Tải bản đầy đủ (.doc) (196 trang)

pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (705.61 KB, 196 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ở Việt Nam trước đây hôn nhân có yếu tố nước ngoài là một loại
quan hệ không phổ biến. Tuy nhiên, trong hơn một thập kỷ qua, đặc biệt
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, hôn nhân có yếu tố nước ngoài
không còn là hiện tượng hiếm hoi trong đời sống xã hội. Hiện nay thậm
chí có nơi, có lúc hôn nhân có yếu tố nước ngoài đã trở thành một hiện
tượng khá phổ biến. Cũng như mọi quan hệ khác, quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài cần có sự điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu các vấn
đề pháp lý liên quan tới quan hệ này trong giai đoạn hiện nay là rất cần
thiết.
Văn bản pháp lý trong nước đầu tiên của Việt Nam ghi nhận các
quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là Luật Hôn
nhân và gia đình (LHNGĐ) năm 1986. Trên cơ sở của các quy định này,
nhiều văn bản pháp luật quan trọng về hôn nhân có yếu tố nước ngoài lần
lượt ra đời. Trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định
tương trợ tư pháp (HĐTTTP) với các nước mà mở đầu là HĐTTTP với
Cộng hòa dân chủ Đức (cũ) vào năm 1980. Tính đến nay Việt Nam đã ký
kết 14 HĐTTTP với các nước. Trong các hiệp định này vấn đề liên quan
tới việc giải quyết quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được ghi nhận.
Có thể nói, nội dung của các văn bản pháp luật trong nước và các điều ước
quốc tế trên đây đã đóng góp một phần rất quan trọng trong việc điều
chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian
qua. Tuy nhiên, so với đòi hỏi thực tế của đời sống quốc tế, pháp luật của
Việt Nam về vấn đề này vẫn cần được nghiên cứu để áp dụng có hiệu quả
và bổ sung hoàn thiện.
1
Khác với việc giải quyết quan hệ hôn nhân thông thường, việc giải
quyết quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài thường liên quan đến việc
chọn pháp luật áp dụng. Do đó việc nghiên cứu đề tài sẽ làm sáng tỏ thêm
các vấn đề lý luận trong việc áp dụng pháp luật nước ngoài nhằm điều


chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Đây là điều quan tâm không
chỉ của những người nghiên cứu pháp luật mà còn là của những người làm
công tác liên quan tới việc giải quyết các vấn đề về hôn nhân có yếu tố
nước ngoài tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Vì những lý do trên mà việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật điều
chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam" có ý nghĩa
thiết thực cả về mặt lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam vấn đề hôn nhân có yếu tố nước ngoài mặc dù được
một số nhà nghiên cứu quan tâm, nhưng các công trình nghiên cứu có tính
chất chuyên khảo về vấn đề này vẫn còn rất khiêm tốn. Vấn đề về hôn
nhân có yếu tố nước ngoài chỉ là một phần trong các công trình nghiên
cứu như chuyên đề, luận văn tốt nghiệp cử nhân hoặc luận văn thạc sĩ và
một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành. Ví dụ: Số
chuyên đề của Tạp chí Dân chủ và pháp luật thuộc Bộ Tư pháp về Luật
hôn nhân và gia đình năm 2000; Giới thiệu nội dung cơ bản của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000 do TS. Đinh Trung Tụng là chủ biên, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000; Luận văn thạc sĩ luật học về Sự phát
triển của pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và những vấn đề cần
sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình 1986 (năm 1996) của Nguyễn
Văn Cừ; Luận văn thạc sĩ luật học về Hôn nhân trái pháp luật - Căn cứ
xác định và biện pháp xử lý (năm 1998) của Ngô Thị Hường; Luận văn
thạc sĩ luật học về Chế định ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam
(năm 1997) của Vũ Thị Hằng; Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật về Pháp
2
luật về hôn nhân giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài (năm
2000) của Bùi Thị Tố Nga; Luận văn tốt nghiệp cử nhân luật về Vấn đề ly
hôn giữa công dân Việt Nam mà một bên đương sự ở nước ngoài (năm
2000) của Đinh Thị Luyến; một số bài viết của Thái Công Khanh như Vấn
đề quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, đăng trên Tạp chí

Tòa án nhân dân, số 4/2000, hoặc Bàn về giám hộ trong quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài, đăng trên Tạp chí Tòa án, số 12/2000
Có thể nói, các công trình trên đây không nghiên cứu chuyên sâu
và toàn diện về pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam mà chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một phần các quy
định của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam. Nói cách khác, hiện nay chưa có công trình nghiên cứu toàn
diện, chuyên sâu và có tính hệ thống đối với vấn đề này. Do đó đề tài vẫn
còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, khai thác ở cấp độ cao hơn.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích thứ nhất của luận án là nhằm tìm hiểu quá trình hình
thành và phát triển các quy phạm điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài của Việt Nam. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu này làm sáng tỏ
quan điểm của Nhà nước ta trong việc ngày càng quan tâm đối với quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài, đồng thời đưa ra dự báo cho sự phát triển
trong tương lai của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam.
Mục đích thứ hai của luận án là lý giải việc vận dụng các quy định
của pháp luật để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Khác
với các quan hệ pháp lý thông thường, quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài thường chịu sự điều chỉnh của nhiều hệ thống pháp luật khác nhau.
Việc kết hợp áp dụng các quy định của pháp luật trong nước và các quy
định của pháp luật nước ngoài để điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
3
nước ngoài là hiện tượng phức tạp mà cần được lý giải một cách khoa học.
Việc lý giải một cách khoa học vấn đề này là cơ sở để xây dựng và áp
dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật trong việc điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Mục đích thứ ba của luận án là trên cơ sở kết quả nghiên cứu về
lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu

