Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Quy định pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam (Tư pháp quốc tế)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.14 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................................1
I.

KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ

CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM.....................................................................1
1.

Quyền sở hữu trí tuệ:....................................................................................................1

2.

Quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài:................................................................2

I.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CÓ YẾU TỐ

NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM............................................................................................3
1.

Bình luận về Điều 679 BLDS 2015:.............................................................................3

2.

Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Công ước Berne:.......................................5

3.


Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Hiệp định TRIPs:......................................7

4.

Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có yếu tố nước

ngoài:.....................................................................................................................................8
II.

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN QUAN QUYỀN

SỞ HỮU TRÍ TUỆ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM:..............................9
1.

Về Luật SHTT:..............................................................................................................9

2.

Về Luật Dân sự:............................................................................................................9

KẾT LUẬN...........................................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................11

0


MỞ ĐẦU
Sáng tạo trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật, khoa học không chỉ làm
phong phú đời sống tinh thần của con người mà còn góp phần quan trọng thúc
đẩy phát triển kinh tế và khoa học – công nghệ. Pháp luật quyền tác giả được

hình thành nhằm bảo vệ quyền lợi cho chủ thể sáng tạo, thúc đẩy sáng tạo,
đồng thời khai thác hiệu quả các sản phẩm trí tuệ trong lĩnh vực này. Nhận
thức được tầm quan trọng của bảo hộ quyền tác giả cho các tác phẩm văn học,
nghệ thuật, khoa học, các quốc gia đã ban hành pháp luật và xúc tiến những
thỏa thuận quốc tế về vấn đề này. Đặc biệt vấn đề quyền tác giả trong tư pháp
quốc tế – quyền tác giả có yếu tố nước ngoài cũng được bảo hộ hợp lý.
Quyền tác giả là là một nhóm của quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm những
quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả đối với các tác phẩm văn học,
khoa học và nghệ thuật và các quyền đó được nhà nước bảo hộ cho một thời
hạn nhất định.Bảo hộ quyền tác giả là những cách thức, biện pháp được các
chủ thể có thẩm quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lí nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, xác lập quyền của chủ thể đối với đối
tượng và quyền tác giả tương ứng và bảo vệ quyền đó chống lại bất kì sự vi
phạm nào của bên thứ ba. Việc bảo hộ quyền tác giả có yếu tố nước ngoài
được chia làm hai trường hợp : Trường hợp có điều ước quốc tế điều chỉnh:
Công ước Bécnơ; Hiệp định TRIMs, Hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp
định giữa Việt Nam – Thụy Sỹ; Hiệp định khung Việt Nam – ASEAN; Trường
hợp không có các điều ước quốc tế điều chỉnh thì quyền tác giả của người
nước ngoài, pháp nhân nước ngoài sẽ được bảo hộ tại Việt Nam theo pháp
luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . Xuất phát từ tính lãnh thổ,
quyền tác giả, quyền liên quan không có xung đột pháp luật. Chính vì vậy khi
nghiên cứu về quyền tác giả, quyền liên quan, tư pháp quốc tế không nghiên
cứu việc lựa chọn pháp luật nước này hay nước khác dưới góc độ xung đột
pháp luật mà chỉ nghiên cứu việc bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan có
yếu tố nước ngoài. Việc nghiên cứu được tiến hành chủ yếu thông qua nghiên
1


cứu các điều ước quốc tế về quyền tác giả, quyền liên quan. Để làm rõ hơn về
quyền tác giả, quyền liên quan có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam, em xin phép

chọn đề tài “Trình bày các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo
hộ quyền tác giả, quyền liên quan có yếu tố nước ngoài.”

NỘI DUNG
I.

KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ VÀ QUYỀN SỞ
HỮU TRÍ TUỆ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM

1. Quyền tác giả, quyền liên quan:
a. Khái niệm:
Quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài
sản trí tuệ, bao gồm: Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng (Điều 4 Luật
SHTT 2005 sửa đổi bổ sung 2009). Nội dung của quyền SHTT bao gồm
quyền nhân thân và quyền tài sản.
b. Đặc điểm:
Thứ nhất, khách thể của quyền SHTT là tài sản trí tuệ, mang tính chất
phi vật thể nên rất dễ bị xâm phạm khi được thể hiện ra bên ngoài bằng một
hình thức vật chất nào đó.
Thứ hai, quyền SHTT mang tính chất tuyệt đối về mặt lãnh thổ, được
xác lập theo quy định của pháp luật nước nào thì thuờng chỉ có hiệu lực trong
phạm vi lãnh thổ nước đó.
Thứ ba, quyền SHTT được bảo hộ thường bị giới hạn về mặt thời gian.

