Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Tiểu luận Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.32 KB, 30 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo V.I Lênin, lí luận giá trị thặng dư là ‘‘hịn đá tảng của học thuyết kinh tế
của Mác’’ và học thuyết kinh tế của C.Mác là “nội dung căn bản của chủ nghĩa
Mác’’.Để đạt được mục đích làm giàu tối đa của mình nhà tư bản đã mua sức lao động
của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất ra sản phẩm, thu về giá trị thặng dư. Nhưng
nhà tư bản bao giờ cũng chỉ trả một phần giá trị sức lao động cho người cơng nhân
thơng qua hình thức tiền lương và bóc lột giá trị thặng dư do người cơng nhân sáng tạo
ra trong q trình sản xuất.
Trong xã hội tư bản, mối quan hệ giữa tư bản và lao động là mối quan hệ cơ
bản, sâu sắc nhất, xuyên qua tất cả các quan hệ sản xuất của xã hội đó.Giá trị thặng dư,
phần giá trị do lao động của công nhân làm thuê sáng tạo ra ngồi sức lao động bị nhà
tư bản chiếm khơng, phản ánh mối quan hệ sản xuất cơ bản nhất đó.Giá trị thặng dư do
lao động không công của công nhân làm thuê sáng tạo ra là nguồn gốc làm giàu của
giai cấp các nhà tư bản, sản xuất ra giá trị thặng dư là cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư
bản.Toàn bộ hoạt động của nhà tư bản hướng đến tăng cường việc tạo ra giá trị thặng
dư thông qua hai phương pháp cơ bản là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và tạo ra giá
trị thặng dư tương đối.
Do vậy, sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung chính của
quy luật giá trị thặng dư. Nó tác động đến mọi mặt của xã hội tư bản. Nó quyết định sự
phát sinh , phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự thay thế nó bằng một xã hội khác cao
hơn, là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Hiện nay, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, giai
đoạn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chỉ có phát triển kinh
tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Phát triển nền kinh
tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa
là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. Ở
nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế thị trường và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nơng sản
đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các
ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm.


1


Với những lý do trên tôi chọn đề tài: “Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong
quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay ” làm đề tài tiểu luận của
mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị
trường ở Việt Nam
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ lí luận giá trị thặng dư, phân tích q trình và vận dụng lý luận giá trị
thặng dư vào sự phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: Chủ nghĩa duy vật biện chứng – chủ nghĩa duy vật lịch sử
-Phương pháp cụ thể: tổng hợp,phân tích , thống kê, so sánh
4. Ý nghĩa đề tài
Qua nghiên cứu đề tài giúp chúng ta hiểu được quá trình vận dụng lý luận giá trị
thặng dư vào sự phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay
5. Kết cấu đề tài
Gồm có phần mở đầu,nội dung,kết luận và danh mục tham khảo. Ngoài ra còn 2
chương:
Chương 1: lý luận về giá trị thặng dư
Chương 2: vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển nề kinh tế ở việt
nam hiện nay

