Tải bản đầy đủ (.docx) (120 trang)

THỰC TRẠNG TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG VÀ NHỮNG RÀO CẢN ĐỐI VỚI VIỆC TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI SAU CAI NGHIỆN MA TUÝ TỪ GÓC NHÌN CÔNG TÁC XÃ HỘI (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP PHƯỜNG BÃI CHÁY THÀNH PHỐ HẠ LONG TỈNH QUẢNG NINH)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (655.68 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------

LÊ MINH NGỌC

THỰC TRẠNG TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG VÀ NHỮNG
RÀO CẢN ĐỐI VỚI VIỆC TÁI HOÀ NHẬP CỘNG ĐỒNG CỦA NGƯỜI
SAU CAI NGHIỆN MA TUÝ TỪ GÓC NHÌN CÔNG TÁC XÃ HỘI
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP PHƯỜNG BÃI CHÁY - THÀNH PHỐ HẠ
LONG - TỈNH QUẢNG NINH)
Chuyên ngành Công tác xã hội
Mã số: 60 90 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.NGUYỄN TUẤN ANH

Hà Nội – 2016

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả và số liệu trong
luận văn “Thực trạng tái hoà nhập cộng đồng và những rào cản đối với việc tái
hoà nhập cộng đồng của người sau cai nghiện ma tuý từ góc nhìn công tác xã
hội (nghiên cứu trường hợp phường Bãi Cháy - thành phố Hạ Long - tỉnh
Quảng Ninh)” là trung thực, chính xác, đảm bảo tính khách quan khoa học, xuất
phát từ tình hình thực tế của phạm vi nghiên cứu và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các đoạn trích dẫn


và số liệu sử dụng trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ chính xác cao nhất
trong phạm vi hiểu biết của tác giả. Tác giả nhận thức được tầm quan trọng của
những thông tin thu nhận được. Bởi vậy, tác giả cam đoan không sử dụng tên thật,
thông tin cá nhân của thân chủ trong báo cáo, những thông tin sử dụng trong nghiên
cứu đã được sự cho phép của các bên liên quan.
Quảng Ninh, ngày 22 tháng 3 năm 2016
Tác giả luận văn
Lê Minh Ngọc

LỜI CẢM ƠN
Trước hết với tình cảm và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin cảm ơn các thầy, cô
giáo khoa Xã hội học; Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn đã tận tình
giúp đỡ trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp.


Đặc biệt, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn và lòng biết ơn chân thành đến
PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh người trực tiếp hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này
và những sự giúp đỡ, động viên to lớn cũng như sự chỉ dạy tận tình của thầy.
Tôi xin được cảm ơn các thầy cô và các chuyên viên phòng đào tạo sau đại
học và các thầy cô khoa xã hội học đã tạo điều kiện thuận lợi nhất trong quá trình
học tập và hoàn thiện nghiên cứu của mình.
Đồng thời, xin cảm ơn đến cơ quan, đoàn thể tại địa phương nghiên cứu cũng
như gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ, giúp đỡ trong quá trình học tập,
nghiên cứu.
Mặc dù đã rất cố gắng nghiên cứu hoàn thành luận văn, nhưng cũng không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được góp ý của các thầy cô và các
chuyên gia.
Tôi xin chân thành cảm ơn!



MỤC LỤC

4


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Nội dung

CLB

Câu lạc bộ

CTXH

Công tác xã hội

KT – XH

Kinh tế - Xã hội

LĐ-TB&XH

Lao động Thương binh và Xã hội.

GDLĐXH.

Giáo dục lao động xã hội


NVXH

Nhân viên xã hội

NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

NXB

Nhà xuất bản

TLHXH

Tâm lý học xã hội

TS

Tiến s

WHO

Tổ chức Y tế thế giới

PGS.TS

Phó giáo sư, Tiến sỹ

PVS


Phỏng vấn sâu

UBND

Ủy ban nhân dân

5


MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Ma túy là một hiểm họa lớn của nhân loại, không một quốc gia, một dân tộc,
một đất nước nào có thể thoát khỏi vòng xoáy của nó. Buôn lậu ma túy, tàng trữ và
sử dụng ma túy gây ra cho nền KT-XH của đất nước, đời sống con người những hậu
quả nghiêm trọng và vô cùng thảm khốc. Tình hình tệ nạn ma túy diễn biến rất phức
tạp, có xu hướng gia tăng về số lượng người nghiện ma túy và các tội phạm ma túy..
Tại diễn đàn Liên Hợp quốc, ngài Boutros Gali – nguyên Tổng thư ký Liên
Hợp Quốc đã đánh giá: “Trong những năm gần đây, tình trang nghiện hút ma túy
đang trở thành hiểm họa lớn của toàn nhân loại. Không một quốc gia, dân tộc nào
thoát khỏi vòng xoáy của nó để tránh khỏi những hậu quả do nghiện hút và buôn
lậu ma túy gây ra. Ma túy đang làm gia tăng tội phạm, bạo lực, tham nhũng, vắt
kiệt nhân lực, tài chính, hủy diệt những tiềm năng quý báu khác mà lẽ ra phải được
huy động cho việc phát triển kinh tế - xã hội, đem lại ấm no, hạnh phúc cho mọi
người. Ma túy đang làm suy thoái nhân cách, phẩm giá, tàn phá cuộc sống yên vui
gia đình, gây xói mòn đạo lý, kinh tế, xã hội,... Nghiêm trọng hơn ma túy còn là tác
nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS phát triển...” [25]
Nguồn tin từ khảo sát của Bộ LĐ-TB&XH cuối năm 2009, gần 70% người
nghiện ma túy ở độ tuổi dưới 30 trong khi năm 1995 tỷ lệ này chỉ khoảng 42%. Hơn
95% người nghiện ma túy ở Việt Nam là nam giới. Tuy nhiên, tỷ lệ người nghiện là
nữ giới cũng đang có xu hướng tăng trong những năm qua, độ tuổi của người

nghiện ma túy cũng có xu hướng trẻ hóa. [21]
Theo thống kê chưa đầy đủ về tình hình sử dụng ma túy bất hợp pháp trên toàn
thế giới năm 2011, có khoảng từ 149 triệu người đến 272 triệu người tức 3,3%6,1% dân số từ độ tuổi 15 - 64 sử dụng ma túy bất hợp pháp ít nhất 1 lần/năm,
khoảng 1/2 số đó là người nghiện thường xuyên, trong khi đó vào những năm 1990
chỉ khoảng từ 15 triệu người- 39 triệu người nghiện. Có khoảng 125 triệu người203 triệu người sử dụng cần sa, tăng 2,8%- 4,5% so với năm 2009. Số người sử
6


