Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

Bàn về sản phẩm an sinh giáo dục của Bảo việt Nhân thọ Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.26 KB, 89 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay,
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vai trò con người, không ngừng cải
thiện nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân là mục
đích hàng đầu của chế độ xã hội chủ nghĩa ta. Phát triển kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một tất yếu khách quan được Đảng và
Nhà nước ta khẳng định trong các kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI,
VII, VIII, IX đã và đang có nhiều ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế
nước ta. Sau hơn mười năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng,
nhân dân ta đã gặt hái được nhiều thành công to lớn trên nhiều lĩnh vực đặc
biệt là trong nền kinh tế xã hội. Vì thế nền kinh tế nước ta đang dần khởi
sắc và phát triển một cách vững chắc, về cơ bản chúng ta đã thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng kéo dài, nền kinh tế có những bước tăng trưởng nhảy
vọt qua các năm, điều kiện sống của nhân dân không ngừng được cải thiện
và nâng cao. Đất nước đang trong thời kỳ đổi mới nên cùng với sự biến
chuyển không ngừng về mọi mặt từ kinh tế xã hội đến chính trị ngoại giao
nền kinh tế mở theo hướng “đa phương hoá - đa dạng hoá” đã và đang tạo
điều kiện tốt nhất cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động kinh
doanh bảo hiểm nói riêng nhiều cơ hội mới. Trong xu thế phát triển này,
ngành bảo hiểm cũng có những điều kiện thuận lợi để phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu, ngày càng có nhiều nghiệp vụ mới ra đời, Bảo hiểm
nhân thọ là một ví dụ điển hình. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ mang tính
đặc thù cao, có sức hấp dẫn riêng và có sự khác biệt so với các nghiệp vụ
bảo hiểm khác. Nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ bao gồm nhiều loại hình khác
nhau như: BHNT có thời hạn 5-10 năm, An sinh giáo dục... Sau một thời
gian lựa chọn đề tài viết chuyên đề mặc dù đề tài còn nhiều khúc mắc và số
liệu thực tế chưa nhiều nhưng cùng với sự động viên của cô giáo hướng

1



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

dẫn và sự giúp đỡ nhiệt tình của Công ty Bảo Việt nhân thọ Hà Nội em xin
mạnh dạn nghiên cứu đề tài với nội dung: “Bàn về sản phẩm An sinh giáo
dục của Bảo Việt Nhân thọ Hà Nội” Sở dĩ em chọn đề tài trên cho chuyên
đề tốt nghiệp của mình là vì những lý do sau:
- Do nghiệp vụ “An sinh giáo dục“ mới được triển khai ở nước ta, nên
khó tránh khỏi những hạn chế, những điều bất hợp lý trong quá trình kinh
doanh. Vì vậy, cần phải nghiên cứu một cách khoa học, tìm ra giải pháp phù
hợp với điều kiện thực tế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Nghiệp vụ bảo hiểm này không chỉ mang tính chất bảo hiểm các rủi ro
mà còn mang tính chất tiết kiệm. Điều này có nghĩa là công ty phải trả một
khoản tiền vào một thời điểm nhất định trong tương lai dù không có rủi ro
xảy ra với khách hàng. Do vậy công ty BHNT cần có một chính sách đầu tư
vốn hợp lý để đảm bảo tài chính của công ty.
- Nghiệp vụ này còn thu hút được nhiều người nghiên cứu vì nó có ý
nghĩa giáo dục sâu sắc. Với các khẩu hiệu “ Tất cả vì tương lai con em chúng
ta”, “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai“ thì chương trình “An sinh giáo
dục“ là một biện pháp hữu hiệu để các thế hệ đi trước thể hiện sự quan tâm
đối với các thế hệ đi sau.
Khi nghiên cứu đề tài, ta phải phân tích tình hình triển khai, thị trường
khách hàng tiềm năng, tình hình dân số từ đó đưa ra một số biện pháp và kiến
nghị nhằm tiếp tục phát triển và nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh doanh của
công ty trong thời gian tới. Xuất phát từ những nội dung trên em chuyên đề
có kết cấu như sau:
Chương I: .Khái quát chung về bảo hiểm nhân thọ
Chương II: Nội dung cơ bản của sản phẩm An Sinh giáo dục tại Bảo Việt
Nhân thọ Hà Nội

2



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Chương III: Tình hình triển khai sản phẩm “An sinh giáo dục” của Bảo Việt
tại BVNT Hà Nội và một số kiến nghị
Mặc dù bản thân em đã rất cố gắng nhưng do còn thiếu kinh nghiệm nên
trong chuyên đề tốt nghiệp không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong
nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa nói chung và cô
giáo Nguyễn Thị Lệ Huyền nói riêng để chuyên đề hoàn chỉnh hơn về mặt lý
luận và mang tính khả thi hơn trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của công
ty.
Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô Nguyễn thị Lệ
Huyền cùng sự giúp đỡ của phòng Quản lý hợp đồng BVNT Hà Nội, đặc
biệt sự quan tâm, nhiệt tình giúp đỡ của chú Trưởng phòng Trương Khánh
cùng các anh chị trong phòng Quản lý hợp đồng đã tạo điều kiện cho em tìm
hiểu tài liệu, báo chí và chỉ dẫn những thắc mắc, giải đáp giúp em hoàn thành
bản chuyên đề tốt nghiệp của mình.

3


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ
I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM NHÂN THỌ

1. Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ
Để đánh giá đầy đủ sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ, trước hết chúng

ta cần hiểu rõ khái niệm về Bảo hiểm nhân thọ (BHNT): Bảo hiểm nhân
thọ là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm, mà
trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện đã định
trước xảy ra (người được bảo hiềm bị chết hoặc sống đến một thời điểm
nhất định) còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ, đúng hạn.
Nói cách khác, BHNT là quá trình bảo hiểm các rủi ro liên quan đến sinh
mạng, cuộc sống và tuổi thọ con người.
Vấn đề bảo hiểm được ghi nhận đã xuất hiện từ thời trung cổ. Đầu tiên
người ta chưa nghĩ đến bảo hiểm con người, họ chỉ quan tâm đến việc bảo
hiểm những tài sản vật dụng có giá trị. Do vậy, ngành bảo hiểm phi nhân
thọ đầu tiên đã ra đời đầu tiên tại nước Anh và Châu Âu nhằm phục vụ cho
ngành hàng hải.
Song song với ngành bảo hiểm phi nhân thọ, ở nước Anh thời đó cũng

