Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

nghiên cứu khả năng nhuộm vải cotton bằng dịch chiết cây mâm xôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.52 KB, 49 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TPHCM
KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG NHUỘM
MÀU CỦA CÂY MÂM XÔI LÊN VẢI
COTTON CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÁC
NHÂN CẨN MÀU

Giảng viên hướng dẫn: TS. PHẠM THỊ HỒNG PHƯỢNG
Sinh viên thực hiện

: ĐẶNG THỊ MỸ AN

MSSV: 14123341
Lớp: DHHO10D
Khoá: 2014 - 2018

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH


KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC

ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG NHUỘM
MÀU CỦA CÂY MÂM XÔI LÊN VẢI
COTTON CÓ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÁC
NHÂN CẨN MÀU



Giảng viên hướng dẫn: TS. PHẠM THỊ HỒNG PHƯỢNG
Sinh viên thực hiện

: ĐẶNG THỊ MỸ AN

MSSV: 14123341
Lớp: DHHO10D
Niên khóa: 2014 – 2018

Tp. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2018


TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP.HCM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

NHIỆM VỤ ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP
Họ và tên sinh viên: Đặng Thị Mỹ An
MSSV

: 14123341

Ngành

: Công nghệ Hóa học


Lớp

: DHHO10D

1. Tên đề tài khóa luận/ đồ án tốt nghiệp: Nghiên cứu khả năng nhuộm màu của
cây mâm xôi lên vải cotton có sự hỗ trợ của tác nhân cẩn màu.
2. Nhiệm vụ:
-

Tổng quan về thuốc nhuộm có nguồn gốc tự nhiên.

-

Giới thiệu về cây mâm xôi và vải cotton 100%.

-

Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chiết dịch từ cây mâm xôi:
 Nhiệt độ chiết
 Thời gian chiết
 Tỉ lệ chiết

-

Tối ưu hóa quá trình chiết dịch từ cây mâm xôi.

-

Kiểm tra sự thay đổi tính chất của vải sau nhuộm bằng phương pháp kiểm

tra định tính và định lượng, phân tích hóa lí:
 Cường độ màu
 Các chỉ tiêu về độ bền với gia công ướt: giặt, Clo, mồ hôi.
 Xác định độ tăng khối
 Xác định thành phần các chất mang màu có trong dịch chiết
 Xác định cấu trúc vải sau nhuộm

3. Ngày giao khóa luận/ đồ án tốt nghiệp: ngày 08 tháng 09 năm 2017
4. Ngày hoàn thành khóa luận/ đồ án tốt nghiệp; ngày 25 tháng 05 năm 2018
5. Họ tên giảng viên hướng dẫn: TS. Phạm Thị Hồng Phượng.


Tp. HCM, ngày 25 tháng 05 năm
2018
BCN KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

TRƯỞNG KHOA

PGS.TS Nguyễn Văn Cường

TS. Phạm Thị Hồng Phượng


LỜI CẢM ƠN
Trải qua bốn năm học tập và rèn luyện tại Khoa Công nghệ Hóa học – Trường
Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh với sự quan tâm và tận tình dạy dỗ
của các Thầy, Cô đã giúp em đạt được những kiến thức cả trong lĩnh vực chuyên
môn để làm hành trang tạo dựng tương lai cho riêng bản thân.

Đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Công
nghiệp TP.HCM đã tạo điều kiện tốt nhất cho em được học tập và rèn luyện bản
thân trong suốt quá trình học tập tại trường.
Em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Văn Cường – Trưởng khoa Công
nghệ Hóa học và các Thầy, Cô công tác tại Khoa, đặc biệt là các Thầy, Cô Bộ môn
Hóa – Vật liệu đã tận tình chỉ dạy cho chúng em không chỉ là kiến thức về chuyên
môn mà còn cả kiến thức về xã hội và cuộc sống để ứng dụng trong đời sống và
công việc sau này.
Em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến TS. Phạm Thị Hồng Phượng đã tận
tình hướng dẫn, dành nhiều thời gian và tâm huyết để giúp em hoàn thành bài Đồ án
chuyên ngành đúng thời gian quy định với kết quả tốt nhất. Bên cạnh kiến thức
trong sách vở, cô còn tạo cho chúng em khả năng làm việc nhóm, khơi dậy khả
năng tự tìm hiểu kiến thức bằng niềm đam mê, giúp chúng em tư duy suy nghĩ hơn
và từng bước trưởng thành, đủ khả năng để có thể vững bước trong tương lai.
Xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình, ba mẹ người đã làm chỗ dựa tinh thần
giúp con vượt qua những khó khăn vất vả để đi đến cuối chặng đường đại học, hoàn
thành quá trình học tập và đạt được thành công như ngày hôm nay.
TP. Hồ Chí Minh, ngày … tháng … năm
2018
Sinh viên thực hiện

Đặng Thị Mỹ An


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................................8
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT...................................................10
1.1. Tổng quan về chất màu tự nhiên............................................................10
1.1.1. Phân loại theo màu sắc....................................................................10

1.1.2. Phân loại theo cấu trúc hóa học.......................................................13
1.2. Lịch sử phát triển của ngành công nghệ dệt nhuộm ở nước ta.............14
1.3. Thuốc nhuộm thiên nhiên từ cây mâm xôi.............................................15
1.3.1. Đặc điểm về nguồn gốc....................................................................15
1.3.2. Đặc tính thực vật..............................................................................16
1.3.3. Công dụng cây mâm xôi trong thực phẩm và y học.........................16
1.3.4. Thành phần hóa học.........................................................................16
1.4. Giới thiệu về chất cẩn màu.....................................................................24
1.5. Giới thiệu về vải cotton (Xơ bông)..........................................................25
1.5.1. Đặc điểm..........................................................................................25
1.5.2. Tính chất hóa học cellulose..............................................................26
1.6. Tổng quan về quá trình trích ly...............................................................27
1.6.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình trích ly....................................27
1.6.2. Trích ly chất màu tự nhiên bằng phương pháp chiết ngâm.............28
1.7. Tổng quan nhuộm..................................................................................28
1.7.1. Phương pháp nhuộm tận trích (nhuộm gián đoạn)..........................29
1.8. Giới thiệu về màu sắc và lý thuyết màu.................................................29
1.8.1. Bản chất màu trong tự nhiên............................................................29
1.8.2. Sự hấp thụ của ánh sáng.................................................................30
1.8.3. Sự khác nhau giữa các màu............................................................32
1.9. Đánh giá độ bền màu của vật liệu nhuộm..............................................34
1.9.1. Quy định mẫu thử.............................................................................35
1.9.2. Phương pháp đánh giá độ bền màu giặt..........................................36
1.9.3. Phương pháp đánh giá độ bền màu với mồ hôi...............................37


