Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

KTCT những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn về phát triển và quản lí các loại thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.04 KB, 12 trang )

MỞ ĐẦU
Đất nước ta đang bước vào thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội,do vậy
mà việc tồn tại nền kinh tế thị trường là một tất yếu, song điều khác biệt ở đây
là nền kinh tế thị trường của nước ta là nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước. Đặc trưng cơ bản của
kinh tế thị trường là mọi giao dịch về kinh tế đều dựa trên cơ sở giá cả do thị
trường quyết định. Trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế, chúng ta đã dần
dần hình thành các loại thị trường, theo như Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X, ở nước ta có 5 loại thị trường:
- Thị trường hàng hóa, dịch vụ.
- Thị trường sức lao động.
- Thị trường tài chính: bao gồm thị trường vốn và thị tường tiền tệ.
- Thị trường bất động sản.
- Thị trường khoa học và công nghệ.
Việc tồn tại các loại thị trường trên đây một mặt tạo điều kiện phát triển
kinh tế về mọi mặt trên tất các lĩnh vực, mặt khác sẽ là bất cập, khó khăn nếu
như không có sự quản lí của Nhà nước, đặc biệt là sự lãnh đạo của Đảng. Bởi
mỗi loại thị trường đều có cung - cầu, giá cả, người mua, người bán đặc thù,
có quy luật vận hành đặc trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Sự
quan hệ lệ thuộc tác động biện chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi
hoạt động và phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Chính vì
vậy, việc đặt ra “Những quan điểm cơ bản và chủ trương lớn về phát triển
và quản lí các loại thị trường” là điều cần thiết trong chính sách phát triển
kinh tế ở nước ta hiện nay.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã đưa ra quan điểm: “
Phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả các loại thị trường cơ bản theo cơ
chế cạnh tranh lành mạnh. Cùng với việc phát triển mạnh thị trường hàng
1


hóa, dịch vụ và thị trường sức lao động cần phát triển vững chắc thị trường


tài chính bao gồm thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo cơ chế đồng bộ, có
cơ cấu hoàn chỉnh; phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị trường
quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất làm cho đất đai thực sự
trở thành nguồn vốn cho phát triển, thị trường bất động sản trong nước có
sức cạnh tranh so với thị trường khu vực; phát triển thị trường khoa học và
công nghệ trên cơ sở đổi mới cơ chế, chính sách để phần lớn sản phẩm khoa
học và công nghệ ( trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng
đường lối chiến lược, chính sách phát triển quốc phòng và an ninh) trở thành
hàng hóa”.
Để cụ thể hóa quan điểm trên đây, Đảng ta đề ra chủ trương, giải pháp
đối với từng loại thị trường như sau:
Đối với thị trường hàng hóa và dịch vụ.
Đảng ta chủ trương: “Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền
kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp tiếp tục đổi mới cơ chế quản lí
giá. Phát triển thương mại trong nước, tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế
quốc tế.”
Ta biết rằng, thị trường hàng hóa, dịch vụ là thị trường lớn nhất với sự
tham gia đông đảo của các tầng lớp nhân dân. Sự phát triển của thị trường
hàng hóa, dịch vụ còn là biểu hiện trực tiếp của tăng trưởng kinh tế.
Nếu như ở Đại hội IX, Đảng chủ trương “Phát huy vai trò nòng cốt,
định hướng và điều tiết của nền kinh tế nhà nước trên thị trường” thì đến Đại
hội X, Đảng ta lại xác định: “Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền
kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp”. Việc thực hiện biện pháp trên
đây nhằm mở rộng cạnh tranh trên thị trường của những người sản xuất hàng
hóa. Đây cũng có thể coi là biện pháp quan trọng cho sự phát triển của thị
trường dịch vụ vì sự tăng trưởng của lĩnhvực dịch vụ những năm qua chậm,
chủ yếu là dịch vụ truyền thống, chậm phát triển được các dịch vụ cao cấp.
2