4


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

có những mô hình tổ chức giúp đỡ tương trợ lẫn nhau về tài chính. Nhất là
tầng lớp công nhân mỏ than, họ thành lập Hội tương trợ mai táng để giúp
đỡ những người thợ chẳng may chết vì tai nạn. Những tai nạn này xảy ra
hầu như mỗi ngày vì kỹ thuật hầm mỏ thời đó còn rất sơ sài. Sự kiện này đã
gây biết bao đau thương cho gia đình của họ. Sau khi giúp đỡ chôn cất
những người thợ xấu số xong, người ta thấy rằng vợ con họ rất cần sự giúp
đỡ.
Ý tưởng này khiến các công nhân mỏ quyết định thành lập quỹ bảo trợ
những người vợ goá con côi. Họ kêu gọi những người thợ khi còn sống, có
khả năng kiếm tiền hãy gia nhập hội. Muốn vào hội, mỗi người thợ phải

đóng tiền gia nhập hội viên, sau đó mỗi năm phải đóng hội phí một lần. Số
tiền thu được, hội giành ra một phần cho chi phí điều hành, số còn lại được
chi trả cho gia đình những người thợ chẳng may qua đời. Sự việc này đã
cứu giúp những người vợ goá con côi có thể tiếp tục cuộc sống, không bị
hụt hẫng khi người chồng, người cha của họ không còn nữa để kiếm tiền
bao bọc gia đình. Đây được xem như mầm mống của ý tưởng về BHNT sau
này.
Nước Anh được xem như cái nôi của ngành BHNT. Năm 1583 một
người thuyền trưởng nảy ra ý kiến yêu cầu công ty bảo hiểm phi nhân thọ
đang bảo hiểm cho con tàu và hàng hoá của ông hãy bán thêm hợp đồng
bảo hiểm sinh mạng cho chính mình. Công ty không khỏi ngạc nhiên
nhưng để làm hài lòng khách hàng, họ đã đồng ý. Qua sự kiện trên, công ty
bảo hiểm phi nhân thọ thời ấy đã ngẫm ra rằng “Con người cũng có thể
được bảo hiểm như tàu bè và hàng hoá”, và Bảo hiểm nhân thọ ra đời từ
đây.
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và
đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những rủi ro, như mất
sớm, thương tật hay già yếu. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
- Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa
học kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo điều kiện thuận
lợi cho cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất

5


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

ngờ như tai nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động...
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người
càng có nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Khi rủi ro xảy ra thường gây nên những tổn thất về tài chính nghiêm
trọng, bởi vì cuộc sống của mỗi con người đều có giá trị kinh tế nhất định
được thể hiện bằng khả năng tạo ra thu nhập. Mặt khác rủi ro cũng có thể
xảy ra bất cứ lúc nào gây nên những tổn thất nghiêm trọng về tài chính đối
với thân nhân và gia đình. Bù đắp những tổn thất về mặt tài chính khi rủi ro
là một trong những vai trò quan trọng của Bảo hiểm nhân thọ. Cuộc sống
của mỗi con người bao gồm rất nhiều những mối quan hệ như vợ chồng,
con cái, người thân... nên khi rủi ro đến với một người nhất là người trụ cột
trong gia đình thì ngoài những mất mát về mặt tình cảm thì những khó
khăn về mặt tài chính cũng đồng thời xuất hiện và gây ra rất nhiều khó
khăn như nợ nần, ổn định tài chính cho người thân, chi phí cho giáo dục
con cái...Do đó có một biện pháp đó là tích luỹ dần dần trong khi bản thân
còn tạo ra thu nhập để bù đắp cho những lúc rủi ro, hay không còn tạo ra
thu nhập nữa đó chính là tham gia bảo hiểm nhân thọ.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ
vào sự phát triển cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT
trở thành một nhu cầu tất yếu của người dân các nước phát triển cũng như
các nước đang phát triển. BHNT giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà
nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội như vấn đề thất nghiệp, vấn
đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới đều tham gia
BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi ro
trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc
thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
BHNT với thời gian tồn tại từ khi ra đời cho đến nay, với thời gian tồn
tại hơn 400 năm đã chứng minh được sự tồn tại khách quan của mình. Cuộc
sống con người không có BHNT được ví như đi qua một chiếc cầu mà
không có thành cầu. Mặc dù trong cuộc sống mỗi con người, đi qua cầu
không biết bao nhiêu lần và chẳng bao giờ đâm phải thành cầu nhưng


6


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

không có thành cầu thì không ai có thể đảm bảo điều gì sẽ xảy ra khi đi qua
chiếc cầu đó.
Nói tóm lại, BHNT được xem như một hợp đồng qua đó, để đổi lấy
phí bảo hiểm của người tham gia, nhà bảo hiểm cam kết sẽ trả cho người
được hưởng quyền lợi bảo hiểm một khoản tiền ấn định (số tiền bảo hiểm)
trong trường hợp người được bảo hiểm chết hoặc còn sống đến một thời
điểm chỉ rõ trong hợp đồng. Trong khi các loại hình bảo hiểm khác có mục
đích dơn giản là bồi thường cho các hậu quảt xấu của một sự cố (rủi ro, tổn
thất...) bảo hiểm nhân thọ lại có thể có nhiều mục đích khác nhau như tích
lỹu tài chính, bởi vì có nhiều loại hình BHNT có tính chia lãi. Ngoài ra
BHNT là một sản phẩm duy nhất có thể chi trả khi không có rủi ro xảy ra.
Ngành BHNT đã thực sự cần thiết không thể thiếu được trong cuộc
sống của con người ở các nước phát triển cũng như đang phát triển. Xin
trích dẫn lời của Quốc hội Anh vào năm 1825 để thay cho nhận xét về sự
cần thiết của BHNT: “Để đối phó với những tai hoạ, phương án đơn giản
và ít tốn kém nhất là hãy đoàn kết lại, cùng nhau mỗi người góp một số
tiền. Nếu tai hoạ xảy đến, mỗi người sẽ chịu thiệt hại chút ít. Điều này có
nghĩa là những người không chịu rủi ro, tuy không lấy lại được số tiền đã
đóng góp, nhưng họ có được sự bình an trong tâm hồn. Trong khi đó những
người chịu rủi ro, sẽ nhận được sự đền bù từ số tiền đóng góp của những
người may mắn hơn, và có thể tiếp tục cuộc sống mới mà lẽ ra họ đã mất
trắng vì tai hoạ bất ngờ”.
2. Tác dụng và vị trí của BHNT
2.1. Tác dụng của BHNT

Ngày nay, bảo hiểm nhân thọ được nhiều người trên thế giới xem là
một giải pháp thực tiễn có thể đáp ứng được những nhu cầu tài chính của
họ. BHNT ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc qia:
Thứ nhất: BHNT góp phần ổn định tài chính cho người tham gia
hoặc người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
Nhắc đến BHNT là phải nhắc đến vai trò đầu tiên này, rủi ro là cái