tố nước ngoài tại Việt Nam, luận án đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án gồm các vấn đề lý luận pháp luật
và thực tiễn pháp lý của việc điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam. Nghiên cứu các vấn đề lý luận để xác định tính khoa
học trong việc xây dựng và áp dụng pháp luật trong việc điều chỉnh quan
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Nghiên cứu thực tiễn để tìm ra những
điểm phù hợp và chưa phù hợp của pháp luật trong việc điều chỉnh quan
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong lĩnh vực này.
Phạm vi nghiên cứu của luận án là các vấn đề pháp lý liên quan tới
các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài, chúng bao gồm các vấn đề cơ bản như khái niệm, lịch sử hình
thành, nội dung và thực trạng của pháp luật về vấn đề này. Trong quá trình
nghiên cứu, các quy định tương ứng của pháp luật một số nước được vận
dụng để so sánh với các quy định của pháp luật Việt Nam.
Trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ luật học nên các vấn đề
chi tiết có liên quan tới đề tài sẽ không được trình bày, mà luận án chỉ tập
trung nghiên cứu và trình bày một cách tổng quát những vấn đề pháp lý cơ
4
bản, đặc biệt là các vấn đề làm cơ sở cho các kiến nghị hoàn thiện pháp
luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp luận: Luận án lấy lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm phương pháp luận trong quá trình nghiên cứu đề tài, với quan điểm
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam,
nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh.

Về phương pháp nghiên cứu: Luận án đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu: Lịch sử, phân tích, so sánh, tổng hợp.
Phương pháp lịch sử: Đây là phương pháp cổ điển được áp dụng
khá phổ biến trong nghiên cứu khoa học nói chung và trong nghiên cứu
khoa học pháp lý nói riêng. Áp dụng phương pháp này khi nghiên cứu đề
tài nhằm làm rõ sự phát triển có tính kế thừa của pháp luật trong việc điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Phương pháp phân tích: Các vấn đề mà đề tài đặt ra sẽ được phân
tích, mổ xẻ về mặt lý luận để thấy rõ tính khoa học của việc điều chỉnh
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trong phạm vi quốc gia và trong
phạm vi quốc tế.
Phương pháp so sánh: Phương pháp này được áp dụng khi xem xét
các vấn đề về nội dung pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam so với pháp luật của một số nước trên thế giới. Đặc
biệt phương pháp này sẽ được áp dụng khi nghiên cứu về nội dung các quy
định pháp luật so với những vấn đề về lý luận pháp luật nhằm rút ra những
điểm đã và chưa phù hợp trong quy định của pháp luật so với lý luận, với
mục đích hoàn thiện các quy định pháp luật đó.
5
Phương pháp tổng hợp: Áp dụng phương pháp tổng hợp nhằm rút
ra những vấn đề cơ bản về mặt lý luận. Việc làm này nhằm tìm ra những
ưu điểm và hạn chế trong việc quy định về nội dung quy phạm pháp luật
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của
luận án
Trên cơ sở mục đích của việc nghiên cứu đã đề ra, luận án đã đóng
góp một số vấn đề mới sau đây:
Một là, luận án nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cả về lý luận
và thực tiễn pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam.

Hai là, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của việc áp dụng pháp luật
trong lĩnh vực này, luận án đã tìm ra một số tồn tại trong quy định của
pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Ba là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề này,
Luận án đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Với những điểm nêu trên đây, tác giả của luận án hy vọng đóng
góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
án gồm 3 chương, 8 tiết.
6
Chương 1 : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU
CHỈNH QUAN HỆ HÔN NHÂN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HÔN NHÂN
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Khái niệm hôn nhân và quan hệ hôn nhân
1.1.1.1. Hôn nhân
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội đặc biệt, trong đó các bên chủ
thể gắn kết với nhau với mục đích tạo dựng một tế bào của xã hội là gia
đình. Khác với các quan hệ dân sự bình thường, mục đích của các chủ thể
trong quan hệ hôn nhân không phải là nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất
hoặc tinh thần trong một thời điểm nhất định mà nhằm xác lập mối quan
hệ lâu dài. Thông thường hôn nhân là kết quả của tình yêu và dựa trên sự
tự nguyện của các bên chủ thể nhằm xây dựng mối quan hệ bền vững. Sự
bền vững này tồn tại cùng với cuộc đời của các chủ thể và được củng cố
bằng các quan hệ phái sinh khác đó là quan hệ của cha mẹ đối với con cái,
ông bà đối với cháu chắt. Nói cách khác, hôn nhân là cơ sở tạo nên quan

hệ vợ chồng và quan hệ huyết thống mà tổng hợp các mối quan hệ này là
nền tảng của gia đình.
Vì hôn nhân là cơ sở tạo nên gia đình nên, về mặt khoa học, hôn
nhân là một khái niệm gắn liền với khái niệm gia đình. Hai khái niệm này
cùng song song tồn tại và phát triển theo lịch sử phát triển của xã hội loài
người. Trong thời kỳ nguyên thủy, khi con người còn sống thành bầy đàn
hoàn toàn phụ thuộc vào thiên nhiên nên chưa có phân công lao động xã
hội, do đó chưa có hôn nhân và cũng không có gia đình. Ở thời kỳ này,
quan hệ giữa đàn ông và đàn bà là quan hệ tính giao bừa bãi. Thời kỳ quan
hệ tính giao này kéo dài hàng trăm nghìn năm và nó kết thúc bằng sự ra
7
đời của chế độ quần hôn [93, tr. 4] khi có sự phân công lao động xã hội.
Tương ứng với chế độ quần hôn là hình thức gia đình quần hôn. Hình thức
này được coi là hình thức gia đình sớm nhất [56, tr. 64]. Nó là kết quả liên
kết của nhiều người đàn ông với nhiều người đàn bà. Chế độ quần hôn
được hình thành và phát triển qua hai giai đoạn chính và được thể hiện
dưới hai hình thức gia đình đó là gia đình huyết tộc và gia đình Pu-na-lu-an
[93, tr. 4]. Sau giai đoạn này là sự ra đời và phát triển của hình thái hôn
nhân đối ngẫu và hôn nhân một vợ một chồng, tương ứng với chúng là gia
đình đối ngẫu và gia đình có một vợ một chồng.
Có thể nói, nhìn vào các hình thái hôn nhân trong từng giai đoạn
lịch sử khác nhau ta thấy sự khác nhau về nội dung của khái niệm hôn nhân.
Trước kia, trong thời kỳ tồn tại hình thức gia đình quần hôn, khái niệm
hôn nhân được hiểu là sự liên kết của nhiều người đàn ông với nhiều người
đàn bà nhằm tạo thành một gia đình. Ngày nay khi chế độ hôn nhân một
vợ một chồng được coi là hình thức hôn nhân tiến bộ thì khái niệm về hôn
nhân cũng thay đổi. Nó được hiểu là sự liên kết giữa nam và nữ để tạo nên
quan hệ vợ chồng.
Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân và gia đình mang tính giai cấp
sâu sắc. Lịch sử đã chứng minh trong mỗi hình thái xã hội có các hình thái

