Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Tính truyền thống và hiện đại trong thơ tình lục bát nguyễn bính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.65 KB, 9 trang )

Tính truyền thống và hiện đại trong thơ tình lục bát Nguyễn Bính
Nguyễn Thành Giang * đăng lúc 10:38:23 PM, Jun 12, 2010 * Số lần xem: 7824

Hình ảnh

#1

I. Đôi nét về những vấn đề liên quan đến Nguyễn Bính
Nguyễn Bính tên khai sinh là Nguyễn Trọng Bính. Nhà thơ sinh vào cuối xuân
đầu hạ năm Mậu ngọ (1918) trong một gia đình nhà nho nghèo tại xóm Trạm,
thôn Thiện Vinh, xã Đồng Đội, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Thuở bé
Nguyễn Bính không được đi học ở trường mà chỉ học ở nhà với cha là ông đồ
Nguyễn Đạo Bình, sau được cậu ruột là ông Bùi Trình Khiêm nuôi dạy. Nguyễn
Bính là người có năng khiếu. Ông bắt đầu làm thơ từ lúc 13 tuổi, năm 1932
Nguyễn Bính rời quê ra Hà Nội và từ đây bắt đầu nổi tiếng trong sự nghiệp
sáng tác văn học. Ông được giải khuyến khích của Tự lực văn đoàn với tập
thơ “ Tâm hồn tôi”(1940). Năm 1943 Nguyễn Bính được giải nhất văn học
Nam Xuyên ở Sài Gòn với truyện thơ “ Cây đàn tì bà”
Năm 1947 Nguyễn Bính tham gia kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ. Nhà
thơ hăng hái tham gia mọi công tác và được giữ những trách nhiệm trọng
yếu như phụ trách hội văn hoá cứu quốc tỉnh Rạch Giá, phó chủ nhiệm tỉnh
bộ Việt Minh ở tỉnh Rạch Giá, sau làm ở ban văn nghệ thuộc phòng tuyên
huấn quân khu tám. Thời gian này Nguyễn Bính sáng tác khá kịp thời và đều
đặn, cổ động tinh thần yêu nước quyết chiến quyết thắng giết giặc lập công.
Tháng 11 - 1954 Nguyễn Bính tập kết ra Bắc, ông công tác ở hội nhà văn Việt
Nam. Năm 1956 ông làm chủ bút tuần báo “ Trăm hoa” và đã cho đăng báo
một số bài viết.
Năm 1958 Nguyễn Bính về cư trú tại Nam Định, ông công tác tại ty văn hoá
thông tin Nam Định. Ông đã góp phần vào sự trưởng thành của phong trào
sáng tác văn nghệ của quê hương và thơ ông vẫn bám sát yêu cầu nhiệm vụ
chính trị của địa phương cũng như của cả nước. Mùa thu năm 1965, ông theo


cơ quan văn hoá Nam Định sơ tán vào huyện Lý Nhân. Nguyễn Bính mất đột
ngột vào sáng 30 Tết năm Ất Tỵ (20 - 01 - 1966 ) lúc đến thăm mộtt người
bạn ở xã Hoà Lý, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Định, khi ông chưa kịp sang tuổi
49. Ông vừa hoàn thành và cho in bài thơ “ Quê hương”, một bài thơ có
những nét báo hiệu của một giai đoạn mới trong đời thơ ông.