dụng cocain chiếm khoảng 0,3%- 0,5% dân số thế giới trong độ tuổi 15- 64 tuổi, tức
là khoảng 14 triệu- 20 triệu người. [4]
Ở Việt Nam, cùng với các biện pháp phòng chống tội phạm buôn bán ma túy,
Nhà nước ta cũng đồng thời quan tâm đến việc tổ chức cai nghiện, giúp cho những
người sa vào còn đường nghiện ma túy có thể cắt cơn, phục hồi sức khỏe, hành vi
và nhân cách để có thể tái hòa nhập cộng đồng. Công tác cai nghiện phục hồi sức
khỏe tuy đạt được một số kết quả nhất định nhưng về cơ bản tính hiệu quả và bền
vững chưa cao, tỉ lệ tái nghiện cao, có những nơi lên tới 80 – 90%. Song song với
đó là trình độ dân trí không cao, thất nghiệp, không có việc làm ổn định cũng là
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nghiện ma túy hiện nay. [8]
Tuy nhiên, trên thực tế kết quả đạt được trong việc thực thi các văn bản chỉ thị
và nghị quyết của Chính phủ cho người cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng
còn nhiều hạn chế. Qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tại địa phương cùng với
việc tham khảo tài liệu liên quan, tác giả nhận thấy rằng: Tỉnh Quảng Ninh là điểm
nóng trong cả nước về người nghiện ma túy và lây nhiễm HIV do tiêm chích ma
túy. Thành phố Hạ Long nằm giữa trung tâm tỉnh Quảng Ninh, có một vị trí địa lý
và kinh tế xã hội đặc biệt quan trọng. Mặt khác, do trên địa bàn có khai thác nuôi
trồng hải sản và kinh doanh các loại hình dịch vụ du lịch và khách sạn, từ đó nảy
sinh nhiều lao động từ khắp nơi kéo đến. Cuộc sống xa gia đình tạm bợ, cộng với
lối sống buông thả ăn chơi xa đọa của những lao động tại địa phương đã sa và con
đường nghiện hút, gây nhiều khó khăn cho công tác quản lý người nghiện ma túy và
sau cai nghiện ma túy. [45]

Ở phường Bãi Cháy - thành phố Hạ Long - tỉnh Quảng Ninh, theo sự tìm hiểu
của tác giả đề tài này tại địa bàn: những người nghiện ma túy sau khi cai nghiện và
trở về địa phương sinh sống có nhận được sự hỗ trợ từ phía chính quyền địa phương
cũng như các trung tâm chăm sóc sức khỏe y tế và các tổ chức có hoạt động trợ giúp
người cai nghiện tái hòa nhập cộng động.
Từ góc nhìn CTXH có thể thấy, đây là những động thái tích cực của Nhà nước
cũng như của chính quyền địa phương để góp phần nâng cao hiệu quả phòng, chống

7


và khắc phục hậu quả của tệ nạn ma túy cũng như đẩy mạnh các hoạt động trợ giúp
cho người sau cai nghiện ma túy trở về địa phương sinh sống.
Tuy nhiên, họ vẫn còn gặp rất nhiều những khó khăn, thách thức khi trở lại địa
phương sinh sống. Mặc dù hiện nay cộng đồng, xã hội đã có cái nhìn bao dung hơn
với những người cai nghiện ma túy muốn làm lại cuộc đời nhưng vẫn không tránh
khỏi những rào cản nhất định về tâm lý và nhận thức. Không có việc làm, không có
nghề nghiệp ổn định, xã hội chối bỏ, gia đình xa lánh, mặc cảm tự ti về chính bản
thân mình, tỉ lệ tái nghiện ma túy cao, sức khỏe yếu... là những khó khăn mà người
nghiện ma túy đang phải đối mặt sau khi tái hòa nhập cộng đồng. [9]
CTXH là một nghề có thể giúp cá nhân và nhóm cải thiện chức năng xã hội
phục vụ và và nâng cao đời sống của người yếu thế. Trong rất nhiều những vai trò
của NVXH trong trợ giúp người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng, như
vai trò là người đánh giá giám sát,vai trò người kết nối, vai trò là người giáo dục,
vai trò tham vấn, vai trò tư vấn thì vai trò đánh giá và phân tích vấn đề là một vai
trò cơ bản và bắt buộc và quyết định trực tiếp đến việc trợ giúp gười sau cai nghiện
tự tin vượt qua những khó khăn, rào cản trong cuộc sống khi trở về tái hòa nhập
cộng đồng. [65]
Từ những lý do được phân tích ở trên và đi sâu vào những nghiên cứu tại địa
bàn nghiên cứu, tác giả quyết định chọn đề tài “Thực trạng tái hòa nhập cộng

đồng và những rào cản đối với việc tái hòa nhập cộng đồng của người sau cai
nghiện ma túy từ góc nhìn công tác xã hội (nghiên cứu trường hợp phường Bãi
Cháy – thành phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh)” là luận văn thạc sĩ chuyên ngành
công tác xã hội. Nhằm mang đến cái nhìn bao quát hơn về những khó khăn mà
người sau cai nghiện ma túy đang gặp phải cùng với đó là những mong muốn, nhu
cầu của họ sau khi quay trở lại với cộng đồng tại địa bàn nghiên cứu.

8


1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1. Nghiên cứu nước ngoài
Các tài liệu nước ngoài tác giả chưa bắt gặp được những nghiên cứu về
hoạt động hỗ cho người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Vì vậy
những nghiên cứu sau đây sẽ là những bước đệm trong việc hỗ trợ người sau cai
nghiện ma túy phòng chống tái nghiện ma túy.
Từ khi phát hiện ra tác dụng kích thích của các loại ma túy tự nhiên cũng như
tổng hợp, số lượng người nghiện ma túy ngày càng tăng. Nó cho thấy việc dùng ma
túy gắn bó chặt chẽ tới cảm giác của con người, tới cuộc sống tâm lý của họ. Đứng
về phương diện xã hội, ma túy đã gây ra những tác hại vô cùng to lớn. Chính vì thế
cuộc chiến chống tệ nạn ma túy đã có từ lâu đời và nhiều thế kỷ. Từ góc độ tâm lý
học các nhà nghiên cứu cũng đề cập đến vấn đề này trên cơ sở các lý thuyết khác
nhau của tâm lý học như phân tâm học, tâm lý học xã hội, nhận thức và hành vi…
Bởi các nghiên cứu rất phong phú trên từng góc độ nhìn khác nhau với những quan
điểm về điều trị khác nhau nên tác giả cố gắng tổng hợp các nghiên cứu theo từng
góc độ nhìn nhận của mỗi lý thuyết theo hệ thống.
Cách tiếp cận tâm lý trị liệu nhận thức: Một trong những chuyên gia hàng
đầu khác trong lĩnh vực tâm lý trị liệu nhận thức ở Mỹ là Callahan R.J [2]. Ông có
cách tiếp cận khác đến vấn đề nghiện. Ông cho rằng nguyên nhân của nghiện ngập
và thôi thúc một số người sử dụng các chất gây nghiện chính là những cảm xúc tiêu

cực mà họ phải trải nghiệm. R.J.Callahan (1997) [2] đã phát hiện ra mối liên hệ
giữa nghiện và lo hãi. Việc phát hiện này đã giúp ông tìm ra một phương pháp chữa
trị cho hầu hết các loại nghiện. Nội dung của phương pháp trị liệu này là tìm cách
vượt qua được sự lo hãi. Ông gọi đó là liệu pháp trường tư duy. Một nghiên cứu
khác của Richardson, Myers, Bing (1997) [7] chỉ ra rằng sự rối loạn tâm trạng, cảm
giác lo âu dự báo khả năng nghiện ma túy nặng. Gần gũi với thuyết nhận thức xã
hội là cách tiếp cận lý thuyết về cái tôi. Nếu như sự nhận thức về cái tôi hiệu quả là
chìa khóa của các nghiên cứu ở trên thì quan điểm của thuyết hiện tượng
9


