Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Đề tài nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư trên địa bàn tỉnh Yên Bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (386.33 KB, 67 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt
được những thành tựu to lớn: trong thời kỳ 1991-1995 kinh tế tăng trưởng với
tốc độ nhanh bình quân 8,2% một năm. Do kinh tế phát triển đời sống của
nhân dân đã đủ ăn và bước đầu có tích luỹ, số hộ nghèo giảm xuống.
Kinh tế thị trường, đã làm phảt sinh sự phân hóa giàu nghèo trong dân
cư. "Tình trạng phân hóa giàu nghèo, chênh lệch về mức sống giữa thành thị
và nông thôn, giữa các vùng nông thôn với nhau, giữa hộ giầu và hộ nghèo
trong từng cộng đồng đang diễn ra khá rộng. Chúng ta thừa nhận tình trạng
phát triển khơng đều đó, nhưng bản chất chế độ của chúng ta khơng cho phép
để nó diễn ra tự phát và khoảng cách giữa giầu và nghèo ngày càng lớn, tạo
nên sự đối lập giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội" [13 ; 5].
"Nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, một trong những nước nghèo nhất
thế giới, lại bị thiên tai thường xuyên và hậu quả nặng nề của chiến tranh kéo
dài nên tình trạng nghèo đói nặng nề của nhân dân là khó tránh khỏi. Đại bộ
phận số hộ nghèo đói tập trung ở nơng thơn miền núi, vùng sâu, vùng xa ... Sự
phân tầng thu nhập, phân hóa giàu nghèo những năm qua diễn ra nhanh chóng
và mức độ chênh lệch lớn" [19 ; 117].
Do đó nhiệm vụ cải thiện nâng cao đời sống của dân cư xóa đói giảm
nghèo là nhiệm vụ vừa cấp thiết vừa lâu dài đối với tất cả các cấp, các ngành,
các địa phương. Đời sống của dân cư gắn bó chặt chẽ với thu nhập và tiêu
dùng của họ. Thu nhập là yếu tố quyết định tiêu dùng, quyết định mức sống
và mức độ tích luỹ tài sản. Tiêu dùng của dân cư cũng tác động rất rõ đến thu
nhập của họ.
Do đó nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư, đề ra các giải pháp
1


để cải thiện đời sống nhân dân, thu hẹp sự phân hóa giàu nghèo, đảm bảo
cơng bằng xã hội có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết.


Đối với tỉnh Yên Bái là tỉnh miền núi còn nghèo nàn lạc hậu, cơng cuộc
xóa đói giảm nghèo lại càng trở nên cấp thiết cả trước mắt và lâu d.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
1/ Khẳng định sự cần thiết và tác dụng của việc phân tích thu nhập và
tiêu dùng của dân cư trong giai đoạn đổi mới hiện nay.
2/ Xác định cơ sở lý luận và thực tiễn của việc nghiên cứu thống kê thu
nhập và tiêu cùng của dân cư.
3/ Lựa chọn phương pháp tiên tiến sử dụng nguồn số liệu ở địa phương
tính tốn các chỉ tiêu phản ánh thực trạng thu thập và tiêu dùng của dân cư
Yên Bái, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm ổn định và nâng cao đời
sống, tăng thu nhập và tiêu dùng, xóa đói giảm nghèo trong dân cư.
4/ Cách thu thập thông tin về thu nhập, tiêu dùng của dân cư.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Đề giải quyết các vấn đề đã nêu ra, đề tài sử dụng một số biện phương
pháp thống kê truyền thống (số tương đối, số bình quân, các chỉ tiêu đo độ
biến thiên, chỉ số, phân tổ ...) và một số phương pháp thống kê hiện đại
(đường cong Loremz, hệ số Gini, hệ số Elteto - Frigyes v.v...).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án:
Đề tài nghiên cứu thu nhập và tiêu dùng của dân cư trên địa bàn tỉnh Yên Bái.
5. Những đóng góp của luận án:
- Nghiên cứu hoàn thiện các khái niệm, phạm trù liên quan đến thu nhập
và tiêu dùng của dân cư.
- Nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thu nhập và tiêu dùng
của dân cư.
- Nghiên cứu mối quan hệ thu nhập - tiêu dùng và tích luỹ trong dân cư.
- Các giải pháp xóa đói giảm nghèo, các kiến nghị về nghiệp vụ thống kê
2


trong phân tích thu nhập - tiêu dùng của dân cư.

6. Kết cấu của luận án:
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thu thập và tiêu dùng của dân
cư.
Chương 2: Hệ thống chỉ tiêu thống kê và phương pháp phân tích thu
nhập và tiêu dùng của dân cư.
Chương 3: Vận dụng một số phương pháp thống kê để phân tích thu
nhập và tiêu dùng của dân cư tỉnh Yên Bái thời kỳ 19911996.

3


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THU NHẬP
VÀ TIÊU DÙNG CỦA DÂN CƯ
1.1. QUAN ĐIỂM VỀ THU NHẬP CỦA DÂN CƯ.

Thu nhập của dân cư là chỉ tiêu tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh và hoạt động trợ cấp của Nhà nước trợ giúp của xã
hội mà dân cư (hộ) nhận được trong một thời gian nhất định (thường là 1
tháng hoặc 1 năm). Mức sống của dân cư cao hay thấp, sự phân hóa giàu
nghèo, chênh lệch giữa hộ giầu và hộ nghèo phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó yếu tố quan trọng nhất là mức thu nhập của dân cư (từng hộ, từng lao
động, hoặc từng nhân khẩu). Thu nhập là yếu tố quyết định đến quy mô và cơ
cấu tiêu dùng - Thu nhập là yếu tố quyết định đến quy mô và cơ cấu tiêu dùng
- Để đánh giá và phân tích thu nhập của dân cư, chúng ta cần xem xét một số
khái niệm sau.
1.1.1. Tổng thu của dân cư:
Tổng thu của dân cư là biểu hiện bằng tiền của các kết quả hoạt động sản