Trong hơn 30 năm sáng tác với nhiều thể loại khác nhau (thơ, truyện thơ,
kịch thơ, kịch bản chèo, lý luận sáng tác). Hoạt động văn nghệ của ông
phong phú đa dạng song thành tựu xuất sắc độc giả ưa chuộng là thơ bởi thơ
là mảng sáng tác kết tụ tài năng và tâm huyết của đời ông. Riêng về thơ có
thể nói rằng ông là cây bút sung sức nhất của phong trào Thơ Mới. Chỉ trong
một thời gian ngắn (1940-1945) Nguyễn Bính đã cho ra đời những tập thơ có
giá trị: “ Tâm hồn tôi” (1940); “Lỡ bước sang ngang” (1940); “Hương cố
nhân” (1941); “Một nghìn cửa sổ” (1941); “Người con gái ở lầu hoa” (1942);
“Mười hai bến nước” (1942); “Mây tần” (1942); “ Bóng giai nhân” (Kịch thơ 1942); “Truyện tỳ bà” (Truyện thơ - 1944). Sau cách mạng, Nguyễn Bính lại
cho ra mắt các tập thơ: “Ông lão mài gươm” (1947); “Đồng Tháp Mười”
(1955); “Trả ta về” (1955); “Gửi người vợ miền Nam” (1955); “Trông bóng cờ
bay” (1957); “Tiếng trống đêm xuân” (1958); “Tình nghĩa đôi ta” (1960);
“Đêm sao sáng” (1962).
Nhìn chung cuộc đời Nguyễn Bính tuy ngắn ngủi nhưng sự nghiệp sáng tác
của ông rất phong phú và đa dạng. Mỗi chặng đường sáng tác của ông đều
có vẻ riêng song sức mạnh và tâm huyết sáng tác của nhà thơ có lẽ dồn vào
giai đoạn trước Cách mạng. Với lối viết giàu chất trữ tình dân gian, Nguyễn
Bính đã tạo được một gương mặt riêng trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Năm 2000 Nguyễn Bính đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn
học nghệ thuật.
II. Tính truyền thống và hiện đại trong thơ tình Lục bát Nguyễn Bính
1. Tính truyền thống trong thơ tình lục bát Nguyễn Bính
Trong thơ Nguyễn Bính, âm hưởng của thơ ca dân gian còn vang vọng ở thể

thơ lục bát ( thể thơ điển hình nhất của ca dao dân ca). Nguyễn Bính đã biết
cách làm giàu cho sáng tác của mình trên mảnh đất văn hoá dân gian, từ đó
khai thác và khơi nguồn cảm hứng để tạo nên những thi phẩm mới. Do vậy,
ta cứ thấy trong thơ Nguyễn Bính phảng phất hình bóng của những câu ca
dao. Nếu ca dao có câu:

Em
về
dọn
Để anh là khách qua đàng trú chân”

qán

bán

hàng

quán

bán

hàng

( Ca dao )
Thì ta gặp lại trong thơ Nguyễn Bính:

Lòng
em

Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi”

( Em với anh )
Nếu câu ca dao:




con
phải
Có chồng phải ngậm bồ hòn đắng cay”

khổ



con

chạy

dâu

( Ca dao )
Thì câu thơ Nguyễn Bính:


tằm
tôi
Vì chồng tôi phải qua cầu đắng cay”

phải


( Thời trước )
Nguyễn Bính hay vận dụng cách ngắt nhịp đều đặn, hài hoà như ca dao
truyền thống. Đó là nhịp 2/2/2; 3/3 ( câu lục ) và 2/2/2/2; 4/4 ( câu bát )
thường thấy của ca dao:

Thôn
Đoài
/
ngồi
nhớ
Một người / chín nhớ / mười mong / một người”

/

thôn

Đông



đành

( Tương tư )

Cũng

thôi
Sang sông lỡ bước / riêng mình chị sao”

/


cũng

( Lỡ bước sang ngang )
Ngoài ra, thơ lục bát của Nguyễn Bính cũng rất tự nhiên, mượt mà, không gò
ép nhưng cũng không rơi vào diễn ca, vần vè, dễ dãi. Bởi thể lục bát dường
như đã nhuyễn vào hồn thơ Nguyễn Bính. Theo thi sĩ Mộng Tuyết thì Nguyễn
Bính làm thơ lục bát rất dễ dàng: “ Bính viết lục bát nhanh như văn xuôi”.
Đọc thơ Nguyễn Bính, ta như được thưởng thức những khúc nhạc êm dịu của
ca dao:

Tình
tôi


nghiễn
chẳng
nát
Tình


Bình minh nở để hoàng hôn mà tàn

giọt

đóa

thuỷ
lăn
vẫn

hoa

ngân
tròn
thơm

( Tình tôi )
Phát huy nhịp điệu trầm buồn, êm ái, mượt mà của thể lục bát, Nguyễn Bính
đã sáng tác nên những bài thơ lục bát rất hay, mang đậm phong cách thơ “
chân quê” như “ Tương tư”, “ Qua nhà”, “ Cô hàng xóm”, “Chân quê”, “ Dòng

lệ”...
Về ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ của thơ ca dân gian, ngôn ngữ trong thơ
Nguyễn Bính không cầu kì khuôn sáo mà gần gũi, chân thành:

Hôm
nay
dưới
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau”
( Cánh buồm nâu )

bến

xuôi

đò


Trong thơ, Nguyễn Bính sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân một cách
thuần thục, tự nhiên, đặc biệt là trong cách trò chuyện, tỏ tình của những đôi

trai gái quê:

Nói
ra
sợ
Van
em,
em
hãy
Như
hôm
em
Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh”

giữ

mất
nguyên
đi

lòng
quê
lễ

em
mùa
chùa

( Chân quê )
Cách thuyết phục, van xin của chàng trai rất tự nhiên, chân thành. Cách nói

“sợ mất lòng em”, “ cho vừa lòng anh”, “ như hôm em đi lễ chùa” vừa giản
dị, vừa cụ thể vừa gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao
động.
Ngôn ngữ thơ lục bát của Nguyễn Bính gần gũi với ngôn ngữ thơ ca dân gian
còn bởi nó giàu hình ảnh, màu sắc, nhạc điệu. Nhà thơ đã chọn cho mình
cách biểu hiện thế giới tình cảm trừu tượng thông qua những sự vật hiện
tượng cụ thể xung quanh, những cảnh quan bình dị nơi thôn dã gần gũi thân
quen, đó là thế giới của giàn đỗ ván, ao rau cần, giậu mồng tơi, hoa chanh
hoa bưởi, gió cả, giời cao...Nguyễn Bính rất thích ngôn ngữ nhiều màu sắc
tươi thắm ( “Lại đi”, “Cho tôi tí nữa”, “ Một chiều say” ).
Một điều đáng chú ý nữa là những từ có vùng mờ nghĩa hết sức đặc sắc của
thơ ca dân gian đã hòa hợp vào thơ Nguyễn Bính một cách rất tự nhiên.
Những đại từ phiếm chỉ “người”, “ai”, “ta”, “mình” hoặc những cụm từ phím
chỉ “người ấy”, “bên ấy”, “bên này” rất tế nhị, khó xác định chính xác đối
tượng nhưng cũng rất dễ vận vào bất cứ người nào, làm tăng khả năng khái
quát tâm trạng điển hình của nhiều người, tăng khả năng đồng cảm giữa
những con người khác nhau. Nguyễn Bính đã làm người đọc phải suy nghĩ
vấn vương bởi những câu có từ mờ nghĩa:

Tương

thức
Biết
cho
ai
biết,
ai
Hai
thôn
chung

Cớ sao bên ấy chẳng sang bên này”

mấy
người
lại

đêm
biết
một

rồi
cho
làng

( Tương tư )
Nguyễn Bính còn làm tăng sắc thái biểu hiện của ngôn ngữ thơ bằng việc sử
dụng thành thạo các biện pháp tu từ mà ca dao hay dùng. Những hình ảnh
ẩn dụ, so sánh thường xuyên đi về trong thơ Nguyễn Bính. Nói tình yêu đôi
lứa, tác giả thường dùng hình ảnh “ hoa- bướm”, “trầu- cau”, “bến- đò”; nói
về thân phận người con gái đi lấy chồng mà không có hạnh phúc, tác giả gọi


