Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Nghiên cứu rủi ro kiểm toán và các giải pháp giảm thiểu rủi ro kiểm toán”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 39 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….1
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN………………………2
1.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro kinh doanh………………………………..2
1.2. Rủi ro kiểm toán………………………………………………………...2
1.2.1. Định nghĩa rủi ro kiểm toán……… ……………………………..2
1.2.2. Các thành phần của rủi ro kiểm toán……………………………3
1.2.2.1. Rủi ro tiềm tàng…………………………..………………3
1.2.2.2. Rủi ro kiểm soát………….……………………………….4
1.2.2.3. Rủi ro phát hiện……………………..…………………….5
1.2.3. Mô hình rủi ro kiểm toán………………………………………...6
1.2.4. Mức rủi ro kiểm toán mong muốn……………………………….8
1.2.5. Mối liên hệ giữa các loại rủi ro…………………………………..8
1.3. Đánh giá rủi ro kiểm toán…..………………………………………...10
1.3.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm toán……..10
1.3.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng……………………………………….11
1.3.3. Đánh giá rủi ro kiểm soát……………………………………….15
1.3.4. Xác định rủi ro phát hiện……………………………………….21
PHẦN 2: GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU RỦI RO KIỂM TOÁN…………………22
2.1. Giải pháp giảm thiểu rủi ro kiểm soát……………………………….22
2.1.1. Cơ sở xây dựng…………………………………………………..22
2.1.2. Các giải pháp…………………………………………………….22
2.2. Giải pháp giảm thiểu rủi ro phát hiện……………………………….28
2.2.1. Cơ sở xây dựng…………………………………………………..28
2.2.2. Các giải pháp…………………………………………………….28
2.3. Thực hiện giải pháp giảm thiểu rủi ro kiểm toán…………………...34
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...36
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………37
LỜI MỞ ĐẦU
Trong kiểm toán nói chung và kiểm toán tài chính nói riêng, rủi ro kiểm


toán là khái niệm quen thuộc gắn liền với trách nhiệm của kiểm toán viên. Vì
vậy, việc hiểu rõ và quản lý tốt rủi ro kiểm toán là yếu tố quyết định trong việc
hạn chế rủi ro kinh doanh của các công ty kiểm toán.
Đánh giá rủi ro được thực hiện ở giai đoạn đầu của cuộc kiểm toán nên giữ vai
trò quan trọng, chi phối chất lượng và hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm
toán. Xác định được mức rủi ro kiểm toán hợp lý có thể tiết kiệm chi phí mà vẫn
đảm bảo độ tin cậy của thông tin, tránh được thiệt hại và giữ được mối quan hệ
với khách hàng.
Từ những lý do trên, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Nghiên cứu rủi ro
kiểm toán và các giải pháp giảm thiểu rủi ro kiểm toán”. Nội dung của đề án
gồm 2 phần:
Phần 1: Lý luận chung về rủi ro kiểm toán
Phần 2: Các giải pháp giảm thiểu rủi ro kiểm toán
Em xin chân thành cám ơn cô giáo – Th.s Tạ Thu Trang đã nhiệt tình hướng dẫn
giúp em hoàn thành đề án này.
Sinh viên: Đỗ Dương Tùng

2
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ RỦI RO KIỂM TOÁN
1.1. Khái niệm rủi ro và rủi ro kinh doanh
Để có thể tìm hiểu về rủi ro kiểm toán trước hết chúng ta cần hiểu rõ về
khái niệm rủi ro nói chung và rủi ro kinh doanh nói riêng. Theo từ điển Tiếng Việt
thì “rủi ro là tính từ để chỉ việc không may xảy ra” hoặc “rủi ro là điều không lành,
không tốt bất ngờ xảy đến”. Như vậy rủi ro là điều không mong muốn, có thể mang
lại bất lợi hoặc tác hại. Trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau thì rủi ro lại được
định nghĩa cụ thể tùy theo những đặc trưng riêng của lĩnh vực đó.
Chúng ta cũng cần nắm được khái niệm rủi ro trong kinh doanh. Rủi ro
kinh doanh là rủi ro xuất phát từ tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, khi có