xuất kinh doanh các ngành nghề, dịch vụ, do lao động của họ đem lại. Và các
khoản thu từ Nhà nước, từ các tổ chức kinh tế xã hội, mà dân cư nhận được
trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một tháng hoặc một năm).
Tổng thu của dân cư bao gồm các khoản sau đây:
- Thu do hoạt động sản xuất kinh doanh ngành nghề, dịch vụ.
- Thu về tiền công tiền lương.
- Thu về hoạt động tài chính lãi gửi tiền tiết kiệm, lãi mua cổ phiếu, trái
phiếu, tín phiếu ...
- Thu do cho thuê tài sản.
- Thu do nhận được các khoản tài trợ, phụ cấp từ Nhà nước (hưu trí, trợ
cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động, học bổng, trợ cấp gia
4


đình chính sách) trợ giúp của dự án ...
- Thu do nhận được các khoản trợ giúp của các tổ chức xã hội (chữ thập
đỏ, các tổ chức ttừ thiện ...), được tặng, biếu ...
Chỉ tiêu tổng thu nhưu xem xét trên đây trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh chính là tổng giá trị sản xuất (GO), bao gồm cả chi phí sản xuất, thuế
và các chi phí khác. Tổng thu của dân cư là chỉ tiêu cơ bản đầu tiên làm cơ sở
để tính tổng thu nhập của dân cư.
(Như vậy có các khoản thu của dân cư ngồi những khoản trên đây
khơng được tính vào tổng thu của dân cư, thí dụ: khoản vay ngân hàng, thu do
bán tài sản, thu do rút tiềt kiệm, thu do đòi được nợ ...).
1.1.2. Tổng thu nhập của dân cư:
Tổng thu nhập của dân cư là phần còn lại sau khi lấy tổng thu của dân cư
trừ đi tổng chi phí sản xuất, kinh doanh.
Tổng chi phí vật chất và dịch vụ
=
sử dụng cho hoạt động sản xuất

kinh doanh của dân cư
Trong tổng thu nhập của toàn thể dân cư phần thu nhập do sản xuất kinh

Tổng thu nhập
của dân cư

Tổng thu
của dân cư

doanh đem lại thường chiếm phần lớn nhất. Vì thế có thể coi chỉ tiêu tổng thu
nhập tổng thu nhập của dân cư là một trong những chỉ tiêu tổng hợp đánh giá
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, bởi nó khơng chỉ phụ thuộc vào tổng
thu của dân cư mà cịn phụ thuộc vào chi phí sản xuất kinh doanh. Xét trường
hợp đơn giản nhất, nếu tổng thu của dân cư là cố định, chi phí sản xuất càng
thấp thì tổng thu nhập của dân cư càng cao và ngược lại chi phí sản xuất càng
cao thì tổng thu nhập của dân cư càng thấp.
Tổng thu nhập của dân cư càng cao phản ánh sản xuất kinh doanh của
dân cư phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Tổng thu nhập của dân cư
phản ảnh hoạt động sản xuất kinh doanh bị đình đốn thua lỗ.
Như vậy, tổng thu nhập của dân cư là chỉ tiêu có ý nghĩa lớn khi nghiên
5


cứu kinh tế dân cư.
1.1.3. Thu nhập cuối cùng của dân cư (thu nhập danh nghĩa).
Thu nhập cuối cùng của dân cư là chỉ tiêu tổng hợp biểu hiện bằng tiền
của tổng thu sau khi trừ đi chi phí sản xuất, trừ đi các khoản nộp vào quỹ
phân phối lại và cộng các khoản nhận được từ phân phối lại.
Trước khi đem tổng thu nhập ra chi dùng dân cư cịn phải thanh tốn các
khoản thuế (trực thu) mua bảo hiểm và các khoản đóng gói khác (đồn thể

phí, đóng gói xã hội ...) mà người dân thực hiện theo nghĩa vụ. Họ cũng nhận
được các khoản phân phối lại (như bồi thường bảo hiểm).
Thu nhập cuối cùng của dân cư là kết quả của quá trình phân phối và
phân phối lại GDP, nói cách khác thu nhập cuối cùng của dân cư tương ứng
với giá trị những của cải vật chất mà dân cư đã tiêu dùng và tích luỹ.
Thu nhập cuối cùng của dân cư cho phép đánh giá các khoản thu mà dân
cư được sử dụng (thu nhập khả dụng) cho các nhu cầu của họ. Song việc sử
dụng thu nhập cuối cùng của dân cư còn chịu ảnh hưởng
của biến động giá cả. Việc loại trừ ảnh hưởng của giá cả đến thu nhập
cuối cùng của dân cư dẫn đến chỉ tiêu thu nhập thực tế của dân cư.
1.1.4. Thu nhập thực tế của dân cư:
Thu nhập cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thup cuối cùng của dân cư không phản ánh chính xác mức thui cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu khơng phản ánh chính xác mức thun ánh chính xác mức thuc thu
nhập cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thup của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu nếu khơng tính đến ảnh hưởng biến động của giá cảu khơng tính đếu khơng tính đến ảnh hưởng biến động của giá cản ản ánh chính xác mức thunh hư khơng phản ánh chính xác mức thuởng biến động của giá cảng biếu khơng tính đến ảnh hưởng biến động của giá cản động của giá cảng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua giá cản ánh chính xác mức thu
h ng hóa v dịch vụ (sức mua của đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khácch vụ (sức mua của đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khác (sức thuc mua của dân cư không phản ánh chính xác mức thua đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khácng tiền) bởi vì giữa các vùng khácn) bởng biến động của giá cải vì giữa các vùng kháca các vùng khác
nhau, giữa các vùng kháca các thời kỳ khác nhau, sức mua của đồng tiền là khác nhau. Vìi kỳ khác nhau, sức mua của đồng tiền là khác nhau. Vì khác nhau, sức thuc mua của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khácng tiền) bởi vì giữa các vùng khácn l khác nhau. Vì
vập cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thuy thu nhập cuối cùng của dân cư không phản ánh chính xác mức thup cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thui cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu cần phải tính theo giá so sánh. Thun phản ánh chính xác mức thui tính theo giá so sánh. Thu
nhập cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thup cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thui cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu sau khi loại trừ ảnh hưởng giá tiêu dùng đượci trừ ảnh hưởng giá tiêu dùng được ản ánh chính xác mức thunh hư khơng phản ánh chính xác mức thuởng biến động của giá cảng giá tiêu dùng đư khơng phản ánh chính xác mức thuợcc
gọi là thu nhập thực tế của dân cư.i l thu nhập cuối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thup thực tế của dân cư.c tếu khơng tính đến ảnh hưởng biến động của giá cả của dân cư không phản ánh chính xác mức thua dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu.
Thu thập thực tế
của dân cư
1 

