Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Toàn cầu hoá kinh tế những cơ hội, thách thức đối với việt nam hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.13 KB, 26 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam hiện nay đang đứng trước nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ

quá độ lên chủ nghĩa xã hội đó là tiến hành phát triển lực lượng sản xuất,
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội . Nó đòi hỏi Việt
nam phải tìm ra được lối phát triển kinh tế hợp lý. Nhiệm vụ này đặt ra sự
cần thiết phải chuyển dịch sang cơ cấu kinh tế tiến bộ của nền kinh tế sản
xuất lớn, hiện đại. Trong quá trình thực hiện kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn làm cho đời sống kinh
tế xã hội của nhân dân Việt Nam có sự đổi mới.
Qúa trình đổi mới trong thời gian qua đã đánh dấu bước phát triển
mới vượt bậc, trước hết cũng phải kể đến đổi mới tư duy lý luận, phương
thức lãnh đạo, quản lý của Đảng và nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội, kể cả trong lĩnh vực mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, toàn cầu hóa trở thành xu thế phổ biến trên thế giới, nó đã
đem lại sự kết nối giữa tất cả các dân tộc, các quốc gia trên thế giới, nó
thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, kinh tế, nó làm cho loài người dường như
xích lại gần nhau hơn. Thật khó có thể kể hết những ích lợi mà toàn cầu
hóa đem lại cho loài người, nhưng có thể khẳng định rằng toàn cầu hóa
cũng chứa đựng những mặt trái mà hiện nay đang từng ngày từng giờ tác
động lên mỗi quốc gia.
Dưới ảnh hưởng toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam đang có những
bước chuyển mạnh mẽ hội nhập vào sân chơi quốc tế theo cả chiều sâu lẫn
chiều rộng. Đảng và nhà nước Việt Nam đứng vững trên nền tảng lý luận
Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã nhận định nền kinh tế Việt Nam là
một bộ phận không thể tách rời của sân chơi thế giới. Từ nhận thức sâu sắc


1


về thời đại ngày nay, Đảng ta khẳng định toàn cầu hóa đem lại cả thời cơ
lẫn thách thức cho đất nước ta trong giai đoạn tiếp theo của thế kỉ.
Trên cơ sở học tập nghiên cứu và tìm tòi, tác giả mạnh dạn nghiên
cứu đề tài “Toàn cầu hoá kinh tế - những cơ hội, thách thức đối với Việt
Nam hiện nay”.

2.

Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn của

Đảng Cộng sản Việt Nam về toàn cầu hóa, hợp tác kinh tế trong toàn cầu
hóa. Trên cơ sở đó đề ra một số những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
hợp tác kinh tế trong toàn cầu hóa.
2.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Lược khảo, phân tích những tài liệu có liên quan đến toàn cầu hóa,
kinh tế quốc tế.
Phân tích tổng hợp nhận thức đánh giá của Đảng Cộng sản Việt Nam
về quá trình toàn cầu háo và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam hiện nay.
Chỉ ra những phương hướng cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả và hợp tác kinh tế quốc tế.


3.

Đối tượng nghiên cứu

Khách thể nghiên cứu của đề tài là mối quan hệ, sự hợp tác về kinh
tế giữ các quốc gia dân tộc, các tổ chức tài chính kinh tế đối với Việt Nam,
là quá trình hợp tác kinh tế quốc tế đối với Việt Nam hiện nay.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những qui luật, khái niệm, phạm
trù, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về toàn cầu hóa, kinh tế quốc
tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
4.

Tình hình nghiên cứu

2


Vấn đề về toàn cầu hóa và hợp tác kinh tế trong toàn cầu hóa là
những vấn đề lớn, khó khăn và có ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, xã hội…Vì thế cho đến nay đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu
của các học giả trong và ngoài nước đề cập vấn đề này, nhưng dưới góc độ
tiếp cận của người viết thì một số tác phẩm dưới đây là tiêu biểu nhất.
PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp, TS.Nguyễn Thị Quế, Th.S.Mai Hoàng
Anh (đồng chủ biên): Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hóa, Nxb
Chính trị quốc gia, HN, 2009.
Trong tác phẩm này tập thể tác giả đã đưa ra một cái nhìn toàn cảnh
về bức tranh chính trị - xã hội dưới ảnh hưởng của toàn cầu hóa. Theo đó,
toàn cầu hóa là một xu thế khách quan, có tác động tích cực và tiêu cực đến
tất cả các quốc gia dân tộc, qua đó đẩy nhanh quá trình hội nhập trên tất cả

các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, nó là cơ sở xóa bỏ mọi khoảng
cách, rào cản giữa các quốc gia vào một hệ thống. Nhưng tập thể các tác
giả cũng đã chỉ rõ toàn cầu hóa là một con dao hai lưỡi, vì nó có những mặt
trái như: sự cạnh tranh, bất bình đẳng, sự lũng đoạn của các tập đoàn tư bản
độc quyền, nghèo đói, bất bình đẳng xã hội, sự xâm lăng của văn hóa, “nhất
là văn hóa Mỹ”. Người viết đánh giá cao tác phẩm và coi đó là cơ sở, nền
móng cho người viết nhận diện và đánh giá toàn cầu hóa một cách khoa
học.
Nguyễn Hoàng Giáp: Chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu hóa,
Tạp chí Cộng sản ngày 24/4/2010.
Đây là một bài viết của TS. Nguyễn Hoàng Giáp bàn luận về CNTB
trong thời kỳ toàn cầu hóa, tác giả đã chỉ rõ CNTB ngày nay đã lợi dụng
những thành tựu của khoa học công nghệ để lũng đoạn thế giới, thông qua
những tập đoàn xuyên quốc gia để vơ vét, chi phối các quốc gia khác, tác
giả cũng đưa đến kết luận cuộc khủng hoảng kinh tế 2008/2009 là kết quả
trực tiếp của CNTB, của mô hình kinh tế tự do CNTB đã bị phá sản. Song