2


Thứ tư, quyền SHTT bị giưới hạn bởi các quy định của pháp luật khi
việc khai thác, sử dụng các đối tượng của nó có liên quan đến lợi ích chung

của cả cộng đồng.
2. Quyền sở hữu trí tuệ có yếu tố nước ngoài:
a. Khái niệm:
Quyền SHTT có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam là quyền của tổ chức, cá nhân
nước ngoài đối với tài sản trí tuệ được công nhận và bảo hộ ở Việt Nam, bao
gồm: quyền tác giả, quyền liên quan của người nước ngoài, pháp nhân nước
ngoài đối với tác phẩm lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt Nam hoặc
được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nan, được bảo hộ
theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên; quyền sở hữu công ngiệp, quyền dối với giống cây trồng của
người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài đối với các đối tượng của quyền sở
hữu công nghiệp, đối tượng của quyền đối với giống cây trồng đã được Nhà
nước Việt Nam cấp văn bằng bảo hộ hoặc công nhận, được bảo hộ theo quy
định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Quyền tác giả là là một nhóm của quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm những quyền
nhân thân và quyền tài sản của tác giả đối với các tác phẩm văn học, khoa học
và nghệ thuật và các quyền đó được nhà nước bảo hộ cho một thời hạn nhất
định.
Dưới góc độ của tư pháp quốc tế có thể hiểu quyền tác giả trong tư pháp quốc
tế là quyền tác giả có yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài được thể hiện ở:
chủ sở hữu tác phẩm là người nước ngoài hoặc tác phẩm được sử dụng ở nước
ngoài.

b. Đặc điểm:
Thứ nhất, sự phát triển của quyền SHTT có yếu tố nước ngoài ở Việt
Nam luôn gắn liền với quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về đổi mới tư duy pháp lý và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tư pháp
và pháp luật.

3



Thứ hai, việc phát triển quyền SHTT có yếu tối nước ngoài trong thời
gian qua phần nào đó cũng tác động, gây ảnh hưởng khá nhiều tới tâm lí, lối
sống của con người Việt Nam.
Thứ ba, quyền SHTT có yếu tố nước ngàoi được bảo hộ và thực thi phù
hợp với pháp luật quốc tế, pháp luật truyền thống và bản sắc văn hoá dân tộc
Việt Nam.
Thứ tư, việc xác lập quyền SHTT có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam có
thể bị giới hạn trong một số trường hợp nhất định.
I.

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM VÀ QUỐC TẾ
Thứ nhất, Quyền tác giả có yếu tố nước ngoài theo pháp luật quốc tế

Bảo hộ quyền tác giả là những cách thức, biện pháp được các chủ thể có thẩm
quyền sử dụng với mục đích tạo ra hành lang pháp lí nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích chính đáng, xác lập quyền của chủ thể đối với đối tượng và quyền tác
giả tương ứng và bảo vệ quyền đó chống lại bất kì sự vi phạm nào của bên thứ
3.
-Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, tồn tại 3 hình thức để bảo hộ quốc tế
quyền tác giả như sau:
+ Kí kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế đa phương, như công
ước Berne 1886, hiệp định TRIPs 1994, hiệp ước WPPT 1994…
+Kí kết điều ước song phương, như hiệp định giữa Việt Nam – Hoa
Kỳ 1997, hiệp định giữa Việt Nam – Thụy Sĩ 1999…
+Bảo hộ theo nguyên tắc có đi có lại: các bên giành cho nhau sự bảo
hộ đối với tác phẩm của công dân mỗi bên.
Công ước Berne ra đời ngày 9/9/1886 tại Thụy Sĩ. Trong 125 tồn tại

của mình, công ước Berne đã được sửa đổi, bổ sung 8 lần, văn bản
ngày 24/7/1971 tại Paris, sửa đổi ngày 28/9/1979 là văn bản đang
được thi hành tại 164 quốc gia thành viên
4