1.9.4. Phương pháp đánh giá độ bền màu với Cl......................................38
1.10. Các phương pháp phân tích cấu trúc...................................................38
1.10.1. Phương pháp quang phổ hấp thụ phân tử UV – VIS (Phương
pháp trắc quang phân tử)...........................................................................38

1.10.2. Phương pháp phổ hồng ngoại (FTIR)............................................39
CHƯƠNG 2: THỰC NGHIỆM..........................................................................41
2.1. Mục tiêu và nội dung nghiên cứu...........................................................41
2.1.1. Mục tiêu của đề tài...........................................................................41
2.1.2. Nội dung nghiên cứu........................................................................41
2.2. Nguyên liệu, hóa chất và dụng cụ sử dụng............................................41
2.2.1. Nguyên liệu.......................................................................................42
2.2.2. Hóa chất sử dụng.............................................................................42
2.2.3. Thiết bị và dụng cụ...........................................................................43
2.3. Quy trình tiến hành nghiên cứu..............................................................44
2.3.1. Chuẩn bị nguyên liệu........................................................................46
2.3.2. Khảo sát yếu tố nhiệt độ đối với dịch chiết từ cây mâm xôi.............46
2.3.3. Khảo sát yếu tố thời gian đối với dịch chiết từ cây mâm xôi............46
2.3.4. Khảo sát yếu tố tỷ lệ chiết đối với dịch chiết từ cây mâm xôi..........46
2.3.5. Quy trình nhuộm vải cotton bằng dịch chiết từ cây mâm xôi...........46
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN...........................................................46
3.1. Kết quả khảo sát nhiệt độ đối với quá trình chiết dịch từ cây mâm xôi
.......................................................................................................................46
3.2. Kết quả khảo sát thời gian đối với quá trình chiết dịch từ cây mâm xôi
.......................................................................................................................46
3.3. Kết quả khảo sát tỷ lệ chiết đối với quá trình chiết dịch từ cây mâm
xôi..................................................................................................................46
3.4. Kết quả tối ưu hóa quá trình trích ly chất màu từ cây mâm xôi.............46
3.4. Kết quả nghiên cứu tối ưu hóa quá trình nhuộm vải cotton bằng chất
màu trích ly từ cây mâm xôi..........................................................................46
3.4.1. Kết quả khảo sát nhiệt độ nhuộm vải cotton bằng chất màu trích
ly từ cây mâm xôi.......................................................................................46
3.4.2. Kết quả khảo sát thời nhuộm vải cotton bằng chất màu trích ly từ
cây mâm xôi...............................................................................................46



3.4.3. Kết quả khảo sát tỷ lệ nhuộm vải cotton bằng chất màu trích ly từ
cây mâm xôi...............................................................................................46
3.4.4. Kết quả khảo sát pH nhuộm vải cotton bằng chất màu trích ly từ
cây mâm xôi...............................................................................................46
3.4.5. Kết quả nghiên cứu tối ưu hóa quá trình nhuộm vải cotton bằng
chất màu trích ly từ cây mâm xôi có sự hỗ trợ của tác nhân cẩn màu......46
3.5. Kết quả phân tích dịch chiết và sản phẩm nhuộm................................47
3.5.1. Kết quả chụp phổ FT-IR của dịch chiết trước và sau nhuộm...........47
3.5.2. Kết quả chụp phổ LCMS của dịch chiết trước và sau nhuộm..........47
3.5.3. Kết quả chụp phổ FT-IR của vải trước và sau nhuộm.....................47
3.5.4. Kết quả kiểm tra độ bền màu của vải cotton nhuộm bằng chất
màu trích ly từ cây mâm xôi.......................................................................47
KẾT LUẬN........................................................................................................47
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................47
PHỤ LỤC..........................................................................................................47


LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của xã hội, ngành công nghiệp dệt nhuộm ở nước ta
đang phát triển nhanh chóng, tiến bộ song song với sự phát triển của xã hội loài
người. Dệt may là một ngành xuất khẩu lớn của Việt Nam, với hơn 5000 doanh
nghiệp và sử dụng 2,5 triệu lao động. Ngày nay, công nghiệp phát triển, thuốc
nhuộm được sử dụng nhiều trên thế giới và tại Việt Nam hầu hết là thuốc nhuộm
tổng hợp. Ngoài những lợi ích tích cực của nó trong sự phát triển kinh tế xã hội,
ngành công nghiệp dệt của nhiều nước sản xuất, dệt vải trên thế giới, ngành dệt may
Việt Nam đang phải đối diện với bài toán ô nhiễm môi trường do nước thải nhuộm
dư lượng hóa chất lớn khi thải ra môi trường từ khâu nhuộm – hoàn tất vải của
mình.
Cho đến thời điểm hiện tại thì số lượng cơ sở sản xuất ngành dệt may đang

phát triển một cách nhanh chóng và chưa theo đúng quy hoạch của Chính phủ. Phần
lớn các cơ sở dệt nhuộm chưa có sự đầu tư thích đáng cho công tác xử lý chất thải
và chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề bảo vệ môi trường.
Đặc điểm của công nghiệp gia công dệt nhuộm hiện nay là trải qua nhiều công
đoạn khác nhau với các loại hóa chất khác nhau được sử dụng cho các quy trình gia
công khác nhau. Có một chuỗi dài các công đoạn gia công ướt yêu cầu đầu vào là
nước, hóa chất, năng lượng và tạo ra chất thải trong mỗi công đoạn. Nét đặc trưng
khác của ngành công nghiệp dệt nhuộm là các yêu cầu rất khác nhau về chủng loại,
mẫu mã và màu sắc của vải tạo nên sự thay đổi rất bình thường về tải trọng và khối
lượng chất thải phát sinh. Đáng chú ý, trong nước thải nhuộm gồm những hỗn hợp
phức tạp, các hóa chất dư thừa như phẩm nhuộm, chất hoạt động bề mặt , chất điện
ly, chất ngấm, chất tạo môi trường, men, chất oxy hóa dưới dạng ion, các kim loại
nặng và các tạp chất tách ra từ xơ sợi. Với các loại vải càng sử dụng nhiều xơ sợi
tổng hợp như polyester thì càng dùng nhiều thuốc nhuộm và các chất hỗ trợ khó
hoặc không phân giải vi sinh, dẫn tới lượng chất gây ô nhiễm môi trường trong
nước thải ngày càng cao.


