Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI SỞ GIAO DỊCH NHCT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.54 KB, 33 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI
SỞ GIAO DỊCH NHCT VIỆT NAM
I-/

VÀI NÉT VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA SỞ GIAO DỊCH NHCTVN

1-/ Khái quát về Ngân hàng Công thương Việt Nam
Sự nghiệp đổi mới nền kinh tế do Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12 1986) khởi xướng, trong đó có chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp, thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Thích ứng với cơ chế kinh tế mới trong lĩnh vực tiền tệ, lưu thơng tiền tệ, tín
dụng và Ngân hàng, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã chỉ rõ "Bên cạnh
nhiệm vụ quản lý lưu thông tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, cần xây dựng hệ
thống ngân hàng chuyên nghiệp kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt
động theo chế độ hạch toán kinh tế..."
Thực hiện chủ trương trên, Hội đồng Bộ trưởng ra Nghị định 53/HĐBT
ngày 26/3/1988 về tổ chức bộ máy ngân hàng Nhà nước Việt Nam phân định rõ
chức năng quản lý Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh
nghiệp ngân hàng. Vì vậy từ 1/7/1988 NHCTVN ra đời và đi vào hoạt động
đánh dấu một bước ngoặt lớn trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của hệ thống
ngân hàng Việt Nam.
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, của toàn ngành ngân hàng, hơn
10 năm xây dựng và trưởng thành, NHCTVN đã khẳng định được vai trò, vị trí
là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam, không ngừng
đổi mới bộ máy tổ chức và mạng lưới kinh doanh, góp phần đắc lực thực hiện
mục tiêu phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, thực thi chính sách tiền tệ,
kiềm chế đẩy lùi lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước. Tính đến
31/12/1998 NHCTVN có đội ngũ cán bộ nhân viên trên 11000 người có mạng
lưới bao gồm: Trụ sở chính và hai Sở giao dịch, 65 chi nhánh phụ thuộc, 25 chi
nhánh trực thuộc, 433 phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm, 86 cửa hàng vàng bạc đặt
tại trung tâm kinh tế và các khu vực công thương nghiệp phát triển trong cả
nước. NHCTVN có quan hệ đại lý với 435 ngân hàng và tổ chức tiền tệ của 40


nước và khu vực trên thế giới. Ngồi ra NHCT cịn có các đơn vị thành viên.
Trung tâm đào tạo nghiệp vụ, trung tâm công nghệ thông tin, công ty cho thuê

1


tài chính, tham gia hai liên doanh với nước ngồi là IWDOVINA BANK và
cơng ty cho th tài chính quốc tế (VILC)
2-/ Những hoạt động cở bản của Sở giao dịch
2.1

Giới thiệu chung.

Sở giao dịch NHCTVN là một chi nhánh ngân hàng thương mại lớn. Trong
những năm từ 1988 đến tháng 7 năm 1993 Sở giao dịch có tên là "Trung tâm
giao dịch NHCT thành phố, từ 1/7/93 trung tâm giao dịch NHCT thành phố giải
thể và đổi thành Sở giao dịch NHCTVN.
Sở giao dịch một mặt có chức năng như một chi nhánh của NHCT thực
hiện đầy đủ các mặt hoạt động như một ngân hàng thương mại, mặt khác có vai
trị quan trọng hơn các chi nhánh khác. Đây là nơi đầu tiên nhận các quyết định
chỉ thị, thực hiện thí điểm các chủ trương chính sách của NHCTVN, đồng thời
được NHCTVN uỷ quyền làm đầu mối cho các chi nhánh phía Bắc trong việc
thu chi ngoại tệ mặt, séc du lịch, visacard, mastercard.
Sở giao dịch là đơn vị hạch tốn phụ thuộc vào NHCTVN, có quyền tự chủ
trong kinh doanh, có con dấu riêng và mở tài khoản tại ngân hàng Nhà nước và
các ngân hàng khác. Trong những năm qua Sở giao dịch đã thực hiện chức năng
nhiệm vụ của mình với tinh thần trách nhiệm cao, năng động, sáng tạo và theo
đúng luật ngân hàng Nhà nước, luật các tổ chức tín dụng, Nghị định của Chính
phủ, các chủ trương chính sách của ngành ngân hàng và của NHCTVN.
Sở giao dịch thường xuyên quan tâm tới việc nâng cao chất lượng kinh

doanh và dịch vụ ngân hàng, đổi mới phong cách làm việc nâng cao chất lượng
phục vụ, xây dựng chính sách khách hàng với phương châm "vì sự thành đạt của
mọi người, mọi nhà và mọi doanh nghiệp ".
Mơ hình tổ chức của Sở giao dịch như sau: Với hơn 200 cán bộ trong đó
40,8% có trình độ Đại học và trên Đại học, còn lại đều qua đào tạo hệ Cao đẳng,
trung học chun ngành ngân hàng. Sở giao dịch có 9 phịng chức năng dưới sự chỉ
đạo điều hành của Ban Giám đốc gồm: Một phó giám đốc và hai phó giám đốc.
- Phòng kinh doanh: Trực tiếp cho khách hàng vay vốn, giám sát và quản lý
việc sử dụng vốn vay.
- Phòng nguồn vốn: Làm nhiệm vụ xây dựng kế hoạch cân đối tổng hợp về
nguồn vốn và sử dụng vốn. Huy động vốn tiết kiệm cũng như các nguồn vốn

2


nhàn rỗi khác. Thực hiện chế độ thông tin, báo cáo tổng hợp, phân tích việc thực
hiện kế hoạch tài chính của Sở giao dịch.
- Phịng kế tốn: Có chức năng hạch toán tất cả các nghiệp vụ thanh toán
bằng VND, lên cân đối tổng hợp của Sở giao dịch.
- Phịng hành chính quản trị: Làm các cơng việc về hành chính, quản trị
như các doanh nghiệp khác.
- Phịng tổ chức cán bộ: Quản lý cán bộ và tiền lương, tham mưu cho ban
lãnh đạo về xét tuyển, đề bạt cán bộ.
- Phòng ngân quỹ: Thực hiện thu chi tiền mặt đối với khách hàng và bản
thân ngân hàng.
- Phòng kiểm soát: Thực hiện kiểm soát nội bộ các nghiệp vụ của Sở giao
dịch.
- Phịng điện tốn: Quản lý dữ liệu, thông tin quản lý, in kết quả kinh
doanh, các mẫu biểu báo cáo của Sở giao dịch.
- Phòng kinh doanh đối ngoại: Thực hiện các nghiệp vụ về thanh toán quốc

tế, kinh doanh ngoại tệ và hạch toán kế toán các nghiệp vụ bằng ngoại tệ. Làm
đầu mối thanh toán séc du lịch visacard, và tiền mặt ngoại tệ cho các chi nhánh
NHCT ở phía Bắc, thực hiện giải ngân một số dự án ODA mà ngân hàng Công
thương được chỉ định thực hiện.
Tất cả các phịng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của một ngân hàng thương mại. Cơ cấu tổ chức được đổi mới theo
hướng gọn nhẹ, hiệu quả, tránh cồng kềnh và chồng chéo. Và Sở giao dịch đang
tiến tới xây dựng một mơ hình ngân hàng thương mại đa năng, hiện đại, hướng
tới sản phẩm mới, thị trường mới, tăng cường sức cạnh tranh trong nền kinh tế
thị trường.
Từ khi thành lập đến nay Sở giao dịch luôn luôn là một trong những chi
nhánh đứng đầu trong hệ thống các chi nhánh của NHCTVN. Do Sở giao dịch
vừa là chi nhánh trực tiếp kinh doanh vừa làm đầu mối một số công việc cho các
chi nhánh ngân hàng Cơng thương phía Bắc. Với các ưu thế về địa lý, cơ sở vật
chất kỹ thuật cũng như bề dày hoạt động mà Sở Giao dịch luôn nổi trội hơn các
chi nhánh khác và chiếm vị trí chủ lực trong hệ thống NHCTVN. Trong các năm
gần đây Sở giao dịch luôn đứng đầu về nguồn vốn huy động cũng như lợi nhuận
hạch toán trong hệ thống NHCTVN. Tại Sở có các hoạt động cơ bản sau đây:
3


