhân tố góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội thông qua hoạt động của con
người. Các động lực muốn phát huy được những tác dụng đều phải thông qua
con người. Do đó bao trùm lên tất cả vẫn là động lực con người. Con người
trên cả hai bình diện cá nhân và cộng đồng.
•
Phát huy sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc- động lực
chủ yếu để phát triển đất nước.
Con người trên bình diện cộng đồng bao gồm dân: công nhân, nông
dân, trí thức... các tổ chức và đoàn thể, các dân tộc và tôn giáo, đồng bào
trong nước và kiều bào ở nước ngoài... Người cũng không quên nhắc nhở:
giai cấp tư sản dân tộc cũng là một lực lượng tham gia đấu tranh chống thực
dân, phong kiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì giai cấp tư sản dân tộc ở
nước ta "Có xu hướng chống đế quốc, có xu hướng yêu nước".
•
Phát huy sức mạnh con người với tư cách cá nhân.
Sức mạnh cộng đồng được hình thành từ sức mạnh cá nhân, thông qua
sức mạnh của từng cá nhân. Do đó, phát huy sức mạnh của con người với tư
cách cá nhân người lao động. Muốn phát huy được sức mạnh cộng đồng phải
tìm ra các biện pháp khơi dậy, cách phát huy động lực của mỗi cá nhân.
13
Hồ Chí Minh đã đề cập một hệ thống nội dung, biện pháp vật chất và
tinh thần, nhằm tác động vào đó tạo ra sức mạnh thúc đẩy hoạt động của con
người cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và cho CNXH.
Tác động vào các động lực chính trị và tinh thần
Phát huy quyền làm chủ và ý thức làm chủ của người lao động bao gồm
quyền làm chủ sở hữu, làm chủ quá trình sản xuất và phân phối.
Thực hiện công bằng xã hội.
Hồ Chí Minh đã thấy do thiếu công bằng dân chủ mà dẫn tới hậu quả
bùng nổ những xung đột xã hội căng thẳng. Vì vậy, Người nhắc nhở trong
công tác phân phối, lưu thông có hai điều luôn nhắc nhở:
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng.
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên.
Công bằng theo Hồ Chí Minh, không phải là cào bằng một cách bình
quân, giỏi kém như nhau, làm triệt tiêu mất động lực kinh tế xã hội.
Sử dụng vai trò điều chỉnh của những nhân tố tinh thần khác:
chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật.
Trong đấu tranh giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã huy động sức
mạnh lí tưởng ( lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, chủ nghĩa anh hùng... ) cũng
như đem lại cho họ lợi ích vật chất ( ruộng đất, cơm áo, nhu cầu vật chất hàng
ngày) cho cả cộng đồng cho và cá nhân.
Hồ Chí Minh phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân nhưng hơn ai hết,
Người rất quan tâm đến con người khuyến khích lợi ích cá nhân chính đáng,
coi trọng động lực cá nhân tìm tòi cơ chế, chính sách để kết hợp hài hòa lợi
ích xã hội và lợi ích cá nhân như khoán, thưởng, phạt trong kinh tế.
Tóm lại. Quan niệm về con người, coi con người là một thực thể thống
nhất của "cái cá nhân" và "cái xã hội", con người tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng giữa cá nhân với cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu
thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính
14
bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về
con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó,
trong khi lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết lòng thương
yêu, quý trọng nhân dân, biết tổ chức và phát huy sức mạnh của nhân dân. Tư
tưởng về con người của Người thông qua thực tiễn cách mạng đã trở thành
một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự
nghiệp cách mạng ấy.
2.2. Quan điểm của Đảng ta về nhân tố con người .
2.2.1. Quan điểm của Đảng ta về nhân tố con người và phát huy nhân
tố con người ở Việt Nam thời kì Đổi mới.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những quan điểm về con người
mang tính nhân văn sâu sắc. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh bắt
nguồn từ hiện thực cuộc sống với những nhu cầu, lợi ích bình dị nhất. Hồ Chí
Minh nhìn nhận con người có vai trò quyết định đối với sự phát triển của xã
hội. Hồ Chí Minh khẳng định “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết
cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Người còn khẳng định “ Vì lợi ích
mười năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người”. Và Hồ Chí
Minh đã căn dặn Đảng ta “ Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một
việc rất quan trọng, rất cần thiết”.
Từ những quan điểm về con người và xây dựng con người trong tư
tưởng Hồ Chí Minh luôn được Đảng ta vận dụng sáng tạo vào trong quá trình
xây dựng và phát triển con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới.