hôn nhân và gia đình nhất định. Các hình thái hôn nhân và gia đình này
phản ánh bản chất xã hội mà hình thái hôn nhân và gia đình đó đang tồn
tại. Một xã hội bình đẳng hay bất bình đẳng giữa người với người sẽ thể
hiện ngay trong cuộc sống hôn nhân và gia đình của xã hội đó. Nói cách
khác, nhìn vào cuộc sống hôn nhân và gia đình, ta có thể nhận biết được
phần lớn thực trạng của đời sống xã hội và ngược lại nghiên cứu cuộc sống
xã hội ta có thể thấy được cuộc sống hôn nhân và gia đình, vì hôn nhân và
gia đình là hình ảnh của một xã hội được thu nhỏ.
8
Như đã trình bày ở trên, có thể thấy "hôn nhân" và "gia đình" là
hai khái niệm có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Nội dung của hai
khái niệm này cùng tồn tại và phát triển trong sự phát triển của xã hội. Tuy
nhiên, về mặt lý luận thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau và có tính
độc lập nhất định.
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển - Nhà xuất bản
Khoa học xã hội xuất bản năm 1994 thì khái niệm hôn nhân được hiểu là
"việc nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng" còn gia đình được hiểu là
"tập hợp người cùng sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội,
gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ
chồng, cha mẹ và con cái" [99].
Theo giải thích của Oxford Advanced Learner's Dictionary do
Oxford University Press xuất bản năm 1992 thì "hôn nhân" là sự liên kết
pháp lý giữa một người đàn ông với một người đàn bà như vợ chồng, còn
"gia đình" là nhóm người bao gồm cha mẹ và con cái của họ [111].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học
Luật Hà Nội thì "hôn nhân là sự liên kết giữa người nam và người nữ dựa
trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng theo điều kiện và trình tự luật định,
nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và
hòa thuận", còn gia đình được hiểu là "tập hợp những người cùng sống
chung, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi

dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau" [98].
Theo quy định của khoản 6 và khoản 10 Điều 8 LHNGĐ Việt Nam
năm 2000 thì "hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn",
còn "gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và
quyền giữa họ với nhau" theo quy định của pháp luật [46].
9
Từ nội dung của các giải thích trên đây có thể thấy, "hôn nhân" và
"gia đình" là hai khái niệm độc lập. Tính độc lập này được thể hiện ở hai
điểm khác nhau cơ bản, đó là sự hình thành và chủ thể tham gia trong đời
sống hôn nhân và gia đình.
Thứ nhất, về sự hình thành: Nếu hôn nhân được hình thành trên cơ sở
kết hợp giữa nam và nữ để xác lập quan hệ vợ chồng, thì gia đình được hình
thành trên nhiều cơ sở khác nhau, trong đó hôn nhân được coi là một trong
những cơ sở phổ biến. Có lẽ chính vì mối quan hệ khăng khít có tính nhân
quả này mà đôi khi khó có thể phân biệt rạch ròi giữa hôn nhân và gia đình.
Thứ hai, về chủ thể tham gia: Nếu chủ thể tham gia đời sống hôn
nhân là các bên xác lập quan hệ vợ chồng thì trong đời sống gia đình các
chủ thể tham gia không những chỉ là vợ chồng mà còn là những người
khác dựa trên cơ sở của quan hệ huyết thống hoặc nuôi dưỡng như con đẻ,
ông bà, con nuôi
Như vậy có thể nói, hôn nhân và gia đình là hai khái niệm mặc dù
có quan hệ gắn bó với nhau nhưng chúng độc lập. Do đó, việc nghiên cứu
quan hệ hôn nhân cũng được đặt trong sự độc lập của nó với việc nghiên
cứu quan hệ gia đình.
1.1.1.2. Quan hệ hôn nhân
Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa các chủ thể trong hôn nhân, nó
được xác lập từ khi các bên nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng và
chấm dứt khi các bên không còn quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật. Có thể nói, việc xác lập và chấm dứt quan hệ hôn nhân trước hết hoàn

toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cá nhân trong hôn nhân phù
hợp với quy định của pháp luật.
Quan hệ hôn nhân là loại quan hệ pháp luật dân sự đặc biệt. Tính chất
dân sự và tính chất đặc biệt trong quan hệ hôn nhân được thể hiện như sau:
10
Thứ nhất, tính chất dân sự trong quan hệ hôn nhân được biểu hiện
ở ba điểm cơ bản: Một là, đối tượng điều chỉnh của pháp luật về hôn nhân
giống như đối tượng điều chỉnh của pháp luật dân sự. Khi quan hệ hôn
nhân được xác lập thì các quan hệ về nhân thân (danh dự, nhân phẩm, uy
tín ) và quan hệ tài sản (tài sản chung, tài sản riêng ) của các chủ thể
cũng được xác lập và chịu sự điều chỉnh của pháp luật. Về nguyên tắc, các
quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản là đối tượng điều chỉnh của pháp luật
dân sự. Hai là, phương pháp điều chỉnh quan hệ hôn nhân được dựa trên
phương pháp điều chỉnh của luật dân sự [93, tr. 32]. Ví dụ, ở Việt Nam
mặc dù trong phương pháp điều chỉnh quan hệ hôn nhân có những điểm
đặc thù bởi tính chất của quan hệ này nhưng vì được tách ra từ quan hệ
dân sự nên phương pháp điều chỉnh của nó được dựa trên phương pháp
điều chỉnh của pháp luật dân sự. Ba là, các quy định có tính nguyên tắc
điều chỉnh quan hệ hôn nhân được quy định trong Bộ luật Dân sự. Ví dụ,
trong Bộ luật Dân sự của Việt Nam, các quy định về hôn nhân được ghi
nhận tại các điều: Điều 35 (quyền kết hôn), Điều 36 (quyền bình đẳng của
vợ chồng), Điều 38 (quyền ly hôn), Điều 57 (đăng ký kết hôn)
Thứ hai, tính đặc biệt trong quan hệ hôn nhân được thể hiện ở yếu
tố tình cảm của các bên chủ thể. Có thể nói, tình cảm của các bên chủ thể
đối với nhau được coi là cơ sở cơ bản và phổ biến trong việc xác lập quan
hệ hôn nhân. Dựa trên yếu tố tình cảm mà quan hệ hôn nhân tồn tại bền
vững lâu dài, không mang tính chất nhất thời và không mang tính chất đền
bù ngang giá giống như hầu hết các quan hệ dân sự khác. Hơn nữa, trong
quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, các chủ thể trong quan hệ hôn nhân
không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn vì lợi ích của những người khác

trong các quan hệ phái sinh từ quan hệ hôn nhân như quan hệ huyết thống
(cha mẹ với con cái) hoặc quan hệ thân thuộc (cha, mẹ, anh, em, họ hàng
của các bên vợ và chồng).
11
Quan hệ hôn nhân là quan hệ được hình thành trên cơ sở của hôn
nhân, nó thể hiện sự liên kết giữa các chủ thể trong đời sống hôn nhân.
Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân không phải tự nhiên được hình thành mà nó
chỉ được hình thành khi có sự liên kết của các chủ thể với những điều kiện
nhất định, đồng thời quan hệ hôn nhân không tồn tại vĩnh viễn mà nó sẽ bị
chấm dứt trong những trường hợp nhất định.
Trên cơ sở mức độ liên kết giữa các chủ thể trong quan hệ hôn
nhân có thể chia quan hệ hôn nhân thành ba giai đoạn: Giai đoạn kết hôn,
giai đoạn tồn tại quan hệ vợ chồng và giai đoạn chấm dứt quan hệ vợ
chồng. Giai đoạn kết hôn là giai đoạn xác lập quan hệ vợ chồng trên cơ sở
của việc kết hôn; giai đoạn quan hệ vợ chồng là giai đoạn sau khi kết hôn
và giai đoạn chấm dứt quan hệ vợ chồng là giai đoạn thường được đánh
dấu bằng sự kiện chết của một bên, hoặc bằng việc ly hôn.
Quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình có mối liên quan mật thiết
với nhau. Mối liên quan mật thiết này được thể hiện ở sự đan xen, chồng
lấn giữa chúng. Sự đan xen, chồng lấn này là quan hệ vợ chồng. Bởi vì, quan
hệ vợ chồng là hệ quả của quan hệ hôn nhân và đồng thời là tiền đề của
quan hệ gia đình. Nói cách khác, cả quan hệ hôn nhân và quan hệ gia đình
đều đề cập tới quan hệ vợ chồng. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, hôn
nhân là một khái niệm độc lập với khái niệm gia đình nên sự chồng lấn này
không làm mất đi tính độc lập của quan hệ hôn nhân đối với quan hệ gia
đình.
Như vậy, có thể nói, quan hệ hôn nhân là một khái niệm độc lập
với khái niệm quan hệ gia đình. Quan hệ hôn nhân bao gồm tổng thể ba
quan hệ đó là quan hệ kết hôn, quan hệ vợ chồng và chấm dứt quan hệ vợ
chồng.

1.1.2. Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
12
Quan hệ hôn nhân là một loại quan hệ dân sự đặc biệt, do đó trước
khi nghiên cứu các yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân thì các vấn
đề lý luận về yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự cần được xem xét.
1.1.2.1. Yếu tố nước ngoài trong quan hệ dân sự
Theo quy định của Điều 826 của Bộ luật Dân sự Việt Nam thì:
"Quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được hiểu là các quan hệ dân sự có
người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài tham gia hoặc căn cứ để xác lập,
thay đổi, chấm dứt quan hệ đó phát sinh ở nước ngoài hoặc tài sản liên
quan đến quan hệ đó ở nước ngoài".
Từ nội dung trên đây có thể rút ra ba dấu hiệu để xác định một
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài đó là:
- Chủ thể trong quan hệ dân sự là người nước ngoài;
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ
dân sự ở nước ngoài;
- Khách thể của quan hệ dân sự là tài sản ở nước ngoài.
Không giống quan hệ pháp luật thông thường, quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài thường liên quan tới sự điều chỉnh của ít nhất hai hệ
thống pháp luật. Việc xác định hệ thống pháp luật có thể được áp dụng cho
một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài sẽ dựa trên cơ sở của các yếu tố
nước ngoài trong quan hệ đó. Vấn đề này được xem xét thông qua các
trường hợp cụ thể sau đây:
Thứ nhất, chủ thể tham gia quan hệ dân sự là người nước ngoài
Người nước ngoài là người không có quốc tịch ở nước mà họ đang
cư trú [94, tr. 66]. Theo định nghĩa này thì người nước ngoài bao gồm người
có một hoặc nhiều quốc tịch nước ngoài mà không có quốc tịch nước sở tại
13
và người không có quốc tịch. Như vậy, cơ sở pháp lý để xác định một
người có phải là người nước ngoài hay không chính là vấn đề quốc tịch.

Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý giữa công dân với Nhà nước.
Quan hệ này có tính bền vững, ổn định, trong đó Nhà nước có quyền và
nghĩa vụ với công dân và công dân cũng có quyền và nghĩa vụ đối với Nhà
nước [95, tr. 103]. Do đó khi xác lập quan hệ dân sự ở nước sở tại, người
có quốc tịch nước ngoài sẽ được pháp luật của nước mà mình mang quốc
tịch bảo hộ về mặt ngoại giao. Như vậy, khi có một quan hệ dân sự phát
sinh mà trong đó một trong các bên hoặc cả hai bên chủ thể là người có quốc
tịch nước ngoài thì vấn đề áp dụng pháp luật nước ngoài được đặt ra. Pháp
luật nước ngoài được áp dụng ở đây là pháp luật của nước họ mang quốc
tịch.
Thứ hai, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quan hệ dân sự xảy ra ở nước ngoài.
Trong trường hợp sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ dân sự xảy ra ở nước ngoài thì việc áp dụng pháp luật
nước ngoài cũng được đặt ra. Trong trường hợp này, pháp luật có thể được
áp dụng là pháp luật của nước nơi xảy ra sự kiện làm phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quan hệ đó. Ví dụ, hai người có cùng quốc tịch đủ điều kiện
kết hôn theo quy định của pháp luật nước mình nhưng kết hôn với nhau ở
nước ngoài. Trong ví dụ này, hành vi kết hôn của các bên đã làm phát sinh
quan hệ vợ chồng và việc xác định tính hợp pháp của quan hệ vợ chồng
không chỉ dựa trên cơ sở điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật
nước mà các bên mang quốc tịch (Lex nationalis) mà còn dựa trên cơ sở
pháp luật của nước nơi tiến hành kết hôn (Lex loci celebrationis). Nói cách
khác, trong ví dụ này luật nước ngoài là luật nơi tiến hành kết hôn có thể
được áp dụng để xem xét tính hợp pháp của việc kết hôn.
14
Thứ ba, khách thể của quan hệ dân sự là tài sản ở nước ngoài
Trường hợp khách thể của quan hệ dân sự là tài sản nằm ở nước
ngoài thì khi giải quyết, pháp luật của nước nơi đang tồn tại vật có khả
năng được áp dụng. Ví dụ, hai công dân cùng quốc tịch ly hôn với nhau và

tài sản liên quan khi ly hôn đang tồn tại ở nước ngoài. Trong trường hợp
này, quan hệ của các bên liên quan tới tài sản là bất động sản sẽ chịu sự chi
phối bởi pháp luật nơi có tài sản (Lex rei sitae). Nói cách khác, trong trường
hợp này, vấn đề chọn pháp luật nước ngoài cũng được đặt ra.
Như vậy, các yếu tố nước ngoài về chủ thể, sự kiện pháp lý và khách
thể như đã đề cập ở trên được coi là cơ sở để xác định một quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Nếu một quan hệ dân sự chỉ cần có một trong ba yếu tố
nêu trên thì quan hệ dân sự đó được coi là quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài.
1.1.2.2. Yếu tố nước ngoài trong quan hệ hôn nhân
Vì quan hệ hôn nhân là quan hệ dân sự đặc biệt nên các yếu tố để
xác định quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài cũng được sử dụng để xác
định quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Như đã trình bày trên đây, để
xác định một quan hệ dân sự có phải là quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài hay không, phải dựa vào một trong ba dấu hiệu là: Chủ thể, sự kiện
pháp lý và yếu tố tài sản trong quan hệ đó. Vì vậy, trong quan hệ hôn nhân
nếu chủ thể là các bên khác quốc tịch; sự kiện làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài; hoặc tài sản liên quan tới
quan hệ hôn nhân ở nước ngoài thì quan hệ đó được gọi là quan hệ hôn
nhân có yếu tố nước ngoài. Do đó, về mặt lý luận cũng như thực tế, các
dấu hiệu sau đây sẽ được áp dụng để xác định quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài trong từng trường hợp cụ thể.
* Yếu tố về chủ thể trong quan hệ hôn nhân
15
Một trong những cơ sở pháp lý quan trọng để xác định tư cách chủ
thể trong quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là vấn đề quốc tịch của
các bên chủ thể. Ở Việt Nam vấn đề quốc tịch được quy định trong Luật
Quốc tịch Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 20/05/1998, trong đó
các tiêu chí xác định người có quốc tịch Việt Nam, người có quốc tịch
nước ngoài và người không có quốc tịch được quy định như sau:

- Đối với người có quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch quy định cụ
thể tại chương II. Theo nội dung của chương này thì người có quốc tịch
Việt Nam là người có cả cha và mẹ là công dân Việt Nam mà không kể
người đó sinh ra ở trong hoặc ngoài lãnh thổ Việt Nam (Điều 16); là người
có cả cha và mẹ hoặc chỉ có cha hoặc chỉ có mẹ là công dân Việt Nam còn
người kia không có quốc tịch hoặc người có mẹ là công dân Việt Nam còn
cha không rõ là ai (khoản 1 Điều 17); là người khi sinh ra có cha hoặc mẹ
là công dân Việt Nam, còn người kia là công dân nước ngoài thì có quốc
tịch Việt Nam, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào thời
điểm đăng ký khai sinh (khoản 2 Điều 17); là người được sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam nhưng cha mẹ không có quốc tịch hoặc không xác định được
quốc tịch nhưng có nơi cư trú tại Việt Nam (Điều 18); là người dưới 15
tuổi bị bỏ rơi hoặc tìm thấy ở Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai (Điều
19).
- Đối với người có quốc tịch nước ngoài, Luật Quốc tịch Việt Nam
1998 không có quy định cụ thể, nhưng tại khoản 1 Điều 2 khi giải thích về
thuật ngữ "quốc tịch nước ngoài" thì luật quy định: "Quốc tịch nước ngoài
là quốc tịch của một nước khác không phải là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam". Điều này được hiểu, theo pháp luật Việt Nam, người có quốc
tịch nước ngoài là người có quốc tịch của một nước khác không phải là
quốc tịch của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
16
- Đối với người không quốc tịch thì khoản 2 Điều 2 Luật Quốc tịch
1998 quy định: "Người không quốc tịch là người không có quốc tịch Việt
Nam và cũng không có quốc tịch nước ngoài".
Từ nội dung quy định của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 về
quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch, có
thể thấy khái niệm về người nước ngoài được hiểu là người có quốc tịch
nước ngoài nhưng không có quốc tịch Việt Nam và người không có quốc
tịch là người không có quốc tịch nước ngoài và đồng thời cũng không có