a, Huy động vốn:
Hướng theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế và nhăm nâng vốn tự có lên 1500
tỷ vào cuối năm 2000 đồng thời đảm bảo tốc độ phát triển nguồn vốn huy động
bình quân 25% do NHCT đề ra. Sở giao dịch đã chủ động tập trung khai thác
mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng việc trực tiếp đưa ra các hình thức huy
động vốn năng động có tính cạnh tranh nhằm thu hút khách hàng, khơi tăng
nguồn vốn huy động đặc biệt là nguồn vốn có thời hạn phục vụ cho đầu tư phát
triển, tại Sở giao dịch có 6 quỹ tiết kiệm nằm trong quận Hoàn Kiếm đây là khu
vực trung tâm thương mại của Hà Nội, tập trung đông dân cư cũng như nhiều tổ

chức kinh tế.
Nguồn vốn huy động bình quân tăng hàng năm từ 25  27%. Mặc dù chịu
ảnh hưởng của cuộc tài chính tiền tệ khu vực Châu Á nguồn vốn huy động năm
1998 của Sở giao dịch vẫn tiếp tục tăng 40,4% so với năm 1997, nguồn vốn huy
động bình quân của Sở giao dịch hiện nay xấp xỉ 5572 tỷ. Trong tổng nguồn vốn
huy động thì tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn 75% năm 1996, 72% năm
1997 và 60% năm 1998.
Tuy nhiên cơ cấu nguồn vốn có sự biến động qua các năm thể hiện tiền gửi
tiết kiệm với lãi suất cao hơn lại có xu hướng tăng dần trong tỷ trọng. Đặc biệt
nguồn vốn ngoại tệ có xu hướng tăng nhanh trong tổng nguồn vốn huy động
năm 1996 chiếm 6%, năm 1997 tăng lên 16%, năm 1998 chiếm 29%. Nguồn
vốn ngoại tệ tăng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các nghiệp vụ ngân
hàng đối ngoại đặc biệt là công tác cho vay và kinh doanh ngoại tệ.
Nguồn vốn dồi dào giúp Sở chủ động trong kinh doanh và ít bị lệ thuộc vào
NHCTVN. Tuy nhiên tiền gửi doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhưng trong đó
đó tiền gửi khơng kỳ hạn cũng tăng tương ứng qua các năm (chiếm từ 65 - 70%
tổng nguồn). Đây cũng là điểm bất lợi của Sở vì doanh nghiệp có thể rút vốn bất
kỳ lúc nào gây bị động về vốn.
Các nguồn vốn trung dài hạn hiện nay ở Sở giao dịch chủ yếu là nguồn vốn
tài trợ uỷ thác đầu tư hoặc dưới dạng phát hành kỳ phiếu.
Qua số liệu trên ta cũng thấy được Sở giao dịch ln coi trọng cơng tác cải
tiến hình thức, liên tục đa dạng hoá cũng như tạo ra các tiện ích cho người gửi
tiền với lãi suất ln linh hoạt và phù hợp với thị trường. Đồng thời áp dụng các
hình thức ưu đãi lãi suất cho khách hàng thường xuyên có số dư tiền gửi cao.

4


Nhờ nâng cao chất lượng phục vụ và biết khai thác yếu tố tâm lý của người
gửi tiền mà nguồn vốn huy động của Sở giao dịch ngày càng tăng trưởng nhanh

và ổn định cả về đồng nội tệ và ngoại tệ.
Tóm lại, nguồn vốn huy động lớn, dồi dào, tăng trưởng ổn định là điều kiện
cơ bản để Sở giao dịch có thể chủ động trong kinh doanh và tạo điều kiện để
phát triển các nghiệp vụ và các dịch vụ của ngân hàng. Đồng thời giúp
NHCTVN trong việc điều hồ vốn tồn hệ thống ngân hàng Cơng thương.
BIỂU 1 - TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA SỞ GIAO DỊCH

Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
- Tổng nguồn vốn huy động

Năm 1996

Năm 1997

Năm 1998

Số tiền

Tỷ trọng

Số tiền

Tỷ trọng

Số tiền

Tỷ trọng

3.176


100

4.042

100

5.572

100

2.390

75

2.909

72

3.362

60

786

25

1.133

28


2.210

40

2.237

70

2.835

70

3.481

62

939

30

1.207

30

2.091

38

2.987


94

3.392

84

3.967

71

189

6

650

16

1.605

29

I. Phân theo vốn huy động
+ Tiền gửi doanh nghiệp
+ Tiền gửi dân cư
II. Phân theo thời hạn
+ Tiền gửi không kỳ hạn
+ Tiền gửi có kỳ hạn
III. Phân theo đơn vị tiền tệ

- Tiền gửi bằng VNĐ
- Tiền gửi bằng ngoại tệ

Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
b. Sử dụng vốn
Trong 10 năm qua, hoạt động đầu tư và cho vay khơng ngừng được mở
rộng góp phần thúc đẩy tăng trưởng, phát triển và đổi mới kinh tế của đất nước.
Tính đến 31/12/1998 dư nợ cho vay đạt 875 tỷ tăng 19,5% so với cùng kỳ năm
1997. Cơ cấu tín dụng được đổi mới và chuyển dịch theo hướng mở rộng cho
vay tất cả các thành phần kinh tế và dân cư, mọi ngành nghề kinh doanh được
Nhà nước cho phép đồng thời chú ý tới việc tăng tỷ trọng cho vay trung và dài
hạn và thực hiện tăng trưởng tín dụng đối với các thành viên là các tổng cơng ty
90, 91. Mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tín dụng bảo lãnh, các chương

5


trình tín dụng bằng các nguồn vốn của các tổ chức quốc tế đầu tư trên thị trường
liên ngân hàng, đầu tư trái phiếu...
Trong khi nguồn vốn tăng nhanh trung bình từ 25 đến 27%/năm thì dư nợ
hàng tăng chỉ tăng trung bình khoảng 8% - 20% khơng tương xứng với tốc độ
tăng trưởng nguồn vốn. Mặt khác chất lượng tín dụng nói chung giảm sút thể
hiện tỷ trọng nợ quá hạn năm 1996 chiếm 7% trong tổng dư nợ, sang năm 1997
giảm xuống còn 6% nhưng đến năm 1998 là tăng lên đến 12% và hiện nay Sở đã
cố gắng để giảm thấp nợ quá hạn bằng nhiều biện pháp nhưng vẫn ở mức cao là
8% và nợ khó địi vẫn có chiều hướng gia tăng.
BIỂU 2 - TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN

Đơn vị: Tỷ đồng.
31.12.1996

Chỉ tiêu

31.12.1997

31.12.1998

Số tiền

Tỷ
trọng

Số tiền

Tỷ
trọng

Tỷ
trọng

% so 97

678

100

732

100

107,9


875

100

119,5

1. Ngắn hạn

540

79,5

585

78

108,3

380

43,4

64,9

2. Dài hạn

138

20,4


147

22

106,5

495

56,6

336,7

1. Quốc doanh

586

86,7

539

73,6

92

793

90,6

147


2. Ngoài quốc doanh

92

13,6

193

26,4

209,7

82

9,4

42,4

1. VNĐ

399

58,8

467

63,8

117


632

72,2

135

2. Ngoại tệ quy đổi

279

41,2

265

36,2

95

243

27,8

91,6

201,8

29,7

195


26,6

96,6

106

12

54,3

7,6

1,1

10

1,3

131,5

7

10,8

0,7

3. G.thông, bưu điện

130,8


19,3

131,7

18

100,6

483

55,2

366,7

4. Thương nghiệp

279,9

41,3

264

36

94,3

262

29,9


99,2

58

8,6

133,9

18,1

230,8

10,4

2,1

7,7

- Tổng dư nợ

% so 96 Số tiền

I. Phân theo thời hạn

II. Theo thành phần KT

III. Theo đơn vị T.tệ

IV. Phân theo ngành

1. Công nghiệp
2. Xây dựng

5. Khác
V. Phân theo chất lượng

6


- Trung hạn

630

93

706

96

112

774

88

109,6

- Quá hạn

47,9


7

26,5

6

55,3

95

12

358,4

+ Quá hạn dưới 6 tháng

27

20

73

+ Quá hạn từ 6-12 tháng

11

3,5

2,7


+ Quá hạn trên 12 tháng

9,7

3

19,3

Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN 1996, 1997, 1998.
c. Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ : (Xem biểu 3 trang 32) .
Nhờ kinh doanh ngoại tệ mà Sở giao dịch đa dạng hoá các nghiệp vụ của
Ngân hàng giúp cho thuận lợi, nhanh chóng thực hiện các nhu cầu của khách
hàng không chỉ bằng nội tệ mà cả ngoại tệ. Khách hàng có thể chỉ cần quan hệ
với một ngân hàng là đã có thể thoả mãn được nhu cầu ngày càng đa dạng của
mình. Điều đó đã có thể thoả mãn mọi nhu cầu ngày càng đa dạng của mình.
Điều đó giúp Sở giao dịch giữ được các khách hàng có quan hệ truyền thống với
mình và cịn mở rộng thêm quan hệ với các khách hàng tiềm năng. Sở giao dịch
đã từng bước đa dạng hoá các hình thức mua bán ngoại tệ như kỳ hạn hốn đổi.
Ngoài ra giao dịch các loại ngoại tệ này ngày càng gia tăng từ 4,6% năm 1996
lên 9,7% năm 1997 và 7,2% năm 1998. Trong đó hầu hết các loại ngoại tệ mạnh
được thực hiện mua bán như DEM, JPY, FRF, CHF, SGD, EUR, AUD, GBP,
SEK... Đây là những loại ngoại tệ tự do chuyển đổi, có xu hướng tỷ giá ổn định,
điều này cho thấy Sở giao dịch rất coi trọng việc phòng ngừa rủi ro về tỷ giá và
cố gắng doanh thu lợi nhuận cao nhất. Mục đích mua bán các loại ngoại tệ khác
cũng nhằm giảm bớt sức ép về USD của khách hàng, đồng thời giúp khách hàng
thuận lợi trong thanh toán quốc tế bằng các loại ngoại tệ khác và đem lại lợi
nhuận bổ sung cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ. Hiện nay Sở giao dịch tích
cực phát triển các dịch vụ này để tránh tình trạng khách hàng phải đổi tiền thơng
qua USD, chênh lệch giá mua, giá bán của các loại ngoại tệ này cao do vậy thu

lợi nhuận lớn.
Trong quan hệ với các ngân hàng đại lý, ngoài những quan hệ như thanh
toán chuyển tiền, tài trợ, giúp đỡ đào tạo, cho vay vốn... cịn một quan hệ khơng
thể thiếu là các quan hệ giao dịch về mua bán ngoại tệ. Tuy việc mua bán ngoại
tệ với ngân hàng nước ngoài không thực hiện tại Sở giao dịch mà thực hiện tại
7


phịng Dealing room của Hội sở chính nhưng có rất nhiều giao dịch được phát
sinh tại các chi nhánh trong đó Sở giao dịch là một chi nhánh lớn đã u cầu Hội
sở chính thực hiện hộ. Điều đó làm tăng thêm mối quan hệ với các ngân hàng
đại lý, tăng thêm thu nhập cho NHCTVN và bản thân Sở giao dịch.
Doanh số mua bán ngoại tệ của Sở giao dịch ln chiếm khoảng 10%
doanh số mua bán của tồn hệ thống NHCT. Để hoạt động kinh doanh ngoại tệ
ngày càng có hiệu quả, sớm làm quen và hồ nhập với các ngân hàng khu vực và
trên thế giới về kinh doanh ngoại tệ, từ năm 1995 NHCT đã nối mạng với hãng
Reuters, telerate để thường xuyên theo dõi sự biến động của tỷ giá các loại ngoại
tệ trên thị trường quốc tế. Đã sử dụng Dealing Services để giao dịch trực tiếp với
các ngân hàng nước ngoài. Đối với hoạt động tín dụng ngoại tệ của Sở giao
dịch, kinh doanh ngoại tệ góp phần thực hiện việc vay, trả của các doanh nghiệp
vay vốn của sở được thực hiện nhanh chóng thuận lợi.
Nếu một ngân hàng chỉ có huy động, cho vay, thanh tốn và làm các dịch
vụ có liên quan đến ngoại tệ mà khơng có bộ phận kinh doanh ngoại tệ thì mọi
hoạt động này khó có thể tiến hành được. Đặc biệt trong những thời kỳ khó khăn
do tỷ giá thường xuyên biến đổi, để đảm bảo an toàn vốn cho vay nhằm thu nợ
gốc và lãi vay ngoại tệ. Sở giao dịch đã chịu lỗ trong kinh doanh ngoại tệ, bán
ứng ngoại tệ cho các doanh nghiệp để hoàn trả vốn vay cho Ngân hàng. Đây là
biện pháp tình thế cấp bách nhưng rất cần thiết.
Đứng trên tổng thể hoạt động của một ngân hàng thì việc lỗ ở nghiệp vụ
này để lãi ở nghiệp vụ khách và kết quả cuối cùng là thu lợi nhuận cao thì điều

đó thể hiện tính linh hoạt trong kinh doanh của Sở giao dịch. Qua đó Sở giao
dịch vừa giữ được khách hàng truyền thống vừa đảm bảo an tồn vốn trong hoạt
động tín dụng. Qua đây cũng bộc lộ sự phụ thuộc lẫn nhau giữa hoạt động kinh
doanh ngoại tệ và hoạt động tín dụng.
Tín dụng ngoại tệ phát triển thì kinh doanh ngoại tệ phát triển, kinh doanh
ngoại tệ phát triển giúp hoạt động tín dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Đây cũng
chính là lợi thế của Sở giao dịch trong cạnh tranh với các ngân hàng khác. Tuy
lỗ trong kinh doanh ngoại tệ nhưng Sở giao dịch vẫn có lợi nhuận lớn nhất trong
hệ thống các chi nhánh NHCT.
8


BIỂU 3 - TÌNH HÌNH KINH DOANH NGOẠI TỆ CỦA SỞ GIAO DỊCH I - NHCTVN

Đơn vị: 1000 USD.
1996
Chỉ tiêu

1997

Số tiền

Tỷ
trọng

Số tiền

Tỷ
trọng


149,059

100

110,171

100

142,152

95,4

99,461

6,907

4,6

- Từ các NH khác

95,016

- Từ NHCTVN
- Từ các dnghiệp có tkntệ

1998
Tỷ
trọng

% so 97


87,860

100

79,7

90,3

81,534

92.8

10,711

9,7

6,326

7,2

63,7

72,017

63,4

16,126

18,3


28,600

19,2

14,896

13,5

30,291

34,5

25,443

131

23,259

21,1

41,443

47,2

149,059

100

111,279


100

88,516

100

141,010

94,6

100,481

90,3

82,192

92,8

8,049

5,4

10,798

9,7

6,324

7,2


132,162

88,7

95,189

85,5

- Bán cho các ngân hàng
14,897
khác

10

16,090

14,5

- Bán cho NHCTVN

1,3

I. Doanh số mua

% so 96 Số tiền
73,9

1. Phân theo ngoại tệ
- USD

- Các loại Ntệ khác quy
đổi USD
2. Phân theo đối tượng mua

- Tại SGD I
II. Doanh số bán

74,6

79,5

1. Phân theo ngoại tệ
- USD
- Các loại Ntệ khác quy
đổi USD
2. Phân theo đối tượng bán
- Bán cho khách hàng

III. Lỗ lãi KDNT
(Đơn vị: triệu VNĐ)

2,000
2,453

449

18,3

- 4,063


Nguồn Báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
2.2

Kết quả kinh doanh (Xem biểu 4 trang 33)