là “lỡ bước sang ngang”, “mười hai bến nước”; nói tới thân phận tha hương
nhà thơ viết “thân nhạn”, “số long đong”. Với năng lực liên tưởng dồi dào
Nguyễn Bính còn tạo ra các hình ảnh ví von, so sánh, nhân hóa thật sinh
động ( bướm lười, tơ gạo lẳng lơ, cành cây với nhau, bướm nói điêu... )
Nguyễn Bính sử dụng rất thuần thục lối đan chữ thường thấy trong thơ ca
dân gian kiểu: chín nhớ mười mong, bảy nổi ba chìm, một nắng hai sương,
trăm cay nghìn đắng, một lầm hai lỡ, trăm hờn nghìn tủi, nhạt thắm phai
đào...Ở đó, từ ngữ không còn ý nghĩa thường có của chúng bởi vì chính khi tư

duy theo kiểu đan lồng những từ tương hợp thì ý nghĩa của từ đã được nhân
lên gấp bội:

Thôn
Đoài
ngồi
Một người chín nhớ mười mong một người”

nhớ

thôn

Đông

nổi

ba

chìm

(Tương tư )

Một
đi
bảy
Trăm cay nghìn đắng con tim héo mòn”
( Lỡ bước sang ngang )
Lối đan chữ “ chín nhớ mười mong” đã làm tăng nỗi nhớ mong thấp thỏm của
chàng trai đang trong trạng thái “ tương tư” còn “bảy nổi ba chìm”, “ trăm
cay nghìn đắng” diễn tả một cách ấn tượng cái thảm cảnh kinh hoàng đang

diễn ra trước mắt người con gái lỡ bước sang ngang
Về mặt cấu tứ bài thơ, khảo sát thơ tình Nguyễn Bính nói chung và thơ tình
lục bát nói riêng trước Cách mạng, ta có thể nhận thấy trong thơ ông cũng có
cách cấu tứ bài thơ theo thể phú, thể tỷ và thể hứng. Đây là ba thể chính
trong kết cấu bài ca dao. Đây là lối tác giả tả cả trưa hè theo thể phú:

Trưa

một
buổi
Gió
tây
nổi
cánh
đồng
ngô
Con
đường
thấp
con
Bọn
người
đi
chợ
rẽ
vào
Tiếng
cười
chen
tiếng

Dáng chừng trong bọn có cô chưa chồng"

nắng
rào
đê
đồng
nói

to
rào
cao
ngô
to

(Trưa hè )
Trong ca dao, người lao động rất hay dùng lối so sánh gián tiếp để biểu hiện
tình cảm một cách kín đáo. Thể tỷ được Nguyễn Bính dùng khá nhiều trong
thơ tình. Nguyễn Bính thường dùng lối so sánh trực tiếp để bộc lộ tình cảm,
cảm xúc, đặc biệt là cảm xúc yêu đương, do vậy phép so sánh nào cũng bộc
lộ trực tiếp cảm xúc của cái tôi trữ tình:


"
Lòng
em
như
Dừng
chân
cho
khách

Lòng
anh
như
Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều"

quán
bán
qua
đàng

mảng


hàng
thôi
trôi

( Em với anh )
Thể hứng ( một thể rất đặc trưng của ca dao dân ca) cũng được thể hiện
trong thơ Nguyễn bính:

Cành
dâu
xanh,
Một
mình
em
hái
một
Mới

rồi
mãn
khoá
Ngựa điều võng tía qua đường những ai”


mình

dâu
em
thi

xanh
thương
hương

( Bóng bướm )
2. Nét mới trong những bài thơ tình lục bát Nguyễn Bính
Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa có nhưũng đặc điển gần gũi về nghệ
thuật thể hiện như trong thơ ca dân gian mà tôi đã trình bày ở trên nhưng lục
bát Nguyễn Bính trong thơ tình Nguyễn Bính còn có những sáng tạo mới mẻ
về hình ảnh, nhịp điệu trong cách thức và ý nghĩa sử dụng so với ca dao
Về việc sử dụng hình ảnh, Nguyễn Bính không phải là nhà thơ gây ấn tượng
đối với người đọc bằng những hình ảnh mới lạ như những nhà Thơ Mới khác
như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Thơ ông là sự trở về với những
hình ảnh gần gũi quen thuộc trong ca dao, với những bờ tre, gốc lúa, mảnh
vườn, con đò, bến nước, nương dâu. Nhưng điều đáng chú ý là Nguyễn Bính
sử dụng hình ảnh chất liệu dân dã của ca dao nhưng ông đã thổi vào đó cái
hồn của Thơ Mới. Hình ảnh quen thuộc nhưng cách sắp xếp, diễn tả của tác
giả rất mới mẻ. Cũng hình ảnh ao bèo, giầu không, giếng thơi thường thấy

trongca dao nhưng Nguyễn Bính đã dựng lên một không gian trống vắng,
không có bóng dáng con người mà đầy ắp tâm trạng:

Lợn
không
nuôi
Giầu
không
dây
chẳng
Giếng
thơi
mưa
Ba gian đầycả ba gian nắng chiều”

đặc
buồn
ngập

ao
leo
vào
nước

bèo
giàn
tràn

( Qua nhà )
Đó là tâm trạng buồn, trống rỗng của kẻ đang thất vọng trong tình yêu. Cảnh

ấy, tình ấy không thể tìm thấy trong ca dao
Hình ảnh dòng sông, con thuyền đi vào thơ Nguyễn Bính cũng có sự khác biệt
so với ca dao. Cánh buồm hư ảo xuất hiện trong thơ ông như một sự mở rộng


đến cao độ. Một cánh buồm mở rộng cả không gian, thời gian và chất chứa
tâm trạng của sự chia xa:

Anh
đi
đấy,
anh
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…

về

đâu

?

( Cánh buồm nâu )
Cũng là hình ảnh ngọn mồng tơi quen thuộc nhưng nếu trong ca dao, ngon
mùng tơi cũng như giải yếm, cành hồng là những nhịp cầu thể hiện khát
vọng gắn kết đôi lứa lại với nhau: “Ở gần sao chẳng sang chơi / Để anh cắt
ngọn mồng tơi bắc cầu” hay “ Cô kia cắt cỏ bên sông / Muốn sang anh ngả
cành hồng cho sang”. Thì trong thơ Nguyễn Bính những hình ảnh trên lại trở
thành biểu tượng cho sự ngăn cách về tâm hồn, là khoảng cách tâm lí mà
con người không dễ gì vượt qua được. Chàng trai và cô gái trong thơ lục bát
Nguyễn Bính chỉ cách nhau bởi giậu mồng tơi mà đành thu hẹp mình trong
nỗi buồn, nỗi cô đơn ngập tràn:


Giá
đừng

Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng”

giậu

mồng

tơi

( Người hàng xóm )
Và cuối cùng, chàng trai chỉ còn biết gửi hồn vào con bướm trắng, con bướm
của mộng tưởng vẫn đi về giữa đôi bên để làm vơi bớt nỗi cô đơn của chàng
trai
Một mặt khác, tìm hiểu thơ tình Nguyễn Bính trước năm 1945, ta thấy thơ lục
bát của ông có nhưũng dấu ấn riêng. Vì mang hơi thở của cái tôi Thơ Mới, lục
bát của Nguyễn Bính nhiều khi phá vỡ tính cân xứng hài hoà của lục bát cổ,
đặc biệt là về nhịp điệu. Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính vừa ngắt nhịp
theo kiểu truyền thống vừa có những kiểu ngắt nhịp phá cách linh động diễn
tả tâm hồn của nhân vật trữ tình và cái tôi trữ tình. Nhịp 2/4/2 ở câu bát nhà
thơ sử dụng để diễn tả nỗi tuyệt vọng của chàng trai:

Dở
dang
Dở
dang/
cho
( Xây hồ bán nguyệt )


đã
đến

dở
thế

thì/

dang
dở


dang”

Chàng trai trong câu thơ trên tuyệt vọng chán chường đến phó mạc cho cái
dở
dang
của
định
mệnh
Còn kiểu ngắt nhịp 3/3/2 ở câu bát làm cho lời thơ sinh động hẳn lên. Nhịp
thơ ngắt bất ngờ tạo sự xuất hiện đột ngột của tình huống:

Dừng
chân
trước
cửa
nhà
nàng

Thấy
hoa
vàng/
với
bướm
vàng/
hôn
nhau”
( Dòng dư lệ )