 I sm 


CPI 

=
=


Thu thập cuối cùng
chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Thu nhập cuối cùng x Ism

(Ism : chỉ số sức mua)
6

(1)
(1')


Thu nhập thực tế của dân cư cho phép chúng ta so sánh phân tích biến
động của thu nhập của dân cư một địa phương qua các thời kỳ khác nhau,
giữa các địa phương khác nhau trong cùng một thời kỳ và trong các thời kỳ
khác nhau.
1.2. QUAN ĐIỂM VỀ BÌNH ĐẲNG TRONG THU NHẬP.

Thu nhập được hình thành trong quá trình phân phối, chịu sự tác động
của hai yếu tố là kết quả sản xuất và phương thức phân phối thu nhập. Kết
quả sản xuất quyết định khối lượng thu nhập nhiều hay ít. Phương thức phân
phối thu nhập quyết định việc phân chia thu nhập cho từng ngành kinh tế,
từng địa phương, từng cá nhân như thế nào. Phương thức phân phối phụ thuộc
vào chính sách kinh tế, bản chất xã hội.
Thu nhập được phân phối bình đẳng, tức là những người có cống hiến
như nhau được nhận thu nhập như nhau, những người có cống hiến khác nhau
được nhận thu nhập khác nhau.
Phân phối thu nhập bình quân là phân phối thu nhập cho những người có
cống hiến khác nhau nhưng lại nhận được thu nhập như nhau. Rõ ràng bình
đẳng và bình qn là hồn tồn khác nhau.
Cống hiến trong cả hai trường hợp được hiểu là cống hiến cho sản xuất,

tức là sự đóng góp về số lượng, chất lượng lao động, về phương tiện sản xuất
và về vốn.
Nếu chỉ xét thuần tuý phân phối thu nhập theo lao động thì vấn đề bình
đẳng trong phân phối thu nhập được đặt ra theo hai góc độ sau đây: bình đẳng
theo chiều dọc và bình đẳng theo chiều ngang.
1.2.1. Bình đẳng theo chiều dọc:
Bình đẳng theo chiều dọc có nghĩa là với trình độ chun mơn khác
nhau, chức năng và nhiệm vụ khác nhau, phải có mức thu nhập khác nhau.
Bình đẳng theo chiều dọc là đòi hỏi tất yếu khách quan, đặc biệt trong
nền kinh tế thị trường. Công bằng theo chiều dọc nếu được thực hiện tốt sẽ
7


kích thích mọi người nâng cao trình độ, nâng cao tay nghề, nâng cao kỹ năng
sản xuất, là động lực khuyến khích sản xuất phát triển. Sự vi phạm bình đẳng
theo chiều dọc sẽ có tác dụng ngược lại, kìm hãm sự vươn lên của từng người.
1.2.2. Bình đẳng theo chiều ngang:
Có nghĩa là những người có trình độ tay nghề như nhau, cùng bỏ ra
cường độ lao động như nhau, cùng làm một cơng việc địi hỏi trình độ kỹ
thuật như nhau, dù làm trong lĩnh vực nào cũng phải có thu nhập như nhau.
Bảo đảm bình đẳng theo chiều ngang là điều kiện để sử dụng lao động
một cách ổn định. Nếu bình đẳng theo chiều ngang bị vi phạm, thì nơi có thu
nhập cao sẽ thu hút số lao động tập trung rất lớn, gây khó khăn cho các mặt
liên quan của đời sống xã hội. Ngược lại nơi có thu nhập thấp sẽ rất thiếu
nhân lực (cả về số lượng và chất lượng) cho các nhu cầu sử dụng lao động ở
mức bình đẳng.
Kết hợp một cách hài hịa bảo đảm cả hai mặt bình đẳng theo chiều dọc
và bình đẳng theo chiều ngang là yếu tố cơ bản bảo đảm bình đẳng trong phân
phối thu nhập, là nhân tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế, ổn định xã hội.
Trong thực tế, việc bảo đảm bình đẳng trong phân phối thu nhập (theo

lao động) được thể hiện qua các chính sách về thuế, tiền lương, trợ cấp, phụ
cấp cho các vùng khó khăn, xa xơi, hẻo lánh và các ngành nghề được ưu đãi.
1.3. QUAN ĐIỂM VỀ TIÊU DÙNG CỦA DÂN CƯ.