3


tác giả cũng đã chỉ ra rằng để đối phó với khủng hoảng và quá trình hội
nhập quốc tế, CNTB cũng có điều chỉnh để cho phù hợp.
Cao Minh Nghĩa, Nguyễn Thị Hoàng Mỹ: “Đặc trưng của mô hình
kinh tế tư do mới của Mỹ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí
Cộng sản, ngày 25/11/2010.
Đây là một bài viết đề cập và mổ xẻ về đặc trưng mô hình kinh tế
của Mỹ đó là kinh tế thị trượng tự do, hai tác giả đã chỉ ra rằng CNTB Mỹ
sở dĩ có sự phát triển được là do tài nguyên thiên nhiên phong phú, lực
lượng lao động dồi dào, có các tập đoàn lớn, có khoa học kỹ thuật hiện
đại… Nhưng CNTB Mỹ phát triển được phần nhiều là do kinh tế thị trường

tự do, nền kinh tế này làm cho mọi người có khả năng hòa nhập vào quá
trình sản xuất rất nhanh, tích lũy và chu chuyển tư bản lớn, nhưng mặt trái
của mô hình này đó là tạo ra một nền tài chính mong manh, sự bất bình
đẳng trong quan hệ xã hội (các vấn đề về ô nhiễm môi trường, thất
nghiệp…).
PGS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn: “Toàn cầu hóa cơ hội và thách thức”,
nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Trong tài liệu trên, tác giả đã lược khảo các quá trình hợp tác, giao
lưu về kinh tế đã từng có trong lịch sử. Chỉ rõ toàn cầu hóa cũng chỉ là một
xu thế tất yếu khách quan, một xu thế không thể đảo ngược trong thời đại
ngày nay. Trên cơ sở phân tích những điều kiện thuận lợi và khó khăn từ
khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO. Tác giả khẳng
định toàn cầu hóa, hộ nhập kinh tế quốc tế là một trong những điều kiện để
rút ngắn quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa ở Việt Nam. Tôi đánh giá
cao tác phẩm vì nó đã làm cơ cho chương 2 của đề tài.
Tuy vậy, chưa có công trình nghiên cứu nào chỉ rõ những cơ hội và
thách thức của toàn cầu hóa đối với nền kinh tế Việt Nam. Trên cơ sở học
hỏi tìm tòi nghiên cứu tác giả mạnh dạn chọn đề tài “Toàn cầu hoá kinh tế
- những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam hiện nay”.
4


5.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử,

chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Phương pháp chung: phân tích tổng hợp, logic-lịch sử, diễn dịch-qui nạp.
Phương pháp cụ thể: lược thuật tài liệu, trao đổi thảo luận nhóm.

6.

Kết cấu
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, tiểu luận gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận của toàn cầu hóa kinh tế
Chương 2. Thực trạng toàn cầu hóa kinh tế ở nước ta hiện nay
Chương 3. Những quan điểm, phương hướng và giải pháp của
Đảng cho quá trình toàn cầu hóa kinh tế ở nước ta hiện nay

5


NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lý luận của toàn cầu hóa kinh tế
1.1.
1.1.1.

Khái niệm
Toàn cầu hóa

Trong tác phẩm Thế giới phẳng, nhà văn người Mỹ Thomas
Friedman đã đề cập đến toàn cầu hóa như là “Sự hình thành nên một ngôi
làng toàn cầu dưới tác động của những tiến bộ trong lĩnh vực tin
học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày càng gần
gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá
nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân
thế giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu”.
Toàn cầu hóa(globalization) là khái niệm dùng để miêu tả các thay
đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao
đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ

văn hóa, kinh tế, v.v... trên quy mô toàn cầu.
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ
biến các phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương
mại và được chính thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20.
Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ
thuộc qua lại không ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc
qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực kinh tế, công nghệ, môi trường, văn
hoá hay xã hội.... Rõ ràng toàn cầu hóa nói chung khác với toàn cầu hóa
kinh tế.
1.1.2.

Toàn cầu hóa kinh tế

Theo Tổ chức OECD (Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế), toàn
cầu hóa kinh tế là sự vận động tự do của các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ
các nguồn lực trên phạm vi toàn cầu.

6


Quĩ tiền tệ quốc tế IMF lại quan niệm: toàn cầu hóa là sự phụ thuộc
lẫn nhau về kinh tế ngày càng tăng lên giữa các nước do việc gia tăng khối
lượng và sự đa dạng trao đổi xuyên biên giới các sản phẩm và dịch vụ cũng
như các luồng vốn quốc tế đồng thời với việc phổ biến công nghệ ngày
càng rộng khắp.
Hiện nay vẫn chưa có một định nghĩa đầy đủ, chính xác và thống
nhất về toàn cầu hoá kinh tế. Tuy có những quan niệm không giống nhau về
toàn cầu hoá kinh tế, nhưng vẫn có thể thấy nét chung nhất trong các quan
niệm này: Thừa nhận mối quan hệ qua lại của các hoạt động kinh tế hiện
nay đã bao trùm gần như tất các nước, mang tính toàn cầu. Các dòng hàng