những thay đổi trong tình trạng này doanh nghiệp có thế sẽ bị sút giảm lợi nhuận
hoặc thậm chí là phá sản. Rủi ro kinh doanh có thể chia làm 2 loại cơ bản: bên ngoài
và nội tại. Rủi ro kinh doanh nội tại phát sinh trong quá trình vận hành hoạt động
của doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp có một loại rủi ro nội tại riêng, phụ thuộc vào
các chính sách, chiến lược và hoạt động của nó. Các doanh nghiệp cũng có kiểu rủi
ro bên ngoài riêng, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường kinh doanh cụ thể của mỗi
doanh nghiệp. Các yếu tố bên ngoài đó có thể là chi phí tiền vay, mức thuế xuất
nhập khẩu, các chính sách chính trị, chính sách tiền tệ và cả chu kỳ kinh doanh của
từng ngành nghề, …
1.2. Rủi ro kiểm toán
1.2.1. Định nghĩa rủi ro kiểm toán
Theo chuẩn mực số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ trong hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam thì:
“Rủi ro kiểm toán là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý
3
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có
những sai sót trọng yếu.”
Như vậy rủi ro kiểm toán là khả năng mà báo cáo tài chính còn chứa đựng những
sai phạm trọng yếu trong khi kiểm toán viên lại nhận xét rằng chúng được trình
bày trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu.
Rủi ro kiểm toán luôn luôn có thể tồn tại ngay cả khi cuôc kiểm toán đã
được lập kế hoạch chu đáo và thực hiện một cách thận trọng. Rủi ro này sẽ tăng
thêm nếu việc lập kế hoạch kiểm toán không tốt và thực hiện kiểm toán thiếu
thận trọng.
Rủi ro kiểm toán xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn trong báo cáo tài chính
đã vượt qua hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị và không bị các thử nghiệm cơ
bản của kiểm toán viên phát hiện. Trên thực tế rủi ro này thường xảy ra do các
giới hạn về quản lý dẫn tới các gian lận và sai sót hoặc giới hạn về kiểm toán mà

trực tiếp là sự giới hạn về chi phí kiểm toán, từ đó ảnh hưởng đến số lượng bằng
chứng thu được. Thậm chí ngay cả khi hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động hiệu
quả và kiểm toán viên thu được đầy đủ bằng chứng kiểm toán thì rủi ro kiểm toán
vẫn có thể xảy ra. Vấn đề này sẽ được tiếp tục làm rõ ở các phần sau.
1.2.2. Các thành phần của rủi ro kiểm toán
Theo chuẩn mực số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ trong hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam thì “rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận:
rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện”. Dưới đây ta sẽ lần lượt tìm
hiểu vể ba loại rủi ro này.
1.2.2.1. Rủi ro tiềm tàng
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội
bộ” đã định nghĩa: “Rủi ro tiềm tàng là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng
4
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính
gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ”.
Rủi ro tiềm tàng là loại rủi ro luôn tồn tại trong hoạt động kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp, phụ thuộc vào môi trường kinh doanh và các chính sách, hoạt
động của doanh nghiệp đó. Nói cách khác, rủi ro tiềm tàng là khả năng báo cáo
tài chính của doanh nghiệp chứa đựng các sai phạm trọng yếu trước khi xem xét
đến tính hiệu lực của hệ thống kiểm soát nội bộ. Các sai phạm có thể là đơn lẻ ở
một số dư, nghiệp vụ nào đó hoặc có thể kết hợp với sai phạm ở các số dư,
nghiệp vụ khác trên báo cáo tài chính. Như vậy kiểm toán viên không tạo ra rủi
ro tiềm tàng và cũng không thể kiểm soát được chúng. Kiểm toán viên chỉ có thể
đánh giá rủi ro tiềm tàng và đây cũng là điều bắt buộc để đánh giá được rủi ro
kiểm toán.
1.2.2.2. Rủi ro kiểm soát
Để có thể hiểu một cách chính xác thế nào là rủi ro kiểm soát ta có thể
xem xét một số các quan điểm sau.

Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400:
Rủi ro kiểm soát: là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp
vụ,từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ
thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát
hiện và sửa chữa kịp thời.
Hoặc trong Lý thuyết kiểm toán - Alvin Arens - NXB Thống kê 2000 có định
nghĩa:
Rủi ro kiểm soát: đại diện cho sự đánh giá về cơ cấu kiểm soát nội bộ
của khách hàng có hiệu quả đối với việc ngăn ngừa hoặc phát hiện sai sót.
Còn theo chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 400 thì:
5
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
Rủi ro kiểm soát là rủi ro xảy ra mà được đánh giá trọng yếu khi tính
riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp không
ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Như vậy, các quan điểm về rủi ro kiểm soát đều thống nhất đi đến một quan
điểm chung mà nội dung của nó là : “Rủi ro kiểm soát chính là khả năng hệ thống
kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị được kiểm toán không phát hiện,
ngăn ngừa và sửa chữa kịp thời các sai phạm trọng yếu”.
Rủi ro kiểm soát là một loại rủi ro tồn tại khách quan bên trong doanh
nghiệp không phụ thuộc vào việc có tiến hành công việc kiểm toán hay không.
Kiểm toán viên không tạo ra rủi ro kiểm soát và cũng không kiểm soát chúng,
mục đích của kiểm toán viên là đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ và đưa ra một
mức rủi ro kiểm soát dự kiến.
Rủi ro kiểm soát sinh ra khi hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động không
có hiệu quả, thậm chí cả khi nó hoạt động có hiệu quả thì rủi ro kiểm soát vẫn tồn
tại. Bản thân hệ thống kiểm soát nội bộ là một hệ thống bao gồm kế hoạch tổ
chức và tất cả các phương pháp, biện pháp phối hợp được thừa nhận dùng trong
kinh doanh để bảo vệ tài sản của tổ chức, kiểm tra sự chính xác và độ tin cậy của

thông tin kế toán, thúc đẩy hiệu qña hoạt động và khích lệ và bám sát các chủ
trương quản lý đã đề ra. Chính vì thế hệ thống kiểm soát nội bộ còn đóng một vai
trò là một màng lưới sàng lọc hầu hết các sai phạm có thể xảy ra bên trong doanh
nghiệp nói chung và các sai phạm trọng yếu nói riêng. Nếu hệ thống này hoạt
động hiệu quả tức là các sai phạm xảy ra là ít thì yếu tố rủi ro kiểm soát được
đánh giá là thấp và ngược lại.
1.2.2.3. Rủi ro phát hiện
Rủi ro phát hiện hiểu một cách chung nhất là khả năng mà các thủ tục
6
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
kiểm toán không phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Theo nguyên tắc kiểm
toán quốc tế số 25, mục 15 có ghi: “Rủi ro phát hiện là những rủi ro mà kiểm
toán viên không phát hiện ra các sai sót hiện có trong số dư tài khoản hoặc các
loại nghiệp vụ. Những sai sót này có thể là nghiêm trọng xảy ra đơn lẻ hoặc có
thể kết hợp với các sai sót trong các số dư, các loại nghiệp vụ khác”.
Còn chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 – “Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ”, mục 06 ghi: “Rủi ro phát hiện là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong
từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc
tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán
không phát hiện được”.
Như vậy, rủi ro phát hiện là khả năng mà các thủ tục kiểm toán không
phát hiện được các sai phạm trọng yếu. Nếu như rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát tồn tại một cách độc lập, kiểm toán viên không can thiệp được mà
chỉ có thể đánh giá chúng thì ngược lại, kiểm toán viên có thể kiểm soát đối
với rủi ro phát hiện và phải có trách nhiệm thu thập các bằng chứng kiểm toán
đầy đủ và hiệu lực để giảm thiểu rủi ro phát hiện.
1.2.3. Mô hình rủi ro kiểm toán
Thực chất, rủi ro kiểm toán là rủi ro xuất phát từ các sai lệch tiềm ẩn mang
tính trọng yếu trong báo cáo tài chính (rủi ro tiềm tàng) đã vượt qua hệ thống