Mức sống của dân cư khơng chỉ chịu sự chi phối có tính quyết định của thu
nhập của họ mà còn phải được thể hiện ở mức tiêu dùng cho đời sống của họ.
Theo nghĩa rộng tiêu dùng là sử dụng các sản phẩm vật chất và dịch vụ
vào quá trình sản xuất, hoặc vào đời sống hàng ngày của từng hộ gia đình và
chung cho toàn xã hội.
Theo SNA (hệ thống tài khoản quốc gia) tiêu dùng của dân cư là tiêu
dùng cuối cùng, các sản phẩm vật chất và dịch vụ dùng vào tiêu dùng sẽ tiêu
phí đi trong q trình sử dụng ("mất đi" trong quá trình sử dụng). Cũng theo
8


SNA, tiêu dùng cho sản xuất là tiêu dùng trung gian, các sản phẩm vật chất và
dịch vụ không "mất đi" mà được chuyển vào các sản phẩm dịch vụ được sản
xuất ra. Về thực chất, tiêu dùng trung gian là chi phí sản xuất, là đối tượng
nghiên cứu của quản trị kinh doanh.
Xét từ góc độ tài chính, tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình dân cư là
khoản chi tiền mua hàng hóa dịch vụ để tiêu dùng, trong tiền mua hàng hóa
dịch vụ đó có cả thuế doanh thu trả gộp (thuế gián thu). Tiêu dùng cuối cùng
của dân cư còn bao gồm giá trị những sản phẩm và dịch vụ dân cư tự sản xuất
và tiêu dùng (thí dụ nơng sản thóc lúa, vải, thịt lợn, trâu, bò v.v...) kể cả dịch
vụ nhà ở, mà nhà ở đó đang thuộc sở hữu của dân cư và giá trị quy ra tiền
những hàng hóa dịch vụ được cấp, được cho (không phải trả tiền).
Tiêu dùng cuối cùng không bao gồm thuế thu nhập, các loại thuế trực thu
khác, các khoản đóng góp, các khoản chuyển nhượng vốn.
Tiêu dùng của dân cư xét dưới hình thái vật chất, là việc dân cư sử dụng
những sản phẩm và dịch vụ cho nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại, học tập, chữa bệnh,

giải trí, các dịch vụ cần thiết khác cho đời sống vật chất và văn hóa thường ngày.
Trong thống kê kinh tế, tiêu dùng của dân cư là biểu hiện tổng hợp bằng
tiền, của các vật phẩm vật chất và dịch vụ mà dân cư tiêu dùng cho đời sống
hàng ngày (có thể thống kê được). Như thế, chỉ các vật phẩm và dịch vụ đem
chi dùng cho đời sống dân cư có thể tính được bằng tiền mới được nghiên cứu
dưới góc độ kinh tế, cịn các vật phẩm hoặc dịch vụ khơng thể tính được bằng
tiền không thuộc phạm vi nghiên cứu.
Xét về nguồn của tiêu dùng của dân cư, chúng được thanh toán (chi trả)
bằng hai nguồn: một là của bản thân dân cư tự trang trải bằng thu nhập của
mình (phần này chiếm gần như hầu hết trong tiêu dùng) và hai là của Nhà
nước hoặc các tổ chức, cá nhân tài trợ, dân cư không phải trả tiền.
Chúng ta nghiên cứu thêm hai vấn đề sau đây:
- Một là: tiêu dùng của dân cư chỉ trình cho những sản phẩm, dịch vụ
9


thực sự được chi dùng, không bao gồm phần bị mất mát, hao hụt (do thiên tai
lũ lụt, hỏa hoạn ...) và chi pháp luật cấm, ma tuý, mại dâm ...
- Hai là: tiêu dùng của dân cư và chi tiêu của dân cư là hai chỉ tiêu khá
gần gũi với nhau nhưng không thể đồng nhất. Hai chỉ tiêu này giống nhau ở
chỗ chúng đều là những khoản chi của dân cư (bằng tiền và hiện vật quy tiền).
Chỗ khác nhau của chúng là ở phạm vi. Tiêu dùng của dân cư chỉ bao gồm
những khoản chi cho nhu cầu đời sống vật chất và văn hóa. Cịn chi tiêu của
dân cư ngoài các khoản chi cho tiêu dùng cho đời sống cịn có rất nhiều khoản
chi khác như chi cho sản xuất, cho vay mượn, để dành (giữ tiết kiệm) v.v...
Ngồi ra có những khoản dân cư khơng phải chi tiêu nhưng lại được tính vào
tiêu dùng, đó là khoản dân cư được cấp, được cho để tiêu dùng mà không phải
trả tiền.
Tiêu dùng của dân cư gồm các khoản sau:
- Chi tiền mặt để mua hàng hóa và dịch vụ cho đời sống hàng ngày.

- Chi dùng các sản phẩm, dịch vụ tự sản xuất, kể cả tiêu dùng nhà ở của
dân cư đang sở hữu.
- Giá trị những vật phẩm, dịch vụ mà dân cư được tài trợ, được cho
(không phải trả tiền) dùng cho đời sống.
Trong 4 giai đoạn của quá trình sản xuất: sản xuất - phân phối - trao đổi tiêu dùng, tiêu dùng là khâu cuối cùng nhưng lại giữ vị trí hết sức quan trọng.
Tiêu dùng và sản xuất là hai mặt đối lập của một thể thống nhất. Tiêu dùng là
mục đích của sản xuất. Tiêu dùng làm cho quá trình sản xuất diễn ra thơng
suốt, liên tục khơng ngừng, và chính tiêu dùng nêu lên các yêu cầu, đề ra các
nhu cầu để sản xuất phát triển. Vai trò của tiêu dùng do đó khơng phải là thụ
động mà là tích cực. Đối với từng cá nhân, thì để có tiêu dùng với số lượng
nhiều hơn; với chất lượng tốt hơn, có mức tiêu dùng cao hơn thì phải có thu
nhập cao hơn, nhiều hơn mức cũ. Động cơ mong muốn nâng cao thu nhập
kích thích cá nhân nâng cao trình độ, năng lực, tay nghề, kỹ năng sản xuất
10


kinh doanh v.v..., do đó làm cho chất lượng đội ngũ lao động xã hội được
nâng lên.
Tiêu dùng của dân cư trong một thời kỳ ngắn có tính ổn định tương đối,
song xét trong một thời kỳ dài, nó ln biến động, thường có xu hướng tăng
lên. Sự vận động theo hướng tăng lên của tiêu dùng là sự vận động cùng chiều
với sự tăng lên của lực lượng sản xuất. Giới hạn của sự vận động của tiêu
dùng của dân cư được quy định một cách khách quan bởi trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.
Tiêu dùng cho đời sống của dân cư thực chất là quá trình tái sản xuất sức
lao động cho bản thân người lao động, cho gia đình họ, bao gồm cả quá trình
đào tạo kỹ năng lao động cho thế hệ kế tiếp. Tiêu dùng củ dân cư cho đời
sống trên ý nghĩa đó là sự tiếp tục khơng ngừng của chu trình sản xuất xã hội.
1.4. QUAN ĐIỂM VỀ GIÀU NGHÈO.