– Nguyên tắc bảo hộ theo công ước Berne:
+ Nguyên tắc đối xử quốc gia (National Treatment): Theo khoản 1
Điều 5 Công ước Berne, mỗi quốc gia thành viên sẽ dành sự bảo hộ
cho các tác phẩm văn hoc, nghệ thuật và khoa học của công dân
quốc gia thành viên khác của Công ước tương tự như sự bảo hộ tác
phẩm của công dân chính quốc gia mình.
+ Nguyên tắc bảo hộ tự động (Automatic Protection): Quyền tác giả
phát sinh ngay khi tác phẩm định hình dưới một dạng vật chất nhất
định mà không lệ thuộc vào bất kì thủ tục nào (khoản 2 Điều 5).
+ Nguyên tắc bảo hộ độc lập (Independence of Proctection): Việc
hưởng và thực thi các quyền theo Công ước là độc lập với những gì
được hưởng tại nước xuất xứ của tác phẩm (khoản 2 Điều 5).
+ Nguyên tắc bảo hộ tối thiểu: Các quốc gia thành viên khi bảo hộ
cho các tác phẩm có xuất xứ từ các quốc gia thành viên phải đảm
bảo ít nhất các tiêu chuẩn được quy định trong Công ước.
– Tác phẩm được bảo hộ (Điều 2): Các tác phẩm gốc trong lĩnh vực văn hóa,
nghệ thuật, khoa học; Các tác phẩm phái sinh; Các tuyển tập tác phẩm văn
học và nghệ thuật.
– Điều kiện bảo hộ: Một tác phẩm muốn được bảo hộ phải thỏa mãn 2 tiêu
chí: quốc tịch của tác giả và nơi công bố tác phẩm lần đầu tiên.
– Các quyền được bảo hộ: Quy định cụ thể tại Điều 6 , Điều 8, Điều 9, Điều
10 , Điều 11, Điều 12, Điều 14, Điều 15, Điều 16 , gồm: quyền kinh tế
(Economic Rights), quyền tinh thần (Moral Rights) và quyền tiếp theo (Droit
de suit).

– Thời hạn bảo hộ quyền tác giả: Bắt đầu từ khi tác giả sáng tạo ra tác phẩm
và tiếp tục cho đến một khoảng thời gian sau khi tác giả chết. Có 2 nguyên
tắc cơ bản là nguyên tắc tính thời hạn bảo hộ theo đời người và không dựa
theo đời người (Điều 7).
– Các quy định liên quan đến thực thi quyền tác giả: Quy định tại khoản 3
Điều 13, Điều 15 về quyền khởi kiện, Điều 16 và Điều 17 là các biện pháp
được áp dụng trong quá trình thực thi quyền tác giả.

5


– Hiệu lực hồi tố: Theo Điều 18 thì Công ước bảo hộ cả đối với các tác
phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học tồn tại trước khi Công ước có hiệu lực
tại nước xuất xứ tác phẩm nếu nó chưa hết thời gian bảo hộ theo quy định
từ trước của quốc gia đó.
– Ưu đãi dành cho các quốc gia thành viên là các nước đang phát triển như
Việt Nam: Với mong muốn dành cho các nước đang có trình độ phát triển
kinh tế – xã hội thấp những ưu đãi hơn so với các nước thành viên khác để
các nước này có thể dễ dàng tham gia vào sân chơi chung của Công ước,
Công ước đã quy định những điều khoản về ưu đãi, miễn trừ tại phần Phụ
lục

Thứ hai, quy định của pháp luật về quyền SHTT có yếu tố nước ngoài
ở Việt Nam được quy định tại Điều 679 Bộ luật dân sự 2015 : “Quyền sơ
hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối tượng quyền sơ
hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ.”
Bình luận về Điều 679 BLDS 2015:
Khác với quy định của BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 quy định
quy phạm xung đột quyền sử hữu trí tuệ “gói gọn” tại Điều 679, mà theo
đó “Quyền sơ hữu trí tuệ được xác định theo pháp luật của nước nơi đối

tượng quyền sơ hữu trí tuệ được yêu cầu bảo hộ”. Theo quy định tại Điều 3
Luật Sở hữu trí tuệ (Luật SHTT) năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), thì
đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, gồm: “1. Đối tượng quyền tác giả bao gồm
tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học; đối tượng quyền liên quan đến
quyền tác giả bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình
phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hoá.
2. Đối tượng quyền sơ hữu công nghiệp bao gồm sáng chế, kiểu dáng
công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhãn
hiệu, tên thương mại và chỉ dẫn địa lý.