Đối với thị trường tài chính.
Đảng ta xác định: “Phát triển vững chắc thị trường tài chính bao gồm
thị trường vốn và thị trường tiền tệ theo hướng đồng bộ, có cơ cấu hoàn
chỉnh. Mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường vốn và thị
trường chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát
triển. Hiện đại hóa và đa dạng hóa các hoạt động của thị trường tiền tệ. Xây
dựng các ngân hàng thương mại nhà nước vững mạnh về mọi mặt. Mở cửa
thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội nhập quốc tế”
Ở Đại hội IX, Đảng ta mới chỉ đề cập đến “Thị trường vốn” còn thị
trường tiền tệ; khả năng chuyển đổi của đồng tiền Việt Nam mới đang trong
giai đoạn hình thành. Đến Đại hội X, đã có bước tiến rất rõ rệt. Việc “Mở
rộng và nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường vốn và thị trường
chứng khoán. Huy động mọi nguồn vốn trong xã hội cho đầu tư phát triển”
Là do thị trường vố của nước ta còn nhỏ bé, trong khi nhu cầu đầu tư cho phát
triển là rất lớn, đồng thời chúng ta chưa huy động được hiệu quả nguồn vốn
nhàn dỗi trong dân cư đầu tư cho phát triển. Mở rộng thị trường vốn để nhân
dân tham gia, trong đó có thị trường chứng khoán là một biện pháp huy động
mọi nguồn vốn xã hội vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế.
Sở dĩ Đảng ta chủ trương “Hiện đại hóa và đa dạng hóa các hoạt động
của thị trường tiền tệ. Xây dựng các ngân hàng thương mại nhà nước vững
mạnh về mọi mặt. Mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng theo lộ trình hội
nhập quốc tế” là vì, trong nền kinh tế thị trường, tiền tệ cũng là một hàng hóa
và được kinh doanh trên thị trường tiền tệ, hoạt động ngân hàng sẽ ngày càng
phát triển. Yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế là phải để ngân hàng ngoài nước
được kinh doanh trên thị trường tiền tệ trong nước. Trong điều kiện đó, việc
củng cố các ngân hàng thương mại nhà nước vững mạnh là một yêu cầu để
đảm bảo vai trò định hướng phát triển cho thị trường tiền tệ nước ta.
Đối với thị trường bất động sản.


3


Đảng ta chủ trương: “Phát triển thị trường bất động sản bao gồm thị
trường quyền sử dụng đất và bất động sản gắn liền với đất: bảo đảm quyền
sử dụng đất chuyển thành hàng hóa một cách thuận lợi, làm cho đất đai thực
sự trở thành nguồn vốn phát triển, thị trường bất động sản trong nước có sức
cạnh tranh với thị trường khu vực, có sức hấp dẫn các nhà đầu tư. Thực hiện
công khai minh bạch và tăng cường tính pháp lí, kỉ luật, kỉ cương trong quản
lí đất đai và thông qua các chính sách về thuế có liên quan đất đai. Nhà nước
vừa quản lí tốt các thị trường bất động sản vừa là nhà đầu tư bất động sản
lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống pháp về kinh doanh bất động sản”.
Nếu như ở Đại hội IX, Đảng ta mới chỉ đề cập một cách khái quát là
“hình thành và phát triển thị trường bất động sản, bao gồm cả quyền sử dụng
đất theo quy định của pháp luật, từng bước mở rộng thị trường cho người
Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài tham gia đầu tư”. Đại hội X xác
định như trên là vì, cũng như các lĩnh vực khác trong nền kinh tế thị trường,
đất đai bao gồm quyền sử dụng đất và bất động sản trên đất cũng là hàng hóa
và cần được trao đổi trên thị trường. Trong điều kiện nước ta, đất đai thuộc sở
hữu của Nhà nước, nên đất đai là nguồn vốn rất lớn để qua đó Nhà nước đầu
tư cho phát triển kinh tế. Đại hội xác định phát triển thị trường theo các hướng
sau:
- Bảo đảm quyền sử dụng đất, chuyển thành hàng hóa một cách thuận
lợi,làm cho đất đai thực sự trở thành nguồn vốn cho phát triển thị trường bất
động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp
dẫn các nhà đầu tư.
- Thực hiện công khai minh bạch và tăng cường tính pháp lí, kỉ luật, kỉ
cương trong quản lí đất đai.
-Nhà nước vừa quản lí tốt các thị trường bất động sản vừa là nhà đầu tư
bất động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống pháp về kinh doanh bất động sản.