quốc tịch Việt Nam.
Các khái niệm trên đây được thống nhất sử dụng khi nghiên cứu tư
cách chủ thể của những người tham gia các quan hệ hôn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ bao gồm việc kết hôn, quan hệ vợ
chồng và chấm dứt quan hệ vợ chồng (mà chủ yếu là do ly hôn). Vì vậy,
dấu hiệu về chủ thể trong quan hệ hôn nhân để xác định quan hệ hôn nhân
đó có yếu tố nước ngoài thường xảy ra trong các trường hợp sau đây:
- Hai người khác quốc tịch kết hôn hoặc có quan hệ vợ chồng được
pháp luật thừa nhận hoặc ly hôn với nhau.
Trường hợp hai người khác quốc tịch kết hôn hoặc có quan hệ vợ
chồng được pháp luật thừa nhận hoặc ly hôn với nhau được coi là quan hệ
hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Trong trường hợp này, pháp luật của mỗi bên
chủ thể mang quốc tịch sẽ có thể được áp dụng để điều chỉnh các vấn đề pháp
lý liên quan tới quan hệ đó. Nói cách khác, dấu hiệu không cùng quốc tịch
của các bên chủ thể sẽ được coi là cơ sở pháp lý để chọn pháp luật áp dụng.
Ví dụ, trường hợp công dân Việt Nam kết hôn, có quan hệ vợ
chồng được pháp luật thừa nhận hoặc ly hôn với người nước ngoài. Trong
trường hợp này, pháp luật của Việt Nam và pháp luật nước ngoài cùng có
17
thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ hôn nhân của họ. Pháp luật Việt
Nam sẽ được áp dụng trên cơ sở dấu hiệu quốc tịch của công dân Việt
Nam, pháp luật nước ngoài được áp dụng trên cơ sở dấu hiệu quốc tịch của
người nước ngoài.
- Người không quốc tịch kết hôn hoặc có quan hệ vợ chồng được
pháp luật thừa nhận hoặc ly hôn với nhau
Như đã trình bày trên đây, người không có quốc tịch là người không
mang quốc tịch của một nước nào cả. Trên thực tế, người không có quốc
tịch luôn ở trong tình trạng pháp lý bất lợi so với những người có quốc
tịch. Bởi vì những người không có quốc tịch không được sự bảo hộ về mặt

pháp lý của bất cứ một nhà nước nào. Tuy nhiên, với quan điểm nhân đạo,
pháp luật của hầu hết các nước đều quy định địa vị pháp lý dân sự của người
không quốc tịch được coi ngang bằng với địa vị pháp lý của công dân nước
nơi người không có quốc tịch thường trú. Do đó, trường hợp những người
không có quốc tịch nhưng có nơi thường trú ở nước ngoài tham gia quan
hệ hôn nhân thì quan hệ này có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật nơi
thường trú của họ.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, căn cứ vào Điều 7 Nghị
định số 60/CP ngày 6 tháng 6 năm 1997 của Chính phủ về việc hướng dẫn
thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về quan hệ hôn nhân có yếu tố
nước ngoài thì: "Năng lực hành vi dân sự của người không quốc tịch được
xác định theo pháp luật của nước nơi người đó thường trú; nếu không có
nơi thường trú, thì xác định theo pháp luật Việt Nam".
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề áp dụng
pháp luật đối với các trường hợp người không có quốc tịch kết hôn hoặc
có quan hệ vợ chồng được pháp luật công nhận hoặc ly hôn với nhau thì
pháp luật điều chỉnh sẽ là pháp luật nước nơi thường trú của họ.
18
* Yếu tố sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quan hệ hôn nhân
Thứ nhất, sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân. Sự kiện
pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân là trường hợp việc kết hôn được
tiến hành ở nước ngoài. Yếu tố này được áp dụng trong trường hợp các
bên có cùng quốc tịch nhưng kết hôn với nhau trước cơ quan có thẩm
quyền của nước mà các bên không mang quốc tịch.
Ví dụ, hai công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở nước ngoài trước
cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài. Trong trường hợp này, pháp luật
được áp dụng để giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan như xác định điều
kiện kết hôn và nghi thức kết hôn của các bên sẽ là pháp luật Việt Nam và
pháp luật của nước ngoài. Thông thường, pháp luật Việt Nam sẽ điều