hoá, dịch vụ, vốn và nhân lực đang dịch chuyển từ nước này đến nước khác
ngày càng mạnh, càng tự do hơn; tính chất của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
quốc gia ở tầm quốc tế và trong hợp tác quốc tế cũng đạt cấp độ mới.
Quốc tế hóa là xu thế phát triển của kinh tế thế giới cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, đó là quá trình trong đó mối quan hệ giữa các dân tộc được
thể chế hóa dựa trên những tiêu chuẩn và hệ thống chung đã được cộng
đồng quốc tế chấp nhận và thực hiện thông qua việc kí kết các điều ước,
hiệp định và qua các tập quán quốc tế.
Về mặt kinh tế, phải chăng là quá trình LLSX và quan hệ kinh tế
quốc tế vượt khỏi biên giới quốc gia và phạm vi từng khu vực lan tỏa ra
phạm vi toàn cầu, trong đó vốn, tiền tệ, thông tin, lao động vận động thông
thoáng, sự phân công lao động mang tính quốc tế. Mối quan hệ kinh tế giữa
các quốc gia, khu vực đan xen nhau hình thành một mạng lưới quan hệ đa
tuyến vận hành theo các “luật chơi chung” được hình thành qua sự hợp tác,
đấu tranh giữa các thành viên của cộng đồng quốc tế. Trong xu thế ấy các
nền kinh tế quan hệ ngày càng mật thiết với nhau, tùy thuộc lẫn nhau.
Như vậy, từ đó có thể hiểu toàn cầu hoá kinh tế là qúa trình phát triển
kinh tế của các nước trên thế giới vượt khỏi biên giới quốc gia, hướng tới
phạm vi toàn cầu trên cơ sở lực lượng sản xuất cũng như trình độ khoa học
7


kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và sự phân công hợp tác quốc tế ngày càng sâu
rộng, tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng tăng.

1.2.
1.2.1.

Tính tất yếu và đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế
Tính tất yếu của toàn cầu hóa kinh tế


Giai đoạn trước chủ nghĩa tư bản ra đời đã có mầm mống của xu
hướng toàn cầu hoá kinh tế, đó là sự giao lưu buôn bán giữa các nước
Phong kiến với nhau. Song chỉ sau khi có những phát kiến lớn về mặt địa lý
ở thế kỷ XI-XVI cùng với sự tiến bộ kỹ thuật hàng hải đã giúp các nước
trên các châu lục thông thương mở rộng giao lưu kinh tế thương mại thì xu
hướng toàn cầu hoá kinh tế mới thực sự biểu hiện rõ ràng.
Mác và Ăngghen trong tác phẩm của mình sử dụng thuật ngữ ám chỉ
toàn cầu hoá kinh tế khi phân tích về tính quốc tế hóa của CNTB: “Vì luôn
bị thúc đẩy bởi nhu cầu về những nơi tiêu thụ mới, giai cấp tư sản xâm lấn
khắp hoàn cầu. Nó phải xâm nhập vào khắp nơi, khai thác khắp nơi và
thiết lập các mối liên hệ ở khắp nơi. Do bóp nặn thị trường thế giới gai cấp
tư sản đã làm cho sản xuất và tiêu dùng của tất cả các nước mang tính
chất thế giới…”1
Từ đó có thể khẳng định rằng, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã có từ
rất sớm, những phát kiến về địa lý, giao thông vận tải đã mở ra cơ hội cho
quá trình quốc tế hoá kinh tế. Lịch sử quốc tế hoá kinh tế bắt đầu từ sau khi
tìm ra châu Mỹ (cách đây gần 500 năm) nhưng tiến trình này chỉ thực sự
tăng tốc sau khi cách mạng công nghiệp ở Anh và các nước TBCN thành
công. Quá trình đó mang tính tất yếu khách quan do đòi hỏi của bản thân
nền sản xuất đặc biệt là do sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy nhiên, nó
vẫn có áp lực chủ quan từ những kẻ nắm các lực lượng kinh tế hùng hậu nhất.
Thời kỳ đầu, giai đoạn khoảng thế kỉ 19, LLSX phát triển chưa cao,
các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia mang nặng tính phụ thuộc một
1 C. Mác – Ph. Ăngghen Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976, trang 49.

8


chiều. Thời kỳ sau, khoảng cuối thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20, LLSX phát triển

cao hơn, quan hệ kinh tế giữa các quốc gia trở thành hai chiều, tương hỗ.
Đặc biệt sau thế kỉ 20, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, của
công nghệ thông tin và giao thông vận tải, các hoạt động kinh tế giữa các
quốc gia đã mang tính toàn cầu. Thêm vào đó nền kinh tế thị trường thế
giới thống nhất ở cơ chế vận hành góp phần thúc đẩy sự hợp tác mang tính
quốc tế giữa các quốc gia. Hiện nay, sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu đã
trở thành mối quan tâm chung của cả nhân loại trong bối cảnh chiến tranh
lạnh kết thúc, thế giới bước vào thời kì hòa bình hợp tác và phát triển.
Tóm lại, toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, tất yếu.
Trong hơn một thập kỷ lại đây xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới có
sự gia tăng mạnh mẽ gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ; sự
chấm dứt chiến tranh lạnh, thế giới chuyển sang thời kỳ mới - hòa bình,
hợp tác và phát triển; sự gia tăng hàng loạt vấn đề toàn cầu như môi trường,
dân số... Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hóa kinh tế đặt ra yêu cầu
khách quan đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào
nền kinh tế thế giới và khu vực.
1.2.2.

Đặc điểm của toàn cầu hóa kinh tế

Toàn cầu hóa kinh tế là giai đoạn phát triển cao của quốc tế hóa kinh
tế. Từ sau thế kỉ 19 đến nay, toàn cầu hóa kinh tế đã trải qua ba thời kỳ, hay
còn gọi là ba làn sóng quan trọng. Làn sóng đầu tiên (50 năm) diễn ra trước
chiến tranh thế giới thứ nhất. Làn sóng thứ hai diễn ra vào những năm 50,
60, 70 của thế kỉ 20. Làn sóng thứ ba bắt đầu từ cuối những năm 80 trở đi,
và lúc này thuật ngữ toàn cầu hóa được sử dụng phổ biến.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, kinh tế quốc tế gắn
liền với tự do hóa các hoạt động kinh tế. Bảo hộ mậu dich là một thuật ngữ
được sử dụng rộng rãi, chỉ việc áp dụng, nâng cao một số tiêu chuẩn thuộc
các lĩnh vực như chất lượng vệ sinh, an toàn lao động, môi trường, nhập