7


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

không thể lường trước trong cuộc sống mỗi con người, xã hội càng phát
triển càng có nhiều cơ hội nhưng cũng đồng nghĩa với có nhiều rủi ro đe
doạ cuộc sống con người dẫn đến những bất ổn về tài chính cho cá nhân gia
đình cũng như xã hội. Khi rủi ro chẳng may xảy ra, nếu tham gia BHNT thì
bản thân hoặc người thân, gia đình của người tham gia sẽ được đảm bảo về
mặt tài chính bù đắp phần nào những tổn thất do rủi ro gây ra. Còn khi rủi
ro không xảy ra, thông qua một số loại hình sản phẩm khác như bảo hiểm
trợ cấp hưu trí, bảo hiểm hỗn hợp.. người tham gia vẫn nhận được số tiền
bảo hiểm cùng với lãi để sử dụng cho nhu cầu ngày càng cao của con
người.
Thứ hai: BHNT góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà
nước và tăng thêm quyền lợi cho người lao động.
Trước đây, trong thời kỳ bao cấp, hàng năm ngân sách Nhà nước phải
chi ra một lượng tiền khá lớn để chi trả cho các cá nhân, công ty gặp rủi ro
dưới hình thức trợ cấp (trợ cấp ốm dau trợ cấp mất việc làm..). Các khoản
chi này vừa làm thâm hụt ngân sách Nhà nước, đôi khi lại còn gây tâm lý ỷ
lại không cố gắng vì đã có người khác chịu trách nhiệm giúp mình đối với

cả cá nhân cũng như tổ chức. Ngày nay khi BHNT ra đời, người tham gia
đã có thể tự bảo vệ cho mình, chủ động đối phó với các rủi ro đồng thời tạo
ra một khoản tiết kiệm (không may rủi ro xảy ra, bên cạnh các chế độ bảo
hiểm y tế, BHXH người lao động còn được hưởng quyền lợi từ BHNT nếu
họ tham gia). Bên cạnh đó, tham gia bảo hiểm hưu trí tụ nguyện người lao
động còn được hưởng khoản trợ cấp hưu trí, tụ lo được cho bản thân giảm
gánh nặng cho gia đình cũng như xã hội.
Thứ ba: BHNT là công cụ thu hút vốn đầu tư hữu hiệu.
Phí trong BHNT khá lớn, nhờ vào những đặc trưng cũng như quyền lợi to
lớn khi tham gia BHNT mà ngày nay người ta ngày càng quan tâm đến
BHNT, từ đó mà lượng vốn được huy động từ dân chúng được tăng lên.
Hơn nữa hoạt động BHNT mang tính dài hạn, do đó nguồn vốn BHNT
cung cấp cho thị trường cũng là nguồn vốn dài hạn. Nếu được đầu tư phát
triển các vùng kinh tế chiến lược, xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ rất phù hợp và
có hiệu quả. Ở Đài Loan, năm 1987 chính phủ bắt đầu mở cửa cho các

8


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

công ty nước ngoài vào hoạt động. Từ đó đến nay các công ty BH này đã
cung cấp vốn cho thị trường ĐàI Loan hàng năm từ 500 - 800 triệu USD. Ở
Mỹ, năm 1970 số vốn các công ty BHNT cung cấp là 9 tỷ đôla, trong khi
đó cung cấp vốn qua hệ thống ngân hàng để đâud tư là 37 tỷ đôla. Nhưng
đến năm 1991 số vốn do các công ty BHNT đầu tư là 90,2 tỷ đôla, trong
khi đó hệ thống ngân hàng cung cấp đầu tư trong nước chỉ là 85,7 tỷ. Năm
1998 ở châu Á có 5 công ty BHNT hàng đầu đều ở Nhật Bản. Đây là 5
công ty cỡ lớn tiềm lực tàI chính rất hùng mạnh và số vốn đầu tư hàng năm
cho nền kinh tế chiếm tỷ trọng khá lớn.

5 công ty BHNT hàng đầu Châu Á năm 1998
Tên công ty

Tổng phí
bảo hiểm
(tr.USD)

Lợi nhuận
(tr.USD)

Nippon Life
48.292,2
2.002,0
Dai Ichi Mutual Life
30.887,5
1.409,7
Sumitomo Life
26.310,3
1.036,5
Meiji Life
21.140,6
950.9
Mitsui Mutual Life
16.601,0
492,5
(Nguồn: Thông tin thị trường BH - TBH số 4/1998)

Tổng giá trị
tài sản
(tr.USD)


Tỷ lệ %
lãi trên
tài sản

324.814,8
220.620,7
182.500,0
131.170,2
83.890,1

0,60
0,60
0,60
0,70
0,60

Việt Nam đang trong thời kỳ đổi mới “Công nghiệp hoá - hiện đại hoá” đất
nước để phục vụ cho sự phát triển kinh tế phải có một lượng vốn đầu tư rất
lớn. Chính vì nhận thức được tầm quan trọng của BHNT nên tuy mới ra đời
được 5 năm nhưng Nhà nước ta đã liên tục có những chính sách để tạo điều
kiện cho BHNT ngày một phát triển mà bước tiến quan trọng là sự cho
phép các công ty BHNT nước ngoài tham gia vào thị trường BHNT Việt
Nam và sự ra đời của Luật Bảo hiểm ngày 7/12/2000. Đây là một trong các
biện pháp của Nhà nước nhằm tạo ra các nguồn vốn dồi dào cho đầu tư
phát triển Đất nước với chủ trương là chủ yếu dựa vào nguồn nội lực và
tranh thủ nguồn ngoại lực, chúng ta có quyền hy vọng thông qua BHNT có
thể trong thời gian tới dần dần sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi trong

9



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

dân cư vì lượng tiền này được dự kiến sẽ lên tới hơn 10 tỷ (được dự trữ
dưới dạng ngoại tệ cũng như vàng). Ngoài ra, khi các công ty BHNT nước
ngoài tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam nguồn vốn do họ đầu tư
vào cũng sẽ rất lớn. Trong năm 2001 doanh thu phí BHNT là 2500 tỷ đồng
chiếm 0,55% GDP. Do đặc điểm của BHNT là mang tính dài hạn, nguồn
vốn huy động được có thể đem đầu tư trong một thời gian dài đây là đựoc
coi là nguồn vốn tuyệt vời nhất cho các dự án kinh tế lớn.
Thứ tư: BHNT tạo ra một số lượng lớn công ăn việc làm cho người
lao động.
Với dân số gần 80 triệu lại là dân số trẻ, hàng năm riêng số lượng
sinh viên ra trường cũng là cả một thách thức đối với xã hội, việc làm luôn
là vấn đề nóng bỏng khi mà lượng người không có việc làm ngày càng
nhiều và trong đó ngoài những người không có trình độ thì cũng có rất
nhiều người có trình độ không được sử dụng đúng mục đích. Hoạt động
BHNT cần một mạng lưới rất lớn các đại lý khai thác bảo hiểm, đội ngũ
nhân viên tin học, tài chính, kế toán, quản lý kinh tế... Vì vậy, phát triển
BHNT đã góp phần tạo ra nhiều công ăn việc làm, giảm bớt số lượng người
thất nghiệp, bớt đi gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. ở Mỹ có gần 2 triệu
lao động làm việc trong ngành Bảo hiểm, ở Hồng Kông với số dân 6 triệu
người, có tới 20000 người làm ở các công ty bảo hiểm. Cứ nói riêng ở công
ty BHNT Hà Nội, với số lượng cán bộ khai thác ở mỗi phòng lên đến trên
dưới 50 người, riêng nội thành đã có 16 phòng khai thác, đa số đấy đều là
các cán bộ chuyên nghiệp chưa kể đến các đại lý bán chuyên nghiệp rải rác
ở từng quận huyện, ngoài ra BHNT còn có 60 công ty khác ở khắp các
quận huyện trong cả nước.
Thứ năm: BHNT là biện pháp đầu tư hợp lý cho giáo dục và góp