- Nhà nước điều tiết giá đất bằng quan hệ cung - cầu về đất đai và thông
qua các chính sách về thuế có liên quan đến đất đai.
4


Đối với thị trường Sức lao động.
Đảng ta chủ trương: “Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu
vực kinh tế, tạo sự gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của
người lao động trong học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Có chính sách ưu đãi
các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất là ở khu vực nông thôn. Đẩy
mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã qua đào tạo
nghề, lao động nông nghiệp. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử
dụng lao động trong khu vực kinh tế Nhà nước và bộ máy công quyền. Đa
dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống thông tin về
thị trường sức lao động trong nước và thế giới. Có chính sách nhập khẩu lao
động có chất lượng cao trong lĩnh vực công nghệ và quản lý ở những ngànhh,
nghề cần ưu tiên phát triển. Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị
trường sức lao động nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư
trú của người lao động; thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo
đảm quyền lợi của cả người lao động và người sử dụng lao động ”.
Thuật ngữ “thị trường sức lao động ” lần đầu tiên xuất hiện và được
đưa vào trong Văn kiện Đại hội X, còn ở Đại hội IX, Đảng mới chỉ nêu ra
“Mở rộng thị trường lao động trong nước, tạo điều kiện cho người lao động
tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước, có sự kiểm tra giám sát của Nhà
nước, bảo vệ lợi ích cho người lao động, đẩy mạnh xuất khẩu lao động”
Tuy nhiên, chúng ta cần nhận thức rằng việc khẳng định sức lao động là
hàng hóa không có nghĩa là quan hệ tư bản và lao động như trong nền kinh tế
tư bản chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường, sự trao đổi giữa người có sức
lao động và người sử dụng lao động ở tất cả các thành phần kinh tế được thực
hiện thông qua thị trường. Nhà nước Xã hội chủ nghĩa thực hiện quản lí thị

trường sức lao động, đảm bảo quyền của người có sức lao động và quyền lợi
chính đáng của người sử dụng lao động theo pháp luật. Phát triển thị trường
sức lao động ở nước ta hiện nay nhằm tạo thêm việc làm, nâng cao thu nhập
của người lao động và quản lí mối quan hệ giữa người có sức lao động và
5


người sử dụng lao động. Đại hội xác định phát triển thị trường lao động theo
các hướng sau:
-Phát triển thị trường sức lao động trong mọi khu vực kinh tế, tạo sự
gắn kết cung - cầu lao động, phát huy tính tích cực của người lao động trong
học nghề, tự tạo và tìm việc làm. Để thực hiện chủ trương này cần tiến hành
các giải pháp sau:
+Có chính sách ưu đãi các doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, nhất
là ở khu vực nông thôn.
+. Đẩy mạnh xuất khẩu lao động, đặc biệt là xuất khẩu lao động đã
qua đào tạo nghề, lao động nông nghiệp.
+. Hoàn thiện cơ chế, chính sách tuyển chọn và sử dụng lao động trong
khu vực kinh tế Nhà nước và bộ máy công quyền.
+ Đa dạng hóa các hình thức giao dịch việc làm; phát triển hệ thống
thông tin về thị trường sức lao động trong nước và thế giới.
- Xây dựng hệ thống luật pháp về lao động và thị trường sức lao động
nhằm bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việc và nơi cư trú của người lao động;
thực hiện rộng rãi chế độ hợp đồng lao động; bảo đảm quyền lợi của cả người
lao động và người sử dụng lao động.
Đối với thị trường khoa học và công nghệ.
Đảng ta chủ trương: “Phát triển thị trường khoa học công nghệ trên cơ
sở đổi mới chính sách, cơ chế để phần lớn sản phẩm khoa học và công nghệ
(trừ nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ xây dựng đường lối, chiến lược,
chính sách phát triển) trở thành hàng hóa. Thông tin rộng rãi và tạo môi