khẩu cao đối với một số mặt hàng nhập khẩu nào để bảo vệ ngành sản xuất
9


các mặt hàng tương tự trong một thời gian nào đó. Hiện nay, trong giai
đoạn mới của toàn cầu hóa, việc hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với quá
trình tự do hóa.
Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan nhưng cũng chịu tác
động từ Mỹ và một số nước tư bản phát triển. Ngày nay người ta hay nhắc
đến toàn cầu hóa như là xu thế “Mỹ hóa”. Dấu hiệu để nhận biết toàn cầu
hóa đó là: Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng
trưởng kinh tế thế giới.
Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình mở rộng hợp tác kinh tế đồng thời
với sự gia tăng cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cạnh tranh hướng tới thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng. Toàn cầu hóa đang phát triển mạnh mẽ gắn
liền với xu thế khu vực hóa cũng đang diễn ra nhộn nhịp.
Toàn cầu hóa kinh tế là quá trình mang tính hai mặt, nó vừa đưa lại
cơ hội cho sự phát triển, vừa đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các
quốc gia, nhất là các quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Chương 2. Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong quá trình toàn
cầu hóa kinh tế hiện nay
2.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.1. Tình hình quốc tế
Bối cảnh quốc tế trong thời gian tới có nhiều thời cơ lớn đan xen với
nhiều thách thức lớn. Khả năng duy trì hòa bình, ổn định trên thế giới và
khu vực cho phép chúng ta tập trung sức vào nhiệm vụ trung tâm là phát
triển kinh tế; đồng thời đòi hỏi phải đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với
những tình huống bất trắc, phức tạp có thể xảy ra.
Khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và công
nghệ sinh học, tiếp tục có những bước nhảy vọt, ngày càng trở thành lực

lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri thức, làm chuyển
dịch nhanh cơ cấu kinh tế và biến đổi sâu sắc các lĩnh vực của đời sống xã

10


hội. Tri thức và sở hữu trí tuệ có vai trò ngày càng quan trọng. Trình độ làm
chủ thông tin, tri thức có ý nghĩa quyết định sự phát triển.
Chu trình luân chuyển vốn, đổi mới công nghệ và sản phẩm ngày
càng được rút ngắn; các điều kiện kinh doanh trên thị trường thế giới luôn
thay đổi đòi hỏi các quốc gia cũng như doanh nghiệp phải rất nhanh nhạy
nắm bắt, thích nghi. Các nước đang phát triển, trong đó có nước ta, có cơ
hội thu hẹp khoảng cách so với các nước phát triển, cải thiện vị thế của
mình; đồng thời đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nếu không tranh thủ
được cơ hội, khắc phục yếu kém để vươn lên.
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, bao
trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh
và tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Quan hệ song phương, đa
phương giữa các quốc gia ngày càng sâu rộng cả trong kinh tế, văn hóa và
bảo vệ môi trường, phòng chống tội phạm, thiên tai và các đại dịch...
Các công ty xuyên quốc gia tiếp tục cấu trúc lại, hình thành những
tập đoàn khổng lồ chi phối nhiều lĩnh vực kinh tế. Sự cách biệt giàu nghèo
giữa các quốc gia ngày càng tăng.Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế
quốc tế là một quá trình vừa hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức
tạp, đặc biệt là đấu tranh của các nước đang phát triển bảo vệ lợi ích của
mình, vì một trật tự kinh tế quốc tế công bằng, chống lại những áp đặt phi
lý của các cường quốc kinh tế, các công ty xuyên quốc gia.
Cuộc khủng hoảng tài chính kinh tế thế giới năm 2008 đã tác động
khong nhỏ đến nền kinh tế thế giới. Châu á - Thái Bình Dương vẫn là khu
vực phát triển năng động, trong đó Trung Quốc có vai trò ngày càng lớn.

Sau khủng hoảng tài chính - kinh tế, nhiều nước ASEAN và Đông á đang
khôi phục đà phát triển với khả năng cạnh tranh mới. Tình hình đó tạo
thuận lợi cho chúng ta trong hợp tác phát triển kinh tế, đồng thời cũng gia
tăng sức ép cạnh tranh cả trong và ngoài khu vực.

11


2.1.2.

Tình hình trong nước
Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-

2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn,
thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai cuộc khủng hoảng tài
chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những thành tựu to lớn và rất
quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm
nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu chủ yếu của
Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả về lực
lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ
bình quân 7,26%/năm.
Nền kinh tế nước ta đang vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng
trưởng cao. Song, trên thực tế chúng ta phải thấy rằng, nền kinh tế nước ta
còn lạc hậu, sức cạnh tranh còn rất thấp, lực lượng lao động tuy dồi dào,
song trình độ kỹ thuật và kỹ năng còn thấp; hệ thống pháp luật còn nhiều
bất cập, hệ thống tài chính ngân hàng yếu kém, nên khả năng đương đầu
với xu hướng tự do hoá tài chính toàn cầu rất khó khăn; chưa đuổi kịp sự
phát triển nhanh chóng của hệ thống thông tin- viễn thông toàn cầu.
Các lĩnh vực văn hóa, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được
khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một

bộ phận xã hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng;
tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu
quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường,
chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn là những điểm nghẽn cản
trở sự phát triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu
tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI (1-2011) vừa diễn ra thành
công tốt đẹp. Đại hội đã thông qua dự thảo Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), dự thảo
12


Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. Sự thành công của Đại
hội góp phần lãnh đạo thành công đất nước ta trong quá trình toàn cầu hóa,
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
2.2. Những cơ hội và thách thức của toàn cầu hóa kinh tế đối với Việt
Nam hiện nay
2.2.1. Cơ hội
Quá trình toàn cầu hoá mở ra cho tất cả các nước nói chung và Việt
Nam nói riêng cơ hội để phát huy có hiệu quả nguồn lực trong nước và sử
dụng các nguồn lực quốc tế có lợi. Với nước ta, bước vào quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế chúng ta có rất nhiều lợi thế đó là những cơ hội lớn mà
chúng ta cần phải tận dụng có hiệu quả: về vị trí địa lý, đất nước chúng ta
nằm trong khu vực sôi động về kinh tế, giao thông quốc tế thuận lợi giữa
các nước trong khu vực Đông Nam Á, châu Á và thế giới; về nguồn nhân
lực, đất nước chúng ta có lực lượng lao động trẻ dồi dào, có kinh nghiệm,
trình độ và khả năng tiếp thu kỹ thuật hiện đại nhanh; tài nguyên thiên
nhiên phong phú, đa dạng; hệ thống chính trị vững vàng, ổn định; cơ sở vật
chất, cơ cấu kinh tế thay đổi tích cực, cơ sở hạ tầng phát triển; nền kinh tế

tăng trưởng khá, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.
Quá trình toàn cầu hoá diễn ra, thị trường được mở rộng, sự giao lưu
hàng hoá thông thoáng hơn, hàng rào quan thế và phi quan thuế thuyên
giảm, nhờ đó sự trao đổi hàng hoá tăng mạnh. Bên cạnh đó bằng việc mở
cửa thị trường tự do, các dòng vốn cũng vượt biên giới quốc gia, nhiều hình
thức đầu tư, hợp tác sản xuất góp phần điều hoà dòng vốn theo lợi thế so
sánh, giữa các nước tiếp cận được nguồn vốn, công nghệ từ bên ngoài.
Mặt khác, dưới sự tác động của toàn cầu hoá, những thành tựu khoa
học công nghệ được chuyển giao nhanh chóng, ứng dụng rộng rãi, mạng
lưới thông tin và giao thông vận tải bao phủ toàn cầu góp phần làm giảm
giá thành sản phẩm. Về mặt chính trị- xã hội. Toàn cầu hoá thúc đẩy quá
13


trình hợp tác làm hạn chế các vấn đề có tính chất xã hội như: tội phạm, môi
trường, dân số... về chính trị, chính vì xu hướng lại tuỳ thuộc lẫn nhau do
vậy có lợi cho quá trình hợp tác đấu tranh vì hoà bình.
Với những điều kiện thuận lợi về chính bản thân đất nước ta cộng
với những tác động tích cực do toàn cầu hoá mang lại, quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế đang gặp nhiều thuận lợi rất cơ bản đó chính là cơ hội của
đất nước trong việc phát triển nền kinh tế- xã hội đảm bảo cho điều kiện đi
lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội cho
chúng ta mở rộng thị trường cho sản phẩm hàng hoá Việt Nam vốn có ưu
thế ở một số mặt hàng đặc biệt là các mặt hàng nông sản, cũng vì thế mà
chúng ta có điều kiện thu hút vốn đầu tư từ ngoài nước đặc biệt là quá trình
chuyển giao công nghệ tiên tiến từ nước ngoài. Đối với các nhà sản xuất
kinh doanh Việt Nam đây cũng là cơ hội để họ có điều kiện mở rộng quan
hệ học tập phong cách quản lý, tiếp thu khoa học công nghệ mới.
Về mặt chính trị, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá chúng ta tránh

được tình trạng phân biệt đối xử, tận dụng thế lực trên thị trường thế giới từ
đó nâng cao vị thế quốc tế và tạo thế vững chắc hơn cho Việt Nam trong
quan hệ quốc tế phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Đó là những tác động tích cực của toàn cầu hoá kinh tế và là những
cơ hội cho đất nước trong quá trình hội nhập nhằm phát huy thế mạnh, sở
trường của đất nước. Tuy nhiên toàn cầu hoá kinh tế và quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn thách thức trong
quá trình hội nhập phát triển đất nước.
2.2.2. Thách thức
Trước hết, những thách thức của toàn cầu hóa xuất phát từ thực tiễn
trong nước. Nền kinh tế nước ta ở trình độ kém phát triển, công nghệ kỹ
14


thuật lạc hậu, lực lượng sản xuất trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu của
thời kỳ mới, khi mà nền sản xuất của thế giới phát triển cao, kỹ thuật, công
nghệ thực tiễn. Trong khi đó năng lực cạnh tranh của các hàng hoá Việt
Nam là kém, nguồn vốn trong nước là rất ít.
Bên cạnh những khó khăn trên một khó khăn và là trở ngại rất lớn
của nước ta trong quá trình hội nhập đó là sự thiếu đồng bộ của hệ thống
pháp luật, các điều khoản còn chồng chéo nhau, tồn tại nhiều “kẽ hở” trong
các điều luật... điều này làm cho bước hội nhập sẽ càng khó khăn.
Toàn cầu hóa làm cho sự phân hoá giàu nghèo các quốc gia ngày
càng tăng, do các nước phát triển có lợi thế hơn trong các quá trình kinh tế
bởi họ có tiềm lực mạnh về kinh tế nên dễ dàng thao túng nền kinh tế trên
thị trường. Chính vì thế lợi ích các nước phát triển tất yếu sẽ cao hơn các
nước đang và kém phát triển từ đó mà phân hoá giàu nghèo các quốc gia
ngày càng rõ rệt.
Bên cạnh những mặt tiêu cực đó do toàn cầu hoá mang lại quá trình

toàn cầu hoá là cơ hội cho các nước phát triển biến các nước đang và kém
phát triển làm nơi tiêu thụ hàng hoá ế thừa và khoa học- công nghệ lạc hậu.
Những vấn đề toàn cầu như tội phạm, môi trường... vì thế mà nảy sinh.
Những biểu hiện tiêu cực trên chính là kẽ hở để các nước tư bản phát triển
lợi dụng tự do hoá để áp dụng các hình thức bảo hộ từ đó chi phối các hoạt
động kinh tế thế giới rồi tiếp tục chi phối chính trị, can thiệp nội bộ các
nước. Điều này đang đặt nhân loại đứng trước những thách thức vô cùng
lớn lao. Việt Nam với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng không nằm
ngoài những thách thức đó.
Có một thách thức rất lớn đó là làm sao để hàng hoá Việt Nam có đủ
sức mạnh cạnh tranh trên với hàng hoá các nước khác, trong khi thực tế là
hàng hoá dịch vụ Việt Nam là rất kém về mọi phương diện trong khi đó đội
ngũ các nhà doanh nghiệp nước ta còn rất yếu kém trong quản lý, trình độ.
Trong khi cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt thì nhận thức của các
15