phần tạo nên một tập quán, một phong cách sống mới.
Đối với những nước đang phát triển, đầu tư cho giáo dục là rất quan
trọng và phải coi là nền tảng của sự phát triển. Tuy nhiên khi chi phí cho
giáo dục ngày một tăng thì nguồn lực của các nước này lại rất hạn hẹp, bên
cạnh các biện pháp hỗ trợ giáo dục như kêu gọi đóng góp, viện trợ của các
cơ quan trong vá ngoài nước, cho sinh viên vay vốn tín dụng đều mang tính

10


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

nhất thời, không ổn định, tham gia bảo hiểm An sinh giáo dục là một biện
pháp hợp lý để đầu tư cho việc học hành của con em nhờ tiết kiệm thường
xuyên của gia đình. Đây cũng là giải pháp góp phần xây dựng mục tiêu
công bằng xã hội vì đầu tư cho tương lai con em mình không chỉ là trách
nhiệm của Xã hội mà còn là trách nhiệm của từng gia đình.
Ngoài ra, tham gia BHNT còn thể hiện một nếp sống đẹp thông qua
việc tạo cho mỗi người thói quen biết tiết kiệm, biết lo lắng cho tương lai
của người thân, đồng thời giáo dục con em mình cũng biết tiết kiệm và
sống có trách nhiệm đối với người khác.
Tham gia BHNT vừa tạo quyền lợi cho chính mình vừa tạo quyền lợi
cho người thân đồng thời đóng góp vào sự phát triển của xã hội. Con người
là nhân tố quyết định sự phát triển. Do vậy, việc thực hiện chiến lược, chính
sách về con người là vô cùng quan trọng, thực hiện BHNT chính là thực
hiện chiến lược phát triển toàn diện con người của Đảng và Nhà nước.
Có thể nói, BHNT đã góp phần không nhỏ vào việc giải quyết một số vấn
đề xã hội như giáo dục, xoá đói giảm nghèo, giảm thất nghiệp bù đắp tổn
thất, bất hạnh trong cuộc sống, góp phần giảm gánh nặng trách nhiệm xã
hội đối với người lao động, người cao tuổi....

2.2 Vị trí của BHNT trong lĩnh vực bảo hiểm.
2.2.1 BHNT là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất
Bảo hiểm thương mại trên thế giới đã có lịch sử phát triển hơn 400
năm. Bảo hiểm hoạt động trên nguyên tắc “số đông bù số ít” đó là sự chia
sẻ rủi ro giữa một số đông và một vài người trong số họ chẳng may gặp
phải rủi ro. Bảo hiểm ra đời là một biện pháp hữu hiệu để xử lý các rủi ro
tồn tại khách quan. Tham gia bảo hiểm đang ngày càng trở thành một tác
phong không thể thiếu được đối với các chủ doanh nghiệp, một thói quen
tốt trong dân chúng.
Ban đầu bảo hiểm chỉ dừng lại ở một số hình thúc như bảo hiểm hoả
hoạn, bảo hiểm hàng hải.. Đến nay, bảo hiểm đã phát triển rất mạnh mẽ với
những loại hình bảo hiểm hết sức phong phú và đa dạng. Một trong các loại
hình bảo hiểm ra đời khá lâu là BHNT với lịch sử phát triển 400 năm, nó
đang ngày càng chứng tỏ vị thế của mình trong thị trường bảo hiểm nói

11


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

chung.
2.2.2 BHNT ngày càng lớn mạnh và trở thành một bộ phận quan trọng
không thể thiếu được trên thị trường BH.
Thực tế cho thấy tốc độ phát triển của nghiệp vụ BHNT trên thế giới
không ngừng tăng và chiếm tỉ lệ lớn doanh thu trong tổng doanh thu của
các nghiệp vụ BH. Tuy nhiên tốc độ phát triển của BHNT rất không đồng
đều. Nếu như ở châu Mỹ Latinh phí BH từ hoạt động kinh doanh BHNT rất
thấp, chỉ chiếm khoảng 21,4% thì ở châu Âu phí BHNT đạt tỉ lệ cân đối
trong khoảng từ 41,8% - 49,3% còn tỉ lệ phí BHNT ở châu Đại đương
chiếm 52,3% trong toàn bộ doanh thu phí nghiệp vụ bảo hiểm. Trên thế

giới, BHNT là loại hình phát triển nhất, năm 1985 doanh thu phí BHNT
mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới 1.210,2 tỷ và năm 1993 con
số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí bảo hiểm. Hiện nay có 5 thị
trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật Bản, CHLB Đức, Anh và
Pháp. Theo số liệu thống kê năm 1993, phí BHNT của 5 thị trường này
được thể hiện như sau:
Cơ cấu phí BHNT của 5 thị trường lớn nhất thế giới năm 1993
Tên nước

Tổng doanh thu
phí bảo hiểm
(triệu USD)

Cơ cấu phí bảo
hiểm nhân thọ
(%)

Cơ cấu phí bảo
hiểm phi nhân
thọ (%)

1. Mỹ
522,468
41,44
58,56
2. Nhật
320,143
73,86
26,14
3. Đức

107,403
39,38
60,62
4. Anh
102,360
64,57
35,43
5. Pháp
84,303
56,55
43,65
(Nguồn: Tổng công ty bảo hiểm Việt Nam, tháng 8 /1996)
Tóm lại, dù đứng trên giác độ khách quan hay chủ quan chúng ta
cũng phải thừa nhận rằng BHNT vẫn ngày càng phát triển và khẳng định vị
trí quan trọng của mình trong thị trường BH nói riêng và trong nền kinh tế
của các quốc gia, nền kinh tế thế giới nói chung.
II. NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ.