Tình trạng ô nhiễm môi trường từ nước thải nhuộm ảnh hưởng lớn đến hệ sinh
thái động thực vật. Nước thải sinh ra từ dệt nhuộm thường có nhiệt độ cao, độ pH
lớn, chứa nhiều loại hóa chất, thuốc nhuộm khó phân hủy, độ màu cao. Nếu không
được xử lý tốt, nước thải do dệt nhuộm sẽ gây ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô
nhiễm nguồn nước mặt, nước ngầm. Điều đó ảnh hưởng đến đời sống của vi sinh
vật như ngăn cản các quá trình quang hợp, ảnh hưởng khả năng tích tụ sinh học của
các sinh vật trong nước làm giảm tính thẩm mỹ môi trường. Hệ quả trực tiếp là các
con sông biến thành màu xanh, nâu, đỏ, tím, trở thành các con kênh, rạch bốc mùi
hôi thối. Người dân không thể canh tác, nuôi trồng hay đánh bắt thủy hải sản trên
dòng sông. Các doanh nghiệp bị lên án trên các mặt báo, bị cơ quan chức năng môi
trường xử lí phạt hành chính, thậm chí bị rút giấy phép kinh doanh.
Chính vì vậy, vấn đề giảm thiểu ô nhiễm môi trường ngành dệt may được xem

là một trong những vấn đề cấp thiết để góp phần giảm thiểu mức thấp nhất tình
trạng ô nhiễm hiện nay. Xử lí triệt để vấn đề thải nước thải nhuộm chưa qua xử lí
hoặc xử lí không đúng quy định ra ngoài môi trường. Trước thách thức đó, sử dụng
thuốc nhuộm có nguồn gốc tự nhiên đối với ngành dệt nhuộm hiện nay là hướng
giải quyết vấn đề cấp thiết này môt cách hiệu quả nhất. Nó không những góp phần
đáng kể trong việc bảo vệ môi trường tránh khỏi nguy hiểm mà còn giúp cho ngành
công nghiệp bền vững và thân thiện với môi trường.
Nhằm góp phần ổn định sản xuất và bảo vệ môi trường, trong Chiến lược phát
triển ngành công nghiệp dệt may Việt Nam đến năm 2018, định hướng đến năm
2025, một trong những mục tiêu quan trọng mà ngành dệt may đặt ra là phát triển
gắn bó với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông
thôn.


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ LÝ THUYẾT
1.1. Tổng quan về chất màu tự nhiên.
Từ thời thượng cổ loài người đã biết sử dụng thuốc nhuộm thiên nhiên lấy từ
thực vật và động vật. Trừ màu xanh và đỏ alizarin có độ bền màu cao, nhìn chung
thuốc nhuộm thiên nhiên có độ bền màu thấp, nhất là với ánh sáng, cường độ màu
nhỏ do chứa trong phân tử hệ thống mang màu kém bền. Hơn nữa hiệu suất khai
thác thuốc nhuộm được tạo ra rất ít, dẫn đến giá thành cao. Vậy nên đến nay hầu hết
thuốc nhuộm thiên nhiên đã bị thay thế bằng thuốc nhuộm tổng hợp, số ít còn lại
chủ yếu được dùng nhuộm trong thực phẩm hoặc nhuộm vải của các dân tộc ít
người theo phong tục cổ truyền.
1.1.1. Phân loại theo màu sắc.
Đến nay người ta đã xác định được công thức cấu tạo của một số thuốc nhuộm
thiên nhiên theo từng loại màu, từ đó đánh giá được tính chất sử dụng của chúng.
− Thuốc nhuộm thiên nhiên màu vàng:
Tấc cả thuốc nhuộm tự nhiên màu vàng đều có nguồn gốc thực vật. Màu vàng
quan trọng hơn cả được dùng trong nhiều thế kỉ qua là rezeda. Khi phối nó với màu

xanh chàm sẽ nhận được màu xanh lục gọi là màu Lincon tuyệt đẹp. Màu vàng hay
vàng nâu phải kể đến flavon, polyene, pyran, iso-quinoline. Mỗi phân lớp hóa học
chứa nhiều nhóm màu đa dạng, chẳng hạn pyran colorants chứa 2 nhóm lớn là
xanhthons và flavonoids (flavones, isoflavones, flavonols…). Chính điều này đã
góp phần tạo ra cho chất màu tự nhiên sự đa dạng và phong phú.