Vấn đề giàu nghèo luôn gắn trực tiếp với việc nghiên cứu thu nhập và
tiêu dùng của dân cư, bởi vì biểu hiện của giàu nghèo là ở mức độ cao thấp
của thu nhập và tiêu dùng của dân cư.
Giàu nghèo là vấn đề được quan tâm khá nhiều ở các quốc gia khác
nhau, dù là nước lạc hậu, kém phát triển kinh tế đến những nước siêu cường
về kinh tế; tất nhiên là với mức độ quan tâm không giống nhau.
1.4.1. Khái niệm về giàu nghèo.
Giàu nghèo là khái niệm tương đối, biểu hiện mối tương quan về thu
nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong từng thời gian và khơng
gian cụ thể.
Thế nào là nghèo và có thể định ra được ranh giới để xác định được một
hộ ở tình trạng nghèo hay khơng nghèo hay khơng ? Trong những năm 60 và
gần đây, ESCAP cho rằng có nghèo khổ tuyệt đối và nghèo khổ tương đối.
1.4.2. Theo ESCAP, nghèo khổ tuyệt đối có nghĩa là thu nhập thực tế
của hộ không đảm bảo đủ cho hộ được hưởng những cái mà xã hội cho phép
11


họ được hưởng ở mức tối thiểu để duy trì được tái sản xuất sức lao động như
ăn uống, học tập, ở, vui chơi giải trí, chữa bệnh v.v... Nghèo đói tuyệt đối cịn
bao gồm các hiện tượng như suy dinh dưỡng, thiếu ăn hoặc chết đói, hoặc
phải lao động cực nhọc.
Nghèo khổ tuyệt đối như vậy gắn liền với mức tiêu dùng của dân cư.
Việc đo lường nghèo đói tuyệt đối là việc làm hết sức phức tạp, để xác định
ranh giới nghèo khổ tuyệt đối phải lấy một mức tiêu dùng cơ bản tối thiểu làm
chuẩn so sánh, nếu tiêu dùng của hộ dân cư nào từ chuẩn đó trở xuống là
thuộc loại nghèo khổ, mức tiêu dùng ở trên mức chuẩn đó là khơng thuộc loại
nghèo khổ.
Trong thời gian gần đây, một số nước ở châu Á lấy mức tiêu dùng cơ bản
tối thiểu là khẩu phần ăn duy trì của một người trong 1ngày làm chuẩn ranh

giới, như Bakixtan lấy mức 2.100 colo, Ấn Độ lấy mức 2.2500 calo v.v... Ở
Việt Nam, năm 1993 trong cuộc điều tra giàu nghèo, Tổng cục Thống kê sử
dụng mức nghèo khổ là: 2.100 calo. Trong thực tế, việc điều tra về mức tiêu
dùng tối thiếu đó được quy về thu thập, và như vậy mức nghèo khổ được sử
dụng thực tế là: mức thu thập đảm bảo mua được một lượng lương thực, thực
phẩm đủ khẩu phần ăn duy trì với lượng calo tiêu dùng một người 1 ngày là
2.100 ca lo. [16 ; 132].
Mức nghèo khổ là số tuyệt đối nên khi nền kinh tế tăng trưởng khá thu
nhập của dân cư tăng lên, số hộ nghèo khổ tuyệt đối có thể giảm xuống rất
nhiều khi nền kinh tế tăng trưởng cao và liên tục, thu nhập của dân cư tăng
lên cao, có thể khơng cịn hộ nghèo khổ tuyệt đối.
1.4.3. Nghèo khổ tương đối:
Nghèo khổ tương đối thể hiện ở sự bất bình đẳng trong thu nhập. Thu
nhập của người nghèo khổ tương đối là thấp hơn mức thu nhập trung bình
trong cộng đồng.
Sự chênh lệch về thu nhập của các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế thị
12


trường là một tất yếu. Ngay cả khi đến giai đoạn kinh tế phát triển cao, ổn
định thì sự chênh lệch về thu nhập của dân cư không thể tự tiêu biến đi, mà
chỉ có thể là khoảng biên độ chênh lệch được thu hẹp lại. Tuy nhiên số người
có thu nhập dưới mức trung bình trong cộng đồng thì ln tồn tại, cũng tức là
nghèo khổ tương đối cịn tồn tại trong một thời kỳ rất dài nữa của lịch sử.
Đối lập với nghèo khổ là giàu có. Các hộ dân cư giàu có là những hộ có
thu nhập ở mức cao, ổn định, có mức tiêu dùng cao, và có tích luỹ.
Chúng tơi cũng tán thành ý kiến của một số tác giả là giàu có nên hiểu
theo hai khái niệm tương tự như nghèo khổ: đó là giàu có tuyệt đối và giàu có
tương đối.
1.4.4. Giàu có tuyệt đối là hiện tượng một bộ phận dân cư có thu nhập

rất cao, ổn định, có mức tiêu dùng cao, đồng thời có tích luỹ lớn bằng tiền và
tài sản. Ranh giới mức thu nhập rất cao có thể lấy mức thu nhập của người
phải nộp thuế thu nhập thường xuyên ở nước ta hiện nay (theo Luật thuế thu
nhập) là 2 triệu đồng/ tháng làm ranh giới.
1.4.5. Cũng tương tự như nghèo khổ tương đối, giàu có tương đối thể
hiện ở thu nhập của người giàu có tương đối, giàu có tương đối thể hiện ở
mức thu nhập của người giàu cao hơn mức thu nhập trung bình trong cộng
đồng.
1.5. QUAN HỆ GIỮA THU NHẬP VỚI TIÊU DÙNG, TÍCH LUỸ VỚI
TIÊU DÙNG.