12


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

1. Bảo hiểm nhân thọ vừa mang tính rủi ro vừa mang tính tiết kiệm.
Đây là một trong những đặc điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT với
BH phi nhân thọ, tham gia BHNT người mua có trách nhiệm nộp phí BH
cho người BH theo định kỳ đồng thời người bảo hiểm cũng có trách nhiệm
trả một số tiền lớn (số tiền bảo hiểm) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm
như đã thoả thuận khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra. Số tiền bảo hiểm này
trả khi người được bảo hiểm sống đến một độ tuổi nhất định, hoặc cho

người thừa hưởng khi người được bảo hiểm tử vong trong thời hạn được
bảo hiểm. Số tiền này không thể bù đắp về mặt tình cảm nhưng bù đắp
phần nào những tổn thất về mặt tài chính.
Tính tiết kiệm trong bảo hiểm thể hiện ở ngay trong từng cá nhân,
gia đình một cách thường xuyên, có kế hoạch và có kỷ luật. Tiết kiệm bằng
cách mua bảo hiểm khác với các loại hình tiết kiệm khác ở chỗ, người bảo
hiểm không những tích luỹ về mặt tài chính mà còn mang tính bảo vệ cho
bản thân, khi có rủi ro xảy ra cho bản thân thì vẫn được đảm bảo về mặt tại
chính, dó chính là đặc điểm cơ bản của BHNT mà các loại hình tiết kiệm
khác không có dược. Điều này giải thích tại sao nói bảo hiểm vừa mang
tính tiết kiệm vừa mang tính bảo vệ.
2. BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người tham
gia bảo hiểm.
Khác với nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ứng được một
mục đích là góp phần khắc phục hậu quả khi đối tượng tham gia BH gặp
rủi ro, BHNT do vừa mang tính bảo vệ vừa mang tính tiết kiệm đã đáp ứng
được nhiều mục đích khác nhau của con người, mỗi mục đích được thể
hiện khá rõ trong từng sản phẩm bảo hiểm. Chẳng hạn như Bảo hiểm An
hưỏng hưu trí sẽ đáp ứng yêu cầu của người được bảo hiểm là có một
khoản tiền góp phần ổn định cuộc sống khi họ về hưu, bảo hiểm An gia
thịnh vượng đáp ứng yêu cầu của người tham gia là có được một khoản tiền
lớn sau một thời gian ấn định trước... Ngoài ra, hợp đồng BHNT đôi khi
còn có vai trò như một vật thế chấp để vay vốn khi người tham gia bảo
hiểm gặp những khó khăn về mặt tài chính, thủ tục cho vay được công ty
bảo hiểm giải quyết rất nhanh gọn không như đi vay vốn ngân hàng hơn

13


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp


nữa số tiền cho vay này có thể trả hay không trả lại cho công ty BH (tất
nhiên số tiền cho vay được giới hạn theo quy định trong hợp đồng bảo
hiểm).
Chính vì đáp ứng được nhiều mục đích khác nhau mà BHNT đang có
thị trường ngày càng rộng rãi và được nhiều người quan tâm.
3. Các hợp đồng trong BHNT rất đa dạng
Tính đa dạng của các hợp đồng BHNT xuất phát từ mục đích của
người tham gia và từ các sản phẩm bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mỗi
sản phẩm của công ty thiết kế ra là để phù hợp với từng đối tượng tham gia
khác nhau, cho nên bất cứ ai cũng có thể tham gia bảo hiểm và có được sản
phẩm phù hợp với mục đích của bản thân khi tham gia bảo hiểm.
4. Phí BHNT chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, vì vậy quá trình
định phí khá phức tạp.
Để đưa được sản phẩm BHNT đến với người tiêu dùng, người BH đã
phải bỏ ra rất nhiều chi phí để tạo ra sản phẩm bao gồm: chi phí khai thác,
chi phí quản lý hợp đồng... Tuy nhiên những chi phí đó mới chỉ là một phần
để cấu tạo nên phí BHNT, còn phần chủ yếu là phụ thuộc vào:
+ Độ tuổi của người tham gia bảo hiểm
+ Tuổi thọ bình quân của con người
+ Số tiền bảo hiểm
+ Thời hạn tham gia bảo hiểm
+ Phương thức thanh toán
+ Lãi suất đầu tư
+ Tỉ lệ lạm phát, thiểu phát của đồng tiền
......
Đối với sản phẩm BHNT, để định giá phí BHNT thì phải dựa trên
từng vùng địa lý, từng quốc gia, từng chế độ xã hội, tình hình kinh tế chính
trị của mỗi nước khác nhau là khác nhau. Hơn nữa còn phải nắm vững đặc
trưng cơ bản của từng loại sản phẩm, phân tích dòng tiền tệ, phân tích chiều

hướng phát triển chung của mỗi loại sản phẩm trên thị trường...
5. BHNT ra đời và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội
nhất định.

14


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Trên thế giới, BHNT đã ra đời hàng trăm năm nay nhưng cũng có những
quốc gia chưa triển khai được BHNT mặc dù người ta hiểu rất rõ vai trò và
lợi ích của nó. Nguyên nhân của hiện tượng này được các nhà kinh tế giải
thích rằng, cơ sở chủ yếu để BHNT ra đời và phát triển là phải có những
điều kiện kinh tế xã hội nhất định:
- Những điều kiện kinh tế
+ Tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) phải đạt đến
một mức độ nhất định, thể hiện sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
+ Tổng sản phẩm quốc nội tính bình quân đầu người phải đạt mức trung
bình trở lên.
+ Mức thu nhập của dân cư phải phát triển đến một mức độ nhất định để
không những đảm bảo nhu cầu tối thiểu của con người mà còn đáp ứng
được những nhu cầu cao hơn.
+ Tỷ lệ lạm phát của đồng tiền phải tương đối ổn định
+ Tỷ giá hối đoái phải ổn định ở mức hợp lý thì người dân mới tin tưởng
mà đầu tư vào BHNT
.......
- Những điều kiện xã hội bao gồm:
Tình hình xã hội tương đối ổn định, không xảy ra nội chiến, bạo động. Một
xã hội phát triển ổn định thì người dân mới tin tưởng đầu tư cho những kế
hoạch trung và dài hạn.

Ngoài ra, môi trường pháp lý cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ra
đời và phát triển của BHNT. Ở Việt Nam trong thời gian gần đây, khi tình
hình đất nước ngày càng phát triển thì luật pháp cũng được sửa đổi sao cho
phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành phát triển đặc biệt là
những ngành mới như bảo hiểm.
III. LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA BẢO HIỂM NHÂN THỌ.
1. Trên thế giới
Hợp đồng BHNT đầu tiên ra đời năm 1583 ở Luân đôn - Thủ đô nước
Anh, người được bảo hiểm là William Gybbon. Như vậy, BHNT có phôi thai
từ rất sớm, nhưng lại không có điều kiện phát triển ở một số nước do thiếu cơ
sở kỹ thuật ngẫu nhiên, nó giống như một trò chơi nên bị nhà thờ giáo hội lên