Lutein


Zeaxanthin

Hình 1.0.1: Công thức màu vàng Lutein lấy từ lòng đỏ trứng gà và zexanthin lấy từ
bắp
− Thuốc nhuộm thiên nhiên màu đỏ:
Khác với các màu vàng, ba trong số bốn thuốc nhuộm màu đỏ tự nhiên
(camec, cosenil, lac) có nguồn gốc động vật, song màu đỏ quan trọng nhất vẫn là
marena hay còn gọi là alizarin thu được từ thực vật. Tấc cả các thuốc nhuộm màu
đỏ kể trên đều là dẫn xuất hydroxyl của antraquinon. Các dẫn xuất khác nhau của
chúng còn có ứng dụng đến ngày nay có ánh màu tươi và độ bền màu rất cao với
ánh sáng. Vì vậy có thể nói rằng thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ có độ bền màu với
các chỉ tiêu cao hơn nhiều so với các nhóm màu vàng. Cấu tạo của thuốc nhuộm tự
nhiên màu đỏ tía đã được Fridlender tìm ra vào năm 1909, đó chính là 6,6’ –
dibromindigo. Gần đây từ thân lá của cây Dacathais orbi người ta đã xác định được
quá trình tạo thành màu đỏ tía này. Hợp chất ban đầu là tirindocxysunfat có màu
ghi, khi thủy phân bằng men nó sẽ chuyển thành tirindocxyl, một phần bị oxy hóa
bằng oxy không khí đến 6-brom-2-metyl-tioindoleninon. Sau đó hợp chất
tirindocxysunfat lại kết hợp với tirindocxyl để thành phức 1:1 kiểu quihydron
(tiriverdin), dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời biến thành 6,6’ – dibromindigo là
gốc màu đỏ tía.



Hình 1.0.2: Công thức cấu tạo thuốc nhuộm tự nhiên màu đỏ tía
− Thuốc nhuộm thiên nhiên màu xanh chàm:
Trong các màu xanh thiên nhiên có màu xanh vaida và mùa xanh chàm được
dùng đến nay. Lúc đầu người ta cho rằng đó là hai màu khác nhau, về sau mới biết
chúng giống nhau về cấu tạo hóa học và chính là inđigo tách được từ họ chàm có
tên khoa học là Indigofera tinctoria L, có công thức hóa học:

Hình 1.0.3: Công thức cấu tạo của thuốc nhuộm Indigotin
Người cổ đại chiết lấy thuốc nhuộm chàm tự nhiên từ một vài loài thực vật
cũng như một trong hai loài ốc biển (Hexaplex trunculus hay Haustellum brandaris)
nổi tiếng của người Phoenicia. Hiện nay, đã có công trình nghiên cứu đã tìm thấy
màu chàm còn có trong loài Lồng mức ngờ Wrightia dubia (Sims). Spreng thuộc họ
Trúc đào (Apocynaceae) được phân bố nhiều ở Đèo Bảo Lộc, Bảo Thuận, Lâm
Đồng nhưng gần như tất cả thuốc nhuộm màu chàm ngày nay đều được sản xuất
bằng phương pháp tổng hợp.


Hiện nay indigo là một trong hai thuốc nhuộm thiên nhiên vẫn còn có ý nghĩa
thực tế tuy nó đã được tổng hợp và chế tạo ở quy mô công nghiệp.
− Thuốc nhuộm thiên nhiên màu đen:
Thuốc nhuộm thiên nhiên màu đen có ý nghĩa thực tế duy nhất là màu đen
campec, nó được biết từ năm 1500, nhưng đến năm 1812 mới thực sự có ý nghĩa
thực tế khi một nhà hóa học Pháp đã tìm thấy nó có khả năng tạo thành phức không
tan với muối kim loại có màu đen. Khi mới tách từ gỗ campec ra, hợp chất ban đầu
có màu đỏ gọi là hematein, khi kết hợp với muối crom nó chuyển thành màu đen vì
thế mà gỗ campec trở nên có giá trị.

Hematein có công thức sau:


Mặc dù chưa biết cụ thể cấu tạo của phức kim loại này nhưng người ta cho
rằng nó có cấu trúc đại phân tử, trong đó ion crom liên kết với phân tử hematein để
tạo thành phức. Cần nhấn mạnh rằng đa số thuốc nhuộm tổng hợp màu đen dùng
trong ngành dệt và mộtHình
số ngành
với hai
thuốc nhuộm thành phần,
1.0.4:nhuộm
Công thức
cấuhay
tạo nhiều
của Hematein
vì thuốc nhuộm màu đen có màu không tươi khi dùng riêng. Màu đen campec được
dùng như là thuốc nhuộm đơn, riêng biệt, để nhuộm tơ tằm, da và một vài vật liệu
khác, vẫn có ý nghĩa đến bây giờ.


Thuốc nhuộm tự nhiên có các ưu điểm như không độc, không gây dị ứng nguy
hiểm cho da, ít gây ô nhiễm với môi trường. Trừ màu xanh chàm và màu đỏ alizanin
có độ bền màu cao, phần lớn thuốc nhuộm tự nhiên có độ bền màu thấp, nhất là với
ánh sáng. Hơn nữa hiệu suất khai thác thuốc nhuộm từ thực vật rất thấp, phải dùng
nhiều tấn nguyên liệu mới thu được một kilogram thuốc nhuộm nên giá thành rất
cao.
Dioscorides mô tả thuốc nhuộm thực vật của thế giới cổ đại: Cây thiên thảo
(thứ cây rễ có chất đỏ dùng làm thuốc nhuộm) cho màu đỏ, trong những năm qua
thuốc nhuộm màu đỏ được lấy từ thực vật. Cây nghệ tây (Crocus sativus) cho màu
vàng. Cây tùng lam (Isatis tincloria) cho màu xanh. Vỏ cây sồi, vỏ ngoài cây óc
chó, các nhánh của cây đậu chổi, hoa lựu.
1.1.2. Phân loại theo cấu trúc hóa học
− Indogoid: loại thuốc nhuộm này trước kia có nguồn gốc từ thực vật màu

xanh sẫm trích từ lá cây chàm.
− Anthraquinone: hầu như thuốc nhuộm đỏ tự nhiên được dựa trên cấu trúc của
anthraquinoid đều có nguồn gốc từ thực vật khoáng sản. Cây thiên thảo, cánh kiến,
sâu kemes, cánh kiến đỏ đều là loại thuốc nhuộm đỏ có kiểu cấu trúc đó.
− Alphanaphthoquinones: ví dụ điển hình của lớp này là lawsone (henna),
trồng chủ yếu ở Ấn Độ và Ai Cập. Một thuốc nhuộm tương tự juglone, thu được từ
vỏ quả óc chó chưa chín.
− Flavonoids: là một nhóm hợp chất tự nhiên lớn thường gặp trong thực vật, có
ở phần lớn các bộ phận của thực vật bậc cao, đặc biệt là ở hoa (màu vàng trong hoa
hòe…). Flavonoid có khung cơ bản là C6 – C3 – C6 gồm hai vòng benzene A và B
nối nhau qua một mạch 3 carbon, cấu trúc có thể là vòng kín mở. Trong thực vật,
flavonoid tồn tại chủ yếu ở hai dạng: dạng tự do (aglycol) và dạng liên kết với
glucid (glycozit). Trong đó, dạng glycol thường tan trong các dung môi hữu cơ như
ete, aceton, cồn nhưng hầu như không tan trong nước, còn dạng glycozit thì tan
trong nước nhưng không tan trong các dung môi không phân cực như aceton,
benzene, chloroform.