Trong những năm qua Sở giao dịch ln hồn thành vượt mức kế hoạch
của NHCT giao, nộp đủ cho ngân sách Nhà nước, và có lợi nhuận đứng đầu
9


trong các chi nhánh của hệ thống ngân hàng Công thương. Lợi nhuận 1997 bằng
154% năm 1996 và năm 1998 bằng 122,18% so với 1997. Và tổng thu nhập của
năm 1998 tăng do những nguyên nhân sau:
- Thu lãi cho vay tăng do dư nợ tăng trong khi đó lãi suất bình quân năm
1998 vẫn bằng năm trước là 0,87%.
- Thu phí dịch vụ tăng.
- Đặc biệt thu lãi điều hồ tăng 27% so với năm 1997.
Qua phân tích khái quát hoạt động kinh doanh ta thấy Sở giao dịch đã chú
trọng khơi tăng nguồn vốn. Dư nợ có tăng nhưng chậm và chưa tương xứng với
tốc độ tăng của nguồn vốn và không ổn định. Đồng thời dư nợ hầu hết tập trung
vào số tổng công ty lớn như Tổng cơng ty Bưu chính viễn thơng, Tổng cơng ty
điện lực, xí nghiệp Liên hiệp đường sắt: Biểu hiện lượng khách hàng mỏng.
Nguồn vốn ngoại tệ tăng nhưng dư nợ ngoại tệ lại có xu hướng giảm thu dịch vụ
có tăng nhưng rất chậm và chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ xấp xỉ 2% - 3% trong tổng
thu nhập không tương xứng với một ngân hàng lớn như Sở giao dịch. Mặc dù
thu nhập tăng nhưng chủ yếu là thu lãi điều hoà (Năm 1998: chiếm 69% trong
tổng thu nhập). Vấn đề quan trọng hiện nay là tăng dư nợ lành mạnh để thu lãi,
đồng thời phát triển các dịch vụ mới để tăng thu dịch vụ.
BIỂU 4 - BÁO CÁO THU NHẬP, CHI PHÍ CỦA SỞ GIAO DỊCH NHCTVN


Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu

1997

1996

Số tiền

1998

% so với 96

Số tiền

% so với 97

Tổng thu nhập

283.833

305.434

107,6

371.927

121,7

- Thu lãi


102.928

76.614

74,4

85.426

111,5

29.447

13.996

47,5

18.730

133,8

8.331

7.247

87

7.667

105,7


731

1.976

270

427

21,6

- Lãi điều hoà

142.396

202.603

142.28

257.241

127%

Tổng chi phí

240.348

238.300

99


289.942

121,6

- Trả lãi

222.931

224.300

100,6

269.768

120,2

5.903

7.672

130

7.443

97

- Chi phí khác

11.514


9.215

80

12.732

138

Lợi nhuận

43.485

67.099

154.3

81.985

122.18

- Tiền gửi TCTD
- Dịch vụ
- Thu khác

- Chi phí nhân viên

10



Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
II-/ CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI SỞ GIAO DỊCH.

1-/

Dịch vụ nhận tiền gửi:
Nhận thức rõ sự gia tăng của nguồn vốn là yếu tố quyết định sự tồn tại của

ngân hàng. Vì vậy Sở giao dịch là ln coi trọng công tác huy động vốn và coi
nguồn vốn là yếu tố đầu tiên của quá trình kinh doanh khi nguồn vốn huy động
được có cơ cấu hợp lý, chi phí huy động vốn thấp sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của ngân hàng.
Để đảm bảo nguồn vốn huy động tăng hàng năm 25% mà NHCTVN đã đề
ra. Sở giao dịch đã phấn đấu để chủ động về nguồn vốn và cân đối ngay tại Sở
giao dịch, chủ động khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế bằng nhiều hình
thức. Trong đó có hình thức thu hút khách hàng đến mở tài khoản và giao dịch với
thủ tục đơn giản và thuận tiện. Tính đến tháng 6 năm 1999 đã có 4.093 tài khoản
được mở trong đó có 1.972 tài khoản doanh nghiệp và 2.121 tài khoản cá nhân.
Với bề dày hoạt động, hơn 10 năm qua Sở giao dịch đã tạo được niềm tin
với khách hàng vì vậy số khách hàng đến với ngân hàng ngày càng tăng. Trong
đó có mối quan hệ truyền thống với một số doanh nghiệp lớn như Tổng công ty
Bưu chính viễn thơng, Tổng cơng ty điện lực, xí nghiệp liên hợp đường sắt, tính
đến tháng 6/1999: tổng nguồn vốn huy động xấp xỉ 6.358 tỷ tăng 14,10% so với
31/12/1998 và tăng 50,95% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này Sở giao
dịch luôn là đơn vị đi đầu về cơng tác huy động vốn trong tồn hệ thống và là
đơn vị có nguồn vốn huy động lớn nhất trên địa bàn thành phố Hà Nội (chiếm tỷ
trọng 14%)
Về cơ cấu nguồn vốn huy động thì tiền gửi doanh nghiệp là 3.385 tỷ chiếm
tỷ trọng 61,2% trong tổng nguồn vốn so với đầu năm tăng 14% so với cùng kỳ
năm trước tăng 46,6%. Tiền gửi tiết kiệm là 2.473 tỷ chiếm tỷ trọng 38,8% trong

tổng nguồn vốn. So với đầu năm tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước tăng
46% nguồn vốn tăng trưởng nhanh, ổn định và vững chắc. Số dư bình quân hàng
năm tăng 20-27%.

11


Việc huy động tiền gửi dân cư được thực hiện tại 6 quỹ tiết kiệm với nhiều
hình thức phong phú như phát hành kỳ phiếu nội tệ, ngoại tệ, tiền gửi khơng kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn trả lãi định kỳ, trả lãi trước, trả lãi sau với lãi suất linh
hoạt mềm dẻo, tạo điều kiện thu hút khách hàng đến với ngân hàng.
2-/

Dịch vụ thanh toán.
2.1

Dịch vụ thanh toán chuyển tiền trong nước.

Mối quan hệ giữa nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay với thanh toán rất chặt
chẽ và khăng khít, nếu khơng có nghiệp vụ thanh tốn chuyển tiền chi trả thì các
nghiệp vụ nhận tiền gửi, cho vay, và các nghiệp vụ khác không thể thực hiện được.
Do nhận thức được tầm quan trọng của cơng tác thanh tốn có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước cũng như sự tồn tại và phát triển của
NHCT. Trong nhiều năm qua Sở giao dịch luôn là chi nhánh đi đầu trong việc
thực hiện và phát triển các hình thức thanh tốn phù hợp với tiến trình đổi mới
của NHCT, đồng thời ln đi đầu trong cơng tác cải tiến quy trình, kỹ thuật
thanh tốn góp phần đẩy nhanh q trình hội nhập của Sở giao dịch I nói riêng
và của NHCT nói chung vào hệ thống thanh tốn tồn cầu.
Trước đây mọi hoạt động thanh tốn ra ngồi hệ thống cũng như thanh tốn
trong cùng hệ thống đều phải thơng qua ngân hàng Nhà nước theo các quy trình

và cơ chế thanh toán đã được ban hành chung. Đến ngày 01/10/1991 căn cứ
quyết định số 101/NH-QĐ ngày 30/7/1991 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước
về thể lệ thanh toán qua ngân hàng, Tổng giám đốc NHCT đã ban hành quyết
định 248/NHCT - QĐ "NHCTVN tổ chức thanh toán liên hàng nội bộ" và công
văn hướng dẫn số 20/NHCT ngày 25/12/1991 về việc thực hiện thanh tốn qua
NHCTVN. Từ đó đánh dấu một bước ngoặt đầu tiên cho sự phát triển hệ thống
thanh toán độc lập tự chủ của NHCT. Do chủ động trong thanh toán, tốc độ
thanh toán qua ngân hàng Cơng thương được thực hiện nhanh hơn, kịp thời hơn
ít sai sót hơn, khách hàng chuyển tiền qua NHCT thấy n tâm hơn, khơng cịn
phải chạy qua, chạy lại 2 - 3 ngân hàng mới làm song thủ tục chuyển tiền. Nền
kinh tế càng phát triển nhu cầu thanh toán ngày càng cao địi hỏi tốc độ thanh
tốn phải đáp ứng nhanh chóng kịp thời. Cơng tác thanh tốn của NHCT lại phát
triển thêm một bước mới đó là thanh tốn liên hàng bằng máy vi tính truyền qua
MODEM thoại thay cho việc chuyển giấy báo liên hàng qua bưu điện. Kết quả
đó khơng những thu hút khách hàng đến với NHCT ngày càng nhiều mà còn