Chính vì vậy, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH thông qua tại Đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) đã đặt vấn đề con
người là một trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
xây dựng đó là “con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công,
làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”.
15
Việc xây dựng con người được Đảng ta xem xét từ nhiều khía cạnh
khác nhau, trước hết là quan tâm tới việc “Phát triển con người toàn diện, có
đạo đức, trí tuệ, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” trong Luật Giáo dục đã được Quốc hội
thông qua ngày 11/12/1998.
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) đã bổ sung quan điểm xây dựng
con người là “ Đề cao quyền con người và quyền làm chủ của nhân dân”. Đến
Đại hội X (tháng 4-2006), Đảng ta đã đưa việc xây dựng con người vào
“Chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con người Việt Nam,
tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi”. Để nâng cao thể lực và chăm
sóc sức khoẻ của nhân dân trong tình hình mới, Đảng ta đã nhấn mạnh “ Sức
khoẻ là vốn quý nhất của mỗi con người và toàn xã hội, là nhân tố quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, chúng ta phấn đấu để
mọi người được quan tâm chăm sóc sức khoẻ”.
Với những nhận định trên, Đảng ta đã ngày càng nhận thức đầy đủ hơn,
rõ ràng và sâu sắc hơn về nhân tố con người và đặt con người vào vị trí trung
tâm của chiến lược phát tiển kinh tế - xã hội, coi con người vừa là mục tiêu
vừa là động lực của sự phát triển. Bởi vì nói cho cùng mục tiêu của sự nghiệp
xây dựng và phát triển đất nước là phải hướng tới phục vụ con người, giải
phóng con người, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo
cơ hội và điều kiện để nhân dân tham gia làm chủ vào quá trình trình sáng tạo,
sản suất, truyền bá và hưởng thụ các thành quả chung của xã hội.
Trong báo cáo tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (1991 - 2011), Đảng ta đã nhận định:
“Còn có biểu hiện xem nhẹ yếu tố con người và nguồn nhân lực trong đầu tư
và phát triển, vi phạm quyền làm chủ và lợi ích chính đáng của cá nhân, chưa
thấy hết trách nhiệm của gia đình, nhà trường, xã hội đối với việc xây dựng
con người. Có biểu hiện tuyệt đối hoá cá nhân, lợi ích cá nhân, tự do cá nhân.
Chậm cụ thể hoá xây dựng tiêu chí con người cho phù hợp với từng giai tầng
16
xã hội. Còn lúng túng trong công tác giáo dục, xây dựng con người về tư
tưởng, đạo đức, lối sống. Điều kiện chăm lo nâng cao chất lượng cuộc sống
của con người (học hành, chăm sóc sức khoẻ, vui chơi, giải trí,…) còn nhiều
hạn chế…”. Vì vậy, việc xây dựng, phát triển con người Việt Nam trong thời
kỳ mới là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng con người tại Đại hội XI
(tháng 1-2011) được khẳng định rõ: “Con người là trung tâm của chiến lược
phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và
quyền làm chủ của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội,
gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư
trong việc chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý
thức làm chủ, trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống
có văn hóa, nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình ấm
no, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường
quan trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản
xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách
làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình
bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá
Việt Nam".
2.2.2. Mục tiêu trong chiến lược xây dựng con người và phát huy nhân
tố con người ở Việt Nam hiện nay.
•
Phát triển mạnh sự nghiệp y tế, nâng cao chất lượng công tác
chăm sóc sức khoẻ nhân dân.
Tập trung phát triển mạnh hệ thống chăm sóc sức khoẻ và nâng cao
chất lượng dịch vụ y tế. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư đồng thời đẩy mạnh xã
hội hóa để phát triển nhanh hệ thống y tế công lập và ngoài công lập; hoàn
chỉnh mô hình tổ chức và củng cố mạng lưới y tế cơ sở. Nâng cao năng lực
của trạm y tế xã, hoàn thành xây dựng bệnh viện tuyến huyện, nâng cấp bệnh
17
viện tuyến tỉnh và tuyến trung ương. Xây dựng thêm một số bệnh viện chuyên
khoa có trình độ cao tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một số vùng.