Di-hydropyrans: liên quan chặt chẽ trong cấu trúc hóa học flavon thay thế di-

hydropyrans, hợp chất màu đậm trên len, lụa và bông như cây vang, brazil gỗ và
sappan gỗ là những ví dụ phổ biến.
− Anthocyanidins: thuộc nhóm chất màu tự nhiên tan trong nước lớn nhất
trong thế giới thực vật, thuật ngữ anthocyanin bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp,
anthocyanin mang đến cho thực vật nhiều màu sắc rực rỡ như hồng, đỏ, cam… chất
này có trong lá của chùm cây ớt nhuộm lên vải len và bông sẽ có màu cam.
− Carotenoids: chuỗi polyen liên hợp đặc trưng cho màu thấy được carotene
tên lớp có nguồn gốc từ các sắc tố da cam được tìm thấy trong cà rốt. Có hai loại

của carotenoids có mặt trong tự nhiên, carotene như

(từ Daucus carota) và

xanthophylls.
1.2. Lịch sử phát triển của ngành công nghệ dệt nhuộm ở nước ta.
Cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam từ thời thượng cổ đã biết đến thuốc nhuộm
thiên nhiên. Thực tế nhuộm vải bằng củ, quả, hay lá cây là phương pháp được dân
gian ta áp dụng từ lâu. Chẳng hạn củ nâu ở đồng bằng Trung du phía Bắc hay hạt
điều màu (hạt cà ri) ở miền Nam. Qua thời gian nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã
phát hiện trong thiên nhiên có sẵn các nguồn nguyên liệu làm chất nhuộm từ vỏ,
quả, hạt, củ và đặc biệt là các loại lá cây rụng ở khắp mọi nơi thậm chí ngay tại các
thành phố, đô thị. Những loại lá như lá chè già (bị vứt bỏ trên các nông trường chè),
lá bang, lá xà cừ, lá xoài, lá vải, lá ổi, lá cà phê,… đều là những nguồn nguyên liệu
có thể được sử dụng trong sản xuất trong khi đây là những loại rất phổ biến ở nước
ta. Vải nhuộm bằng những nguyên liệu này có độ bền màu khá tốt (cấp 4 – 5/5) do
quy trình xử lý sau nhuộm theo công nghệ hiện đại. Các sản phẩm cũng an toàn với
sức khỏe người mặc do không sử dụng hóa chất độc hại trong quá trình nhuộm. Sử
dụng chất nhuộm màu thiên nhiên giúp người dân tận dụng các nguồn chất thải từ
sản xuất nông nghiệp như lá chè già (bị vứt bỏ trên các nông trường chè), lá tre, hạt
lương nho (hạt cà ri sẵn có trong miền Nam), lá hồng xiêm,… và những cây dễ
trồng để cung cấp nguyên liệu cho việc chiết xuất màu. Thêm vào đó, việc áp dụng
công nghệ này giúp khôi phục những làng nghề dệt vải truyền thống, làng nghề


bông tự nhiên Trát Cầu, làng nghề Quất Động… và thúc đẩy sự phát triển của vải
lụa nhằm đáp ứng nhu cầu đầu vào khi nhuộm thiên nhiên với quy mô lớn.
Một số loại quả và lá được dùng để nhuộm thực phẩm như: quả giành giành,
bột nghệ để nhuộm màu vàng… Đến nay vẫn chưa có cơ sở tổ chức tách chiết thuốc
nhuộm thiên nhiên để dùng vào mục đích kỹ thuật và dân sinh, việc sử dụng chúng

ở nước ta vẫn dựa vào kinh nghiệm dân gian của từng miền.
1.3. Thuốc nhuộm thiên nhiên từ cây mâm xôi
1.3.1. Đặc điểm về nguồn gốc
Cây mâm xôi hay còn gọi là cây Cẩm đỏ (danh pháp: Peristrophe bivalvis (L.)
Merr.) thuộc họ Ô rô (Acanthaceae) - là một loại cây có tính mát và có vị hơi ngọt.
Cây mâm xôi có vùng phân bố tương đối rộng, phân bố rải rác ở hầu hết các tỉnh
miền núi phía Bắc nước ta như: Yên Bái, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Lào Cai, Hà
Giang, Lai Châu, Hòa Bình,…
1.3.2. Đặc tính thực vật
Cây mâm xôi là một cây cỏ, lâu năm, cao khoảng 30 – 60 cm, cành non có
lông về sau nhẵn, thân thường 4 cạnh, có rãnh dọc sâu. Lá đơn, mọc đối, hình bầu
dục hay trứng hoặc thuôn mũi giáo, mặt trên không có bớt trắng ở dọc gân, kích
thước 2 – 10cm x 1,2 – 3,6cm.
Cụm hoa chùm ở ngọn hay nách lá, chùm ngắn. Đài 5 răng đều dính nhau ở
nửa dưới, kích thước ngắn hơn lá bắc hoa. Tràng màu hồng nhạt, phân 2 môi, môi
dưới có 3 thùy cạn, ống hẹp kéo dài. Nhị 2, thò ra khỏi ống tràng. Bầu 2 ô, mỗi ô 2
– nhiều noãn. Hàng năm, mâm xôi ra hoa vào tháng 10 – 11.
Kết quả điều tra cho thấy, tại huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái có 4 dạng
mâm xôi khác nhau (Mâm xôi đỏ, 2 dạng Mâm xôi tím và Mâm xôi vàng). Cây
mâm xôi chủ yếu được nhân giống bằng cành, hiện tại chưa phát hiện cây con từ
hạt.