12


nâng cao uy tín của NHCT tạo tiền đề cho những bước phát triển cao hơn nữa
của NHCTVN vào những năm sau này.
Để mở rộng và cải tiến thanh toán không dùng tiền mặt đáp ứng yêu cầu
phát triển kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền. Chính phủ đã ra Nghị định 91/CP
ngày 25/11/1993 về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt và thống đốc ngân
hàng Nhà nước ra quyết định số 22/QĐ - NH ngày 21/2/1994 ban hành thể lệ
thanh tốn khơng dùng tiền mặt đã làm thay đổi cơ bản về phạm vi cũng như
phương tiện thanh toán trong nền kinh tế. Tạo điều kiện cho các TCTD trong nước
mở rộng đổi mới phương thức thanh tốn nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Khơng thoả mãn và dừng lại ở đó trong khi nền kinh tế thị trường ngày
càng mở rộng, công nghệ thông tin bùng nổ, nhu cầu về thanh toán và quản lý

vốn tập trung đặt ra cấp thiết nhằm tăng nhanh vòng quay của đồng vốn đồng
thời nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn của các tài chính kinh tế nói
chung và đối với NHCTVN đó là mục tiêu cấp bách đã được Hội đồng quản trị
điều hành thống nhất phương hướng chỉ đạo nghiên cứu soạn thảo quy trình
nghiệp vụ thanh toán điện tử trong hệ thống NHCT và Sở giao dịch đã được
NHCT chọn làm thí điểm. Sau thời gian thử nghiệm ngày 1/7/1996 thanh toán
điện tử đã chính thức được áp dụng trong nội bộ NHCT.
Việc triển khai nhanh chóng thanh tốn điện tử trong hệ thống NHCT
khơng chỉ nâng cao uy tín với khách hàng mà cịn nâng cao vị trí của NHCTVN
lên hàng đầu hệ thống ngân hàng Việt Nam trong lĩnh vực hiện đại hoá hệ thống
thanh toán là tiền đề cho việc mở rộng phạm vi thanh tốn ra ngồi hệ thống dẫn
đường cho các NHTM, ngân hàng cổ phần để mở tài khoản tiền gửi và ký kết
văn bản thực hiện thanh toán thu chi hộ giữa hai ngân hàng. Đến tháng 11/1996
NHCT nối mạng thanh toán với Sở giao dịch ngân hàng Nhà nước thực hiện
việc điều vốn từ NHCTVN đến các chi nhánh trực thuộc và ngược lại, từ tháng
12/1997 NHCTVN và ngân hàng đầu tư và phát triển nông thơn đã chính thức
thực hiện quy trình thanh tốn thu chi hộ giữa hai ngân hàng. Hiệu quả cao nhất
ở đây là NHCTVN đã tận dụng được nguồn vốn trong thanh toán để giảm bớt
căng thẳng về vốn trong những tháng cuối năm. Đến quy 2/1998 quy trình thanh
tốn với ngân hàng cổ phần Hàng hải, Citibank, NHPTNN Việt Nam đã đi vào
hoạt động chính thức, đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua ngân hàng gấp nhiều lần
so với trước đây. Mọi quy trình thanh tốn mới ra đều được thực hiện thí điểm
tại Sở giao dịch, sau đó triển khai tồn hệ thống ngân hàng Cơng thương. Sở
giao dịch là CN đứng đầu trong hệ thống NHCT và có doanh số thanh toán
13


thường chiếm từ 16,5 - 24% trong tổng số thanh tốn tồn hệ thống và là một
trong 64 thành viên thanh tốn bù trừ có doanh số thanh tốn lớn nhất bình qn
180 - 250 món/ngày, thanh tốn liên hàng điện tử bình qn thanh tốn 150 180 món/ngày thanh toán liên hàng và bù trừ của Sở thường chiếm từ 80 - 85%

trong tổng các phương tiện thanh toán. Khối lượng công việc nhiều song Sở đã
hạn chế các sai sót xảy ra.

14


BIỂU 5 - TÌNH HÌNH THANH TỐN CHUYỂN TIỀN TRONG NƯỚC

Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu

Năm 1996
S.Món

T.số tiền

Năm 1997
Tỷ trọng S.Món

T.số tiền

Tỷ trọng

Năm 1998
% so 96

S.Món

T.số tiền


Tỷ trọng

I. Phân loại theo c.cụ t.toán
A. Thanh toán bằng T.mặt

67129

8508.563

- Tiền mặt

42523

- N.phiếu thanh tốn

4,8

70610

9066394

5337.431

49270

24606

3171.132

B.Thanh tốn khơng dùng TM 289078


168763.631

84337

12182067

6747026

60437

9577078

21340
95,2

5,7

2319368

23900

2604989

265443

150718038

261579


153491713

94,3

1. Séc chuyển khoản

28606

1029.097

27514

3007689

24902

791303

2. Séc bảo chi

18333

1330.350

19572

1718321

11897


834707

321

71.162

352

72384

232

48296

41

97

10

113

-

-

5. Uỷ nhiệm thu

40421


1261.526

39320

210229

44665

224105

6. Uỷ nhiệm chi

56282

36062.201

81306

77937610

91555

42421922

145074

129009.198

97369


67771692

88328

109171380

356207

177272.194

336053

159784432

345916

165673780

3. Séc chuyển tiền
4. Séc cá nhân

7. Thư tín dụng
8. Loại khác
Tổng cộng

15

7,4

92,6


% so 97


Nhìn biểu 5 trang 37 ta thấy doanh số thanh tốn ổn định qua các năm mà
chưa có sự tăng trưởng, trong đó các hình thức thanh tốn bằng uỷ nhiệm chi và uỷ
nhiệm thu ngày càng được sử dụng rộng rãi và chiếm phần lớn trong tổng doanh số
thanh tốn. Việc thanh tốn bằng séc có xu hướng giảm dần qua các năm thể hiện:
Năm 1996

Doanh số thanh toán séc là 2359 tỷ.

Năm 1997

Doanh số thanh toán séc là 4725 tỷ tăng 2366 tỷ so 1996.

Năm 1998

Doanh số thanh tốn séc chỉ cịn 1636 giảm 3089 tỷ so 1997.

Qua biểu thống kê ở trên ta cũng thấy rằng thanh toán bằng tiền mặt và
ngân phiếu chỉ chiếm từ 4,8% đến 7,4% trong tổng doanh số thanh toán qua Sở
giao dịch nhưng thực tế theo số liệu thống kê của ngân hàng Nhà nước thì tỷ lệ
thanh tốn tiền mặt trong dân cư hiện nay vẫn chiếm tới 30 - 35% trong tổng
doanh số thanh toán của nền kinh tế.
Mặc dù việc triển khai thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong dân cư từ lâu
là mối quan tâm của cả hệ thống ngân hàng thể hiện:
Ngày 19/8/1993 Thống đốc ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định
160/QĐ - NH 2 và thể lệ mở và sử dụng tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp tư
nhân và cá nhân trong đó đã hướng dẫn cụ thể và tạo điều kiện thuận lợi để cho

các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản và thanh tốn qua ngân hàng. Từ đó
đến nay ngân hàng Nhà nước cùng với các ngân hàng thương mại thực hiện chủ
trương mở rộng công tác thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong dân cư bằng
nhiều biện pháp khuyến khích như miễn phí mở tài khoản, phát hành và sử dụng
séc cá nhân, ngân hàng cũng không thu phí.
Tại Sở giao dịch tính đến tháng 6/1999 đã có 2121 tài khoản cá nhân được
mở nhưng chỉ có 1.011 tài khoản hoạt động và số tài khoản hoạt động thường
xuyên chỉ chiếm 30 - 50% tổng số tài khoản cá nhân, số dư tiền gửi bình quân
chỉ chiếm từ 0,2 - 0,35% tổng số dư tiền gửi thanh toán và séc cá nhân được sử
dụng trong thanh toán cũng rất hạn chế chỉ chiếm từ 0,4 - 0,6% so với tổng
doanh số thanh toán qua tài khoản cá nhân (Xem biểu 6 trang 40).
Nghị định số 30 CP ngày 9/5/96 ban hành quy chế phát hành và sử dụng
séc đã tạo những thuận lợi cho người dùng séc song cũng nảy sinh những phức