15


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

án với lý do lạm dụng cuộc sống con người, nên BHNT phải tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên sau đó do sự phát triển kinh tế mạnh
mẽ, cuộc sống của con người được cải thiện rõ rệt, thêm vào đó là sự phát
triển không ngừng của khoa học kỹ thuật nên bảo hiểm đã có điều kiện phát
triển trên phạm vi rộng lớn. Công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Philadenphia
(Mỹ). Công ty đó đến nay vẫn còn hoạt động nhưng ban đầu nó chỉ bán bảo
hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của mình. Năm 1762, công ty BHNT
Equitable ở Anh được thành lập và bán BHNT cho mọi người dân.
Ở Châu Á, công ty BHNT đầu tiên ra đời ở Nhật Bản. Năm 1868 công ty
bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai công ty khác là
Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến nay.
2. Tại Việt Nam
Ở nước ta, Công ty Bảo hiểm Việt Nam trước đây và Tổng công ty Bảo

Hiểm Việt Nam hiện nay (gọi tắt là Baoviet) là doanh nghiệp Bảo hiểm đầu
tiên của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, Baoviet đã ra đời ngày
17/12/1964 và bắt đầu hoạt động chính thức từ ngày 15/01/1965. Kể từ đó
cho tới trước năm 1993, ở nước ta chỉ có một doanh nghiệp bảo hiểm là
Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam (Baoviet) trực thuộc Bộ Tài chính Trong
những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới
về kinh tế, từng bước đưa nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang
nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, tạo ra tiền đề cần thiết
để chuyển sang thời kỳ phát triển kinh tế mới, đẩy mạnh công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ : “Khuyến khích phát
triển, đa dạng hoá hoạt động kinh doanh bảo hiểm cuả các thành phần kinh
tế và mở cửa hợp tác với nước ngoài...”. Đường lối đổi mới kinh tế, xây
dựng nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thi trường với định hướng
xã hội chủ nghĩa đã thể hiện trong lĩnh vực bảo hiểm thương mại, cụ thể là
ngày 18/12/1993 Chính phủ nước Cộng hoà XHCN Việt Nam đã ban hành
nghị định 100/CP về kinh doanh bảo hiểm. Đây là văn bản pháp lý chuyên
ngành đầu tiên đặt nền móng cho pháp luật về bảo hiểm trong điều kiện

16


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

kinh tế thị trường. Nghị định này là bước ngoặt quan trọng tuyên bố chấm
dứt sự độc quyền Nhà nước về kinh doanh bảo hiểm tại Việt Nam. Theo
nghị định này các doanh nghiệp bảo hiểm có thể là doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp cổ phần, Hội bảo hiểm tương hỗ, công ty liên doanh với nước
ngoài, chi nhánh hay công ty 100% vốn nước ngoài. Và có thể nói đây là
thời kỳ bắt đầu của việc “tự do hoá” và mở cửa thị trường Việt Nam.

Với nhận thức sâu sắc về vai trò và tầm quan trọng của BHNT, trong
những năm qua Chính phủ và Bộ Tài chính rất quan tâm phát triển nghiệp
vụ Bảo hiểm. Với sự ra đời của công ty BHNT chính thức đầu tiên ở Việt
Nam năm 1996 đã khẳng định rõ sự quan tâm của các cơ quan Nhà nước
tầm vĩ mô. Mặc dù chúng ta mới tiến hành nghiệp vụ BHNT hơn 5 năm,
nhưng những gì BVNT Việt Nam đạt được trong thời gian đó rất đáng ghi
nhận. Tạo nên cho người dân Việt Nam một phong tục sống mới, một hình
thức tiết kiệm mới.
Năm 1999 với sự tham gia của một số công ty BHNT có vốn nước
ngoài thị trường BHNT Việt Nam đã trở nên sôi động hơn và phong phú
hơn. Giúp cho người dân có thể lựa chọn cho mình sản phẩm bảo hiểm phù
hợp nhất. Cho đến nay thì đã có 5 công ty BHNT hoạt động trên thị trường
bảo hiểm Việt Nam đó là:
- Bảo Việt là công ty BHNT duy nhất ở Việt Nam có 100% vốn trong
nước, đồng thời có số vốn kinh doanh và thời gian hoạt động lâu
nhất: vốn kinh doanh là 55 triệu USD, phát hành hợp đồng đầu tiên
ngày 01/8/1996, thời gian hoạt động là không kỳ hạn
- Manulife là công ty 100% vốn nước ngoài của Canada khai trương
hoạt động 12/6/1999, vốn đăng ký kinh doanh là 10 triệu USD, thời
gian hoạt động 50 năm.
- Prudential là công ty 100% vốn nước ngoài của Anh quốc đây là
công ty BHNT đầu tư vào Việt Nam có số vốn lớn sau Bảo Việt 40
triệu USD, khai trương hoạt động ngày 29/10/1999 và có thời gian
hoạt động là 50 năm.

17


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp


- Bảo Minh - CMG liên doanh giữa tập đoàn CMG (Australia) và
Công ty bảo hiểm TP Hồ Chí Minh (Bảo Minh) khai trương hoạt
động ngày 12/10/1999, vốn đăng ký kinh doanh 6 triệu USD, thời
gian hoạt động 30 năm.
- AIA công ty Bảo hiểm 100% vốn nước ngoài của Mỹ khai trương
hoạt động 22/2/2000, vốn đăng ký kinh doanh 10 triệu USD, thời
gian hoạt động là 50 năm.
Cho đến 1/4/2001 Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức phát huy hiệu lực
tạo ra hành lang pháp lý đồng thời góp phần khẳng định vị trí của ngành
kinh doanh bảo hiểm trong xã hội Việt Nam.
IV. CÁC LOẠI HÌNH BHNT
Như trên đã nêu, BHNT là loại hình bảo hiểm mang ý nghĩa kinh tế xã hội sâu sắc. Trong đó, người tham gia bảo hiểm sẽ định kì đóng những
khoản phí trong một thời gian thoả thuận trước vào một quỹ lớn do công ty
bảo hiểm quản lí và công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một khoản tiền
như đã thoả thuận trong hợp đồng khi kết thúc thời hạn bảo hiểm hoặc khi
có sự kiện rủi ro xảy ra cho người được bảo hiểm. Do đó BHNT được hiểu
như một sự đảm bảo, một hình thức tiết kiệm và mang tính chất tương hỗ.
BHNT trên một phương diện nào đó còn mang tính chất bổ sung cho bảo
hiểm xã hội (BHXH) khi đời sống của nhân dân đưọc nâng cao mà chế độ
bảo hiểm xã hội (BHXH) chưa đáp ứng hết được.
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của con người
tuỳ theo mục đích của người tham gia là gì. Trong thực tế để phân loại bảo
hiểm người ta chia ra các hình thức cơ bản sau:

1. Phân loại theo rủi ro bảo hiểm
Có 3 loại hình BHNT cơ bản, sản phẩm của các công ty bảo hiểm đều xuất
phát từ 3 loại này.
1.1. Bảo hiểm trong trường hợp tử vong.