1.3.3. Công dụng cây mâm xôi trong thực phẩm và y học
Cây mâm xôi có vị ngọt nhạt, tính mát có tác dụng thanh phế nhiệt chỉ khái (giảm
ho) chỉ huyết (cầm máu). Nếu phối hợp với các vị thuốc khác trị được các chứng
viêm phế quản nhiều đườm, tiêu lỏng, xuất huyết, chấn thương gân, cơ bị bầm dập.
Lá mâm xôi còn được người dân tộc làm nước để tắm cho trẻ con khỏi rơm sảy.
Do có những đặc tính quý nên lá mâm xôi đỏ được dùng để tạo màu thực
phẩm sẽ đem lại một vẻ đẹp tinh tế cho món ăn, đặc biệt là làm xôi ngủ sắc, một

món ăn đặc trưng ở vùng núi Yên Bái này.
1.3.4. Thành phần hóa học
Mâm xôi là cây thuộc họ Ô rô nên lá và thân của nó chứa các hợp chất chung của họ
và đồng thời cũng chứa các hợp chất riêng. Một số thành phần chính chứa trong cây
mâm xôi là: anthocyanin, tannin, flavonoid, bao gồm các chất có hai loại khung
chính perlagonidin và pyranopeonidin. Thành phần chính bao gồm: Afzelechin (48)pelargonidyl

glucozit,

Pelargonidin-3-O-gentiobiozo



Pelargonidin-3-O-

sambabiozo và 4’-sucxinoyl-3-rhamnozyl-(4H, 5H)-pyranocyanidin. Trong đó
thành phần mang màu là anthocyanin, tannin và flavonoid.
1.3.4.1. Anthocyanin
Anthocyanin là những hợp chất glycoside của anthocyanidin hiện có trong
thiên nhiên bao gồm các dẫn xuất polyhydro và polymethoxy của 2phenylbenzopyrylium hoặc muối flavylium.
Sự khác nhau giữa các anthocyanin được xác định bởi sự khác nhau giữa số
lượng và vị trí của nhóm hydroxyl trong phân tử, mức độ metyl hóa của nhóm
hydroxyl, bản chất, vị trí của các nhóm đường gắn vào phân tử, bản chất số nhóm
acid mạch thẳng hay mạch vòng gắn vào phân tử.


Hình 1.0.5: Cation Flavylium
(R1 và R2 là OH, H hoặc OCH3, R3 là glucosyl hoặc H, R4 là OH hoặc Glucosyl)
Các anthocyanin khi bị mất hết các nhóm đường được gọi là anthocyanidin
hay aglycone, mỗi anthocyanidin có thể bị glycosyl hóa và acyl hóa bởi các loại

đường và các acid khác nhau tại những vị trí khác nhau nên số lượng anthocynin
lớn hơn 10 – 20 lần so với số lượng anthocyanidin.
Sự glycosyl hóa các anthocyanin có thể xảy ra ở vị trí 7, 3’,4’,5’ đối với nhóm
hydroxyl. Tuy nhiên, do án ngữ không gian nên sự glycosyl hóa không thể xảy ra ở
vị trí 3’ và 4’.
Căn cứ vào vị trí và số nhóm đường gắn vào anthocyanidin mà người ta phân
loại anthocyanin thành 18 nhóm trong đó có dạng thông dụng nhất là 3-monoside,
3-bioside, 3,5 – diglycoside và 3,7 – diglycoside.
Các loại đường thông thường nhất liên kết với anthocyanidin là glucose, các
mono saccharide (rhamnose, galactose, xylose, arabinose), các disaccharide
(rutinose, sabubiose,sophorose, ít thông dụng hơn là lathyrose, gentiobiose hoặc
laminariobiose). Ngoài ra, các trisacchride cũng có thể liên kết với anthocyanidin.
Bảng 1.0.1: Các anthocyanidin hiện có trong tự nhiên
Tên
Appigeninidin (AP)
Lutcolinidin (Lt)
Pel argonidin (Pg)
Tricitinidin (Tr)
Auratinidin (Au)

Nhóm thế
3
5
H
OH
H
OH
H
OH
O

OH
H
O
OH

Màu
6
H
H
H
H

7
OH
OH
OH
OH

3’
H
OH
OH
H

4’
OH
OH
OH
OH


5’
H
OH
H

Cam
Đỏ
Cam
Đỏ cam

O

OH

H

OH

H

Đỏ cam


H
Cyanidin (Cy)
O
H
Peonnidin (Pn)
O
H

Rosinidin (Rs)
O
H
Delphinidin (Dp)
O
H
Pettunidin (Pt)
O
H
Pulchellidin (Pl)
O
H
Europinidin (Eu)
O
H
Malvidin (Mv)
O
H
H’irsutidin (Hs)
O
H
Canensindin (Cp)
O
H
6 – Hydyoxyanidin O
(6-O HcY)
H
O
H