chỉnh điều kiện kết hôn đối với công dân Việt Nam dựa trên dấu hiệu quốc
tịch của họ, còn pháp luật nước ngoài sẽ điều chỉnh nghi thức kết hôn trên
cơ sở áp dụng nguyên tắc chọn pháp luật nơi tiến hành kết hôn. Hôn nhân
này sẽ được coi là hợp pháp khi các bên chủ thể đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của pháp luật nước mà mình mang quốc tịch, đồng thời nghi thức
kết hôn của hôn nhân này phù hợp với pháp luật của nơi tiến hành kết hôn.
Như vậy, trong trường hợp sự kiện làm phát sinh quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài đã đòi hỏi phải chọn pháp luật để giải quyết.
Thứ hai, sự kiện làm thay đổi quan hệ hôn nhân. Trên thực tế, có
nhiều trường hợp các bên trong quan hệ hôn nhân không còn coi nhau như
vợ chồng nhưng chưa muốn ly hôn với nhau. Trong trường hợp này, ở
những nước công nhận ly thân, pháp luật cho phép các bên ly thân với
nhau trên cơ sở quyết định của tòa án. Việc tòa án tuyên một quyết định
cho phép các bên ly thân được coi là sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ
hôn nhân. Theo quyết định này, hôn nhân chưa bị chấm dứt nhưng quan
hệ vợ chồng thì thay đổi. Sự thay đổi này thể hiện trong quan hệ nhân thân
19
và quan hệ tài sản của vợ chồng sẽ được điều chỉnh bởi quyết định của tòa
án. Như vậy, khi sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ hôn nhân xảy ra ở
nước ngoài thì vấn đề chọn pháp luật áp dụng sẽ được đặt ra.
Ví dụ, hai vợ chồng là công dân của nước A cư trú ở nước B (nơi
công nhận chế độ ly thân) đã được tòa án nước B ra quyết định ly thân
theo nguyện vọng của một hoặc cả hai bên vợ chồng. Trong trường hợp
này, pháp luật của A và pháp luật của nước B cùng có thể được áp dụng để
xem xét tình trạng pháp lý của vợ chồng này. Việc áp dụng pháp luật nước
nào thì phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, nhưng điểm lưu ý ở đây là
vấn đề chọn pháp luật áp dụng đã được đặt ra.
Thứ ba, sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ hôn nhân. Thông
thường, pháp luật đề cập đến các vấn đề liên quan tới sự kiện pháp lý làm
chấm dứt quan hệ hôn nhân là sự kiện ly hôn. Trong trường hợp, các bên

vợ chồng ly hôn với nhau ở nước ngoài trước cơ quan có thẩm quyền của
nước ngoài thì pháp luật được áp dụng điều chỉnh sẽ là pháp luật của nước
mà các bên chủ thể mang quốc tịch và pháp luật nơi tiến hành ly hôn.
Trong trường hợp này, vấn đề chọn pháp luật để áp dụng cũng được đặt ra.
Ví dụ, hai công dân Việt Nam ly hôn với nhau ở CH Séc, trước cơ
quan có thẩm quyền của CH Séc. Để giải quyết các vấn đề pháp lý liên
quan tới quyền và nghĩa vụ của các bên khi ly hôn, trong trường hợp này,
pháp luật Việt Nam và pháp luật của CH Séc cùng có thể được áp dụng.
Pháp luật Việt Nam được áp dụng trên cơ sở dấu hiệu quốc tịch của các
chủ thể còn pháp luật của CH Séc sẽ có thể được áp dụng trên cơ sở pháp
luật nước có tòa án. Trong trường hợp này áp dụng pháp luật nước nào để
giải quyết, trước tiên phụ thuộc vào các quy định của điều ước quốc tế mà
Việt Nam đã ký với CH Séc, sau đó là quy định pháp luật của CH Séc.
Như vậy, khi sự kiện làm chấm dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài
thì việc chọn pháp luật áp dụng được đặt ra.
20
* Yếu tố tài sản liên quan đến quan hệ vợ chồng
Một loại quan hệ quan trọng trong quan hệ vợ chồng là quan hệ tài
sản giữa vợ và chồng. Nếu quan hệ vợ chồng có liên quan tới tài sản đang
tồn tại ở nước ngoài thì vấn đề chọn pháp luật áp dụng cho quan hệ này sẽ
được đặt ra.
Ví dụ, hai vợ chồng là công dân Việt Nam đang cư trú tại Việt
Nam nhưng có quyền sở hữu một khối tài sản tại CH Pháp. Việc xác định
quan hệ của vợ chồng đối với khối tài sản này sẽ do pháp luật của CH
Pháp hoặc pháp luật của Việt Nam điều chỉnh. Luật Việt Nam sẽ được áp
dụng trên cơ sở luật quốc tịch của các bên chủ thể, luật CH Pháp sẽ được
áp dụng dựa trên cơ sở pháp luật nơi tồn tại vật. Như vậy, để giải quyết
quan hệ này, vấn đề chọn pháp luật áp dụng đã được đặt ra. Trong trường
hợp này nếu tài sản là bất động sản thì áp dụng theo nguyên tắc luật nơi có
vật (Lex rei sitae) để điều chỉnh. Theo đó pháp luật của CH Pháp sẽ được

áp dụng để điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ và chồng.
1.1.2.3. Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài theo quy định
của pháp luật Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các dấu hiệu để xác định
quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài được ghi nhận trong LHNGĐ năm
2000.
Khi giải thích từ ngữ trong LHNGĐ, khoản 14 Điều 8 LHNGĐ
năm 2000 quy định:
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn
nhân và gia đình:
a- Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
21
b- Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt
Nam;
c- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác
lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài
hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Khi đề cập đến các vấn đề pháp lý trong quan hệ hôn nhân và gia
đình có yếu tố nước ngoài tại Chương XI của LHNGĐ năm 2000, khoản 4
Điều 100 quy định: "Các quy định của chương này cũng được áp dụng đối
với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà
một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài".
Từ nội dung các quy định trên đây của LHNGĐ năm 2000, có thể
nói theo quy định của pháp luật Việt Nam thì cơ sở để xác định yếu tố
nước ngoài dựa vào ba dấu hiệu sau đây:
Một là, các bên chủ thể trong quan hệ hôn nhân có quốc tịch khác
nhau. Nội dung này được ghi nhận tại khoản 14(a) Điều 8 khi công dân
Việt Nam có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài.
Hai là, các bên chủ thể cùng quốc tịch nhưng sự kiện pháp lý liên
quan tới quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài. Nội dung này được thể hiện rõ