(phenomenological) mà Rogers là đại diện thì “cái tôi”ở thuyết này còn cần một
loại hiện tượng nữa đi kèm mới dẫn đến hiện tượng nghiện ngập. Đó là những đau
đớn về sự thất bại của cá nhân. Hull J.G, Young R.D. và Jouriles E. (1986) [5] trong
quá trình nghiên cứu ở nhiều đối tượng khác nhau đã thấy có một mối liên hệ chặt
chẽ giữa nghiện, tự nhận thức cao và sự trải nghiệm các thất bại cá nhân. Theo sự
giải thích của cách tiếp cận này thì nhiều cá nhân đã dùng chất gây nghiện để làm
giảm bớt mức độ nhận thức về nỗi đau cũng như những trải nghiệm âm tính trong
cuộc sống của mình. Việc phát hiện mối liên hệ giữa nghiện với tự nhận thức và tần
suất của các thất bại cá nhân mở đường cho việc trị liệu người nghiện ở chính “cái
tôi” của họ để họ có khả năng ứng phó với những khó khăn thất bại xảy ra trong
cuộc sống. Cách tiếp cận hành vi: Theo cách tiếp cận hành vi thì việc sử dụng ma
túy có thể được quan niệm như hành vi giải quyết các vấn đề tạm thời trong việc
thiếu thích nghi trước các nhiệm vụ phát triển, tự lập hóa, hòa nhập vào nhà trường
và xã hội… Nguyên nhân của việc thiếu thích nghi được lý thuyết hành vi xác nhận
là sự thiếu các kỹ năng xã hội, thiếu hụt quá trình làm chủ, loạn chức năng nhận
thức, sự thiếu tự tin. Silvis và Perry (1987) áp dụng cơ chế phản xạ tạo tác của
B.F.Skinner giải thích rằng hành vi nghiện ma túy được củng cố âm tính bằng cách
tránh các tình cảm âm tính và củng cố dương tính bằng cảm giác dễ chịu mà nó tìm
được. O.Brien và các cộng sự (1990) giải thích hiện tượng nghiện ma túy theo cơ

chế phản xạ có điều kiện của Pavlov. Theo thuyết này thì các kích thích thường liên
kết với việc dùng ma túy (sự tổn thương, sự ức chế…) có thể trở thành có điều kiện,
và khi tiếp xúc với những kích thích này thì sẽ gây cảm giác thiếu thuốc. Và quá
trình trị liệu cũng chú ý vào chính điểm này. Sự học tập xã hội bằng cách tiếp xúc
thường xuyên với các giá trị tích cực, sự nghỉ ngơi và trải nghiệm các cảm xúc
dương tính sẽ củng cố các phản xạ có điều kiện mới cho người nghiện. [5]
Cách tiếp cận phân tâm học: Cách tiếp cận này rất được thịnh hành ở
Pháp. Theo thuyết này thì việc dùng ma túy có liên quan tới các xung đột và các rối
nhiễu trong quá trình phát triển. O.F.Kernberg ( 1975 ) cho rằng khi xung đột Edipe
còn tồn tại ở tuổi thanh thiếu niên, thì những người ở lứa tuổi này sẽ tìm kiếm sự
10


giải thoát tội lỗi và các ức chế khác ở việc dùng ma túy [3]. Điều này lý giải tại sao
thanh thiếu niên là lứa tuổi nhạy cảm với ma túy. Người nghiện ma túy phản ánh thể
thức phòng vệ chống lại sự lệ thuộc vào khách thể (ở đây là bà mẹ) của chủ thể và
đe dọa ái kỷ mà nó quy định. Ma túy sẽ là khách thể giả thay thế, tượng trưng cho
bà mẹ thuộc tuổi ấu thơ. Ma túy đã được khách thể hóa và lúc này thanh thiếu niên
khép mình trong mối quan hệ với ma túy. Cách tiếp cận này tập trung vào quá trình
phát triển, đặc biệt là thời thơ ấu của con người và cho rằng những lệch lạc của sự
phát triển sẽ kéo theo những rối nhiễu hành vi. Quá trình trị liệu phân tâm nếu hóa
giải được những xung đột vô thức này của người nghiện thì họ có thể trở nên không
cần phụ thuộc vào ma túy nữa.
Cách tiếp cận nhận thức xã hội: Trong cách tiếp cận này mà A.Bandura là
một đại diện thì theo ông nhận thức về khả năng của mình là khái niệm trung tâm
của sự điều chỉnh hành vi của bản thân [1]. Khái niệm “Cái tôi hiệu quả” (Self –
efficacy) do ông đưa ra được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có
lĩnh vực nghiện. Theo ông “cái tôi hiệu quả” là khả năng thực sự có thể làm một
việc gì đó, là sự đánh giá của con người về khả năng của mình trong việc hoàn
thành các nhiệm vụ phù hợp với các hoàn cảnh khác nhau. Chính cảm giác về cái

tôi không hiệu quả, yếu đuối và bất lực của cá nhân trong cuộc sống làm phá hại
niềm tin vào bản thân của chính họ. Điều đó khiến họ dễ mắc vào mọi sự cám dỗ
trong đó có ma túy. A.Bandura cho rằng cảm giác về “cái tôi hiệu quả” là chìa khóa
trả lời cho sự tái nghiện của những bệnh nhân nghiện rượu và ma túy. Những
chương trình trị liệu làm nhằm tăng tính hiệu quả của cái tôi của ông đã giúp bệnh
nhân vượt qua được nỗi sợ hãi của đau đớn và bất lực cũng như ứng phó một cách
hợp lý hơn với hoàn cảnh. Nhờ đó mà quá trình cai nghiện diễn ra có hiệu quả hơn.
Lối tiếp cận hệ thống quan niệm gia đình như một hệ thống mà việc loạn chức
năng có ảnh hưởng quyết định đến các rối nhiễu tâm lý của các thành viên trong gia
đình. C.Madanes (1981) [6] đã xác nhận rằng trong gia đình người nghiện heroin thì
sự đảo lộn trật tự thứ bậc là một đặc trưng. Một số tác giả theo lối này cũng