kiểm soát nội bộ của đơn vị (rủi ro kiểm soát) và không bị các thử nghiệm kiểm
toán của kiểm toán viên phát hiện (rủi ro phát hiện). Do đó rủi ro kiểm toán là
tổng hợp của ba loại rủi ro: rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Để phục vụ cho quá trình đánh giá rủi ro kiểm toán, các nhà chuyên môn thường
sử dụng mô hình sau để biểu diễn mối quan hệ giữa rủi ro kiểm toán và các bộ
phận cấu thành:
AR = IR
×
CR
×
DR
Trong đó:
7
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
- AR (Audit risk): Rủi ro kiểm toán
- IR (Inherent risk): Rủi ro tiềm tàng
- CR (Control risk): Rủi ro kiểm soát
- DR (Detective risk): Rủi ro phát hiện
Mô hình này được kiểm toán viên sử dụng để đánh giá tính hợp lý của kế
hoạch kiểm toán. Kiểm toán viên có thể sử dụng mô hình này để điều chỉnh rủi ro
phát hiện dựa trên các loại rủi ro khác đã được đánh giá nhằm đạt được rủi ro
kiểm toán ở mức thấp mà kiểm toán viên kì vọng.
Tuy nhiên mô hình trên ít khi được sử dụng vì rủi ro kiểm toán thường
được kiểm toán viên xác định trước và khó thay đổi trong một cuộc kiểm
toán. Do vậy, kiểm toán viên mong muốn xác định rủi ro phát hiện (DR) để
lập kế hoạch kiểm toán hơn là điều chỉnh rủi ro phát hiện theo rủi ro kiểm
toán (AR). Mặt khác, rủi ro tiềm tàng (IR) và rủi ro kiểm soát (CR) luôn có
tính chất cố hữu, kiểm toán viên chỉ có thể đánh giá chứ không thể tác động
vào chúng. Vì vậy, mô hình rủi ro kiểm toán ở trên không thể hiện tính chất

“tác động được” của kiểm toán viên đối với rủi ro phát hiện. Do đó, để phục
vụ tốt hơn cho việc lập kế hoạch kiểm toán và xét trong mối quan hệ với
bằng chứng kiểm toán, mô hình rủi ro kiểm toán thường được sử dụng dưới
dạng sau:

CRIR
AR
DR
×
=
Với mô hình này, rủi ro phát hiện (DR) là đối tượng chính quan tâm của
kiểm toán viên. Mô hình này thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa rủi ro kiểm toán
(AR) và rủi ro phát hiện (DR) cũng như tính chất tác động “ tác động được” của
rủi ro phát hiện (DR). Mặt khác, nó còn biểu hiện được mối quan hệ giữa rủi ro
phát hiện (DR) và số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập trong quá trình
lập kế hoạch kiểm toán. Sau khi tính ra mức rủi ro phát hiện, kiểm toán viên sẽ
xác định được khối lượng công việc và số lượng bằng chứng cần thu thập để thỏa
mãn mức rủi ro phát hiện đó.
8
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
1.2.4. Mức rủi ro kiểm toán mong muốn
Khi sử dụng mô hình kiểm toán: DR = AR/(IR
×
CR) thì rủi ro kiểm toán
thường được xác định trước cuộc kiểm toán theo tiêu chuẩn của từng công ty
kiểm toán và được gọi là rủi ro kiểm toán mong muốn (DAR – Desired Audit
Risk). Vì vậy mô hình trên thường được thể hiện dưới dạng:

CRIR

DAR
DR
×
=

Trong một cuộc kiểm toán, rủi ro không bao giờ được loại trừ một cách
hoàn toàn. Vì vậy, khái niệm rủi ro kiểm toán mong muốn thể hiện mức độ kỳ
vọng của kiểm toán viên đối với một mức rủi ro có thể chấp nhận được. Rủi ro
kiểm toán mong muốn được xác định một cách chủ quan theo kinh nghiệm và óc
xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Khi kiểm toán viên cho rằng rủi ro
kiểm toán mong muốn bằng 0 có nghĩa là kiểm toán viên tin tưởng báo cáo tài
chính của khách hàng không tồn tại bất cứ sai phạm trọng yếu nào. Đây là trường
hợp lý tưởng cho mọi cuộc kiểm toán nhưng không bao giờ xảy ra vì kiểm toán
viên chỉ có thể kết luận báo cáo tài chính đã được trình bày trung thực, hợp lý xét
trên các khía cạnh trọng yếu. Ngược lại, khi rủi ro kiểm toán ở mức 1 hay 100%,
kiểm toán viên cho rằng báo cáo tài chính của khách hàng đã bị làm sai lệch
nghiêm trọng trên nhiều khía cạnh trọng yếu. Vì vậy, biên độ giao động của rủi
ro kiểm toán mong muốn biến đổi từ 0 đến 1 hay từ 0% đến 100%.
Việc đưa ra mức rủi ro kiểm toán mong muốn mang tính chủ quan của kiểm
toán viên và nó phụ thuộc nhiều vào chi phí của cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, mức
rủi ro kiểm toán mong muốn mà kiểm toán viên đưa ra phải đủ thấp để những
người quan tâm có thể sử dụng báo cáo tài chính đã kiểm toán của khách hàng
làm cơ sở ra quyết định, hạn chế các loại rủi ro trong kinh doanh.
1.2.5. Mối liên hệ giữa các loại rủi ro
Quá trình nghiên cứu về các loại rủi ro đã chỉ ra mối quan hệ qua lại chặt
chẽ giữa chúng. Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát khác rủi ro phát hiện và rủi
ro kiểm toán ở chỗ: chúng tồn tại độc lập, khách quan với các thông tin tài chính,
9
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang

không phụ thuộc vào ý muốn và ý chí của kiểm toán viên, kiểm toán viên cũng
không thể tác động để làm thay đổi hai loại rủi ro này.
Rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát thường biến đổi cùng chiều với nhau và do
vậy thường được đánh giá chung khi đánh giá rủi ro kiểm toán. Nếu doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh mang tính mạo hiểm cao, rủi ro tiềm tàng lớn,
thì cho dù hệ thống kiểm soát nội bộ của doanh nghiệp hoạt động hữu hiệu nhưng rủi
ro kiểm soát vẫn phải được đánh giá ở mức trung bình hoặc trên mức trung bình.
Với một mức rủi ro kiểm toán mong muốn được xác định trước thì rủi ro phát
hiện có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát, đồng thời rủi
ro phát hiện cũng tỷ lệ nghịch với số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập. Nếu
như rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá cao thì rủi ro phát hiện được
tính toán sẽ thấp, khi đó số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập nhiều, phạm vi
kiểm toán mở rộng và khối lượng công việc kiểm toán tăng. Ngược lại khi rủi ro tiềm
tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá thấp thì rủi ro phát hiện sẽ cao, khi đó kiểm
toán viên chỉ cần thu thập số lượng bằng chứng kiểm toán nhỏ hơn cũng đủ cơ sở đưa
ra kết luận kiểm toán.
Sự biến động của rủi ro phát hiện dựa theo đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro
tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được thể hiện trong bảng sau đây:
Đánh giá của kiểm toán viên về
rủi ro kiểm soát
Cao Trung bình Thấp
Đánh giá của
kiểm toán viên về
rủi ro tiềm tàng
Cao Thấp nhất Thấp Trung bình
Trung bình Thấp Trung bình Cao
Thấp Trung bình Cao Cao nhất
Trong đó:
10
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A

Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
- Mỗi loại rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát đều được chia thành 3 mức: Cao,
trung bình và thấp.
- Vùng tô đậm thể hiện mức độ rủi ro phát hiện.
- Loại rủi ro phát hiện được chia thành 5 mức: Cao nhất, cao, trung bình, thấp
và thấp nhất.
Mức độ rủi ro phát hiện tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm
soát. Ví dụ: khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao thì rủi ro
phát hiện có thể được đánh giá ở mức độ thấp để giảm rủi ro kiểm toán xuống
thấp đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, khi rủi ro tiềm tàng và rủi ro
kiểm soát được đánh giá là thấp thì có thể chấp nhận mức độ rủi ro phát hiện cao
hơn nhưng vẫn đảm bảo giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp đến mức có thể chấp
nhận được.
Từ bảng trên ta có thể lấy hai ví dụ cụ thể để thấy rõ mối quan hệ giữa các loại
rủi ro: Trường hợp mức độ rủi ro tiềm tàng được kiểm toán viên đánh giá là cao
và mức độ rủi ro kiểm soát được kiểm toán viên đánh giá là thấp thì mức độ rủi
ro phát hiện có thể đánh giá là trung bình nhằm giảm rủi ro kiểm toán xuống thấp
đến mức có thể chấp nhận được. Ngược lại, nếu mức độ rủi ro tiềm tàng là thấp
và rủi ro kiểm soát được đánh giá là trung bình thì có thể xác định mức độ rủi ro
phát hiện là cao nhưng vẫn đảm bảo rủi ro kiểm toán là thấp có thể chấp nhận
được.
1.3. Đánh giá rủi ro kiểm toán
1.3.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc đánh giá rủi ro kiểm toán
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 400, mục 08 thì:
Đánh giá rủi ro kiểm toán là việc kiểm toán viên và công ty kiểm toán xác định
mức độ rủi ro kiểm toán có thể xảy ra là cao hay thấp, bao gồm đánh giá rủi ro
11
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện. Rủi ro kiểm toán được xác định

trước khi lập kế hoạch và trước khi thực hiện kiểm toán.
Cũng trong VSA 400, mục 02 có qui định: “Kiểm toán viên phải sử dụng khả
năng xét đoán chuyên môn của mình để đánh giá rủi ro kiểm toán và xác định các
thủ tục kiểm toán nhằm giảm các rủi ro kiểm toán xuống thấp tới mức có thể
chấp nhận được”.
Như vậy đánh giá rủi ro kiểm toán là một bước công việc không thể thiếu
trong mọi cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, đánh giá rủi
ro kiểm toán là một trong những bước quan trọng để hình thành nên một kế
hoạch tổng quát cho cuộc kiểm toán cụ thể. Từ mô hình rủi ro kiểm toán, kiểm
toán viên sẽ xác định được rủi ro phát hiện trên cơ sở những đánh giá vể mức rủi
ro mong muốn, rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Dựa vào mức rủi ro phát hiện
được xác định, kiểm toán viên có thể xây dựng nội dung, lịch trình và phạm vi
của các thủ tục kiểm toán cơ bản.
1.3.2. Đánh giá rủi ro tiềm tàng
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 400 - “ Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ”: “Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán
phải đánh giá rủi ro tiềm tàng cho toàn bộ báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm
toán. Khi lập chương trình kiểm toán, kiểm toán viên phải xác định cụ thể mức
độ rủi ro tiềm tàng cho các số dư hoặc loại nghiệp vụ quan trọng đến từng cơ sở
dẫn liệu. Trường hợp không thể xác định cụ thể được thì kiểm toán viên phải giả
định rằng rủi ro tiềm tàng là cao cho cơ sở dẫn liệu đó. Căn cứ vào mức độ đánh
giá rủi ro tiềm tàng để dự kiến các công việc, thủ tục kiểm toán sẽ được thực hiện
cho các nghiệp vụ, các khoản mục trọng yếu trên báo cáo tài chính, hoặc các
nghiệp vụ, các khoản mục mà kiểm toán viên cho là có rủi ro tiềm tàng cao”.
Kiểm toán viên phải dựa vào việc xét đoán chuyên môn của mình để đánh
giá rủi ro tiềm tàng trên những nhân tố chủ yếu sau:
12
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
 Trên phương diện báo cáo tài chính