OH

H
H

OH

OH

OH

H

Đỏ

OH

H

OH

OH

H

Đỏ ánh xanh

OH

H


OH

H

Đỏ ánh xanh

H

O
H
H

OM
e
OH

OM
e
OM
e
OH

OH

OH

Đỏ ánh xanh

OH


OH

OH

OH

Đỏ ánh xanh

OH
OM
e
OM
e
OH

H

OH

OH

OH

OH

Đỏ ánh xanh

H


OH

OH

OH

OH

Đỏ ánh xanh

H

OH

H

OM
e
OH

H

OM
e
OH

OM
e
OH


OH

OH

OH

OH

OH

OM
e
OM
e
OM
e
H

Đỏ ánh xanh

OH

OM
e
OH

OH

OH


OH

H

Đỏ cam

OM
e

O
H
H

Đỏ ánh xanh
Đỏ ánh xanh
Đỏ

Hình 1.5 cho thấy sự metyl hóa các anthocyanin và những hợp chất glycoside
của chúng thường xảy ra ở vị trí C-3’ và C-5’, đôi khi cũng xảy ra ở vị trí C-5 và C7. Tuy nhiên thực tế cho thấy không có anthocyanin mà sự glycosyl hóa hoặc
methoxyl hóa xảy ra đồng thời ở các vị trí C-3, -5, -7 và -4’. Nhóm hydroxyl ở một
trong các vị trí C-5, V-7 hoặc C-4’ thì thích hợp cho việc hình thành cấu trúc
quinonoidal (anhydro) base.
Các anthocyanin thường bị acyl hóa bởi acid p-coumaric, cafeic, ferulic, hoặc
những acid sinapic, đôi khi anthocyanin cũng bị acyl hóa bởi các acid như: phydroxybenoic, malonic, hoặc acetic. Sự thay thế nhóm acyl thường xảy ra ở vị trí
C-3 của nhóm hydroxyl đối với đường.
Anthocyanin tinh khiết ở dạng tinh thể hoặc vô định hình là hợp chất khá phân
cực nên tan tốt trong dung môi phân cực. Màu sắc của anthocyanin luôn thay đổi
phụ thuộc vào pH, các chất màu có mặt và nhiều yếu tố khác, tuy nhiên màu sắc của



anthocyanin thay đổi mạnh nhất phụ thuộc vào pH môi trường. Thông thường khi
pH < 7 các anthocyanin có màu đỏ, khi pH > 7 thì có màu xanh. Ở pH = 1 các
anthocyanin thường ở dạng muối oxonium màu cam đến đỏ, ở pH = 4 – 5 chúng có
thể chuyển về dạng bazo cacbinol hay bazo chalcon không màu, ở pH = 7 -8 lại về
dạng bazo quinoidal anhydro màu xanh.
Anthocyanin có bước sóng hấp thụ trong miền nhìn thấy, khả năng hấp thụ cực
đại tại bước sóng 510 – 540nm. Độ hấp thụ là yếu tố liên quan mật thiết đến màu
sắc của các anthocyanin chúng phụ thuộc vào pH của dung dịch, nồng độ
anthocyanin: thường pH thuộc vùng acid mạnh có độ hấp thụ lớn, nồng độ
anthocyanin càng lớn độ hấp thụ càng mạnh.
Ngoài tác dụng là chất màu thiên nhiên được sử dụng khá an toàn trong thực
phẩm, tạo ra nhiều màu sắc hấp dẫn cho mỗi sản phẩm, anthocyanin còn là hợp chất
có nhiều hoạt tính sinh học quí như: khả năng chống oxy hóa cao nên được sử dụng
để chống lão hóa, hoặc chống oxy hóa các sản phẩm thực phẩm, hạn chế sự suy
giảm sức đề kháng, có tác dụng làm bền thành mạch, chống viêm, hạn chế sự phát
triển của các tế bào ung thư, tác dụng chống các tia phóng xạ.
Anthocyanin phân bố rộng rãi trong tự nhiên, có mặt trong 27 họ thực vật,
thường tạo ra các màu đỏ, tím, xanh thẫm ở nhiều loại rau, hoa, quả như hoa dâm
bụt, thân và lá của cây mâm xôi, rễ củ cải đỏ, lá tía tô, dâu tây và bắp cải tím.
Anthocyanin tích lũy chủ yếu ở trong tế bào biểu bì và hạ biểu bì thực vật, tập trung
trong không bào hoặc các túi gọi là anthocyanoplast. Nhìn chung, hàm lượng
anthocyanin trong phần lớn rau quả dao động từ 0,1% đến 0,11% hàm lượng chất
khô. Thực vật chứa anthocyanin cũng đồng thời chứa flavonoid.
Trong rau quả hàm lượng anthocyanin liên quan đến độ đậm của màu sắc quả,
quả càng đậm thì hàm lượng anthocyanin càng cao. Anthocyanin trong thực vật
không phải là một chất thuần nhất mà là một hỗn hợp. Tỷ lệ giữa các anthocyanin
trong một loại rau quả phụ thuộc vào loài, giống cây.
1.3.4.2. Tanin
Từ tanin được dùng đầu tiên vào năm 1976 để chỉ những chất có mặt trong
dịch chiết từ thực vật có khả năng kết hợp với protein của da sống động vật làm cho

da biến thành da thuộc không thối và bền. Do đó tanin được định nghĩa là những
hợp chất polyphenol tạo thành polymer có trong thực vật có vị chát và được phát


hiện dương tính với “thí nghiệm thuộc da” và được định lượng dựa vào mức độ hấp
phụ trên bột da sống chuẩn. Nó có khối lượng tương đối cao, phân tử có cấu trúc
vòng thơm đặc trưng với nhiều nhóm thế hydroxyl. Định nghĩa này không bao gồm
những chất phenol đơn giản hay gặp cùng với tannin như acid gallic, các chất
cetachin, acid chlorogenic… mặc dù những chất này ở những điều kiện nhất định có
thể cho kết tủa với gelatin và một phần nào bị giữ trên bột da sống. Chúng được gọi
là pseudotannin. Tanin rất nhạy với ánh sáng và dễ bị oxi hóa bởi oxy của không khí
biến thành các oxit có màu đen vì thế chúng được bảo quản trong các lọ thủy tinh
màu sẫm.
Những thành phần hóa học phản ứng dễ dàng với các phân tử sinh học khác
thông qua nhóm hydroxyl của chúng. Nó có thể kết tủa protein, enzyme,
carbohydrates và ancaloid, được sử dụng từ lâu trong công nghiệp thuộc da. Các
trọng lượng phân tử hiệu quả cho quá trình thuộc da là 500 – 2000 và hoạt tính phụ
thuộc vào cấu trúc của tannin. Thông thường, các phân tử tannin cần ít nhất 12
nhóm hydroxyl và ít nhất năm nhóm phenyl có chức năng như chất kết dính protein.
Tannin có trong gỗ, lá, chồi, vỏ cây, bộ phận của hoa, hạt rễ và thường ở mức
cao trên trọng lượng khô của cây.
Khi tế bào thực vật bị nhàu nát, tanin có thể bị thấm ra ngoài, tiếp xúc không
khí nên bị oxi hóa và có màu nâu thâm rõ. Khi tanin tiếp xúc với không khí, đặc biệt
dưới ảnh hưởng tác dụng của men, rất dễ bị oxy hóa biến từ màu hồng sang màu
nâu đậm, khó tan trong nước lạnh.
Tannin tan trong nước lạnh, aceton, phần lớn là không tan trong ether. Tính
chất tan phụ thuộc trạng thái tannin trong cây. Cấu trúc hóa học của tannin chia làm
hai loại: tannin thủy phân được (tannin pyrogallic) và tannin không thủy phân được
hay còn gọi là tannin ngưng tụ (tannin pyrocatechic)
Tanin thủy phân được (tannin pyrogallic): loại tannin này có những đặc