18



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Đây là loại hình phổ biến nhất trong BHNT và được chia làm 2
nhóm:
1.1.1Bảo hiểm tử kỳ
Còn gọi là BH tạm thời hay BH sinh mạng có thời hạn. Đây là loại
hình BH được kỳ kết bảo hiểm cho cái chết xảy ra trong thời gian đã quy
định của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian đó thì người
được BH không nhận được bất kỳ một khoản tiền nào. Điều đó cũng có
nghĩa là người BH không phải thanh toán số tiền BH cho người được BH.
Ngựoc lại, nếu có cái chết xảy ra trong thời hạn có hiệu lực của hợp đồng,
người BH có trách nhiệm thanh toán số tiền BH cho người thụ hưởng
quyền lợi BH được chỉ định. Loại hình BH này được đa dạng hoá thành
nhiều loại hình như:
+Bảo hiểm tử kỳ cố định
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục
+ Bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi
+ Bảo hiểm tử kỳ giảm dần
+ Bảo hiểm tử kỳ tăng dần
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình
+ Bảo hiểm thu nhập gia đình tăng lên
+ Bảo hiểm tử kỳ có điều kiện
Nội dung của các nghiệp vụ này có đặc điểm
- Thời hạn BH xác định
- Trách nhiệm và quyền lợi mang tính tạm thời
- Mức phí BH tương đối thấp ví không phải lập nên quỹ tiết kiệm cho
người được BH.
Mục đích

- Đảm bảo các chi phí mai táng, chôn cất
- Bảo trợ cho gia đình và gnười thân trong một thời gian ngắn
- Thanh toán các khoản nợ nần về những khoản vay hoặc thế chấp của
người được BH
1.1.2. Bảo hiểm nhân thọ trọn đời
Hay còn gọi là Bảo hiểm trường sinh.

19


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Bảo hiểm trọn đời là loại hình BHNT mà thời gian bảo hiểm không
xác định và số tiền bảo hiểm được chi trả cho người thừa kế khi người
được bảo hiểm chết. Ngoài ra trong một số trường hợp, loại hình bảo hiểm
này còn đảm bảo chi trả cho người được bảo hiểm ngay khi họ sống đến 99
tuổi (như Prudential). Loại hình này thường có các loại hợp đồng sau:
+ Bảo hiểm nhân thọ trọn đời phi lợi nhuận
+ BHNT trọn đời có tham gia chia lợi nhận
+ BHNT trọn đời đóng phí liên tục
+ BHNT trọn đời đóng phí một lần
+ BHNT trọn đời quy định số lần đóng phí
Đặc điểm:
- STBH trả một lần khi người được bảo hiểm bị chết
- Thời hạn BH không xác định
- Phí BH có thể đóng một lần hoặc đóng định kỳ và không thay đổi
trong suốt quá trình bảo hiểm
- Phí BH cao hơn so với sinh mạng có thời hạn vì rủi ro chết chắc chắn
xảy ra nên STBH chắc chắn phải chi trả
Mục đích:

- Đảm bảo thu nhập để ổn định cuộc sống gia đình
- Giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp kinh doanh cho thế hệ sau
1.2. Bảo hiểm trong trường hợp sống (sinh kỳ)
Thực chất của loại hình bảo hiểm này là người bảo hiểm cam kết chi
trả những khoản tiền đều đặn trong một khoản thời gian xác định hoặc
trong suốt cuộc đời người tham gia bảo hiểm. Nếu người được bảo hiểm
chết trước ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một
khoản tiền nào.
Đặc điểm:
- Trợ cấp định kỳ cho người được bảo hiểm trong thời gian xác định
hoặc cho đến khi chết.
- Phí bảo hiểm đóng một lần
- Nếu trợ cấp định kỳ đến khi chết thì thời gian không xác định.

20


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Mục đích:
- Đảm bảo thu nhập cố định khi về hưu hay khi tuổi cao sức yếu.
- Giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi
tuổi già.
- Bảo trợ mức sống trong những năm tháng còn lại của cuộc đời.
1.3 BHNT hỗn hợp.
BHNT hỗn hợp là sự kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm, số tiền bảo
hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm bị chết hoặc sống đến đáo hạn
hợp đồng và thời hạn bảo hiểm được xác định trước. Trong loại hình này,
bảo tức trả khi đáo hạn hợp đồng và phụ thuộc vào hiệu quả mang lại do
đầu tư phí bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn.

Tuỳ thuộc vào nhu cầu và khả năng tài chính khác nhau của bản
thân, mỗi người đều có thể lựa chọn cho mình một sản phẩm BHNT sao
cho phù hợp với mục đích của mình. Trong BHNT hỗn hợp này yếu tố rủi
ro và tiết kiệm đan xen nhau vì thế nó được áp dụng rộng rãi hầu hết ở các
nước trên thế giới.
Đặc điểm:
- STBH được trả khi: Hết hạn hợp đồng hoặc người được BH bị tử
vong trong thời hạn bảo hiểm.
- Thời hạn bảo hiểm xác định (thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm...)
- Phí BH thường đóng định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn
bảo hiểm.
- Có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và cũng có thể
được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia.
Mục đích:
- Đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân.
- Tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí, trả nợ
Khi triển khai BHNT hỗn hợp, các công ty bảo hiểm có thể đa dạng hóa
loại sản phẩm này bằng các hợp đồng có thời hạn khác nhau, hợp đồng phi
lợi nhuận, có lợi nhuận và các hợp đồng khác tuỳ theo tình hình thực tế.

21


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

2. Phân loại theo phương thức tham gia bảo hiểm
2.1 Bảo hiểm cá nhân
Là loại bảo hiểm con người thực hiện dưới hình thức người tham gia
bảo hiểm là cá nhân. Thông thường loại bảo hiểm tự nguyện đều do cá
nhân tham gia bảo hiểm. Trong BHNT con người tham gia thường là bảo

hiểm cá nhân, tức là trong hợp đồng bảo hiểm chỉ có một người được bảo
hiểm tối đa là hai người (như những những hợp đồng đặc biệt như An sinh
giáo dục thì người tham gia cũng được bảo hiểm) Bởi lẽ do đặc trưng của
BHNT là dành cho những kế hoạch trung và dài hạn cho nên phù hợp với
cá nhân hơn là cho tập thể.
2.2. Bảo hiểm nhóm
Là loại bảo hiểm con người theo hình thức tập thể có kèm theo danh
sách cá nhân được bảo hiểm. Thí dụ tập thể cán bộ, công nhân viên của một
doanh nghiệp đều được mua bảo hiểm con người có kèm theo danh sách
các cá nhân được bảo hiểm rủi ro chết hoặc bảo hiểm tai nạn bất ngờ nhằm
đảm bảo an toàn cho cuộc sống của người lao động. Loại hình này có mối
quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm và người được bảo hiểm là giữa
người sử dụng lao động và người lao động nhưng phải được sự đồng ý của
người lao động. Đó là các loại hình bảo hiểm nhân thọ tử kỳ nhóm với thời
gian 5 hoặc 8 năm.