6


3. Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là vật liệu nhân giống và
vật liệu thu hoạch.”
Theo quy định tại Điều 679 BLDS năm 2015, có thể chia làm hai
trường hợp:
Trường hợp thứ nhất: Có điều ước quốc tế điều chỉnh, như: Công
ước Bécnơ; Hiệp định TRIMs, Hiệp định Việt Nam – Hoa Kỳ; Hiệp định giữa
Việt Nam Thụy Sỹ; Hiệp định khung Việt Nam – ASEAN;
Trường hợp thứ hai: Nếu không thuộc trường hợp thứ nhất, mà người
nước ngoài, pháp nhân nước ngoài sẽ được bảo hộ quyền tác giả tại Việt Nam
nếu họ có tác phẩm lần đầu tiên được công bố tại Việt Nam hoặc lần đầu tiên
được sáng tạo ở Việt Nam.
Đối với tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài có tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học lần đầu tiên được công bố, phổ biến tại Việt
Nam hoặc được sáng tạo và thể hiện dưới hình thức nhất định tại Việt Nam
đều được Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền tác giả (trừ trường hợp tác phẩm
không được Nhà nước bảo hộ). Tác giả là người nước ngoài, pháp nhân nước
ngoài được bảo hộ quyền tác giả theo quy định của pháp luật Việt Nam có các

quyền tác giả được quy định tại Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm
2009). Quyền tác giả đối với tác phẩm bao gồm quyền nhân thân và quyền tài
sản.
- Các quyền nhân thân, bao gồm: Đặt tên cho tác phẩm; Đứng tên thật hoặc
bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được
công bố, sử dụng; Công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm; Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho phép người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương
hại đến danh dự và uy tín của tác giả.

7


- Các quyền tài sản, bao gồm: Làm tác phẩm phái sinh; Biểu diễn tác phẩm
trước công chúng; Sao chép tác phẩm; Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc
bản sao tác phẩm; Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; Cho
thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Như vậy, tác giả người nước ngoài sẽ được hưởng quyền tài sản và
quyền nhân thân trong lĩnh vực quyền tác giả như tác giả là công dân Việt
Nam. Đối với tác phẩm công trình của người nước ngoài được công bố, sử
dụng ở Việt Nam dựa trên cơ sở những điều ước quốc tế về quyền tác giả mà
Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì chế độ bảo hộ quyền tác giả sẽ được xác
định theo Điều ước và theo pháp luật Việt Nam.
a.

Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Công ước Berne:

a. Đối tượng bảo hộ:
Đối tượng bảo hộ của Công ước Berne là các tác phẩm văn học, nghệ

thuật và khoa học được liệt kê khá đầy đủ và toàn diện tại Điều 2, bao gồm:
Tất cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ
được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào, chẳng hạn như
sách, tập in nhỏ và các bản viết khác, các bài giảng, bài phát biểu, bài thuyết
giáo và các tác phẩm cùng loại; các tác phẩm kịch hay nhạc kịch, các tác
phẩm hoạt cảnh và kịch câm, các bản nhạc có lời hay không lời, các tác phẩm
điện ảnh và các tác phẩm được diễn tả bằng một kĩ thuật tương tự với điện
ảnh...Công ước bảo hộ các tác phẩm được biểu hiện theo phương thức hay
hình thức nào. Đồng thời, Công ước cũng quy định mở cho các quốc gia
thành viên quyền quyết định không bảo hộ các tác phẩm nói chung hoặc
những thể loại khác cụ thể nào đó, trong khi các tác phẩm ấy chưa được ấn
định trên một hình thái vật chất.