trường cạnh tranh để các sản phẩm khoa học và công nghệ được mua bán
thuận lợi trên thị trường. Chuyển các tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc
nhiều loại hình sở hữu sang hoạt động theo cơ chế doanh nghiệp”.
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, quá trình từ nghiên cứu khoa học đến giải pháp công nghệ và áp dụng
vào sản xuất ngày càng được rút ngắn, tạo sự phát triển nhanh chóng của nền
6


kinh tế. Cùng với việc đẩy mạnh tham gia quá trình chuyển giao công nghệ
diễn ra một cách khách quan trên thế giới, cần thiết phải phát triển mạnh thị
trường khoa học và công nghệ trên đất nước ta.
Trên đây là một số giải pháp mà Đại hội X của Đảng nêu ra đối với
từng loại thị trường cụ thể. Tuy nhiên, Đại hội cũng chủ trương “Phát triển
đồng bộ và quản lí có hiệu quả các loại thị trường cơ bản theo chính sách
cạnh tranh lành mạnh.”
Sở dĩ Đảng ta đặt ra chủ trương trên là xuất phát từ yêu cầu thực tiễn
khách quan và chủ quan của nền kinh tế đất nước. Để phù hợp với môi trường
quốc tế mới, chúng ta phải phát triển đồng bộ các loại thị trường đáp ứng yêu
cầu giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng bộ là có sự ăn khớp giữa
tất cả các bộ phận hoặc các khâu, tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của
chỉnh thể. Để có thể ăn khớp với nhau, các khâu, các bộ phận của một chỉnh
thể phải được sắp xếp và hoạt động theo một tương quan tỷ lệ nhất định gọi là
tỷ lệ đồng bộ. Vậy, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp
giữa các thị trường về loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự
hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân.
Sự đồng bộ của thị trường trước hết là hệ thống thị trường với đầy đủ
các loại hình : thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị
trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ... Các thị trường này vừa độc lập
với nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường. Mỗi loại thị trường

đều có cung - cầu, giá cả, người mua - người bán đặc thù ; có quy luật vận
hành đặc trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Sự quan hệ lệ thuộc,
tác động biện chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi hoạt động và
phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của
các thị trường luôn có xu hướng phá vỡ sự cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và
liên hệ giữa các thị trường đòi hỏi sự cân bằng mới và ăn khớp với nhau. Vấn
đề ở đây là, để cân bằng tự phát hay chủ động điều tiết để có sự ăn khớp hợp

7


lý. Vai trò tạo điều kiện và chủ động điều tiết của Nhà nước để tạo sự đồng
bộ, ăn khớp và hợp lực các hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng.
Sự ra đời của các loại thị trường và khả năng đồng bộ của chúng do
trình độ và yêu cầu sản xuất xã hội quyết định. Nói một cách khác là nó mang
tính khách quan. Nhà nước tạo môi trường và điều kiện để phát triển sản xuất
hàng hóa và tạo cơ sở cho thị trường phát triển. Nhà nước điều tiết, điều chỉnh
thị trường bằng các công cụ quản lý vĩ mô. Không thể chủ quan "nặn ra" thị
trường và khuôn ranh giới cho thị trường. Mọi sự tác động duy ý chí sẽ tạo ra
thị trường ngầm, Nhà nước không quản lý được.
Gần mười sáu năm thực hiện đường lối đổi mới của cả nước đã có
nhiều chuyển biến tích cực, đạt được nhiều thành tựu to lớn. GDP tăng bình
quân hơn 7%/năm, năm 2002 đạt 7,04%. Cơ cấu kinh tế đã có thay đổi lớn :
tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 38,7% (năm 1990) xuống còn 22,99% (năm
2002) ; các con số tương ứng về tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ
22,7% lên 38,55% ; tỷ trọng dịch vụ là 38,6% và 38,46%. Đặc biệt, chúng ta
đã đẩy lùi được chính sách bao vây cô lập, cấm vận của các thế lực thù địch ;
khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và các nước
Đông Âu bị tan rã. Việt Nam đã thực hiện quá trình hội nhập có kết quả, chính
thức là thành viên của ASEAN và APEC, ký Hiệp định khung với EU, Hiệp