Giữa thu nhập và tiêu dùng, tiêu dùng và tích luỹ có mối quan hệ tác
động qua lại lẫn nhau, vận dụng xử lý tốt các mối quan hệ này là một yếu tố
tác động mạnh mẽ đến việc nâng cao mức sống dân cư.
1.5.1. Trong quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng của dân cư, thu
nhập giữ vai trị quyết định chi phí tiêu dùng.
Mức tiêu dùng cao hay thấp do mức thu nhập quy định một cách
khách quan, người ta không thể thường xuyên tiêu dùng vượt quá mức thu
13


nhập được.
Số lượng, chất lượng sản phẩm tiêu dùng, cơ cấu chủng loại của sản
phẩm tiêu dùng của dân cư tuỳ thuộc mức thu nhập cao hay thấp của hộ dân
cư. Nếu thu nhập ở mức thấp (từ đường ranh giới nghèo trở xuống) sản phẩm
tiêu dùng chỉ có thể là lương thực thực phẩm để duy trì đời sống. Nếu mức
thu nhập cao hơn (từ đường ranh giới nghèo trở lên) thì ngồi nhu cầu tốt cần
thiết là ăn, nhu cầu mặc mới có thể từng bước được đáp ứng. Sau khi thu nhập
vượt qua việc đáp ứng nhu cầu mặc, các nhu cầu khác như nhà ở, chăm sóc
sức khoẻ, học tập, vui chơi giải trí ... dần dần được đáp ứng.

Nếu như thu nhập giữ vai trò quyết định đối với tiêu dùng thì ngược lại
tiêu dùng cũng có tác dụng mạnh mẽ đến thu nhập. Tiêu dùng của dân cư về
thực chất là tái sản xuất sức lao động, nếu sức lao động được tái sản xuất có
số lượng và chất lượng kém sẽ kéo theo thu nhập giảm sút, còn nếu sức lao
động được tái sản xuất có số lượng và chất lượng cao sẽ tác động mạnh mẽ
tới sự thúc đẩy tăng thu nhập của dân cư.
Các hộ nghèo khổ, mức tiêu dùng chỉ đảm bảo được khẩu phần ăn duy
trì, biểu hiện của tình trạng đó là suy dinh dưỡng, sức khoẻ yếu, học vấn
thấp kém, kỹ năng lao động, kinh nghiệm sản xuất hầu như khơng có, họ
chỉ có thể làm được những việc đơn giản với thu nhập thấp. Đó là vòng
luẩn quẩn sau đây:
SƠ ĐỒ 1

Thu nhập thấp
kém

Tiêu dùng thấp

Năng suất
Nghề
nghiệp
độngmức
thấp
đơnăn
giản
Vượt qua được
tiêu dùng thấp kém, nhu cầu
uống chăm sóc sức
khoẻ được thỏa mãn tương đối đầy đủ (ăn đủ no, mặc đủ ấm, ốm đau có thuốc
men, có nhà ở) thể lực được nâng lên. Cùng với thể lực được nâng lên, việc

14


học tập (học vấn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh ...) và đào tạo kỹ năng
nghề nghiệp đem lại trình độ lao động hơn hẳn lao động giản đơn ở mức tinh
thông nghề nghiệp, tay nghề cao, kỹ năng kỹ xảo điêu luyện, có khả năng
sáng tạo. Với sức lao động có trình độ như vậy, là đảm bảo cho một thu
nhập cao.
Vì vậy để phá vỡ, thốt khỏi vịng luẩn quẩn nêu trên, cần phải tạo một
đột phá về thu nhập, về tiêu dùng cho các hộ nghèo để họ có thể tự vươn lên
vượt ra khỏi vịng luẩn quẩn bế tắc của nghèo khổ. Việc tạo ra đột phá đó có
thể tự bản thân người nghèo khổ vươn lên, song phần lớn cần có sự trợ giúp
một cách có tổ chức của Nhà nước và cộng đồng xã hội dân cư.
1.5.2. Tiêu dùng và tích luỹ:
Thu nhập của dân cư được chi dùng cho hai mục tiêu chủ yếu là tiêu
dùng va tích luỹ. Tiêu dùng của dân cư có xu hướng khơng ngừng nâng cao
do nhu cầu đời sống luôn theo sát sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng
để có thu nhập cao hơn thì phải phát triển sản xuất, do đó cần phải tăng đầu tư
cho sản xuất. Nguồn để tăng đầu tư cho sản xuất chủ yếu là từ tích luỹ. Nếu
phần tiêu dùng nhiều lên thì tích luỹ ít đi, nếu thu nhập và tiêu dùng bằng
nhau thì khơng có tích luỹ, nếu tiêu dùng ít đi thì tích luỹ nhiều lên. Như vậy
quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ là quan hệ phụ thuộc ngược chiều nhau.
Bởi vì để sống, người ta phải không ngừng tiêu dùng, nên trong quan hệ này,
tiêu dùng có vai trị lớn trong việc phân phối thu nhập thành tích luỹ và tiêu
dùng.