16


tạp. Tại chương III điều 12 Nghị định 30/CP ghi "chủ tài khoản được phép uỷ
quyền cho người khác ký phát hành séc thay mình và người phát hành séc có
quyền hạn và nghĩa vụ như chủ tài khoản trong phạm vi được uỷ quyền" như
vậy Nghị định khẳng định quyền của chủ tài khoản (bao gồm chủ tài khoản tiền
gửi cá nhân, chủ tài khoản tiền gửi các doanh nghiệp) đều được phép uỷ quyền
ký phát hành séc, tức là được phép thay chủ tài khoản thực hiện thanh toán giao
dịch với ngân hàng qua tài khoản cá nhân bằng hình thức séc.
Nhưng tại phần I "mở và sử dụng tài khoản tiền gửi" mục 1 - 2 của thơng tư
08 hướng dẫn thực hiện thể lệ thanh tốn không dùng tiền mặt, ban hành theo
quyết định 22/QĐ - NH 1 ngày 21/2/94 của thống đốc ngân hàng Nhà nước ghi:
"Đối với tài khoản đứng tên cá nhân không thực hiện việc uỷ quyền ký thay chủ
tài khoản, tất cả các giấy tờ thanh toán giao dịch với ngân hàng phải do chủ tài
khoản ký". Thêm vào đó là quy định đối với séc cá nhân phát hành từ 5 triệu

đồng trở lên phải làm thủ tục bảo chi séc. Tất cả những vướng mắc trên đã làm
giảm sự hấp dẫn của việc dùng séc.
BIỂU 6 - TÌNH HÌNH MỞ VÀ SỬ DỤNG TÀI KHOẢN CÁ NHÂN
Chỉ tiêu
1. Số T.khoản cá nhân đã
mở tính đến
+ Trong đó số T.khoản hoạt
động thường xun
+ Số T.khoản: ít hoặc khơng
hoạt động
2. Số dư tiền gửi bình qn
3. D.số T.tốn qua tài khoản
cá nhân
a. T.tốn bằng uỷ nhiệm chi
+ Số món
+ Số tiền
b. Thanh tốn bằng séc
+ Số món
+ Số tiền
c. T.tốn bằng tiền mặt,
NFTT
+ Số món
+ Số tiền

Năm 1996

Năm 1997

Năm 1998


6 tháng đầu 99

1.680

1.732

1.920

2.121

842

851

642

1.011

738

881

1.278

1.110

40.200

25.700


12.050

10.600

226.716

257.045

265.472

137.978

3.720
72.534

3.052
50.232

2.857
70.100

1.392
36.264

50
1.429

10
113


4
12

3
5

3.721
152.753

5.237
206.700

6.050
195.360

3.034
101.669

17


Nguồn báo cáo tình hình mở và sử dụng tài khoản cá nhân tại Sở giao dịch
năm 1996, 1997, 1998.
- Đối với dịch vụ chuyển tiền cá nhân: Do quán triệt được tinh thần đẩy
mạnh công tác dịch vụ chuyển tiền trong dân cư không chỉ đơn thuần là thu dịch
vụ phí mà nó cịn mang ý nghĩa quan trọng thu hút được lượng tiền mặt vào
ngân hàng, thúc đẩy cơng tác thanh tốn khơng dùng tiền mặt trong khu vực dân
cư, tiết kiệm chi phí lưu thơng và ngân hàng sẽ thực hiện được vai trị trung tâm
thanh tốn của nền kinh tế. Nên Sở giao dịch đã tổ chức tốt dịch vụ chuyển tiền
cá nhân với các hình thức chuyển tiền nhanh hoặc chuyển bình thường theo yêu

cầu của khách hàng.
Đến tháng 8/1999 thực hiện công văn 2098/CV - NHCT 10 ngày 9/8/1999
của NHCTVN "hướng dẫn bổ xung chuyển tiền cá nhân" Sở đã thực hiện chi trả
tiền đến tận nhà nếu khách hàng yêu cầu. Vì vậy khách hàng không phải thường
xuyên gọi điện đến Ngân hàng để hỏi gây mất thời gian và phiền hà cho khách.
Dịch vụ chuyển tiền cá nhân của Sở giao dịch đã tăng nhanh qua các năm.
Phí dịch vụ áp dụng đối với thanh toán chuyển tiền trong nước hiện tại Sở
đang áp dụng theo quy định chung của ngân hàng Nhà nước và hướng dẫn của
NHCT là: 2000đ/1 món thanh tốn bù trừ trong đó ngân hàng Nhà nước thu
1000đ/1 món và NHCT được hưởng 1000đ/1 món khơng kể giá trị thanh toán cao
hay thấp, như vậy là quá thấp so với mức phí áp dụng trong thanh tốn điện tử.
Phí thanh tốn điện tử là 0,05% trên tổng số tiền chuyển khoản và 0,1%
trên tổng số tiền chuyển bằng tiền mặt và tối đa là 500.000đ/1 món tối thiểu là
20000/1 món, như vậy phí thanh tốn điện tử cao hơn gấp nhiều lần so với phí
áp dụng trong thanh toán bù trừ trên địa bàn thành phố. Theo quy định đối với
những món chuyển tiền giữa các chi nhánh trong hệ thống NHCT nhưng cùng
trên địa bàn thành phố phải qua mạng thanh tốn địa tử nên mức phí khách hàng
phải trả sẽ cao hơn rất nhiều so với phí thanh tốn bù trừ trong khi thời gian ln
chuyển chứng từ là tương đương nhau. Đây là điểm bất hợp lý, do đó nhiều
khách hàng có xu hướng mở tài khoản ở nhiều ngân hàng khác hệ thống trên
cùng địa bàn thành phố như ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng Đầu tư phát
triển, ngân hàng Nông nghiệp để chuyển tiền trong nội bộ ngân hàng vừa nhanh
hơn lại không phải mất phí hoặc chuyển tiền qua hệ thống thanh tốn bù trừ với
mức phí thấp.

18


Đối với các món chuyển tiền ra ngồi hệ thống khác tỉnh, TP phải chuyển
chứng từ thanh toán qua ngân hàng Nhà nước và ngân hàng Nhà nước thu phí

0,05% cho 1 món chuyển tiền, tối thiểu 20000đ/1món, tối đa 500000đ/món đây
cũng là mức trần mà Nhà nước quy định thu của khách hàng. Vì vậy NHCT chỉ
thực hiện việc thanh tốn hộ cho khách hàng mà khơng được hưởng một đồng
phí nào, đây là điểm bất hợp lý thứ 2, nhưng đứng trên giác độ tổng thể thì việc
khơng được hưởng phí ở dịch vụ này để đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách
hàng cũng như phục vụ cho các nghiệp vụ khác của Sở giao dịch thì đó cũng là
việc mà Sở giao dịch phải chấp nhận.
2.2

Dịch vụ thanh toán quốc tế.