định Thương mại với Hoa Kỳ, khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính,
tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB. Kinh tế trong nước phát triển, quan hệ
quốc tế rộng mở đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu đó, Việt Nam đang phải đối mặt với những
khó khăn, thách thức rất lớn. Nền kinh tế chưa phát triển ổn định, cơ bản vẫn
là nước nghèo, GDP trên đầu người vẫn ở mức thấp. Những yếu kém về tổ
chức quản lý nền kinh tế, cải cách hành chính chậm, hoạt động của các doanh
nghiệp nhà nước kém hiệu quả, đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài giảm
sút... đang là lực cản và khó khăn cho tiến trình đổi mới.

8


Thị trường đã có những thay đổi lớn trong những năm qua. Thị trường
mua bán hàng hóa dịch vụ phát triển khá tốt. Thị trường này hoạt động rất sôi
động, khối lượng hàng hóa lưu thông tăng liên tục hàng năm với tốc độ tương
đối cao ; mặt hàng ngày càng đa dạng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản
xuất và đời sống dân cư. Đã hình thành được thị trường thống nhất và thông
suốt trong cả nước, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, từng bước đưa
thị trường trong nước hội nhập khu vực và quốc tế. Đối với nhiều mặt hàng, ở
một số trung tâm lớn, thị trường hàng hóa dịch vụ đã phát triển ở trình độ khá
cao, tốc độ gia tăng mạnh mẽ. Thị trường này đã có đủ các thành phần kinh tế
góp mặt và sự vận hành của nó, về cơ bản, được tuân thủ theo các quy luật
khách quan ; sự quản lý và điều tiết của Nhà nước với thị trường hàng hóa
dịch vụ đã có nhiều thay đổi theo hướng tôn trọng tính khách quan, phù hợp
với tập quán, thông lệ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, quy mô thị trường
hàng hóa dịch vụ vẫn còn nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của
hàng hóa Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế. Định hướng và
các chính sách về thị trường của Nhà nước còn nhiều bất cập.
Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng là quá

trình hình thành và phát triển của thị trường tài chính.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đa
dạng hóa sở hữu, tự do hóa kinh doanh, đòi hỏi phải có thị trường tài chính đủ
mạnh để nền kinh tế hoạt động bình thường. Thị trường vốn, tiền tệ, chứng
khoán... ra đời vừa bảo đảm sự ăn khớp giữa lưu thông hàng hóa, lưu thông
tiền tệ, vừa tạo vốn cho các hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Từ cơ chế "tiếp nhận" chuyển sang cơ chế tuyển chọn và đa dạng hóa
kinh doanh, tự do hóa hành nghề trong điều kiện mở cửa với nước ngoài đã
tạo tiền đề cho sự ra đời của thị trường lao động. Hiện nay, thị trường lao
động phổ thông khá phát triển ; thị trường lao động có trình độ cao và đặc biệt
thị trường chất xám còn nhỏ bé, trong lúc không ít cản trở như cư trú, hộ
khẩu, sự chuẩn bị trình độ cho người lao động, các công ty cung ứng dịch vụ
9


lao động đồng bộ đã làm chậm sự phát triển và đang chia cắt thị trường lao
động.
Sức ép của cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi
mới và áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh. Thị trường
mua bán công nghệ nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới, hoàn thiện và nâng cao
trình độ công nghệ của các nhà sản xuất kinh doanh. Thị trường này hiện nay
chưa nhộn nhịp vì khả năng thanh toán của người mua còn hạn chế.
Đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu nhà nước. Các cá nhân, doanh nghiệp,
tổ chức, theo quy định của pháp luật không được tự do mua bán đất. Trong
thực tế, người ta vẫn mua, bán đất nhưng dưới hình thức khác. Như vậy, thị
trường "ngầm" mua bán đất đang tồn tại. Do đó, giá trị thật và giá trị danh
nghĩa của đất đai có khoảng cách rất lớn. Giá trị của đất chuyển vào giá trị sản
phẩm hàng hóa dịch vụ không phản ánh đúng giá trị thực tế và mang tính áp
đặt hành chính. Nó không bảo đảm tương đồng về giá trị với các yếu tố chi
phí khác của hàng hóa tiêu dùng trên thị trường.