15


Chương 2

HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ VÀ PHƯƠNG PHÁP
PHÂN TÍCH THU NHẬP TIÊU DÙNG CỦA DÂN CƯ
2.1. Sự cần thiết xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thu nhập và
tiêu dùng của dân cư.
Thu nhập và tiêu dùng của dân cư luôn biến động theo sự phát triển của
lực lượng sản xuất, theo thời gian và không gian, liên quan phụ thuộc nhiều
yếu tố, có ảnh hưởng qua lại với nhiều vấn đề kinh tế, xã hội khác nhau, là kết
quả của các chính sách kinh tế, xã hội của Đảng, Nhà nước. Để nghiên cứu
thu nhập và tiêu dùng của dân cư nhất thiết phải xây dựng và hoàn thiện từng
bước hệ thống chỉ tiêu thống kê để đo lường, tính tốn và phân tích chúng.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê được xây dựng phải đảm bảo có tính hệ
thống, đồng bộ (có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau để trở thành một chính
thể) và tính tốn việc (đầy đủ) để thơng tin cần thiết cho yêu cầu lãnh đạo và
quản lý của các cấp, các ngành.
2.1.1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê thu nhập và
tiêu dùng của dân cư.
Để xây dựng các chỉ tiêu thống kê thu nhập và tiêu dùng của dân cư có
tính hệ thống và tính tồn diện cần dựa vào các căn cứ và các yêu cầu sau:
2.1.1.1. Những căn cứ xây dựng hệ thống chỉ tiêu:
- Hệ thống chỉ tiêu thơng kê phải có nội dung phù hợp với các khái niệm
về thu nhập và tiêu dùng của dân cư tức là phải xuất phát từ lý luận về thu
nhập và tiêu dùng của dân cư và từ các mối quan hệ chủ yếu của chúng.
- Phải đảm bảo tính khả thi: hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo có thể thu
thập tính tốn được trong điều kiện hiện tại về tài chính, nhân lực và hồn
thiện từng bước khi điều kiện tài chính và nhân lực cho phép có thể đáp ứng
tốt hơn.
16


- Hệ thống chỉ tiêu được xây dựng phải chú ý đến tính chất và đặc điểm

của thu nhập và tiêu dùng, đó là tính chất phức tạp về mặt xã hội của chúng
(khái niệm có tính tương đối, xã hội có nhiều tầng lớp dân cư, thu thập số liệu
khó khăn ...) và các đặc điểm của chúng như: luôn gắn liền với các vấn đề
biến động giá cả, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ...
- Hệ thống chỉ tiêu phải xuất phát từ mục đích nghiên cứu là đánh giá
thực trạng và các quan hệ của thu nhập tiêu dùng của dân cư.
2.1.1.2. Những yêu cầu trong xây dựng hệ thống chỉ tiêu.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thu nhập và tiêu dùng của dân cư phải đảm
bảo các yêu cầu sau đây:
- Phải đảm bảo sự thống nhất về nội dung, về phương pháp tính tốn và
phạm vi tính tốn. Đây là u cầu cơ bản nhằm làm cho các chỉ tiêu là đồng
nhất theo khơng gian, theo thời gian khác nhau. Bởi vì chỉ một trong ba mặt
trên bị vi phạm, các chỉ tiêu được xây dựng sẽ không đảm bảo dược sự đồng
nhất của chúng.
- Đảm bảo tính so sánh được của các chỉ tiêu trong hệ thống, yêu cầu của
tính so sánh là yêu cầu tất yếu của việc phân tích nói chung và nghiên cứu
phân tích thống kê nói riêng. Yêu cầu đảm bảo tính so sánh được chính là
bước tiếp theo của yêu cầu đảm bảo sự thống nhất về nội dung, phương pháp
và phạm vi tính tốn.
Nếu các chỉ tiêu trong hệ thống khơng đảm bảo tính so sánh được thì
việc nghiên cứu phân tích chung là khơng thể thực hiện được.
2.2. HỆ THỐNG CHỈ TIÊU THỐNG KÊ THU NHẬP VÀ TIÊU DÙNG.

2.2.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê về thu nhập.
Từ các khái niệm về thu nhập của dân cư đã nghiên cứu: tổng thu nhập
thuần tuý, thu nhập cuối cùng, thu nhập thực tế của dân cư và qua khảo sát
thực tế thu thập thông tin về thu nhập và tiêu dùng của dân cư hiện nay chủ
yếu là điều tra chọn mẫu các hộ dân cư, xuất phát từ đặc điểm của thu nhập
17



của dân cư: đó là thành quả hoạt động kinh tế của dân cư sau một thời kỳ nhất
định (mùa vụ tỏng nông nghiệp, chu kỳ sản xuất công nghiệp, thủ công
nghiệp, lĩnh lương tháng ...) nên các chỉ tiêu về thu nhập là chỉ tiêu thời kỳ.
Để đảm bảo tính đồng nhất, các chỉ tiêu và dân cư cũng phải là chỉ tiêu thời
kỳ (dân số bình quân, số hộ bình qn...). Phạm vi tính tốn các chỉ tiêu thu
nhập về lãnh thổ (vùng, tỉnh, huyện...) phải đảm bảo thống nhất cho cả chỉ
tiêu thu nhập và chỉ tiêu về dân cư.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê về thu nhập có các nhóm chỉ tiêu sau đây:
- Nhóm chỉ tiêu về quy mơ thu nhập.
- Nhóm chỉ tiêu về thu nhập bình qn.
- Nhóm chỉ tiêu về kết cấu thu nhập.
2.2.1.1. Nhóm các chỉ tiêu về quy mơ thu nhập:
Quy mô thu nhập của tổng thể dân cư được phản ảnh bằng các chỉ tiêu:
- Tổng thu của dân cư.
- Tổng thu nhập của dân cư.
- Thu nhập cuối cùng của dân cư.
- Thu nhập thực tế của dân cư.
Bốn chỉ tiêu này tuỳ theo mục đích nghiên cứu có thể phân theo lãnh thổ
và tời kỳ khác nhau.
2.2.1.2. Các chỉ tiêu thu nhập bình quân:
Các chỉ tiêu về thu nhập bình quân là loại số tương đối cường độ biểu hiện
hai loại chỉ tiêu thống kê các loại nhưng có quan hệ với nhau. Việc kết hợp quy
mơ thu nhập, của tổng thể dân cư với chỉ tiêu về số lượng dân cư bình qn.
Cơng thức chung là:
Chỉ tiêu thu nhập
bình quân