trong hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất khi người nước ngoài có quan
hệ hôn nhân với nhau tại Việt Nam (khoản 14(b) Điều 8). Trường hợp thứ
hai khi công dân Việt Nam có quan hệ hôn nhân với nhau mà căn cứ xác
lập thay đổi chấm dứt quan hệ hôn nhân ở nước ngoài (khoản 14(c) Điều 8)
hoặc một trong các bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài (khoản 4
Điều 100).
Ba là, tài sản liên quan tới quan hệ hôn nhân ở nước ngoài. Nội
dung này được ghi nhận tại Điều 8 khoản 14(c).
22
Tóm lại, từ cơ sở từ lý luận cũng như mặt pháp lý trên đây, có thể
rút ra khái niệm về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài như sau: Quan
hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân được xác lập giữa
các bên chủ thể khác quốc tịch hoặc sự kiện làm nảy sinh, thay đổi, chấm
dứt quan hệ hôn nhân xảy ra ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan tới quan
hệ hôn nhân ở nước ngoài.
1.1.3. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài
1.1.3.1. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân
Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân là tổng hợp các nguyên tắc,
các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh quan hệ
hôn nhân. Như đã trình bày ở trên, quan hệ hôn nhân đóng vai trò quan
trọng trong xã hội, do đó để định hướng tốt cho quan hệ hôn nhân nhằm
phát huy vai trò của quan hệ này đối với sự phát triển của xã hội, Nhà
nước đã ban hành các nguyên tắc, quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
hôn nhân. Các nguyên tắc và các quy phạm này được thể hiện trong các
quy định của pháp luật trong nước như sau:
Trước hết, các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh quan hệ hôn
nhân được ghi nhận trong Hiến pháp. Hiến pháp là đạo luật gốc ghi nhận
những quy định có tính nguyên tắc trong việc điều chỉnh hầu hết các mối
quan hệ trong xã hội trong đó có quan hệ hôn nhân. Trên cơ sở các quy

định có tính nguyên tắc trong Hiến pháp, các quy định điều chỉnh quan hệ
hôn nhân được ghi nhận trong các quy định của pháp luật có liên quan như
luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật hành chính, luật hình sự
Với quan điểm cho rằng, quan hệ hôn nhân là quan hệ dân sự nên
nó được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật dân sự. Các quy định
này được ghi nhận trong các nguồn pháp luật dân sự khác nhau nhưng
23
trước hết và chủ yếu được ghi nhận trong Bộ luật dân sự. Đối với nhiều
nước trên thế giới, các quy phạm điều chỉnh quan hệ hôn nhân được quy
định một cách cụ thể trong Bộ luật dân sự. Ví dụ: Trong Bộ luật dân sự của
Pháp vấn đề hôn nhân được quy định tại các điều từ 144 đến 309; hoặc
theo Bộ luật dân sự Nhật bản được quy định tại các điều từ 731 đến 771;
hoặc theo Bộ luật dân sự và thương mại Thái Lan được quy định tại các
điều từ 1435 đến 1535; theo Bộ luật dân sự Việt Nam, vấn đề hôn nhân
được quy định tại một số điều như 35, 36, 38
Bên cạnh chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, quan hệ hôn
nhân còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định trong pháp luật chuyên
ngành về hôn nhân đó là luật hôn nhân và gia đình. Như đã trình bày trên
đây, quan hệ hôn nhân có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội, bởi
vì nó là cơ sở tạo nên gia đình - tế bào của xã hội, do đó các nước trên thế
giới luôn quan tâm tới việc ban hành pháp luật chuyên ngành về hôn nhân
và gia đình để điều chỉnh loại quan hệ này.
Cùng với sự điều chỉnh của luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình,
quan hệ hôn nhân còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định được ghi nhận
trong các luật khác có liên quan như luật hành chính, luật tố tụng dân sự
Ví dụ: Khi tiến hành kết hôn, các bên kết hôn phải tuân theo các quy định
hành chính về việc đăng ký kết hôn; khi ly hôn, các bên phải tuân thủ các
quy định về thủ tục tố tụng tại tòa án.
Hình thức thể hiện của các nguyên tắc và các quy phạm điều chỉnh
quan hệ hôn nhân trên đây có thể dưới hình thức thành văn (văn bản) hoặc

không thành văn (án lệ). Điều này phụ thuộc vào nguồn pháp luật chứa
đựng chúng theo quy định của từng hệ thống pháp luật khác nhau. Vấn đề
này sẽ được đề cập tới trong mục 1.3.2. của chương này.
24
1.1.3.2. Pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài
Quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trước tiên được xem xét là
quan hệ hôn nhân, trong đó cơ sở pháp lý để xác lập quan hệ này được dựa
trên các tiêu chí pháp lý xác định quan hệ hôn nhân nói chung. Vì vậy,
pháp luật điều chỉnh loại quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài trước hết
là pháp luật trong nước điều chỉnh quan hệ hôn nhân. Trong đó bao gồm
các nguyên tắc các quy phạm được ghi nhận trong các quy định pháp luật
trong nước như luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, luật hành chính,
luật tố tụng dân sự Tuy nhiên, do tính đặc biệt của loại quan hệ hôn nhân
này là các bên chủ thể khác quốc tịch, sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quan hệ ở nước ngoài hoặc tài sản liên quan tới quan hệ
ở nước ngoài, nên pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước
ngoài không những chỉ là các quy định được ghi nhận trong nguồn pháp luật
trong nước mà còn là các quy định được ghi nhận trong các nguồn pháp
luật khác như điều ước quốc tế và tập quán quốc tế. Đây chính là một trong
những đặc điểm quan trọng của pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có
yếu tố nước ngoài. Đặc điểm này sẽ được trình bày trong mục 1.3.2 của
chương này.
Như vậy, có thể nói, pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu
tố nước ngoài là tổng hợp các nguyên tắc, các quy phạm pháp luật nhằm
điều chỉnh quan hệ hôn nhân giữa các bên chủ thể khác quốc tịch; sự kiện
pháp lý làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ hôn nhân ở nước
ngoài; hoặc tài sản liên quan tới quan hệ hôn nhân ở nước ngoài.
1.2. NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH QUAN HỆ HÔN NHÂN
Như đã trình bày ở trên, quan hệ hôn nhân là quan hệ bao gồm
tổng thể quan hệ về kết hôn, quan hệ giữa vợ và chồng và chấm dứt quan

hệ vợ chồng. Do đó, nội dung pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân gồm
25

×