Khi đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện báo cáo tài chính, kiểm toán viên
thường dựa vào một số yếu tố ảnh hưởng sau:
• Đặc điểm của Ban Giám đốc:
Nếu các quyết định về kinh tế, tài chính trong đơn vị bị độc quyền bởi một cá
nhân trong Ban Giám đốc thì sẽ dễ xảy ra các sai phạm trọng yếu hơn trường hợp
các quyết định này được soát xét và phê duyệt bởi một hội đồng thành viên Ban
Giám đốc.Ngoài ra, sự thiếu liêm khiết, kinh nghiệm và hiểu biết của Ban Giám
rất dễ dẫn đến việc chỉ đạo, điều hành các hoạt động gian lận, mang tính chất trục
lợi cho cá nhân hoặc sai chế độ, quy định pháp luật...Vì thế dễ có khả năng tồn tại
sai phạm đối với các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Hơn nữa khi có sự thay đổi
thành phần Ban quản lý xảy ra trong niên độ kế toán kiểm toán viên cũng cần
xem xét đến trường hợp có nhiều người trung thực, không chấp nhận những gian
lận xảy ra trong doanh nghiệp nên tự nguyện xin từ chức dẫn tới việc thay thế
nhân sự trong Ban Giám đốc. Khi đó, rủi ro tiềm tàng sẽ được đánh giá cao hơn.
• Trình độ và kinh nghiệm chuyên môn của kế toán trưởng, của các
nhân viên kế toán chủ yếu, của kiểm toán viên nội bộ và sự thay đổi (nếu có) của
họ. Kế toán trưởng là người chịu trách nhiệm chính về công tác kế toán của đơn
vị. Trình độ của họ sẽ có ảnh hưởng tới công tác kế toán của đơn vị, sự ghi chép
và kiểm tra kế toán và tính chính xác của thông tin tài chính được ghi chép và
trình bày trên báo cáo tài chính. Nếu có sự thay đổi nhân sự của các vị trí này thì
những người mới có thể chưa có kinh nghiệm nên dễ dẫn tới sai sót. Trong
trường hợp này, kiểm toán viên nên đánh giá rủi ro tiềm tàng ở mức cao hơn.
• Những áp lực bất thường đối với Ban Giám đốc, đối với kế toán
trưởng, nhất là những hoàn cảnh thúc đẩy họ phải trình bày báo cáo tài chính không
trung thực. Chằng hạn, doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn về mặt tài
chính và cần kêu gọi thêm vốn góp của các cổ đông để bổ sung vốn thì doanh nghiệp
13
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
rất dễ gian lận trong việc khai các chỉ tiêu tài chính để làm bức tranh tài chính của