=


Chỉ tiêu về thu nhập
Chỉ tiêu về dân cư bình quân

(2)

Chỉ tiêu về số lượng dân cư lấy theo ba tiêu thức chính là: hộ, nhân khẩu
và lao động. Nhóm chỉ tiêu việc thu nhập bình qn như sơ đồ số 2 sau đây:
18


SƠ ĐỒ 2 ĐỒ 2 2
C.tiêu T. nhập
CT SL D. cư BQ
Số dân bình quân

 NK
 

Số hộ bình quân H

 

Số lao động bình quân LD

Tổng thu

Tổng thu

Thu nhập cuối


T. nhập thực

(TT)

nhập

cùng (TNCC)

tế (TNTT)

TT
NK

(TTN)
TT N
NK

T NCC

T NTT

NK

NK

TT
H
TT
LD


TT N
H
TT
LD

T NCC
H
T NCC
LD

T NTT
H
T NTT
LD

Chỉ tiêu thu nhập bình quân theo nhân khẩu phản ảnh thu nhập để đảm
bảo tiêu dùng cho dân cư không phụ thuộc quy mô hộ.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân hộ phản ảnh mức thu nhập đảm bảo tiêu
dùng của hộ.
Chỉ tiêu thu nhập bình quân lao động phản ảnh một lao động làm ra được
bao nhiêu thu nhập
2.2.1.3. Nhóm chỉ tiêu về kết cấu thu nhập:
Chỉ tiêu kết cấu thu nhập là loại số tương đối kết cấu biểu hiện quan hệ
so sánh giữa mức độ của từng bộ phận của tổng thể thu nhập với tổng thu
nhập của dân cư.
Công thức thuc chung l :
Cơ cấu (kết cấu
thu nhập

=


Thu nhập của bộ phận A
Tổng thu nhập của dân cư

(3)

Tổng thu nhập là bất biến (xét trong một khoảng thời gian 1 tháng, 1
năm). Thu nhập bộ phân A là khả biến, nó phụ thuộc vào cách phân loại: phân
theo ngành kinh tế quốc dân, phân theo nguồn thu nhập (tiền lương, tiền công,
sản xuất kinh doanh ...).
Nhóm chỉ tiêu này có: tiêu n y có:
19


1. Tỷ lệ thu nhập của
dân cư theo ngành KT i

=

Thu nhập của ngành i
Thu nhập của dân cư

2. Tỷ lệ thu nhập của
dân cư theo nguồn thu nhập j

=

Thu nhập của nguồn j
Thu nhập của dân cư


Trong các chỉ tiêu trên, thu nhập có thể được tính bằng tổng thu, tổng thu
nhập, thu nhập cuối cùng và thu nhập thực tế.
Trong nhóm này có thể kết hợp với việc phân tích thu nhập theo ngành
kinh tế và nguồn thu nhập để tính thu nhập bình qn theo ngành và và nguồn
thu nhập như ở nhóm (2.2.1.2) đã xây dựng, chú ý rằng phạm vi là theo ngành
và nguồn thu nhập.
2.2.2. Hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh tiêu dùng của dân cư:
Cũng như các chỉ tiêu về thu nhập của dân cư, các chỉ tiêu về tiêu dùng
của dân cư là chỉ tiêu thời kỳ, vì vậy các vấn đề cần chú ý đối với hệ thống
chỉ tiêu thu nhập đều được áp dụng cho hệ thống chỉ tiêu dùng (đặc điểm, thời
kỳ, phạm vi và phương pháp tính tốn).
Tuy nhiên tiêu dùng có đặc điểm riêng là có một số sản phẩm tiêu dùng
thiết yếu có tính thống nhất chung như lương thực, thực phẩm, điện v.v... cho
nên có thể dùng chỉ tiêu hiện vật để đo lường, so sánh.
Hệ thống chỉ tiêu thống kê phản ánh tiêu dùng có hai nhóm sau đây:
2.3.2.1. Nhóm chỉ tiêu về giá trị:
Chỉ tiêu về giá trị phản ánh tổng quỹ tiêu dùng của dân cư, mức tiêu
dùng bình quân của hộ dân cư, của nhân khẩu và kết cấu (cơ cấu) của tiêu
dùng:
Nhóm này gồm có các chỉ tiêu:
1/ T ng quỹ tiêu dùng của dân cư: là tổng hợp giá trị bằng tiền tiền tiêu dùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thua dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu: l t ng hợcp giá trịch vụ (sức mua của đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khác bằng tiền tiềnng tiền) bởi vì giữa các vùng khácn tiền) bởi vì giữa các vùng khácn
các vập cuối cùng của dân cư không phản ánh chính xác mức thut phẩm và dịch vụ dân cư dùng cho đời sống (kể cả phần dân cưm v dịch vụ (sức mua của đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khácch vụ (sức mua của đồng tiền) bởi vì giữa các vùng khác dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu dùng cho đời kỳ khác nhau, sức mua của đồng tiền là khác nhau. Vìi sối cùng của dân cư khơng phản ánh chính xác mức thung (kể cả phần dân cư cản ánh chính xác mức thu phần phải tính theo giá so sánh. Thun dân cư khơng phản ánh chính xác mức thu
đư khơng phản ánh chính xác mức thuợcc hư khơng phản ánh chính xác mức thuởng biến động của giá cảng khơng phản ánh chính xác mức thui trản ánh chính xác mức thu tiền) bởi vì giữa các vùng khácn).
2. Tiêu dùng bình quân
=
một hộ

Tổng quỹ tiêu dùng của dân cư
Số hộ bình quân
20




×