Xây dựng một số cơ sở khám, chữa bệnh có tầm cỡ khu vực. Khuyến khích
các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế thành lập các cơ sở y tế chuyên
khoa có chất lượng cao. Khắc phục tình trạng quá tải ở các bệnh viện, đặc biệt
là bệnh viện tuyến trung ương và tuyến tỉnh. Đổi mới cơ chế hoạt động, nhất
là cơ chế tài chính của các cơ sở y tế công lập theo hướng tự chủ, công khai,
minh bạch. Chuẩn hoá chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng bệnh viện, từng
bước tiếp cận với tiêu chuẩn khu vực và quốc tế. Đổi mới và hoàn thiện đồng
bộ các chính sách bảo hiểm y tế, khám, chữa bệnh và viện phí phù hợp; có lộ
trình thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân. Thực hiện tốt chính sách khám, chữa
bệnh cho các đối tượng chính sách, người nghèo, trẻ em và người dân tộc
thiểu số, chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi. Tăng cường đào tạo và nâng cao
chất lượng chuyên môn, y đức, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ y tế.
Phấn đấu đến năm 2020 tất cả các xã, phường có bác sĩ. Phát triển mạnh y tế
dự phòng, không để xảy ra dịch bệnh lớn. Tiếp tục kiềm chế và giảm mạnh
lây nhiễm HIV. Tiếp tục giảm tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng. Nâng cao chất
lượng và bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm. Phát triển nhanh công nghiệp
dược và thiết bị y tế. Phát triển mạnh y học dân tộc kết hợp với y học hiện đại.
Quản lý chặt chẽ việc sản xuất và kinh doanh dược phẩm.
Xây dựng và thực hiện chiến lược quốc gia về nâng cao sức khỏe, tầm
vóc con người Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển thể dục thể thao quần chúng và
thể thao thành tích cao. Thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hóa
gia đình, duy trì mức sinh thay thế, bảo đảm cân bằng giới tính hợp lý, nâng
cao chất lượng dân số. Đẩy mạnh xã hội hoá trong các lĩnh vực y tế, dân số kế hoạch hoá gia đình và thể dục thể thao.
18
•
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát
triển nhanh giáo dục và đào tạo.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân
lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh
phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển
đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. Đặc biệt coi trọng phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi,
lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát
triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh
nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển
nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào
tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn.
Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát
triển kinh tế tri thức.
Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân
chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát
triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng
cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng
lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài
chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các
bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà
trường với gia đình và xã hội.
Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực
hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng
cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên
nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới
19
trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với
nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư
xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.
Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở
tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để từ sau năm 2015 thực hiện
chương trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào
tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy
động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục. Phát triển nhanh và nâng cao
chất lượng giáo dục ở vùng khó khăn, vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu
số. Đẩy mạnh phong trào khuyến học, khuyến tài, xây dựng xã hội học tập;
mở rộng các phương thức đào tạo từ xa và hệ thống các trung tâm học tập
cộng đồng, trung tâm giáo dục thường xuyên. Thực hiện tốt bình đẳng về cơ
hội học tập và các chính sách xã hội trong giáo dục.
20
Chương 3:
Nội dung cơ bản trong chiến lược xây dựng con người và phát
huy nhân tố con người ở Việt Nam ta hiện nay
3.1. Phương hướng và giải pháp phát huy nhân tố của con người ở
nước ta hiện nay.
Một là: phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của nhà nước XHCN.
Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là biện pháp hữu hiệu làm cho
nền kinh tế phát triển nhanh, có hiệu quả, nó làm cho lực lượng sản xuất phát
triển, tiềm năng của con người được phát huy. Sự phát triển nền kinh tế la cơ
sở để thực hiện các mục tiêu của XHCN trong đó có mục tiêu xậy dựng và
phát huy nhân tố con người. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần sẽ tạo
điều kiện cho các chủ thể sở hữu, các thành phần kinh tế chủ động phát huy
tiềm năng trong sản xuất, lưu thông đó là môi trường thuận lợi để mỗi công
dân phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, giám nghĩ giám làm giàu một cách
chính đáng.
Sự giầu có của đất nước và của mỗi gia đình là điều kiện để nhà nước
thực hiện tốt chính sách xã hội, các tổ chức xã hội, mỗi công dân có điều kiện
thực hiện đạo lý: “ uống nước nhớ nguồn” , “ đền ơn đáp nghĩa”, có điều kiện
để nâng cao trình độ học vẫn cho bản thân.
Hai là: Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cơ sở để thực hiện bước chuyển biến
của con người, từ lối suy nghĩ đến việc của người sản xuất nhỏ sang lối suy
nghĩ, cách làm việc của người sản xuất lớn, công nghiệp hiện đại. Quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hướng vào công nghiệp hóa nông
nghiệp, nông thôn. Đó là giải pháp đúng đắn, hợp lý để phát huy nhân tố con
người ở nước ta – một nước mà 80% dân số sống ở nông thôn. Công nghiệp
21
hóa, hiên đại hóa còn tạo nhiều cơ hội để giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho người lao động, tạo điều kiện để tăng cường khối liên minh công nông trí
trong cách mạng XHCN.