11


phát hiện trong gia đình người nghiện ma túy nổi bật lên các hành vi vi phạm công
khai hoặc tiềm ẩn và những lời phê phán về các nguyên tắc và điều cấm của xã hội.
Ma túy và các tệ nạn liên quan đến ma túy không còn bó hẹp ở một phạm vi,
một lãnh thổ mà nó đã trở thành một vấn đề bức xúc mang tính toàn cầu. Bởi hậu
quả mà ma túy mang lại rất nghiêm trọng và ảnh hưởng đến mọi mặt từ kinh tế,
chính trị, văn hóa...Với phương châm phòng chống tệ nạn ma túy từ xa, ở một số
nước đã có nhiều công trình nghiên cứu về tâm lý tiến hành ở tuổi vị thành niên,
trong đó tập trung vào hành vi và thái độ của chúng đối với các chất gây nghiện như
café, thuốc lá và các loại rượu. Viện nghiên cứu y học Mỹ 1994 đã nghiên cứu
những yếu tố bảo vệ trẻ thành niên để chúng không sử dụng Alcohol. Những yếu tố
đó bao gồm khả năng kiểm soát bản thân, trong đó các nghiên cứu về lòng tự trọng
của Rulter(1990); Demo (1995) cho thấy lòng tự trọng liên quan đến sử dụng chất
gây nghiện và ngược lại những trẻ có lòng tự trọng thấp thường xuyên sử dụng chất
gây nghiện.
Nghiên cứu của Brook (1990), Hawkin (1992) ở Mỹ chỉ ra các yếu tố quan hệ

với bạn bè trong xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn với việc sử dụng ma túy và
Alcohol ở trẻ. Nghiên cứu của Kocach và Glichman (1986); Shilter ( 1991)… cho
thấy việc sử dụng chất gây nghiện và gây nghiện của trẻ vị thành niên gắn với các
tri giác của việc sử dụng ma túy ở bạn bè.
Hội nghị Báo cáo về tình hình ma túy trên toàn thế giới do Ủy ban Quốc tế về
phòng chống ma túy của Liên Hợp Quốc (UNODC) phối hợp với văn phòng
thường trực phòng chống ma túy (SODC) tổ chức, đánh giá. Trong suốt 100 năm
trên thế giới đã kiên trì đấu tranh tội phạm liên quan đến ma túy. Kết quả đạt được
có nhiều ấn tượng song ma túy vẫn chưa được loại bỏ tận gốc khỏi đời sống con
người. [41]
2.2. Nghiên cứu trong nước
Việt Nam là một trong những nước rất tích cực trong chiến lược phòng chống
tệ nạn ma túy. Trong đó nổi bật là một số nghiên cứu đã đưa ra những giải pháp
12


nhằm hỗ trợ người sau cai nghiện có việc làm và thu nhập sau cai nghiện. Nhìn một
cách tổng thể thì việc nghiên cứu chuyên biệt về ma túy ở Việt Nam chưa nhiều
bằng các nước khác song cũng có nhiều công trình được công bố trong các cuộc hội
thảo về vấn đề này. Hầu hết, các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta đều
có mục bàn về phòng chống ma túy như một trong những vấn đề cấp bách cần được
giải quyết càng sớm, càng tốt.
Trong thời gian qua đã có nhiều nghiên cứu trong nước về việc trợ giúp người
sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Tùy mỗi mục đích mà có cách tiếp
cận nghiên cứu khác nhau. Song mục tiêu của các nghiên cứu này đều hướng đến
cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn, để có giải pháp, biện pháp trợ giúp người cai
nghiện ma túy tốt hơn, đáp ứng đòi hỏi của quá trình tái hòa nhập cộng đồng cho
người sau cai nghiện ma túy.
Ta có thể điểm qua những báo cáo, đề tài nghiên cứu khoa học sau đây:
Qua phương pháp nghiên cứu tài liệu “Các giải pháp tạo việc làm cho người

nghiện ma túy, người mại dâm sau khi được chữa trị phục hồi” do Nguyễn Văn
Minh năm 2001 làm chủ nhiệm. [25] Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc
làm, đời sống người nghiện ma túy, người bán dâm. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng
nhiều khả năng tái nghiện của người nghiện ma túy sau cai do không có việc làm,
mặc dù nghị lực của đối tượng là yếu tố quyết định, sự quan tâm của gia đình là yếu
tố quan trọng giúp đối tượng từ bỏ tệ nạn xã hội. Do vậy, các đề xuất của tác giả
hướng tới hoàn thiện hệ thống các giải pháp tạo việc làm cho đối tượng nhằm giúp
họ ổn định cuộc sống, giảm tỉ lệ tái nghiện và các tệ nạn xã hội.
“Nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cai nghiện ma
túy và sau cai” 02 – X07 của tiến sĩ Nguyễn Thành Công, Hà Nội, 2003. [26] Đề tài
đã chỉ rõ một số thực trạng và nguyên nhân nghiện ma tuý, phân tích các biện pháp
cai nghiện. Đồng thời đề tài nghiên cứu và nêu ra những hạn chế, tồn tại của công
tác quản lý cai nghiện và quản lý sau cai, những bất cập trong các quy định của văn
bản pháp luật về cai nghiện và quản lý sau cai từ đó đề xuất giải pháp khắc phục.
13


Tuy nhiên, đề tài chưa đề cập tới thực trạng nghiện ma tuý của một nhóm đối tượng
cụ thể nào, chưa có các giải pháp phòng ngừa mà chỉ tập trung vào nhóm giải pháp
giải quyết hậu quả của việc nghiện ma tuý.
Trong một công trình nghiên cứu công phu của nhiều tác giả do tác giả Phạm
Xuân Hiên và Hồ Bá Thâm đồng chủ biên “Tâm lý học giáo dục nhân cách người
cai nghiện ma túy từ thực tế thành phố Hồ Chí Minh” xuất bản năm 2004 [27] đề
cập đến nguyên nhân, đặc điểm tâm lý, công tác giáo dục nhân cách, đạo đức xã hội
dành cho những người liên quan đến nghiện ma túy. Các tác giả cho rằng, người
nghiện là người rối loạn tâm lý, không àm chủ được hành vi của mình; từ việc
không làm chủ được hành vi của bản thân dẫn đến việc hành động theo ham muốn
bản năng dẫn đến các hành vi lệch chuẩn xã hội, khủng khoảng nhân cách, tha hóa –
nổi loạn nhân cách và việc cai nghiện phục hồi nhân cách, sửa đổi và phát triển
nhân cách người nghiện thành công hay không phụ thuộc vào thái độ, tình thương

và trách nhiệm của gia đình, cộng đồng, xã hội và chính bản thân người nghiện. Do
vậy, công tác điều chỉnh tâm lý giáo dục phục hồi nhân cách cho người cai nghiện
và những giải pháp giúp người sau cai nghiện ma túy trở về với gia đình, cộng đồng
được thực hiện bằng biện pháp tâm lý.
Theo nghiên cứu “Những giải pháp chủ yếu quản lý, dạy nghề cho người sau
cai nghiện ma túy trong chương trình ba năm ở các trường, trung tâm tại Thành
phố Hồ Chí Minh” 2004-2005 [28] do Viện nghiên cứu xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện. Đề tài nghiên cứu nhằm đưa ra những giải pháp thực tiễn để đáp
ứng nhiệm vụ quản lý và dạy nghề cho người sau cai nghiện ma túy thuộc đề án
“Tổ chức quản lý dạy nghề và giải quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma
túy” do Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thông qua Nghị quyết
16/2003/NQ-QH11 “Về việc thực hiện thí điểm tổ chức quản lý, dạy nghề và giải
quyết việc làm cho người sau cai nghiện ma túy ở Thành phố Hồ Chí Minh và một
số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương”. [28] Nghiên cứu được thực hiện đã giải
quyết được vấn đề giúp những người sau khi kết thúc cắt cơn nghiện 2 năm, chữa
bệnh, cai nghiện và phục hồi sức khỏe, người cai nghiện được phân loại chuyển
14


sang giai đoạn hậu cai đó là đường học văn hóa, học nghề và từng bước đưa những
người sau cai nghiện ma túy có đủ điều kiện tối thiểu và làm việc tại các khu công
nghiệp đặc biệt do thành phố xây dựng. Kết quả nghiên cứu đã được triển khai, áp
dụng trong thực tiễn giúp hàng ngàn người từng bước tái hòa nhập cộng động một
cách bền vững. Để đạt được thành công trên, một trong những giải pháp tác giả nêu
ra trong quá tình tái hòa nhập cộng đồng cho người sau cai nghiện ma túy là cần
phải có sự tham gia quản lý của công an khu vực, chính quyền xã phường, thị trấn
và các đoàn thể, ban điều hành khu phố. Trong đó, tác giả khẳng định vai trò của gia
đình và cộng đồng là không thể thiếu trong quá trình phòng chống ma túy và phải
tạo ra môi trường sống hòa thuận, đoàn kết, dân chủ và quan tâm tới nhau giữa các
thành viên trong gia đình, cơ quan, xí nghiệp, trường học, khu phố, xóm ấp.