ngành, các cấp là chưa nhất quán, tư tưởng bảo hộ, ỷ lại còn nặng nề, năng
lực cán bộ còn nhiều hạn chế, tệ tham nhũng quan liêu chưa được ngăn
chặn kịp thời.
Bên cạnh đó cùng với mở cửa thị trường, giao lưu kinh tế, lối sống
thực dụng chạy theo đồng tiền, văn hoá độc hại xâm nhập, các thế lực phản
động chống phá có cơ hội xâm nhập lôi kéo các lực lượng thù địch chống
phá nước ta. Mặt khác việc mở cửa thị trường, đồng nghĩa với việc tạo sự
chênh lệch về sự phát triển kinh tế và mức sống giữa các vùng, tầng lớp
dân cư do vậy đòi hỏi đặt ra là làm sao thu hẹp được khoảng cách đó.
Những thách thức và cơ hội trên mà toàn cầu hoá đem lại cho nước ta
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế là những yêu cầu vô cùng khách
quan mà không nước nào có thể cưỡng lại được xu thế đó. Do vậy đòi hỏi
nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế phải có bước đi, lộ trình

phủ hợp đúng đắn, tận dụng tối đa những cơ hội mà quá trình toàn cầu hóa
đem lại đồng thời tránh và khắc phục những tác động xấu nhất từ quá trình
đó. Vì thế trước hết Đảng cần phải có những phương hướng và giải pháp
cho quá trình hội nhập này làm sao cho đảm bảo đúng “luật chơi” đồng thời
phải mang lại lợi ích tối đa cho sự phát triển của đất nước.

16


Chương 3. Những quan điểm, phương hướng và giải pháp của Đảng ta
cho quá trình toàn cầu hóa kinh tế ở nước ta hiện nay
3.1. Quan điểm
Nhận thức được tiến trình lịch sử của quan hệ quốc tế, các nước không
thể đóng cửa để tự thân phát triển, ngay từ những năm 70 của thế kỷ 20
chúng ta đã gia nhập hội đồng tương trợ kinh tế (SEV), tích cực tham gia
phong trào không liên kết, nhóm 77, Liên hợp quốc mà một trong những
nội dung cơ bản là đấu tranh cho một trật tự thế giới công bằng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng lần thứ VI- 1986 đã chính
thức khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước, đẩy lùi chính sách bao vây
về kinh tế, cô lập về chính trị đối với nước ta, mở rộng quan hệ quốc tế. Đại
hội lần thứ VII- 6/1991. Thông qua cương lĩnh của Đảng và chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế, đồng thời đưa ra đường lối đối ngoại mở rộng:
“với chính sách đối ngoại mở rộng, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hoà bình, độc lập và phát triển”.
Đại hội IX nhấn mạnh chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp
tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự do và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường”, “chính phủ cùng các bộ, ngành và các doanh nghiệp khẩn

trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế với lộ trình
hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các
cấp, các ngành và các doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế- xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp,
nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế”.
Đại hội XI nhận định thời đại hiện nay là thời đại của toàn cầu hóa
kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Đại hội đã đề ra phương hướng phát

17


triển nền kinh tế: “Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ
động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”.
Như vậy, trong mỗi bước đi của mình Đảng luôn luôn xác định vấn đề
tham gia tích cực vào quá trình toàn cầu hóa là một vấn đề khách quan. Hội
nhập chính là việc đáp ứng yêu cầu và lợi ích của nước ta trong quá trình
phát triển, đồng thời qua đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình
hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới, góp phần thiết thực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
3.2. Phương hướng
Khẳng định hội nhập kinh tế quốc tế trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện
nay là tất yếu, là bộ phận tổng thể trong đường lối đổi mới của Việt Nam, là
động lực thúc đẩy quá trình mở rộng, là tiền đề quan trọng bảo đảm thành
công của công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Do vậy, tận dụng những cơ hội mà toàn cầu hóa tạo ra cần tích cực
chủ động chuẩn bị về mọi mặt, tập trung giải quyết tốt các cơ sở, nền tảng,
nâng cao môi trường chung của nền kinh tế. Những vấn đề cần quan tâm đó
là: pháp lý, cải cách hệ thống chính trị và hành chính. Vì thế hướng thực

hiện hội nhập kinh tế quốc tế là: Tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế
theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, chủ động hội nhập theo lộ trình
phù hợp với nền kinh tế nước ta, bảo đảm thực hiện những cam kết quốc tế;
Nhà nước có chính sách khuyến khích mạnh mẽ mọi thành phần kinh tế
tham gia sản xuất kinh doanh hàng hoá; Đẩy mạnh các hình thức, lĩnh vực
thu ngoại tệ như: du lịch, bưu chính, xuất khẩu...; chủ động tích cực thâm
nhập vào thị trường quốc tế, thị trường trung tâm kinh tế của thế giới. Mở
rộng thị phần trên các thị trường mới; tiếp tục mở rộng, cải thiện môi
trường đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư, nâng cao khả năng cạnh
18