doanh nghiệp sáng sủa hơn như ghi nhận những khoản doanh thu, thu nhập khi thực
tế chưa xảy ra, hoặc không ghi nhận những khoản chi phí …Hoặc tình huống kế toán
trưởng phải trình bày báo cáo tài chính theo ý của Ban giám đốc chứ không phản ánh
thực tế tình hình tài chính của doanh nghiệp.
• Đặc điểm hoạt động của đơn vị như: Quy trình công nghệ, cơ cấu
vốn, các đơn vị phụ thuộc, phạm vi địa lý, hoạt động theo mùa vụ. Chẳng hạn,
một doanh nghiệp nếu có quy trình công nghệ lạc hậu thì hàng hóa sản xuất ra rất
có khả năng bị lỗi thời và khó tiêu thụ trên thị trường, có thể ảnh hưởng tới giá trị
thuần của hàng tồn kho được trình bày trên báo cáo tài chính; một doanh nghiệp
có cơ cấu phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn vay cũng có khả năng có rủi ro
tiềm tàng trong việc trình bày các chỉ tiêu liên quan tới khả năng thanh toán. Một
doanh nghiệp có nhiều đơn vị phụ thuộc sẽ làm tăng khả năng sai sót ở khâu tổng
hợp. Hay một đơn vị có quy mô lớn có khả năng sai sót nhiều hơn một đơn vị có
quy mô nhỏ hơn...
• Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động của đơn vị như: các
biến động về kinh tế, cạnh tranh, sự thay đổi về thị trường mua, thị trường bán và
sự thay đổi của hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị. Các yếu
tố thay đổi này thường dẫn đến sự biến động về doanh thu và chi phí của đơn vị.
Do đó để đảm bảo mức lợi nhuận không bị giảm sút mạnh, các doanh nghiệp
thường có xu hướng gian lận trên các báo cáo tài chính. Hơn nữa sự thay đổi của
hệ thống kế toán đối với lĩnh vực hoạt động của đơn vị cũng có khả năng dẫn đến
sai sót trong việc lập báo cáo tài chính do đơn vị chưa kịp thích nghi và đáp ứng
các yêu cầu mới.
• Hợp đồng kiểm toán lần đầu và hợp đồng kiểm toán dài hạn. Trong
các hợp đồng kiểm toán lần đầu, kiểm toán viên thường thiếu hiểu biết và kinh
nghiệm về các sai sót của đơn vị khách hàng nên họ thường đánh giá rủi ro tiềm
14
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A
Đề án môn học kiểm toán GVHD: Th.s Tạ Thu Trang
tàng cao hơn so với hợp đồng kiểm toán những lần sau.

 Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ
Đánh giá rủi ro tiềm tàng trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ
phụ thuộc vào các yếu tố: Mức rủi ro tiềm tàng đã đánh giá đối với toàn bộ báo
cáo tài chính, tính chất của khoản mục, các nhân tố tác động tới rủi ro tiềm tàng
trên số dư tài khoản và loại nghiệp vụ trên cơ sở hiểu biết của kiểm toán viên,
bao gồm các nhân tố sau:
• Bản chất kinh doanh của khách hàng: Rủi ro tiềm tàng bị tăng lên
bởi những đặc thù của ngành nghề kinh doanh mà nó có thể tạo nên những khó
khăn cho kiểm toán do tồn tại những khoản không chắc chắn hoặc khả năng tồn
tại một cách tiềm tàng những gian lận hoặc sai sót trên báo cáo tài chính. Chẳng
hạn, khách hàng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng thường có nhiều rủi ro
trong việc quản lý tiền mặt và các phương tiện thanh toán, do đó việc kiểm toán
vốn bằng tiền sẽ khó khăn hơn các doanh nghiệp sản xuất thông thường; Hoặc
đối với các đơn vị kinh doanh thương mại thì việc kiểm toán doanh thu sẽ gặp
nhiều khó khăn hơn ...
• Kết quả các lần kiểm toán trước. Đối với tài khoản được phát hiện
có sai phạm trong các lần kiểm toán của năm trước, rủi ro tiềm tàng được xác
định ở mức cao. Lý do là nhiều loại sai phạm có tính chất hệ thống và các đơn vị
thường chưa kịp tiến hành các biện pháp sửa chữa nên sai phạm đã xảy ra trong
năm trước vẫn có thể tiếp tục xảy ra trong năm sau.
• Các nghiệp vụ kinh tế không thường xuyên, đặc biệt là các nghiệp
vụ phức tạp đòi hỏi ý kiến chuyên gia như mất trộm, kiện tụng hoặc các nghiệp
vụ phức tạp gần thời điểm kết thúc niên độ. Các nghiệp vụ này có khả năng được
vào sổ sai nhiều hơn là các nghiệp vụ diễn ra hàng ngày do đơn vị thiếu kinh
nghiệm trong hạch toán các loại nghiệp vụ đó. Do đó rủi ro tiềm tàng đối với các
tài khoản chứa nghiệp vụ này thường được đánh giá cao.
15
Đỗ Dương Tùng Kiểm toán 47A

×