Ngoài ra, năm 2005, tác giả Phan Thị Mai Hương với nghiên cứu “Thanh niên
nghiện ma túy nhân cách và hoàn cảnh xã hội” [29] đã đưa ra cách tiếp cận mới về
thanh niên nghiện ma túy - từ góc độ của tâm lý học. Tác giả đã phân tích, hệ thống
hóa những lý luận và đặc điểm nhân cách, hoàn cảnh xã hội và sự ảnh hưởng của
chúng trong việc nghiên cứu hành vi của người nghiện ma túy cũng như quan điểm
về việc giải quyết chúng trong thực tiễn. Kết quả nghiên cứu chỉ ra một số đặc điểm
nhân cách và hoàn cảnh xã hội nổi trội của thanh niên nghiện ma túy, mối quan hệ
giữa các đặc điểm với hành vi nghiện. Trong đó, vai trò gia đình được tác giả tìm
hiểu ở khía cạnh môi trường gia đình gắn với vị thế kinh tế - xã hội có ảnh hướng
đến đặc điểm nhân cách và mức độ nghiện của thanh niên nghiện ma túy, cách quản
lý của cha mẹ với con. Trên cơ sở đó, việc ngăn ngừa hành vi nghiện ma túy và việc
cai nghiện ma túy ở thanh niên cần phải kết hợp giữa tri thức và biện pháp của tâm
lý học. Kết quả nghiên cứu đã định hướng về giáo dục và ứng xử thích hợp với
người nghiện ma túy, cũng như góp phần ngăn ngừa việc làm dụng ma túy ở thanh
thiếu niên.
Năm 2007, nghiên cứu “Những giải pháp thực hiện việc ngăn chặn tệ nạn mại
dâm, ma túy trong thanh thiếu niên” do tác giả Đỗ Thị Bích Điểm làm chủ nhiệm.
[30] Đề tài đánh giá được cơ bản thực trạng nghiện ma tuý trong thanh thiếu niên
15


Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng ngừa cho thực trạng này. Tuy nhiên, đề tài
chưa chia tách được thực trạng nghiện ma tuý trong nhóm thiếu niên và nhóm thanh
niên, do đó đề tài cũng chỉ đề xuất được các giải pháp phòng ngừa chung cho cả
thanh niên và thiếu niên, trong khi đó ở mỗi độ tuổi cần phải có những nhóm giải
pháp phòng ngừa phù hợp. Bên cạnh đó, đề tài chưa đề xuất được nhóm giải pháp
để khắc phục những hậu quả của tình trạng nghiện ma tuý trong thanh thiếu niên.
Năm 2008, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Thành phố Hà Nội với
Đề tài khoa học “Tình hình lạm dụng ma túy trong sinh viên các trường Đại học,
Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp - Một số biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn”.

[31] Đề tài đã triển khai khảo sát tình trạng lạm dụng ma tuý trong sinh viên ở một
số trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trên địa bàn thành phố Hà Nội, kết quả đề
tài đã nhận định thực trạng nghiện hút ma tuý trong sinh viên có nhiều diễn biến
phức tạp, tình trạng lạm dụng các chất gây nghiện ngày càng gia tăng. Đề tài cũng
đã đưa ra một số giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn nhưng các giải pháp chủ yếu tập
trung vào vai trò của nhà trường và tổ chức Đoàn, chưa đề xuất được nhóm giải
pháp có tính chiều sâu như công tác quản lý sinh viên giữa nhà trường, gia đình và
nơi cư trú, tạm trú; chương trình sinh viên tham gia các hoạt động công tác xã hội,
tình nguyện, công tác hướng nghiệp cho sinh viên...
Cùng đối tượng như vậy, năm 2008, Sở Giáo dục và đào tạo Hà Nội với Đề tài
khoa học: “Nghiên cứu các biện pháp giáo dục phòng chống ma túy trong các
trường học”. [32] Đề tài đã chỉ ra được thực trạng của công tác giáo dục trong các
trường trên địa bàn Hà Nội, đặc biệt với các nội dung mang tính giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh. Trong đó nhấn mạnh đến cải cách chương trình học, đưa các nội
dung về phòng, chống ma tuý và chương trình học phổ thông. Đây là một giải pháp
quan trọng nhằm nâng cao nhận thức cho các nhà giáo dục và học sinh, góp phần
phòng ngừa tệ nạn ma tuý xảy ra trong các trường học.
-

Và cuốn sách “Quản lý, dạy nghề và giáo dục phục hồi nhân các cho người sau cai
nghiện”, TS Trần Nhu – TS. Hồ Bá Thâm, NXB Lao động Xã hội, 2008. [19] Trong
cuốn sách đã nêu ra giải pháp quản lý, dạy nghề cho người sau cai nghiện trong
16


chương trình 3 năm ở các trung tâm cai nghiện tại tp Hồ Chí Minh và mô hình, nội
dung, phương pháp giáo dục tại cơ sở sản xuất cho người sau cai nghiện ma túy.
Tuy nhiên trong cuốn sách này chỉ ngiên cứu đến ván đề dạy nghề và giáo dục phục
hồi nhân phẩm cho người sau cai nghiện ma túy ở trong các trung tâm cai nghiện
khi họ chưa quay trở lại địa phương tái hòa nhập cộng đồng.