tranh trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; khuyến khích người
Việt Nam định cư nước ngoài về nước đầu tư kinh doanh và doanh nghiệp
Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; tiếp tục tranh thủ nguồn đầu tư tài trợ các
chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức phi chính phủ. Đẩy nhanh
tốc độ giải ngân, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, gắn chặt việc sử dụng vốn
vay và trả nợ.
Tóm lại, tiến hành hội nhập kinh tế trong quá trình toàn cầu hóa kinh
tế hiện nay chúng ta phải thực hiện các hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, phải thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nhằm thích ứng và
đứng vững được trong cạnh tranh toàn cầu. Nếu không chuyển đổi được cơ
cấu kinh tế thì không khai thác được lợi thế so sánh và phải hứng chịu
những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập. Trong chuyển dịch cơ cấu
kinh tế phải biết lựa chọn những ngành có thế mạnh để mở cửa tham gia
cạnh tranh. Những ngành có lợi thế cần tập trung củng cố để có thể cạnh
tranh trong tương lai. Đồng thời cần có những biện pháp bảo vệ hợp pháp
và hạn chế tạm thời đối với những ngành chưa có khả năng cạnh tranh.
Thứ hai, phải cải cách hành chính sâu rộng, mà trước hết phải cải cách
chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô để tận dụng những ưu đãi mà cơ cấu

thể chế hội nhập quy định. Sự cải cách này nhằm bảo đảm sự hài hoà giữa
quyền lợi và nghĩa vụ của nước mình trong thể chế hội nhập, giữa mục tiêu
kinh tế- xã hội của đất nước với những yêu cầu và đòi hỏi của bên ngoài;
giữa vấn đề kinh tế và thương mại với các lĩnh vực khác; đồng thời phải cải
cách luật pháp, quy chế, quy định cho phù hợp và bảo đảm cho các chính
sách đó được thực hiện. Hai là, phải cải cách và hoàn thiện cơ chế quản lý
điều hành quá trình hội nhập để giữ ổn định trong sự phát triển, kịp thời
điều chỉnh và giải quyết những vấn đề phát sinh, những biến động bất
thường gây mất ổn định kinh tế- xã hội.
Cuối cùng là phải xây dựng, đào tạo được đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu
cầu của công cuộc hội nhập. Đây là đòi hỏi rất cấp bách, vì các lĩnh vực hội
19


nhập rất phong phú, nảy sinh nhiều vấn đề mới và phức tạp. Tất cả những
điều đó đòi hỏi phải nâng cao trình độ cán bộ, tranh thủ sự giúp đỡ của các
nước phát triển, của các tổ chức quốc tế để đào tạo, bồi dưỡng được một
đội ngũ cán bộ phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Phải xây
dựng một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi, quản lý giỏi, vừa có năng lực tổ
chức thực tiễn, nhạy bén với cái mới, đáp ứng sự phát triển của đất nước
trước những biến động của thế giới.
3.3. Giải pháp
Văn kiện Đại hội X xác định “Thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại
rộng mở đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và
tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên
các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn là đối tác tin cậy của các nước trong
cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu
vực”2.
Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có

hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết để
xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Việc gắn quá trình xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ với chủ động tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế của nước ta
để đảm bảo thành công cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
Thứ nhất, phải ổn định tình hình chính trị, kinh tế và xã hội trong
nước.
Về chính trị, chúng ta phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước đối với các hoạt động kinh tế- Chính trị- xã hội trong nước và quan hệ
đối ngoại với bên ngoài, đây chính là điều kiện tiên quyết để đảm bảo
chúng ta không bị chệch hướng trong quá trình phát triển định hướng xã
hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó việc đảm bảo hài hoà các mối quan hệ dân tộc
2 (1), trang 112.

20


trong nước, giữ vững khối đại đoàn kết toàn dân cũng là một trong những
điều kiện đảm bảo ổn định chính trị trong nước.
Về kinh tế, chúng ta phải ổn định kinh tế vĩ mô đó là sự cân đối lớn
của nền kinh tế. Để có được sự ổn định này chúng ta phải tiếp tục đổi mới
các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế “Nhà nước
làm tốt các chức năng: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui
hoạch, kế hoạch, và chính sách trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các nguyên
tắc của thị trường; tạo môi trường pháp lý thuận lợi để phát huy nguồn lực
của xã hội cho phát triển; đảm bảo tính bền vững và tích cực của các cân
đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tác động tiêu cực của nền kinh tế
thị trường; thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối
đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh
nghiệp…”3.
Về xã hội, chúng ta phải hạn chế thất nghiệp, hạn chế tối đa các tệ nạn

xã hội, tăng việc làm... thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát
triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo
động lực mạnh mẽ để phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội,
thực hiện bình đẳng trong quan hệ xã hội. Khuyến khích nhân dân làm giàu
hợp pháp.
Thứ hai, phải hoàn thiện hệ thống luật pháp. Bởi vì: luật pháp là một
trong hai công cụ (luật pháp và chính sách) quan trọng để đảm bảo hội
nhập thành công, kinh tế phát triển. Các hoạt động hợp tác kinh tế thương
mại quốc tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường, theo xu thế thuận
lợi hoá, tự do hoá. Việc hoàn chỉnh luật pháp của ta phải phù hợp với các
thông lệ quốc tế và những nguyên tắc của các tổ chức mà nước mình tham
gia, phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc biệt là đảm bảo được định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, phải tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội.
3 (1), trang 26-27.