a. Kết quả.
Từ năm 1991, NHCTVN được phép chính thức hoạt động thanh tốn quốc
tế và bước đầu nghiệp vụ này cũng được thực hiện tại Sở giao dịch. Hiện nay
nghiệp vụ thanh toán quốc tế đã được triển khai và phát triển nhanh chóng ở hầu
hết các chi nhánh NHCT trên toàn quốc. Doanh số thanh toán hoạt động thanh
toán quốc tế của Sở giao dịch nói riêng và của NHCTVN nói chung ngày càng
tăng nhưng vẫn bảo đảm an tồn, chính xác và theo đúng thơng lệ quốc tế. Các
phương thức thanh tốn quốc tế như chuyển tiền, nhờ thu, séc, tín dụng chứng
từ... đều được thực hiện tại Sở giao dịch với một quy trình thanh tốn hợp lý và
trình độ chun mơn cao đã làm tăng số lượng khách hàng giao dịch và nâng cao
uy tín của NHCT trong nội địa cũng như trên trường Quốc tế (Xem biểu 7 trang
41).
BIỂU 7 - THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SỞ GIAO DỊCH

Đơn vị: 1000 USD
1996

1997
Số tiền


1998

% so 1996

Số tiền

% so 1997

1. L/C Nhập

89,627

54,823

61,4

50,381

91,9

2. L/C Xuất

2,911

1.320

45,35

1,573


119.2

3. Nhờ thu

3,330

4.360

130,9

4,518

103,6

4. Kiều hối

2,548

5,203

197,1

5,794

115,4

465

548


117,8

1250

228,1

98,881

66254

5. Séc
Tổng cộng

19

63.516


Nguồn báo cáo của Sở giao dịch NHCTVN năm 1996, 1997, 1998.
Đặc biệt sau khi NHCT tham gia mạng SWIFT thì hoạt động thanh tốn
quốc tế thực sự biến đổi về chất với quy mô lớn trên lĩnh vực xử lý thơng tin
nhận đến truyền đi, góp phần đẩy nhanh q trình hội nhập của Sở giao dịch nói
riêng và của NHCT nói chung vào hệ thống thanh tốn tồn cầu. Thanh toán
quốc tế tăng nhanh với tốc độ và hiệu quả cao.
Ngoài ra Sở giao dịch cũng rất chú trọng phát triển các dịch vụ ngân hàng
bằng ngoại tệ như séc du lịch, visacard, chi trả kiều hối thể hiện những dịch vụ
này đã tăng nhanh qua các năm. Được sự uỷ quyền của NHCTVN Sở giao dịch I
không những thực hiện các nghiệp vụ này cho bản thân mình mà cịn làm đầu
mối cho các NHCT phía Bắc trong nhận, phát, thanh toán, gửi séc du lịch, bảng

kê, lập lệnh đòi tiền các tổ chức phát hành séc du lịch, visacard... Các loại séc du
lịch như Tomascook, mastercard, citicorp, Amex, được thanh tốn chính xác
nhanh chóng qua Sở giao dịch.
Qua biểu 7 trang 41 cho thấy Sở giao dịch đã áp dụng đa dạng các phương
thức thanh toán quốc tế như chuyển tiền, thanh toán nhờ thu, séc, nhưng chủ yếu
vẫn là phương thức thanh toán bằng thư tín dụng, chiếm từ 82% - 94% trong
tổng doanh số thanh tốn. Trong đó thu tín dụng nhập khẩu chiếm tới 75%
doanh số thanh tốn và lượng thơng báo L/C xuất khẩu qua Sở giao dịch chiếm
ít. Mặc dù phương thức thanh tốn tín dụng chứng từ chiếm tỷ trọng lớn nhưng
lại có chiều hướng giảm sút. Điều này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân:
Nguyên nhân chủ quan: Phí thanh tốn L/C tương đối cao và gồm nhiều
loại phí. Một số mức phí sàn vẫn cao hơn ngân hàng Ngoại thương. Chẳng hạn
phí thanh tốn một bộ chứng từ mức tối thiểu là 20 USD nhưng ở ngân hàng
Ngoại thương con số này chỉ là 10 USD và tối đa khơng q 150 USD. Phí
thanh tốn L/C hàng nhập mức phí là 0,2% giá trị L/C tối thiểu 20 USD, tối đa
300USD còn ở ngân hàng Ngoại thương tối thiểu chỉ là 10 USD và tối đa là
300USD, tại một số ngân hàng thương mại cổ phầnkhác thì cịn thấp hơn nữa
(EXIMBANK). Một doanh nghiệp khi tiến hành mở L/C sẽ phải chịu một số phí
sau khi mở L/C như phí sửa đổi (nếu có), phí cam kết thanh tốn (đối với các
cơng ty TNHH) phí truyền tin mạng SWIFT, phí thanh tốn, phí bảo lãnh khơng
vận đơn (nếu để Sở giao dịch ký hậu trước khi có bộ chứng từ). Đó là một số loại
20


phí và các doanh nghiệp phải chịu, nếu tỷ lệ phí thấp hơn sẽ hấp dẫn khách hàng
hơn.
- Thủ tục mở L/C còn tương đối phức tạp: Một doanh nghiệp muốn tiến
hành mở L/C phải làm thủ tục với không ít hơn hai phịng. Nếu doanh nghiệp
chưa có tài khoản ngoại tệ thì cịn phải làm việc với phịng kế tốn để mở tài
khoản bằng ngoại tệ. Sau đó làm việc với phòng kinh doanh để xem mức ký gửi

và nếu muốn xin giảm mức ký quỹ còn phải qua xét duyệt của Giám đốc. Khi
mở L/C doanh nghiệp phải qua nhiều khâu, trình nhiều giấy tờ: uỷ nhiệm chi,
hạn ngạch (quota) (nếu có), đơn xin mở thư tín dụng. Nên nhiều khi rất mất thời
gian để có thể mở được L/C điều này có thể ảnh hưởng tới thời hạn giao hàng.
- Việc đào tạo cán bộ còn nhiều hạn chế, một số được đào tạo trong thời kỳ
bao cấp, do vậy việc tiếp thu kiến thức mới đòi hỏi phải được đào tạo lại.
- Hoạt động thanh toán đặc biệt là thanh toán hàng xuất khẩu chưa được
quan tâm thích đáng so với ngân hàng Ngoại thương một ngân hàng có bề dày
trong cơng tác thanh tốn quốc tế thì cơng tác thanh tốn quốc tế tại Sở giao dịch
nói riêng và NHCTVN nói chung là một hoạt động còn mới mẻ do vậy Sở giao
dịch chưa thực sự thu hút được sự chú ý của các doanh nghiệp trong nước cũng
như các ngân hàng nước ngoài.
- Thêm nữa hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu suy giảm một phần do
điều kiện kinh tế xã hội trong những năm gần đây hết sức khó khăn đặc biệt là
sau cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra làm thu hẹp một khoảng thị trường lớn của
các doanh nghiệp Việt Nam. Mặt khác do sự mất giá của tiền tệ ở các nước
Đơng Nam Á làm cho giá cả hàng hố ở nước ta trở nên đắt tương đối so với
hàng hoá của họ. Điều này làm cho hoạt động xuất nhập khẩu giảm mạnh kéo
theo hoạt động thanh toán quốc tế cũng theo đó mà suy giảm.
- Chính sách của Đảng và Nhà nước đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
Mặc dù có chủ trương đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu nhưng cho đến nay
vẫn chưa có một chính sách nào thực sự có hiệu quả, hoạt động xuất nhập khẩu
diễn ra hết sức vụn vặt, lẻ tẻ.
Đặc biệt kể từ ngày 1/1/1999 chúng ta áp dụng luật thuế giá trị gia tăng do
một số doanh nghiệp còn kém hiểu biết về loại thuế này nên rất ngại tiến hành
hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách tiền tệ đã phát huy tác dụng nhưng nhiều
21


doanh nghiệp vẫn chưa thực sự tin tưởng. Nhiều khi khơng dám nhập khẩu vì sợ

tỷ giá tăng như những năm trước.
- Mặt khách Sở giao dịch bị mất một số khách hàng do trong năm 1998 tình
hình ngoại tệ khá căng thẳng không thể đáp ứng đủ nhu cầu nên một số khách
hàng đã chuyển sang ngân hàng khác, một lượng khách hàng khác không tiếp
tục giao dịch do chỉ được phép mở một tài khoản nên nhiều khách hàng đã chọn
ngân hàng Ngoại thương. Vì vậy Sở giao dịch đã phải đối mặt với khơng ít khó
khăn mà trước hết là lượng khách hàng mỏng như hiện nay.
2.3

Dịch vụ bảo lãnh.