Một số công trình nghiên cứu về tệ nạn ma túy của các tác giả Ngô Minh Hiến
– “Nghiên cứu về một số động cơ chủ yếu của người phạm tội mua bán các chất ma
túy ở trại giam Z30-Cục V60 Bộ công an”,[33] Tác giả PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm
- “Công trình nghiên cứu nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội ma túy của trẻ vị
thành niên”,[34] Tác giả Thạc sĩ Tiêu Thị Minh Hường - “Thực trạng và thái độ
đối với ma túy của sinh viên trường Đại học Lao động thương binh và Xã hội” [35]
hay đề tài “Tìm hiểu công tác phòng chống ma túy” của tác giả Lê Văn Luyện [36]
… Những đề tài trên nghiên cứu ở góc độ rộng đó là tệ nạn ma túy, nó bao gồm cả
tình trạng nghiện ma túy, tội phạm về ma túy và các hành vi trái phép khác về ma
túy, ít nhiều đã đề cập và đưa ra các giải pháp phòng, chống tệ nạn ma túy nói
chung. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu chỉ đi sâu vào những vấn đề
chung nhất về tệ nạn ma túy, rất ít công trình nghiên cứu dành riêng cho công tác
phòng, chống nghiện ma túy đối với thanh niên, nhất là đề cập đến thực trạng tệ nạn
ma túy và các giải pháp phòng, chống ma tuý ở một địa bàn cụ thể. Ở đề tài này tác
giả chọn lựa, đi sâu nghiên cứu và đề xuất các giải pháp phòng chống tệ nạn nghiện
ma túy đối với thanh niên quận Long Biên, Thành phố Hà Nội là tài liệu tham khảo
cho các cán bộ làm công tác xã hội trong nghiên cứu và hoạt động thực tiễn.
Tác giả Lê Hồng Minh với nghiên cứu “Tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho
thanh niên sau cai nghiện ở Thành phố Hồ Chí Minh” (2010) [37] đã đề cập khá cụ
thể các loại hình tổ chức quản lý giáo dục người nghiện ma túy và sau cai nghiện
ma túy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Các nội dung phương pháp để hoàn
thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện tại cộng đồng. Về
thực tiễn, nghiên cứu đã hệ thống hóa được các loại hình tổ chức, quản lý giáo dục
người nghiện ma túy và sau cai nghiện ma túy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí
17


Minh, đánh giá được thực trạng về cách tổ chức các hoạt động quản lý giáo dục
thanh niên sau cai nghiện ở Thành phố Hồ Chí Minh và chỉ ra các mặt hạn chế để
tìm giải pháp khắc phục, hoàn thiện tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau

cai nghiện tại cộng đồng. Nghiên cứu đã đề xuất được cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt
động của văn phòng tư vấn hướng nghiệp cho người sau cai làm cơ quan đầu mối
cho hoạt động tư vấn hướng nghiệp cho thanh niên sau cai nghiện ở cộng đồng, đề
xuất đổi mới mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của đội tình nguyện, xây
dựng nội dung, chương trình giáo dục chuyển biến nhận thức và hành vi thanh niên
sau cai nghiện ở cộng đồng.
Nhóm tác giả Nguyễn Thanh Hiệp và cộng sự của đề tài “Khảo sát các yếu tố
ảnh hưởng dẫn đến nghiện ma túy lần đầu ở người sau cai nghiện ma túy (tại Trung
tâm giáo dục dạy nghề và giải quyết việc làm Bình Đức và Đức Hạnh)” [46] đã
phân tích đặc điểm, hoàn cảnh xã hội của người nghiện ma túy lần đầu. Theo kết
quả nghiên cứu, các yếu tố ảnh hưởng đến lí do nghiện ma túy lần đầu bao gồm các
yếu tố bản thân, gia đình và bạn bè. Trong đó, tác động của bạn bè có ảnh hưởng
quan trọng đến hành vi sử dụng ma túy của người nghiện. Nếu có thêm các yếu tố
nguy cơ về gia đình và bản thân, người nghiện càng dễ dàng chịu sự tác động của
bạn bè hơn và thúc đẩy họ sử dụng ma túy sớm hơn.
Đề tài “Hoạt động hỗ trợ tạo việc làm cho người sau cai nghiện ma túy.
(Nghiên cứu tại thành phố Hà Nội)” Lê Thị Thanh Huyền, 2014. [38] Đề tài này
được tiến hành với mục đích mô tả thực trạng nhu cầu vay vốn, việc làm của người
sau cai nghiện trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm đưa ra những giải pháp và hoạt
động phù hợp để ổn định cuộc sống cho người sau cai nghiện ma túy. Tuy nhiên, đề
tài này chỉ có phạm vi nghiên cứu trong việc hỗ trợ đào tạo và tìm kiếm việc làm
cho người sau cai nghiện ma túy.
Ngoài ra còn rất nhiều bài viết đăng trên các tạp chí, internet về vấn đề này với
những cách tiếp cận khác nhau...
Trong các tài liệu được nêu trên cũng đã chỉ ra: Người nghiện ma túy là một
nhóm xã hội đặc thù, họ không chỉ yếu về mặt thể chất mà yếu cả về mặt tinh thần.
18


Nhìn chung từ cách tiếp cận và nghiên cứu của các chuyên ngành khác nhau

các công trình trên đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn của công tác
hỗ trợ người sau cai nghiện tái hòa nhập dựa vào cộng đồng ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của các công trình đó có giá trị tham khảo tốt để
thực hiện đề tài luận văn. Với việc vận dụng những kiến thức đã học về CTXH đề
tài sẽ tìm hiểu thực trạng công tác hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập
dựa vào cộng đồng; phân tích, đánh giá những điểm đã làm được và những điểm
chưa làm được thực hiện tại địa phương; đồng thời tìm hiểu những nhu cầu của
người sau cai nghiện, làm rõ vai trò của cán bộ xã hội trong việc hỗ trợ nhóm đối
tượng; từ đó đưa ra những giải pháp theo hướng CTXH nhằm nâng cao hiệu quả
công tác hỗ trợ người sau cai nghiện tại phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh
Quảng Ninh.
Nhìn nhận một cách tổng thể, có thể thấy các nghiên cứu ở trên đã tìm hiểu về
đời sống của người sau cai nghiện ma túy cũng như những vấn đề họ gặp phải trong
cuộc sống, và tiếp cận các dịch vụ trợ giúp họ. Tuy nhiên, các nghiên cứu đó mới
dừng ở một phần nhỏ và đánh giá thực trạng trên một vùng hoặc cả nước, đưa ra các
số liệu và tình hình thực tế; hoặc là tài liệu giảng dạy, lý thuyết chưa thực sự phù
hợp với địa bàn nghiên cứu của đề tài này. Thực tế đang thiếu những nghiên cứu về
các hoạt động trợ giúp cho đối tượng là người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập
cộng đồng, đây chính là cơ sở khoa học cho việc hỗ trợ nghiên cứu đề tài.
Chính vì vậy, cần có nghiên cứu rõ hơn về những khó khăn, rào cản và nhu
cầu của người sau cai nghiện ma túy sau khi trở về tái hoà nhập cộng đồng tại địa
phương sinh sống. Cùng với đó là vai trò, nội dung, phương pháp… CTXH đối với
hoạt động đánh giá, giám sát hoạt động chăm sóc trợ giúp người sau cai nghiện ma
túy sau khi trở về tái hòa nhập cộng đồng. Để từ những kết quả phân tích đánh giá
đó, xác định được những điểm mạnh, phù hợp cũng như những khó khăn, thách
thức và những khoảng trống của mô hình hay hoạt động tại địa bàn nhằm nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho đối tượng nghiên cứu. Thêm vào đó, đúc kết
những bài học kinh nghiệm, những cách làm tốt phục vụ cho quá trình xây dựng và
triển khai chương trình, hoạt động trọ giúp người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập
19