3. Loại hình bảo hiểm dành cho trẻ em
Trên thế giới có rất nhiều công ty bảo hiểm, và mỗi công ty đều triển khai
sản phẩm do bản thân công ty đưa ra, do đó hiện nay trên thế giới có gần
400 loại hình bảo hiểm được chia làm 2 nhóm: đó là nhóm có tham gia chia
lãi và nhóm không tham gia chia lãi.
Nhóm có tham gia chia lãi là loại hình BHNT trong đó người tham
gia vừa được bảo hiểm khi có rủi ro xảy ra, vừa được tham gia chia lãi khi
tham gia bảo hiểm. Còn nhóm không tham gia chia lãi là loại hình BHNT
mà chỉ khi có rủi ro xảy ra thì sẽ nhận được số tiền bảo hiểm còn khi rủi ro
không xảy ra thì người tham gia sẽ không nhận được gì khi đáo hạn hợp
đồng. Vì trong nhóm bảo hiểm có tham gia chia lãi bao gồm cả hai ý nghĩa

22



Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

đó là tiết kiệm và bảo vệ nó được gọi là BHNT hỗn hợp. Vì mức phí bảo
hiểm phụ thuộc rất nhiều vào độ tuổi, giới tính, môi trường xung quanh cho
nên mỗi quốc qia lại có một cách tính phí bảo hiểm riêng, kể cả là cùng 1
sản phẩm của 1 công ty nhưng triển khai ở các nước khác nhau thì mức phí,
quyền lợi bảo hiểm, điều kiện tham gia cũng khác nhau. Bởi thế cho nên đa
số mọi người đều có thể tham gia bảo hiểm và tìm được sản phẩm phù hợp
cho mình. Loại hình bảo hiểm nhân thọ dành cho trẻ em thuộc nhóm bảo
hiểm nhân thọ hỗn hợp, do mục đích tham gia của các bậc cha mẹ là muốn
tiết kiệm một khoản dành riêng cho con cái trong kế hoạch dài hạn, để các
khoản chi tiêu tài chính gia đình không ảnh hưởng đến nhau hơn nữa trẻ em
khi tham gia bảo hiểm khả năng rủi ro ít hơn người lớn cho nên khi tham
gia bảo hiểm cho trẻ em là nhằm mục đích tiết kiệm, vì thế loại hình bảo
hiểm dành cho trẻ em thuộc nhóm bảo hiểm nhân thọ là rất phù hợp đáp
ứng được mục đích của người tham gia bảo hiểm.

4. Bảo hiểm cho trẻ em trên thế giới
Trên thế giới bảo hiểm cho trẻ em xuất phát từ những nhu cầu thực tế
là cha mẹ muốn đảm bảo cho con cái về mặt tài chính khi có rủi ro xảy ra
với bản thân họ. Việc thanh toán học phí có thể thực hiện trong khi bố mẹ
đang có thu nhập đủ để trả cho các chi phí này. Khó khăn phát sinh nếu
khoản thu nhập chính bị đánh mất hoặc bị giảm do cha hoặc mẹ bị thương
tật toàn bộ vĩnh viễn hoặc chết. Có nhiều cách để cha mẹ có thể đảm bảo
thanh toán học phí ngay cảc trong trường hợp họ chết sớm. Bảo hiểm nhân
thọ hỗn hợp có thể thu xếp được điều đó, số tiền bảo hiểm được thanh toán
nhiều lần hoặc một lần. Đơn bảo hiểm dựa trên sinh mạng của cha mẹ chứ
không được ký do khả năng tự bảo vệ của trẻ em là rất ít.
Tuy được ký do cha mẹ nhưng cha mẹ không có quyền lợi bảo hiểm

đối với sinh mạng con cái họ. Bất cứ bảo hiểm nhân thọ nào vì lợi ích trẻ
em đều hoàn phí trong trường hợp chết sớm xảy ra. Bảo hiểm của trẻ em
thường được ký kết đựa vào cuộc sống của bố mẹ chúng và cho phép đứa
trẻ lựa chọn khi đứa trẻ đạt độ tuổi xác định trước (ví dụ ở tuổi 18).

23


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Nếu cha mẹ chết trước khi con cái đến tuổi trưởng thành, hợp đồng
bảo hiểm vẫn tiếp tục mà không phải đóng thêm phí cho đến ngày hợp
đồng đáo hạn. Vào ngày kỷ niệm hợp đồng trước ngày sinh nhật lần thứ 18
sẽ có nhiều sự lựa chọn khác nhau cho đứa trẻ. Những sự lựa chọn này bao
gồm việc thanh toán ngay toàn bộ số tiền hoặc đơn bảo hiểm tiếp tục có
hiệu lực trên cơ sở bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp. Không cần bằng chứng về
sức khoẻ. Nếu đứa trẻ là nữ thì có quyền lựa chọn việc chuyển hợp đồng
cho người chồng trước khi kết hôn.

24


Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

CHƯƠNG II
SẢN PHẨM AN SINH GIÁO DỤC Ở BẢO VIỆT
NHÂN THỌ HÀ NỘI

I . VÀI NÉT VỀ BẢO VIỆT NHÂN THỌ HÀ NỘI VÀ TÌNH HÌNH
THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM HÀ NỘI.


1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty Bảo Việt
Nhân thọ Hà Nội.
Công ty bảo hiểm Việt Nam - Tiền thân của Tổng công ty bảo hiểm
Việt Nam ngày nay - được thành lập theo quyết định số 179/CP ngày
17/12/1964 của Thủ tướng chính phủ và chính thức đi vào hoạt động ngày
15/1/1965.
Ngày đầu hoạt động, Bảo Việt có trụ sở chính ở số 11 phố Lý
Thường Kiệt - Quận Hoàn Kiếm - Hà Nội và một chi nhánh tại Hải Phòng.
Công ty hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu và xét bồi thường cho các công ty bảo hiểm nước ngoài về bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu.
Năm 1975, sau ngày thống nhất đất nước, Bảo Việt tiếp quản cơ sở
vật chất của một số công ty bảo hiểm thuộc chế độ cũ qua việc sáp nhập
với công ty bảo hiểm và Tái bảo hiểm miền Nam Việt Nam, bắt đầu mở
rộng hoạt động ở một số các tỉnh phía Nam.
Năm 1980, Bảo Việt chính thức có mạng lưới cung cấp dịch vụ trên
khắp cả nước. Đây cũng chính là thời kỳ Bảo Việt bắt đầu cung cấp dịch vụ
bảo hiểm hành khách và bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho chủ xe cơ giới
phục vụ cho việc đi lại của đông đảo quần chúng nhân dân.
Năm 1982, Bảo Việt triển khai thí điểm bảo hiểm cây lúa lần 1, bước
đầu mở rộng và phát triển bảo hiểm Nông nghiệp ở Việt Nam.

25


×