8


b. Quyền được bảo hộ:
Công ước quy định các quyền độc quyền của tác giả bao gồm quyền
sao chép, quyền phân phối, quyền dịch, quyền phóng tác, quyền biểu diễn
công cộng, quyền kể lại trước công chúng, quyền phát song, quyền truyền
thông tới công chúng, quyền bán lại tác phẩm nghệ thuật gốc. Các quyền này
là quyền kinh tế của tác giả, do tác giả trực tiếp thực hiện hoặc cho phép các
tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
c. Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả:
Các nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả cho người nước ngoài, pháp nhân
nước ngoài theo quy định của Công ước Berne
- Nguyên tắc đối xử quốc gia, là nguyên tắc đặt ra cho các quốc gia thành
viên thực hiện bảo hộ tác phẩm có nguồn gốc từ các quốc gia thành viên khác
tương tự như sự bảo hộ tác phẩm của công dân quốc gia mình. Sự bảo hộ đó
không thấp hơn sự bảo hộ đối với công dân thuộc quốc gia mình. Nguyên tắc

này đặt ra sự bình đẳng trong đối xử với công dân và pháp nhân của các quốc
gia thành viên.
- Nguyên tắc bảo hộ tự động, đây là nguyên tắc đặc thù trong lĩnh vực
quyền tác giả, theo đó quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm định hình
dưới dạng vật chất nhất định không lệ thuộc vào bất cứ thủ tục nào như đăng
ký cấp giấy chứng nhận, nộp lưu chiểu Không có và không thể áp dụng trong
lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp xuất phát từ tính duy nhất hay tính
nguyên gốc của tác phẩm văn học và nghệ thuật. Khác với các đối tượng bảo
hộ sở hữu công nghiệp, các tác phẩm văn hóa nghệ thuật chỉ có thể được cảm
thụ thông qua sự thể hiện tác phẩm mà không thể được đem ra áp dụng trong
các tác phẩm văn hóa nghệ thuật sau đó. Hơn nữa, một tác phẩm văn học
nghệ thuật thường gắn với cảm xúc của tác giả và không thể lặp lại y hệt ở
người khác, nói một cách khác các tác phẩm văn học thường mang dấu ấn của
cá nhân tác giả.

9


Nguyên tắc được cụ thể hóa tại khoản 2 Điều 5 công ước. Theo đó ta có thể
hiểu quyền tác giả được định hình dưới dạng vật chất nhất định mà không phụ
thuộc vào bất kỳ thủ tục hình thức nào như đăng kí, nộp lưu chiểu… “ Hình
thức vật chất” được hiểu là bất kỳ thể hiện nào qua đó công chúng thấy được
sự tồn tại của tác phẩm. Ví dụ: Vào buổi sáng ngày 9/3/2011, tại hồ Gươm Hà
Nội, Họa sĩ T đã vẽ một bức tranh với tựa đề “bình minh trên thủ đô” vào tờ
giấy vẽ và lưu vào bộ sưu tập về Hà Nội của họa sĩ. Theo quy định của công
ước thì ngay từ thời điểm đó nếu có ai đó sao chép bức tranh để bán mà
không có sự đồng ý của họa sĩ thì hành vi đó bị coi là bất hợp pháp.
Nguyên tắc này đã chủ trương dành sự tôn trọng rất lớn cho các tác giả sáng
tạo ra các tác phẩm văn hóa nghệ thuật. Để các tác giả tập trung sáng tạo tác
phẩm mà không phải để ý đến các thủ tục hành chính khác mới thiết lập được

tư cách sáng tạo của mình. Bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ sự sáng tạo cá nhân
về hình thức thể hiện ý tưởng, do đó khi con người sáng tạo và thể hiện ý
tưởng dưới một hình thức khách quan nhất định thì cũng đồng thời phát sinh
quyền tác giả mà không cần một điều kiện hay thủ tục nào.
Đây cũng là điểm khác biệt giữa bảo hộ quyền tác giả và bảo hộ quyền sở hữu
công nghiệp. Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp hướng đến bảo hộ nội dung
đối tượng sáng tạo, chống lại việc sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp mà
không được chủ sở hữu cho phép với mục đích bù đắp chi phí cho chủ sở hữu
đối tượng sở hữu công nghiệp và đảm bảo cho họ có thể độc quyền sử dụng
trong một thời gian nên để phát sinh quyền sở hữu công nghiệp, chủ sở hữu
phải làm các thủ tục hành chính nhất định.
Nguyên tắc này đã dành cho tác giả sáng tạo ra các tác phẩm văn học nghệ
thuật sự ưu đãi lớn để các tác giả tập trung sáng tạo sản phẩm mà không phải
chú ý đến các thủ tục hành chính.