cộng đồng. Cuối cùng là có thể đề xuất, khuyến nghị về mặt chính sách và chương
trình để công tác trợ giúp và phát huy vai trò của người sau cai nghiện ma túy mang
tính toàn diện hơn và bền vững hơn mà vẫn phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế
- xã hội ở nước ta.
Có thể thấy rằng những tài liệu trên đã đề cập đến phần nào công tác hỗ trợ
cho người sau cai nghiện. Bản thân tác giả sau khi nghiên cứu các tài liệu trên cũng
đã cho hiểu được nhiều vấn đề liên quan đến lý luận và thực tiễn rất có giá trị đối
với đề tài của mình. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các vấn đề đã được nghiên cứu
ở các công trình nghiên cứu trên. Kết hợp với những khảo sát thực tế tại địa phương
để từ đó, việc nghiên cứu vấn đề từ góc nhìn CTXH trong việc hỗ trợ người sau cai
nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng nhằm mục đích đi sâu tìm hiểu thực trạng đời
sống của người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng tại địa bàn? Tại đây
người sau cai nghiện ma túy có những thuận lợi hay khó khăn, rào cản gì khi tái hào
nhập cộng đồng? Chính quyền địa phương và các ban, đoàn thể đã có những hoạt
động hỗ trợ gì cho đối tượng sau cai nghiện ma túy khi trở về địa phương sinh sống
và làm việc? Đây là vấn đề mà tác giả muốn đề cập ở đề tài này.
2. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Thực trạng tái hòa nhập cộng đồng và những rào cản đối với việc tái hòa nhập
cộng đồng của người sau cai nghiện ma túy từ góc nhìn công tác xã hội (Nghiên cứu
tại phường Bãi Cháy – thành phố Hạ Long – tỉnh Quảng Ninh).
2.2. Khách thể
Người sau cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng tại phường Bãi Cháy.
Người thân của người sau cai nghiện ma túy tái hào nhập cộng đồng.
Cán bộ làm việc tại UBND phường.
NVXH, nhân viên y tế đang làm việc phường.
Các cơ quan tổ chức hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy tại phường.
3. Phạm vi nghiên cứu.

Phạm vi không gian: phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
20


Phạm vi thời gian: từ T3/2013 đến T9/2015.
Nội dung: NVXH đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu đánh gia quy mô
cơ cấu cũng như đặc điểm, cách thức tái hòa nhâp cộng đồng của người sau cai
nghiện ma túy cùng với đó là các hoạt động can thiệp và trợ giúp người sau cai
nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, tác giả
sẽ tập trung nghiên cứu làm nổi bật vai trò là người tìm hiểu, khám phá cộng đồng,
NVXH đi vào cộng đồng, xác định vấn đề của cộng đồng để đưa ra những theo dõi,
kế hoạch trợ giúp tiếp theo, giới thiệu chuyển giao những dịch vụ cần thiết cho
nhóm đối tượng nghiên cứu trong cộng đồng và vai trò của NVXH trong hoạt động
tìm hiều, đánh giá vấn đề của đối tượng nghiên cứu từ đó đưa ra những kết luận và
khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng đời sống của người sau cai nghiện ma túy
tái hòa nhập cộng đồng.
4. Mục tiêu nghiên cứu
-

Nghiên cứu được thực hiện nhằm tìm hiểu quy mô, cơ cấu và đặc điểm, cách thức
cũng như sự hỗ trợ và các hoạt động trợ giúp cho người sau cai nghiện ma túy tái

-

hòa nhập cộng đồng tại phường Bãi Cháy, thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh.
Tìm hiểu, nhận định, đánh giá những rào cản, khó khăn thực trạng đến từ bản thân,

-

gia đình và cộng đồng đối của người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng.

Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm hiểu và đánh giá những hoạt động trợ giúp mà người
cai nghiện ma túy khi tái hòa nhập cộng đồng đang được hưởng tại địa phương sinh
sống, những mong muốn của họ sau khi trở lại sinh sống tại địa phương những nhu
cầu, và những mong muốn khác của họ ngoài những nhu cầu đã được địa phương

-

đáp ứng.
Cùng với đó, chỉ rõ vai trò của nhân viên CTXH trong việc ứng dụng kỹ năng thực
hành CTXH; CTXH cá nhân, nhóm vào việc tìm hiểu đánh giá những khó khăn
cũng như nhu cầu của người cai nghiện ma túy khi tái hoà nhập cộng đồng.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu

-

Khái quát cơ sở lý luận về người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng từ

-

góc nhìn CTXH.
Đánh giá thực trạng và rào cản của người sau cai nghiện tại cộng đồng sinh sống.
21


-

Kiến nghị tăng cường trợ giúp người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng
tại địa bàn nghiên cứu nói riêng và cả nước nói chung.
6. Câu hỏi nghiên cứu


-

Thực trạng tái hòa nhập cộng đồng của người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập
cộng đồng ở địa bàn nghiên cứu được thể hiện như thế nào? Họ đang gặp phải

-

những khó khăn, rào cản gì khi quay trở lại cộng đồng sau thời gian cai nghiện?
Người sau cai nghiện ma túy đang nhận được sự trợ giúp như thế nào từ chính
quyền địa phương sở tại? Họ đã được cung cấp những hoạt động hỗ trợ gì? Đối

-

tượng nghiên cứu còn có nhu cầu và mong muốn gì khác cần được đáp ứng?
Vai trò của NVXH được thể hiện như thế nào trong hoạt động tìm hiểu, đánh giá và

-

trợ giúp người cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng ở địa phương?
Làm thế nào để nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả hoạt động của đơn vị chủ
quản tại địa phương nghiên cứu?
7. Phương pháp nghiên cứu
Nhằm thu thập các thông tin liên quan đến các chủ đề nghiên cứu, tác giả đã
tiến hành thu thập các tài liệu có liên quan như:

-

7.1. Phương pháp thu thập, nghiên cứu tài liệu
Để có số liệu cụ thể, chính xác về các vấn đề liên quan, nhà nghiên cứu đã tìm hiểu


-

một số tài liệu như:
Các số liệu về số lượng, danh sách người nghiện ma túy đã cai nghiện đang sinh

-

sống tại phường.
Các văn bản pháp luật, chính sách liên quan đến vấn đề hỗ trợ người cai nghiện tái

-

hòa nhập cộng đồng.
Các văn bản pháp luật, chính sách, hoạt động mà địa phương nghiên cứu đã đang và

-

sẽ thực hiện tại địa bàn nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu, sách, báo, tạp chí, các bài đánh giá, bài viết và kỷ yếu
hội thảo của một số tổ chức làm việc về vấn đề người sau cai nghiện ma túy tái hòa

-

nhập cộng đồng.
Các bài viết số liệu, công trình nghiên cứu được đăng trên các tạp chí Xã hội học,
báo Gia đình và Xã hội, các website trực thuộc của Chính phủ, Bộ LĐ-TB&XH,
tỉnh, trong và ngoài nước...
22



-

Từ những tài liệu thu thập, tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng

-

hợp tài liệu…
7.2. Nhóm phương pháp thu thập thông tin khác
7.2.1. Phương pháp phỏng vấn sâu.
Mục tiêu chung của phương pháp phỏng vấn sâu là giúp người làm nghiên cứu hiểu
sâu, hiểu kỹ vai trò của NVCTXH trong hoạt động đánh giá, trợ giúp cho người sau
cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng. Phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc
được sử dụng trong toàn bộ cuộc nghiên cứu. Các hướng dẫn phỏng vấn được xây
dựng chi tiết cho từng đối tượng để đảm bảo thu thập được thông tin đầy đủ phục vụ
cho nghiên cứu. Khảo sát viên được tự do trong cách dẫn dắt cuộc phỏng vấn, cách
đặt trình tự câu hỏi, nhằm thu được những thông tin mong muốn. Khi tiến hành
phỏng vấn, người được hỏi nào am hiểu về vấn đề trong nghiên cứu thì khảo sát
viên tập trung hỏi sâu cá nhân này về vấn đề đó.
Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu với đối tượng là người sau cai nghiện ma
túy và các cán bộ quản lý việc hỗ trợ người cai nghiện của UBND và các đơn vị liên
quan tại địa bàn nghiên cứu để tìm hiểu thực tế việc xây dựng và thực hiện các
chính sách về phòng chống tệ nạn ma túy và hỗ trợ nạn nhân của tệ nạn ma túy tái
hòa nhập cộng đồng và tìm hiểu những thuận lợi khó khăn của thực trạng hoạt động
trợ giúp của các cơ sở hỗ trợ người sau cai nghiện ma túy và các mô hình cung cấp
dịch vụ hoạt động.
Người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng sau quá trình đi cai
nghiện ma túy đã và đang bị ảnh hưởng như thế nào đến đời sống hiện tại, có những
cản trở gì trong quá trình tái hòa nhập cộng đồng. (Nguyên nhân của những khó
khăn đang gặp phải), xác định các nhu cầu chung và riêng của họ, ngoài các dịch vụ
được hỗ trợ tại địa phương, người cai nghiện ma túy có phát sinh những nhu cầu,

hay mong muốn nào khác không được đáp ứng hay không. Từ đó đánh giá, nhận
định về vai trò của NVXH trong công tác trợ giúp người sau cai nghiện ma túy tại
địa bàn.
Cán bộ quản lý các hoạt động cung cấp dịch vụ tại trung tâm y tế phường
nhằm tìm hiểu sâu hơn về nhu cầu, thực trạng của hoạt động tham vấn cho người
sau cai nghiện ma túy.
23


Cán bộ - NVXH đang làm việc với người cai nghiện tái hòa nhập cộng đồng
để tìm hiểu về những nhu cầu của người sau cai nghiện và việc áp dụng các phương
pháp CTXH trong hoạt động hỗ trợ người cai nghiện có hiệu quả như thế nào.
Cơ cấu phỏng vấn sâu: người sau cai nghiện ma túy, lãnh đạo UBND phường
Bãi Cháy, nhân viên trung tâm y tế phường, nhân viên xã hội phòng CTXH.
-

Dung lượng phỏng vấn sâu: 03 bảng hỏi phỏng vấn sâu dành cho cán bộ, 13 bảng
hỏi phỏng vấn sâu dành cho người sau cai nghiện ma túy đang tái hòa nhập cộng
đồng.
7.2.2. Phương pháp thảo luận nhóm
Dành cho nhóm đối tượng sau cai nghiện đang tái hòa nhập cộng đồng để đưa
ra các trao đổi trong nhóm, kiểm soát mức độ chân thực của các thông tin được thu
thập về khó khăn cũng như nhu cầu của bản thân họ và các hoạt động đang được hỗ
trợ đại phương.
Thông tin cần tìm hiểu:

o Những khó khăn, rào cản mà người sau cai nghiện ma túy tái hòa nhập cộng đồng
đang gặp phải;
o Thái độ của người của người sau cai nghiện ma túy với hoạt động chăm sóc, hỗ trợ;
o Phản hồi từ phía người sau cai nghiện ma túy với các hoạt động trợ giúp;

o Tương tác giữa những người đối tượng nghiên cứu với NVXH, nhân viên y tế, cán
bộ tại UBND phường;
o Mong muốn của đối tượng nghiên cứu đối với hoạt động chăm sóc trợ giúp;
o Khuyến nghị, giải pháp của ban lãnh đạo, nhóm nguồn lực cung ứng dịch vụ.
7.2.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp
Theo trang 58 -57, Tạp chí Tâm lý học số 10 (79), 10 – 2005 (Thạc sĩ Nguyễn
Bá Đạt – Trường Đại học KHXH&NV- Đại học QGHN) [53] thì nghiên cứu trường
hợp trong khoa học xã hội không phải là một phương pháp nghiên cứu chuyên biệt.
Đó là một phương pháp có tính ứng dụng cao, nhất là trong nghiên cứu thực địa về
một tổ chức, một thiết chế, một nhóm xã hội, một cộng đồng hoặc một sự kiện, một
quyết định. Robert Yin cho rằng: “Nghiên cứu trường hợp trong khoa học xã hội là
khảo sát, đánh giá một hiện tượng xã hội đang diễn ra trong bối cảnh đời sống thực

24


tế”. Người nghiên cứu có thể sử dụng những phương pháp khảo sát, đánh giá khác
nhau để nghiên cứu.
Để thiết kế một nghiên cứu trường hợp trong khoa học xã hội, đầu tiên người
nghiên cứu phải tạo dựng, phát hiện vấn đề cần nghiên cứu. Một thí dụ minh họa
cho luận điểm này. Sau khi phát hiện ra vấn đề cần nghiên cứu, người nghiên cứu
phải phát triển những giả thuyết nghiên cứu liên quan đến những sự kiện cụ thể sẽ
được khảo sát trong công trình nghiên cứu. Bước tiếp theo, người nghiên cứu phải
thu thập những dữ liệu có liên quan đến những giả thuyết nghiên cứu. Robert Yin
lưu ý rằng đây không phải là công việc dễ dàng. Trong một nghiên cứu thực
nghiệm, đối tượng nghiên cứu được đặt trong mối liên kết giữa giả thuyết với các
dữ liệu, trong nghiên cứu trường hợp một sự kiện đương thời rất khó để chỉ ra
những mối liên kết trên. Khả năng liên kết những dữ liệu đã được thu thập với
những giả thuyết được đặt ra liên quan đến bước cuối cùng trong việc thiết kế một
nghiên cứu trường hợp. Đó là việc đề ra những tiêu chuẩn xác định những kết quả

của một nghiên cứu.
Áp dụng lý thuyết trong nghiên cứu trường hợp, một hiện tượng đang được
nghiên cứu (ở đây là nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới người sau cai nghiện
ma túy tái hòa nhập cộng đồng) không mang tính đại diện cho một mẫu nghiên cứu
nào đó. Cho nên, kết quả nghiên cứu không không thể tạo ra sự khái quát hóa theo
kiểu thống kê. Tuy nhiên, tác giả sử dụng một hoặc một vài nghiên cứu trường hợp
đã được thực hiện và hoàn tất từ trước như là một mẫu để so sánh với những kết
quả của một nghiên cứu trường hợp đang được thực hiện. Sự so sánh như vậy sẽ
tăng cường sức mạnh của việc giải thích trong nghiên cứu. Những tài liệu về
nghiên cứu trường hợp kinh điển giúp cho người nghiên cứu có thể nghiên cứu
những trường hợp ở những môi trường rất khác nhau, tại những thời điểm khác
nhau để tìm thấy những tiến trình tương tự và những cách giải thích tương tự.
8. Ý nghĩa nghiên cứu
8.1. Ý nghĩa khoa học
25


×