Ba là: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nâng cao hiệu lực
quản lý của nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội.
Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nâng cao hiệu lực quản lý kinh
tế của nhà nước, thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội là giải pháp then chốt
để phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay. Giải pháp nay đảm bảo cho
con người được sống trong môi trường lành mạnh, có điều kiện phát huy năng
lực sáng tạo cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ phẩm giá, tài
sản tính mạng của từng cá nhân.
Thực hiện tốt các nội dung trên đây mới khắc phục được tệ nạn quan
lieu, tham nhũng mới phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ cho công dân, đảm
bảo phát huy nhân tố con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là: Đẩy mạnh các cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng – văn hóa, bồi dưỡng đạo đức cách mạng, phát triển trí tuệ
của người Việt Nam.
Cách mạng tư tưởng văn hóa là bộ phận của cách mạng XHCN do giai
cấp công nhân và nhân dân lao động biến thành. Phát huy nhân tố con người
là động lực của cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Cuộc cách
mạng này có tác dụng phát huy nhân tố con người thông qua đó mà xây dựng
nên con người mới, cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa từng bước hình thành
thế giới khách quan, nhân sinh quan công sản cho công dân, giáo dục đạo
đức, tình cảm lối sống mới, tính tích cực xã hội cho mỗi công dân.
Mục đích cao nhất của XHCN là giải phóng con người, tạo điều kiện
cho mỗi cá nhân phát triển tự do và toàn diện các khả năng của mình. Do đó,
trong công cuộc đổi mới, nhân tố con người được xem là trung tâm của mọi
chính sách kinh tế - xã hội. Nó nâng cao tính tích cực của con người, sức
mạnh quyết định của chủ nghĩa xã hội.
22
3.2. Nhiệm vụ xây dựng con người và phát huy nhân tố con người
trong xã hội chủ nghĩa.
Tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo. Thu
hẹp khoảng cách giữa các về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng,
các dân tộc, các tầng lớp dân cư.
Quan tâm đến giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu.
Xây dựng đồng bộ các chính sách kinh tế, xã hội đúng đắn, phát huy
mọi khả năng sáng tạo của nhân dân….
23
KẾT LUẬN
Vấn đề con người và chiến lược phát huy nhân tố con người ở Việt
Nam là vấn đề phong phú là đề tài có tính cấp thiết cho các nhà tư tưởng và
các học giả nghiên cứu. Đặc biệt với sự phát triển không ngừng của kinh tế,
đời sống vật chất của người dân không ngừng được nâng cao thì vấn đề này
càng trở nên có ý nghĩa quan trọng. Các nhà Macxit, các nhà CNXHKH cần
quan tâm nghiên cứu sâu hơn nữa vấn đề con người XHCN trong tình hình
mới. Việc nghiên cứu vấn đề cần đặt trên lập trường của chủ nghĩa của chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Việc nghiên cứu vấn con người và chiến lược xây phát huy nhân tố con
người ở nước ta hiện nay là rất cần thiết, góp phần bổ sung cho chủ nghĩa
Mác-Lênin, thêm hoàn thiện, để cho chủ nghĩa Mác-Lênin, luôn luôn phù hợp
với tình hình và giữ nguyên được những giá trị cách mạng và khoa học của
nó. Hơn nữa sẽ giúp chúng ta vận dụng một cách đúng đắn để xây dựng và
phát triển con người, xã hội hơn nữa.
Đối với Việt Nam thì đây luôn là yêu cầu cấp bách cần được nghiên
cứu. Chiến lược xây dựng con người phát huy nhân tố con người ở Việt Nam
hiện nay phải dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Có như vậy nguồn lực con người mới phát huy được mức tối đa, phục
vụ cho sự phát triển kinh tế.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo [2006]: Giáo trình Triết học Mác – Lênin, NXB
Chính trị- Quốc gia, Hà Nội.
2. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn
khoa học Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh [2008]: giáo trình tư tưởng
Hồ Chí Minh, NXB Chính trị- Quốc gia, Hà Nội.
3. Khoa CNXH [2007]: Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, (Lưu hành nội bộ).
4. Văn kiện đại hội Đảng XI [2011] NXB Chính trị- Quốc gia, Hà Nội.
25