Những lối ngắt nhịp phá vỡ tính cân xứng hài hoà, trong thơ Nguyễn Bính
nhiều khi chẻ nhỏ câu thơ đến một tiếng tạo nên nhưng nhịp lẻ gấp khúc đứt
đoạn như các kiểu 1/1/4; 1/1/2/2; ( câu lục) và các liểu nhịp 2/1/5; 2/1/3/2;
1/1/1/1/2/2 ( câu bát )

Rồi/
rồi/
Em ơi/ nói nhỏ câu này/ với em”

chị

nói

sao

đây

(Lỡ bước sang ngang )
Câu thơ ngắt nhịp theo niềm xúc động xốn xang của cô gái, sự then thùng

với bao ngập ngừng khó nói về chuyện tình cảm riêng tư.
Nhịp lẻ được ngắt liên tiếp ở các câu thơ thể hiện sự bất ổn chông chênh của
con người mãi đắm say trong bể khổ yêu đương :

Yêu/
yêu/
yêu/

Tôi
như
một
kẻ/
sa
lầy
Cao
bao
nhiêu/
thấp
Một/ hai/ ba/ bốn/ năm chiều/ rồi thôi”

thế
trong
bấy

này
yêu
nhiêu

( Lòng yêu đương )
Với lối ngắt nhịp linh hoạt phá cách không tuân theo những quy tắc truyền

thống mà tuân theo tần số dao động của tình cảm, Nguyễn Bính đã tạo cho
thơ lục bát của ông những dấu ấn riêng độc đáo khác với ca dao, đem lại
những xúc cảm mới mẻ cho người đọc.
Lục bát của Nguyễn Bính mang bản sắc, diện mạo thơ tình Nguyễn Bính nói
riêng và thơ Nguyễn Bính nói chung trong phong trào Thơ Mới (1932- 1945).
Lục bát trong thơ tình Nguyễn Bính thể hiện tâm trạng của cái tôi Thơ Mới,
mang đủ mọi cung bậc, cảm xúc buồn vui, ngậm ngùi, cay đắng, vừa như kể
chuyện lại vừa như trữ tình, tiêu biểu như bài “ Tương tư”, “Người hàng xóm”,
“ Lỡ bước sang ngang”…Lục bát của Nguyễn Bính tuy vẫn đi trên khung
truyền thống của dân tộc nhưng nét mới nhất là nằm ở nội dung. Nguyễn
Bính đã làm mới thể thơ lục bát bằng cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, nhịp
điệu mới mẻ, linh động, thấm đẫm cái tình tứ Thơ Mới. Bên cạnh đó đó ông
đã thổi “ hồn quê” vào lục bát. Điều này đã làm cho lục bát của Nguyễn Bính
mang bản sức và diện mạo riêng so với ca dao và lục bát trong phong trào
Thơ Mới. Nét nổi bật của hồn quê trong lục bát Nguyễn Bính là thứ hồn quê
mang màu sắc cá nhân. Cũng mang “ hồn quê” nhưng lục bát ca dao nó
mang tính phổ quát còn trong thơ lục bát của Nguyễn Bính, không gian đồng
quê được phủ lên cái tâm tư của con người hiện đại, nét tâm trạng của cái tôi
Thơ Mới Nguyễn Bính đầy nỗi niềm trước hiện tượng những nét đẹp chân quê
đang dần bị lấn át bởi văn minh đô thị


TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO
1. Lại Nguyên Ân (1998), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà
Nội 2. Hà Minh Đức (1994), Nguyễn Bính thi sĩ của đồng quê, NXB Văn học,
Hà Nội 3. Hà Minh Đức (1997), Một thời đại trong thơ ca về phong trào Thơ
Mới, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 4. Hà Minh Đức (2002), Nguyễn Bính thi sĩ

của làng quê, NXB Văn học, Hà Nội 5. Hà Minh Đức - Bùi Văn Nguyên (1968),
Thơ ca Việt Nam hình thức và thể loại, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội



×