- Nguyên tắc bảo hộ độc lập, được quy định tại khoản 1 Điều 5 Công
ước,
theo đó được hiểu là việc được hưởng và thực hiện các quyền theo Công ước
độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất xử của tác phẩm. Nguyên tắc
được thể hiện ở chỗ, một tác phẩm được bảo hộ không phụ thuộc vào việc tác
phẩm đó có được bảo hộ hay không tại quốc gia gốc của nó. Nói cách khác,
một tác phẩm dù có hay không được bảo hộ ở quốc gia gốc nhưng nó vẫn có
10


thể được bảo hộ ở các quốc gia khác là thành viên của Liên hiệp với quy chế
pháp lý theo về bảo hộ quyền tác giả ở quốc gia này.
Ngoài ra cần chú ý tới nguyên tắc bảo hộ quyền tác giả của pháp luật
Việt Nam, tính chất của các nguyên tắc của Bộ luật dân sự mà việc thực hiện
bảo hộ quyền tác giả đặt ra một số nguyên tắc để làm tư tưởng chỉ đạo cho các

chủ thể khi vận dụng các quy phạm pháp luật về quyền tác giả, đặc biệt đối
với việc áp dụng các quy định về quyền tác giả của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền khi giải quyết tranh chấp
Nguyên tắc bảo đảm quyền tự do sáng tạo của cá nhân
Nhà nước đã tạo thế chủ động và ghi nhận quyền tự do sáng tạo của cá nhân
trong đạo luật cơ bản là Hiến pháp – một đạo luật được coi là cơ sở pháp lí
của cả hệ thống pháp luật. Luật dân sự và Luật sở hữu trí tuệ cũng phải dựa
vào quy định của Hiến pháp và cụ thể hoá những quy định của Hiến pháp,
đồng thời tuân thủ những nguyên tắc chung của luật dân sự, đặc biệt là
nguyên tắc “tự do, tự nguyện cam kết thoả thuận”. Với các quy định trên đây
thì quyền tự do sáng tạo của cá nhân luôn được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện, khuyến khích tự do sáng tạo, cấm cản trở, hạn chế quyền tự do sáng tạo
của cá nhân. Pháp luật bảo đảm cho người sáng tạo có quyền tự do trong việc
chọn đề tài, hình thức thể hiện, đặt tên tác phẩm, đứng tên tác giả, giao kết
hợp đồng chuyển giao tác phẩm…
Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng, tự định đoạt của các chủ thể
Pháp luật quy định về quyền tác giả nói chung và quyền của người sáng tác
văn học, nghệ thuật, khoa học nói riêng, không phân biệt độ tuổi, trình độ văn
hoá, giới tính, tình trạng tài sản, địa vị xã hội và phương pháp tạo ra tác phẩm
V.V.. Mọi cá nhân đều có quyền hoạt động sáng tạo để tạo nên tác phẩm văn
học, nghệ thuật, khoa học kể cả cá nhân đó là người nước ngoài.
Bằng tài năng sáng tạo tạo nên tác phẩm hay công trình khoa học của mình,
các tác giả của những sản phẩm trí tuệ đó đều có các quyền về tinh thần và về
vật chất như nhau. Các tác giả hoàn toàn có quyền định đoạt các quyền của
mình có được từ tác phẩm. Pháp luật về quyền tác giả luôn bảo đảm cho các
chủ thể sử dụng, khai thác tác phẩm một cách hiệu quả nhất. Khi có hành vi
xâm phạm đến quyền tác giả thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ áp dụng
những biện pháp cưỡng chế để khôi phục lại tình trạng ban đầu như trước khi
bị xâm phạm về quyền tác giả.
11



Tuy nhiên, ngoại lệ của nguyên tắc này được quy định tại khoản 8 Điều
7 Công ước. Theo đó, về nguyên tắc thì thời hạn bảo hộ của quốc gia sở tại
đối với tác phẩm không chịu ảnh hưởng bởi thời hạn bảo hộ của quốc gia gốc,
nhưng trên thực tế nếu thời hạn bảo hộ ở quốc gia gốc đã hết thì quốc gia
thành viên có quyền từ chối bảo hộ tác phẩm khác mặc dù theo pháp luật của
nước này vẫn còn thời hạn bảo hộ đối với tác phẩm đó. Công ước Berne quy
một công thức chung về thời hạn bảo hộ cho một tác phẩm tại Điều 7, đó là,
bảo hộ cả đời tác giả cộng thêm 50 năm sau khi tác giả chết. Theo tinh thần
này của Công ước, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được quy định tương tự tại
Điều 27 Luật SHTT năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
b.

Bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Hiệp định TRIPs:
Hiệp định đưa ra các điều khoản chung và các nguyên tắc cơ bản , đặc

biệt là cam kết đối xử quốc gia mà theo đó các công dân của các nước thành
viên phải được đối xử không kém ưu đãi hơn so với công dân của các nước
thành viên đó về vấn đề quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc cũng được đưa ra, đây là một điều khoản mới
trong thỏa thuận SHTT quốc tế, theo đó, bất kì thuận lợi nào mà một thành
viên dành cho các công dân của một thành viên khác cũng phải được ngay lập
tức và vô điều kiện áp dụng cho công dân của tất cả các thành viên khác ngay
cả khi sự đối xử này ưu đãi hơn đối xử mà thành viên đó dành cho chình công
dân nước mình.
Đối tượng được bảo hộ bao gồm các tác phẩm thuộc lĩnh vực văn học,
nghệ thuật và khoa học (chương trình máy tính, cơ sở dữ liệu). Tuy nhiên,
không phải bất kỳ tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật nào cũng được bảo
hộ. Để được bảo hộ, tác phẩm phải là nguyên tác (ý tưởng trong tác phẩm


12


không nhất thiết phải là mới nhưng loại hình biểu hiện phải là nguyên bản
sáng tạo của tác giả).
Nội dung chính của hiệp định:
+ Quy định nguyên tắc bảo hộ.
Nguyên tắc đối xử công dân (đối xử quốc gia): mỗi nước thành viên phải
dành cho công dân của các thành viên khác sự đối xử không kém thuận lợi
hơn so với sự đối xử của thành viên đó với công dân nước mình trong bảo hộ
sở hữu trí tuệ.
Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc đối với việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, bất
kỳ một sự thuận lợi, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn trừ nào đó được một nước
thànhviên dành cho công dân nước nào khác thì lập tức và vô điều kiện phải
được dành cho công dân của tất cả cácn ước thành viên khác.
+ Quy định về tiêu chuẩn, phạm vi và điều kiện bảo hộ đối với đối tượng của
quyền sở hữu trí tuệ.
Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ được bảo hộ bao gồm:


Nhãn hiệu hàng hoá,



Chỉ dấn địa lý;



Kiểu dáng công nghiệp;




Sáng chế;



Thiết kế bố trí mạch bán dẫn.

Quy định mới: các quy định về bảo hộ đối với giống cây trồng, bảo hộ đối với
thiết kế bố trí mạch tích hợp, bổ sung các quy định về thời hạn bảo hộ đối với
sáng chế, kiểu dáng công nghiệp.
+ Quy định các biện pháp để thực thi quyền sở hữu trí tuệ.
Theo quy định mỗi quốc gia là thành viên của hiệp định phải có nghĩa vụ quy
định trong luật quốc gia của mình thủ tục và các chế tài để đảm bảo cho các
13


chủ sở hữu nước ngoài cũng như các chủ sở hữu là công dân chính nước đó
có thể thực thi một cách có hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ của mình.
Các biện pháp để thực thi quyền sở hữu trí tuệ gồm:


biện pháp dân sự, biện pháp hành chính;



biện pháp kiểm soát biên giới, các biện pháp tạm thời; biện pháp hình
sự;


Ngoài các vấn đề nêu trên hiệp định còn đề cập tới một số vấn đề quan trọng
khác: quy định về cơ chế hoạt động “Hội đồng về các vấn đề liên quan đến
thương mại của quyền sở hữu trí tuệ; quy định về cơ chế giải quyết tranh
chấp; về hiệu lực của hiệp định.

Thời hạn bảo hộ, trừ tác phẩm nhiếp ảnh và tác phẩm nghệ thuật ứng
dụng, nếu thời hạn bảo hộ tác phẩm không được tính theo đời người, Hiệp
định TRIPs quy định thời hạn bảo hộ tối thiều đối với quyền tác giả. Thời hạn
bảo hộ đó không được dưới năm mươi năm kể từ khi kết thúc năm dương lịch
mà tác phẩm được công bố một cách hợp pháp, hoặc năm mươi năm tính từ
khi kết thúc năm dương lịch mà tác phẩm được sáng tạo nếu tác phẩm này
không được công bố một cách hợp pháp trong vòng ba mươi năm kể từ ngày
tạo ra tác phẩm.
c.

Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng có
yếu tố nước ngoài:

Quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng cũng là một
quyền trong SHTT. Việc bảo ộ này không chỉ nhằm tạo ra hình lang pháp lý
đảm bảo các quyền nhân thân và quyền tài sản của các nhà sáng tạo đối với
các kết quả của sự sáng tạo đó, khích lệ thương mại trung thực từ đó thúc đẩy
sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi quốc gia cũng như toàn thế giới. Bên
cạnh đó, các đối tượng sở hữu công nghiệp, giống cây trồng không được pháp
14


luật Việt Nam bảo hộ bao gồm: các đối tượng trái với lợi ích xã hội, trật tự
công cộng, nguyên tắc nhân đạo và những đối tượng khác mà pháp luật về
SHTT quy định là không bảo hộ.

II.

KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VĂN BẢN PHÁP LUẬT LIÊN
QUAN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ CÓ YẾU TỐ NƯỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM:

a.

Về Luật SHTT:

- Cần thiết phải quy định cụ thể các khái niệm về quyền SHTT có yếu tố
nước ngoài và quyền SHTT có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam.
- Cần bổ sung thêm vào nhóm đối tượng quyền SHTT gồm cả giống vật
nuôi.
- Cần thiết phải ban hành Nghị định hướng dẫn luật SHTT về nhuật bút;
bảo hộ tác phẩm, văn học nghệ thuật dân gian trong lĩnh vực y học cổ
truyền, bí quyết chế biến thực phẩm; lệ phí đăng ký sở hữu công
nghiệp.
b.

Về Luật Dân sự:
Cần thiết là phải bổ sung vào BLDS những quy định đầy đủ hơn về các

khía cạnh của quyền SHTT, làm cho quá trình áp dụng pháp luật dân sự về
SHTT được đồng bộ, thống nhất; cần bổ sung vấn đề bồi thường thiệt hại
về mặt tinh thần liên quan đến quyền SHTT theo hướng tránh “cào bằng”
giữa các tổ chức, cá nhân; cần quy định lại về chủ thể của quyền sở hữu
công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, vấn đề chuyển giao công
nghệ có yếu tố nước ngoài,…


15


KẾT LUẬN
Trên bình diện quốc tế, Việt Nam có tham gia ký kết nhiều điều ước
quốc tế song phương và đa phương liên quan đến bảo hộ quyền tác giả nói
riêng và quyền SHTT nói chung. Về nguyên tắc, pháp luật quốc gia sẽ có
những sửa đổi, bổ sung để dần phù hợp với pháp luật quốc tế, đặc biệt là
trong xu thế hội nhập hiện nay thì việc đó là hết sức cần thiết.
Do đó, thông qua việc so sánh ở phần trên ta có thể thấy những quy
định về bảo hộ quyền tác giả trong pháp luật dân sự Việt Nam là tương đối
phù hợp với các điều ước quốc tế mà chúng ta đã tham gia. Tuy nhiên, do đặc
trưng của mỗi quốc gia (Việt Nam cũng không thể là ngoại lệ) liên quan đến
kinh tế, chính trị và xã hội nên vẫn có sự khác biệt nhất định giữa việc bảo hộ
quyền tác giả trong tư pháp quốc tế Việt Nam và trong pháp luật dân sự Việt
Nam.
Pháp luật dân sự Việt Nam mà cụ thể là Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009) có nhiều quy định chi tiết hơn so với các điều ước
quốc tế về bảo hộ quyền tác giả mà chúng ta đã tham gia. Do chúng ta là một
quốc gia đang phát triển nên vẫn có những quy định chưa phù hợp với quy
định trong tư pháp quốc tế. Bên cạnh đó, ý thức người dân Việt Nam trong
việc tôn trọng quyền tác giả còn rất hạn chế. Do đó, bên cạnh việc tiến hành
16


sửa đổi những quy định của pháp luật cho phù hợp với tư pháp quốc tế, chúng
ta cần phải có chiến dịch tuyên truyền thay đổi nhận thức của người dân nhằm
đảm bảo thực thi các điều ước trên thực tế.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Tư pháp quốc tế
2. Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005
3. Bộ luật dân sự năm 2015
4. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu

trí tuệ (Hiệp định TRIPS)
5. Công ước Berne 1886 về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật

6. WEBSITE:
- />-
- />
17



×