Trong nhiều năm qua Sở giao dịch đã mở rộng và tăng cường nghiệp vụ
bảo lãnh đặc biệt là bảo lãnh trong nước được chú trọng, đáp ứng kịp thời các
nhu cầu đa dạng về bảo lãnh cho khách hàng của mình sau khi đã kiểm tra thủ
tục trước khi bảo lãnh. Các loại bảo lãnh mà Sở đã áp dụng đó là bảo lãnh mua
hàng trả chậm, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo hành, bảo lãnh thanh
tốn. Bình qn hàng năm Sở đã bảo lãnh được xấp xỉ 100 món chủ yếu là bảo
lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu. Còn bảo lãnh mở L/C nhập hàng trả
chậm rất hạn chế từ năm 1995 trở lại đây mới thực hiện bảo lãnh 3 món. Trong
đó có 1 món bảo lãnh cho cơng ty Sakyno mở L/C nhập hàng trả chậm trị giá
7.662.738 USD, doanh nghiệp mới thanh tốn 666,973 cịn lại 6.995.765 USD
đến hạn doanh nghiệp không trả được và ngân hàng đã phải trả nợ nước ngồi
thay cho doanh nghiệp.
Nhìn chung, nghiệp vụ bảo lãnh đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế hàng hố
tạo nguồn vốn cho sự nghiệp cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giúp cho
các nhà đầu tư nước ngồi có cơ hội n tâm đầu tư vào Việt Nam và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp của Việt Nam vay vốn để cải tiến kỹ thuật, công
nghệ sản xuất, khai thác nhiều tài nguyên của đất nước đặc biệt là tạo việc làm
cho người lao động.
Hiện tại nhu cầu bảo lãnh của doanh nghiệp thì nhiều nhưng còn vướng

mắc về tài sản thế chấp, mức uỷ quyền trình Trung ương, quy định khống chế bảo
lãnh cho một khách hàng khơng q 10%, vốn tự có của NHCT,... Do đó đã phần
nào làm ảnh hướng đến việc mở rộng và phát triển loại dịch vụ này của Sở giao
dịch.
22


2.4

Dịch vụ chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá.

Trước đây Sở giao dịch đã thực hiện chiết khấu chứng từ có giá là L/C xuất
nhưng với thủ tục phức tạp và rất hạn chế, còn đối với những thương phiếu và
chứng từ có giá trong nước thì chưa thực hiện. Đến đầu năm 1999 Sở mới bắt
đầu triển khai hoạt động chiết khấu các chứng từ có giá trong nước là các trái
phiếu kho bạc Nhà nước.
III-/ ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC DỊCH VỤ NGÂN HÀNG CỦA SỞ
GIAO DỊCH.

1-/ Kết quả đạt được:
Hơn 10 năm qua cùng với sự lớn mạnh của hệ thống NHCTVN thì Sở giao
dịch cũng từng bước trưởng thành và luôn giữ vững là chi nhánh đứng đầu hệ
thống NHCT. Cùng với sự phát triển của các nghiệp vụ truyền thống như huy
động vốn và cho vay, thanh toán chuyển tiền nhanh gọn chính xác đáp ứng nhu
cầu của khách hàng, dưới sự điều hành của NHCTVN và Ban giám đốc Sở thì
các hoạt động dịch vụ ngân hàng ngày càng được hồn thiện và mở rộng, chất
lượng dịch vụ thanh tốn chuyển tiền của NHCTVN nói chung và Sở giao dịch
nói riêng ngày càng tốt hơn, luôn đảm bảo khả năng chi trả cho khách hàng với
thời gian ngắn nhất. Với bước đột phá trong kỹ thuật liên hàng nội bộ, thanh
toán liên hàng nội bộ đã được thực hiện và thơng qua mạng máy tính liên kết các

chi nhánh trong tồn quốc qua MODEM thoại và việc tiến hành khơi phục các
chứng từ qua máy vi tính đã ổn định, rút ngắn thời gian thanh toán, chất lượng
thanh toán cũng đảm bảo hơn, ít sai sót hơn.
Từ ngày 01/7/96 việc áp dụng thanh toán điện tử đã tác động mạnh mẽ đến
cơng tác thanh tốn của NHCTVN nói chung và của Sở giao dịch nói riêng, thời
gian thanh tốn chuyển tiền trước kia phải thực hiện từ 5 - 7 ngày, nay rút xuống
chỉ cịn 1 ngày.
Chương trình thanh tốn điện tử thực hiện quản lý và điều hành vốn tập
trung chuyển tiền đi, đến, quyết toán trong ngày, nên đã nâng cao chất lượng của
cơng tác thanh tốn và mở rộng uy tín với khách hàng. Ngồi thanh tốn trong
nội bộ hệ thống ngân hàng, cơng tác thanh tốn ra ngoài hệ thống trên địa bàn
tỉnh, thành phố được thực hiện bằng phương thức thanh toán bù trừ qua ngân
hàng Nhà nước. Các ngân hàng thương mại và kho bạc Nhà nước phải mở tài
khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước để thanh toán bù trừ và phương thức này
23


vẫn thực hiện bán cơ giới tức là các ngân hàng thương mại đánh chứng từ bù trừ
vào máy. Sau đó sao chép ra đĩa mềm hay truyền qua MODEM thoại để đi bù
trừ số phiên bù trừ trong ngày từ 1 - 2 phiên, nếu qua giờ giao dịch bù trừ là
chứng từ không đi được phải để lại hơm sau. Tuy nhiên thời gian thực hiện của
thanh tốn bù trừ tương đối nhanh. Nghiệp vụ ghi nợ, có được thực hiện ngay
trong ngày, nhưng phạm vi thanh toán nhỏ hẹp chỉ trên cùng một địa bàn tỉnh,
thành phố. Nếu thanh tốn khác tỉnh và khác hệ thống thì phải qua nhiều khâu
trung gian nên tốc độ thanh toán rất chậm nên phần nào ảnh hưởng đến doanh số
thanh tốn ra ngồi hệ thống bởi quy trình thanh tốn như sau:
Ngân hàng
Nhà nước
A


B/Có

lệnh chi
Ngân hàng
Cơng thương
A

Ngân hàng
Nhà nước
B
B/Có
Ngân hàng
Thương mại B

lệnh chi
Khách hàng A

Khách hàng B

Từ 12/97 NHCTVN và NHĐTPTVN đã chính thức thực hiện quy trình
thanh tốn thu chi hộ giữa hai ngân hàng. Cịn quy trình thanh toán với ngân
hàng Cổ phần Hàng hải, Citibank, ngân hàng Phát triển nơng nghiệp Việt Nam
đã được hồn thiện đưa vào hoạt động chính thức từ đầu quý 2 năm 98. Do vậy
số lượng chứng từ cũng như doanh số thanh tốn ra ngồi hệ thống đi qua ngân
hàng Nhà nước đã giảm hẳn góp phần đẩy nhanh tốc độ thanh tốn qua ngân
hàng. Vì vậy nếu năm 96: Số lượng thanh tốn ra ngồi hệ thống là 8622 món
với doanh số 35.368.576 triệu thì đến năm 1998 đã giảm đi và chỉ cịn 4252 món
với doanh số thanh tốn là 21.668.904 triệu đồng (Xem biểu 8 trang 47).
Để cải tiến thêm một bước trong việc nâng cao chất lượng của cơng tác
thanh tốn ra ngồi tỉnh khác hệ thống tháng 11/1996 ngân hàng Công thương

Việt Nam đã nối mạng thanh toán với sở giao dịch ngân hàng Nhà nước thực
24


hiện việc điều chuyển vốn từ NHCT đến các chi nhánh trực thuộc và ngược lại
cho đến nay đã và đang phát huy hiệu quả tốt mở đường cho công tác thanh toán
giữa các TCTD với NHCTVN.

25


×