21


Về kinh tế, tiến hành thực hiện đồng bộ hoá, hiện đại hoá mạng lưới
phân phối điện quốc gia, có chính sách thích hợp về sử dụng điện ở nông
thôn, miền núi; phát triển mạng lưới thông tin liên lạc hiện đại và đẩy
nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội
đặc biệt là trong hệ thống lãnh đạo, quản lý và các dịch vụ tài chính,
thương mại, giáo dục, y tế, tư vấn.., phát triển, nâng cấp hệ thống giao
thông ở đô thị, nông thôn, các khu kinh tế, tạo điều kiện cho giao lưu hàng
hoá thông thoáng. Bên cạnh đó phải hoàn thiện hệ thống cảng biển quan hệ,
hiện đại hoá các sân bay quốc tế, nâng cấp các sân bay nội địa...
Về xã hội, chúng ta phải đẩy mạnh việc xây dựng các công trình kết
cấu hạ tầng ở nông thôn như trường học, trạm y tế, điện, nước sạch, chợ và

đường giao thông. Tiến tới phổ cập trung học cơ sở, đầu tư vào y tế một
cách đầy đủ và hiện đại, củng cố và phát huy bản sắc văn hoá của các dân
tộc trong nước.
Thứ tư, là đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu
mới. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm công tác quốc tế phải có kinh nghiệm
trong hoạt động, trình độ ngoại ngữ phải đáp ứng được yêu cầu, phẩm chất
đạo đức lành mạnh. Với cán bộ kinh doanh phải có sự hiểu biết về luật
pháp quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh, đội ngũ công nhân phải đảm bảo lành
nghề.
Thứ năm, phải nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá, của doanh
nghiệp và của cả nền kinh tế. Dựa trên việc phát huy lợi thế so sánh về các
mặt của đất nước: con người- nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý, với việc vận dụng tốt những yếu tố tiến bộ khoa học và công nghệ,
giáo dục đào tạo, văn hoá, tổ chức và quản lý, cơ chế và chính sách.
Thực tế cho thấy, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính khu vực vừa
qua, nền kinh tế nào có sức cạnh tranh cao trên thị trường cả trong nước và
quốc tế thì nền kinh tế đó có sức chịu đựng cao hơn và hạn chế được tác
động của khủng hoảng nhiều nhất. Thực tế cũng cho thấy, không nhất thiết
22


phải là một nền kinh tế lớn mới đạt được trình độ cạnh tranh cao, mà một
nền kinh tế nhỏ nếu biết khai thác, vận dụng phát huy đến mức cao nhất các
yếu tố nêu trên, đặc biệt là yếu tố con người- nguồn nhân lực có chất lượng
cao, sự tiến bộ khoa học công nghệ và năng lực quản lý thì vẫn có thể đạt
được sức cạnh tranh tốt.
Thứ sáu, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế- trong hội nhập.
Thực hiện phương châm này chẳng những vừa đảm bảo được lợi ích của
nước ta mà còn có ý nghĩa rất quan trọng để giữ vững độc lập tự chủ, sự
cân bằng trong các mối quan hệ quốc tế, tránh lệ thuộc chiều vào một hoặc

một số đối tác.
Thứ bảy, là tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, đẩy mạnh công cuộc
cải cách hành chính, đổi mới nâng cao hiệu lực bộ máy Nhà nước. Đẩy lùi
tình trạng quan liêu, tham nhũng, thực hiện tốt dân chủ, nhất là dân chủ ở
xã, phường và các đơn vị cơ sở.
Cuối cùng, đảm bảo phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa
bằng mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế với đảm bảo an ninh, đảm bảo độc
lập chủ quyền. Để có được điều này chúng ta phải đặc biệt chăm lo xây
dựng củng cố niềm tin, sự ủng hộ và gắn bó của nhân dân với chế độ với
Đảng và Nhà nước. Mặt khác quan hệ tùy thuộc lẫn nhau, sự đan xen lợi
ích giữa nước ta với các nước tuy có mặt phức tạp nhưng chính sách đa
phương hoá quan hệ đối ngoại là một yếu tố quan trọng góp phần bảo vệ an
ninh và chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay.

23


KẾT LUẬN
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình
toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều
nước, trong đó có Việt Nam. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế trở thành tất yếu.
Bên cạnh những thuận lợi và thời cơ mà toàn cầu hóa đem lại vẫn còn tồn
tại không ít những thách thức lớn lao đối với nền kinh tế nước ta. Vấn đề
tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức đang trở thành một vấn đề sống còn với
sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Ngày nay, toàn cầu hóa đang làm cho hiện tượng "chảy máu chất
xám" diễn ra nhiều và dễ dàng hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu
người". Hai hiện tượng này đã góp phần gia tăng khoảng cách giàu nghèo
giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng
biệt trong một đất nước. Chính vì vậy trong bối cảnh hiện nay, mỗi quốc

gia, dân tộc phải tự lựa chọn cho mình hướng đi hợp lý, để điều hòa những
mâu thuẫn luôn tồn tại trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững lập trường độc lập dân tộc
và CNXH và lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim
chỉ nam trong mọi hành động. Với đường lối đúng đắn, linh hoạt và sáng
tạo Đảng đã đưa nước ta đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, những
thành quả ấy không nằm ngoài những thắng lợi trong thời kỳ hội nhập kinh
tế, toàn cầu hóa hiện nay. Dù con đường còn nhiều khó khăn, nhưng Đảng
đang từng bước thực hiện tốt các chiến lược kinh tế nhằm thực hiện mục
tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”.

24


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Nguyễn Hoàng Giáp, “Chủ nghĩa tư bản trong bối cảnh toàn cầu
hóa”, Tạp chí cộng sản số ra ngày 24-4- 2010.

2.

C.Mác – Ph.ăngghen, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Nxb Sự thật,
Hà Nội ,1976.

3.

Dương Phú Hiệp, Toàn cầu hóa kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội, 2001.


4.

Michel Albert, Chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản, Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội, 2008.

5.

Nguyễn Hoàng Giáp, Nguyễn Thị Quế, Mai Hoàng Anh (đồng chủ
biên), Phong trào chống mặt trái của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị
quốc gia, HN, 2009.

6.

Nguyễn Phú Trọng, Về định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2002.

7.

Nguyễn Trọng Chuẩn, Toàn cầu hóa cơ hội và thách thức, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.

8.

Thomas L.Friedman, Chiếc lexus và cây ôliu, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí
Minh, 2008.

9.

Thomas L.Friedman, Thế giới phẳng, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh,

2008.

10.

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

25


×