Để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở Việt Nam, cần thực hiện
những giải pháp cơ bản như sau :
Thứ nhất, tạo môi trường và điều kiện cho tự do sản xuất kinh doanh,
đa dạng hóa sở hữu, đa dạng hóa thành phần kinh tế. Bảo đảm tự do hành
nghề theo quy định của luật pháp, tự do lưu thông hàng hóa, tự do hóa lãi suất
tín dụng. Doanh nghiệp được tự quyết định và chủ động trong kinh doanh.
Đây là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất hàng hóa, tạo lập cơ sở quan
trọng để hình thành và phát triển các loại thị trường.
Thứ hai, thể chế hóa các chủ trương, đường lối của Đảng thành luật
pháp, chính sách. Bảo đảm mọi hoạt động của người mua, người bán, người
sản xuất, người tiêu dùng thực hiện trong khuôn khổ luật pháp và được điều
chỉnh bằng luật pháp. Đó là cách để các tư tưởng đi vào cuộc sống và phát
huy hiệu quả trong thực tiễn, bảo đảm cơ sở ổn định và lâu dài, tạo dựng niềm
tin cho người sản xuất kinh doanh.
10


Thứ ba, xây dựng đồng bộ các chính sách về thị trường, mặt hàng, các
chính sách về tài chính tiền tệ, đất đai, lao động, khoa học và công nghệ, đầu
tư,... Sự đồng bộ, nhất quán của các chính sách sẽ tạo hợp lực thúc đẩy sự
phát triển của hệ thống thị trường.
Thứ tư, giải pháp tăng nguồn cung ứng hàng hóa cho thị trường. Hàng
hóa cho thị trường giống như lương thực cho cuộc sống của con người. Ở tầm
vĩ mô, Nhà nước phải cân đối tổng cung và tổng cầu hàng hóa (cả hàng hóa
vô hình và hàng hóa hữu hình) theo các thời hạn khác nhau. Trên cơ sở đó,
kích thích tăng hoặc kìm hãm giảm lượng hàng hóa lưu thông. Đổi mới cơ cấu
nền kinh tế phải xuất phát từ yêu cầu tiêu dùng xã hội, dân cư và thông qua thị
trường chứ không phải là sự áp đặt chủ quan duy ý chí. Đồng thời, Nhà nước
phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, phù hợp để định hướng phát triển, phân
bố và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp phải tăng

đầu tư tích lũy, nhất là đổi mới công nghệ, thường xuyên thay đổi mới mẫu
mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường. Để phát triển thị trường, phải có
cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng với
môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế, từng bước xóa bỏ độc quyền
hành chính.
Thứ năm, đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển của
các loại thị trường. Đối với những vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp
tự túc còn phổ biến như vùng núi, vùng sâu, vùng xa phải đầu tư xây dựng hệ
thống giao thông thuận lợi cho giao lưu hàng hóa giữa các vùng, xây dựng
chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi trao đổi, mua bán hàng hóa. Ở
những nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu đầu tư theo chiều sâu (đầu
tư chất xám, phương tiện kỹ thuật hiện đại), phải phát triển dịch vụ, hình
thành các trung tâm phát luồng và định hướng thị trường (thị trường bán
buôn, trung tâm giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng hóa, sở
giao dịch chứng khoán, trung tâm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực...).

11


Thứ sáu, đào tạo và nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, nhà kinh
doanh. Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước. Thực hiện đa phương hóa trong
quan hệ đối ngoại, đa dạng hóa các hình thức kinh doanh quốc tế, chủ động
hội nhập kinh tế với khu vực và quốc tế.
Như vậy, Phát triển đồng bộ các loại thị trường theo tinh thần Đại hội
lần thứ X của Đảng vừa là vấn đề cấp bách vừa là vấn đề lâu dài. Chủ động
tạo môi trường vĩ mô và khuyến khích mọi thành phần, mọi nguồn lực tham
gia thị trường là vấn đề then chốt cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các
loại thị trường ở Việt Nam.

12




×