điểm sau: khi thủy phân bằng acid hay enzym tanaza thì giải phóng ra đường
glucose, đôi khi đường đặc biệt như hamamelose. Phần không phải đường là acid,
các acid thường gặp là acid gallic. Các acid này liên kết với nhau theo dây nối
depsid để tạo thành acid digallic, trigallic. Ngoài ra còn có acid ellagic, acid
luteolic. Đặc điểm chính của tanin pyrogallic:


− Thường dễ tan trong nước
− Cho kết tủa màu xanh đen với muối sắt (III)
− Cho kết tủa bông với chì acetat 10%
− Khi cất khô ở 180 – 200oC ta thu được pyrogallol là chủ yếu

Acid digallic

Acid gallic

Acid trigallic
Hình 1.0.6: Tannin thủy phân
Tanin ngưng tụ hay còn được gọi là tanin pyrocatechic
Loại tanin này có những đặc điểm sau:
− Dưới tác dụng cả acid hoặc enzym dễ tạo thành chất đỏ tanin hay
phlobaphen. Phlobaphen rất ít tan trong nước là sản phẩm của sự trùng hợp hóa kèm
theo oxy hóa, do đó tanin pyrocatechic còn được gọi là phlobatanin. Phlobaphen là
đặc trưng của một số dược liệu như vỏ canh ki na, vỏ quế…
− Khi cất khô thì cho pyrocatechin là chủ yếu.
− Cho tủa màu xanh lá đậm với muối sắt (III).


− Cho tủa bông với nước brom.
− Khó tan trong nước hơn tanin pyrogallic

Tanin ngưng tụ được biết nhiều trong các chi Acacia, Camellia, Cinchona,
Cinnamomum, Colophospermum, Rheum, Salix…
Tanin nhóm này được tạo thành do sự ngưng tụ từ các đơn vị flavan-3-ol hoặc
flavan-3,4-diols. Những tannin đơn giản thuộc loại này đã được nói đến trong phần
đại cương về flavonoid. Có tác giả gọi tannin ngưng tụ thuộc loại này là các
proanthocyanidin.

Hình 1.0.7: Flavan-3-ol

Hình 1.0.8: Flavan-3,4-diol

Các flavonoid là một nhóm đa dạng các chất chuyển đổi khác nhau trên môt
nền tảng là hệ thống dị vòng bắt nguồn từ phenylanin (B) và sinh tổng hợp
polyketide (A).
Con đường sinh tổng hợp để tổng hợp nên flavanoid được hiểu rõ ràng, nhưng
các bước tạo nên sự ngưng tụ và trùng hợp vẫn chưa được làm sáng tỏ. Cấu trúc của
họ flavonoid được kí hiệu bằng chữ cho các vòng và đánh số thứ tự cho hệ thống
các nguyên tử carbon. Tính chất đặc trưng nhất của tanin ngưng tụ là liên kết bằng
con đường C-C giữa C8 của nhóm nối dài với C4 của nhóm cuối mạch.
1.3.4.3. Flavonoid
Flavonoid là những hợp chất phenol màu thực vật, tạo nên màu cho rất nhiều
rau, quả, hoa… Phần lớn các flavonoid có màu vàng. Tuy vậy, một số sắc tố có màu
xanh, tím, đỏ, không màu cũng được xếp vào nhóm này vì về mặt hóa học, chúng
có cùng khung sườn căn bản. Flavonoid có cấu trúc cơ bản là 1,3-diphenylpropan
nghĩa là 2 vòng benxen A và B nối nhau qua một dây có 3 carbon nên thường được
gọi là C6-C3-C6. Cách đánh số tùy theo mạch C3 đóng hay hở. Nếu dây C3 đóng thì


đánh số bắt đầu từ dị vòng với dị nguyên tố oxygen mang số 1 rồi đánh tiếp đến
vòng A, còn vòng B đánh số phụ. Nếu dây C 3 hở, đánh số chính trên vòng B và

đánh số phụ trên vòng A.

Hình 1.0.9: Cách đánh số thứ tự trên cấu trúc của Flavonoid
Thường các flavonoid có mang một hoặc nhiều nhóm –OH ở vị trí 5 và 7 trên
nhân A và ở vị trí 3,4,5 trên nhân B. Các flavonoid có thể hiện diện ở dạng tự do
hay dangk glycosid. Các đường thường gặp nhất là đường D-glucose, D-galactose,
L-rhamnose, L-arabinose, D-xylose, D-apiose và acid uronic.
Các dẫn chất flavon có màu vàng rất nhạt có khi không màu (trường hợp các
nhóm OH đã methyl hóa), flavonol vàng nhạt đến vàng, chalcon và auron vàng đậm
đến đỏ cam. Các nhóm thuộc nhóm isoflavon, flavanone, isoflavanon, flavanonol,
leuco-anthocyanidin, flavan-3-ol không có nối đôi liên hiệp giữa vòng B với nhóm
carbonyl nên không màu. Màu sắc của các flavonoid ở trong các bộ phận của cây
còn phụ thuộc vào hỗn hợp với các sắc tố khác.
Độ tan không giống nhau, thường flavonoid glycoside và flavonoid sulfat là
những hợp chất phân cực nên không tan hoặc ít tan trong dung môi hữu cơ, tan
được trong nước tốt nhất là cồn nước. Các aglycon flavonoid thì tan được trong
dung môi hữu cơ, không tan trong nước. Các dẫn chất flavonoid có nhóm 7hydroxy thường dễ tan trong dung dịch kiềm loãng.


×