2



B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ GIÁ TRỊ THẶNG DƯ THEO QUAN ĐIỂM
CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
1.1. Khái niệm giá trị thặng dư
Là phần giá trị dơi ra ngồi giá trị sức lao động trên toàn bộ giá tri do lao động
của công nhân làm thuê sáng tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt. Giá trị thặng dư cũng
như tỉ suất giá trị thặng dư phản ánh quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, mức độ bóc lột
cơng nhân làm thuê của nhà tư bản. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản
của chủ nghĩa tư bản.
Một mặt, nó thúc đẩy nền sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển ngày càng mạnh
mẽ; mặt khác, nó làm tăng những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản. Nhà tư bản
mua hàng hoá sức lao động đúng giá trị của nó, nhưng sức lao động ấy lại tạo ra cho
nhà tư bản một giá trị lớn hơn giá trị của bản thân nó; do nhà tư bản đã mua sức lao
động, toàn bộ kết quả của quá trình lao động sản xuất thuộc về nhà tư bản, cho nên
phần giá trị mới tăng thêm (ngoài phần giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã trả công
cho người lao động) bị nhà tư bản chiếm đoạt là giá trị thặng dư. K.Marx có cơng lao
to lớn xây dựng học thuyết về giá trị thặng dư, chứng minh rõ chính lao động của công
nhân làm thuê, chứ không phải tư liệu sản xuất, là nguồn gốc tạo ra giá trị thặng dư, và
nhờ đó mà Mac đã bóc trần bản chất của bóc lột giá trị thặng dư bị che đậy.
Trong đời sống kinh tế - xã hội hiện thực của chủ nghĩa tư bản, giá trị thặng dư
biểu hiện với nhiều hình thức khác nhau: lợi nhuận, lợi tức, địa tô tư bản chủ nghĩa.
Trong thời đại ngày nay, do điều kiện cách mạng khoa học - kĩ thuật phát triển rất cao,
điều kiện lao động của người công nhân thay đổi với hệ thống máy móc hiện đại (tự
động hố, tin học hố, người máy...), chủ nghĩa tư bản có những hình thức phát triển,
những động lực và phương pháp quản lí hiện đại (tư bản độc quyền nhà nước những
cơng ti siêu quốc gia, đa quốc gia) thì sự bóc lột giá trị thặng dư được diễn ra dưới
những hình thức khác nhau, theo những phương pháp khác nhau, tạo ra những năng
suất lao động và tỉ suất giá trị thặng dư rất cao, nhưng bản chất của sự bóc lột giá trị
thặng dư của chủ nghĩa tư bản không thay đổi. Vấn đề lý luận mang tính cốt lõi cần ưu

tiên làm sáng rõ để việc nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
3


nghĩa của Việt Nam sớm nhận được sự đồng thuận là vấn đề nhận thức nội hàm khái
niệm giá trị thặng dư.
Nội hàm khái niệm giá trị thặng dư được tiếp nhận từ lý luận kinh tế của Mác
có thể gói gọn trong định nghĩa rằng: Giá trị thặng dư là giá trị do lao động của công
nhân làm thuê sản sinh ra vượt quá giá trị sức lao động của họ và bị nhà tư bản chiếm
đoạt toàn bộ. Việc sản sinh và chiếm đoạt giá trị thặng dư là sự phản ánh quan hệ sản
xuất căn bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phản ánh quy luật kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản.
1.2. Vai trò của giá trị thặng dư
Việc ứng dụng những thành tựu khoa học- kĩ thuật hiện đại đã thúc đẩy lực
lượng sản xuất ở nước tư bản chủ nghĩa phát triển tang lên trình dộ cao hơn. Nhờ đó
khơng những các tập đoàn tư bản độc quyền thu được lợi nhuận siêu cao mà đời sống
của những người lao động tại xí nghiệp cũng được cải thiện,khác xa đời sống của
những công nhân dưới chủ nghĩa tư bản đầu thế kỉ XVIII.
Trước thực tế,cộng với sự sụp đổ của mơ hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan
liêu ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều người cho rằng học thuyết giá trị thặng dư khơng
cịn đúng nữa. Bởi vậy,việc luận giải vai trị của ía trị thặng dư trong nền kinh tế thị
trường là vô cùng cấp bách.
Giá trị thặng dư có những vai trị đối với nền kinh tế thị trường như sau:
-Thứ nhất: Học thuyết giá trị thặng dư không chỉ là cơ sở đề hiểu rõ bản chất và
xu hướng vận động của chủ nghĩa tư bản mà còn chỉ chúng ta con đường tạo ra lực
lượng sản xuất của chủ nghĩa tư xã hội hay nói cách khác là hàng nghìn cơng nhân có
việc làm
-Thứ hai: Mở rộng địa bàn và quy mơ sản xuất,tích lũy thêm giá trị thặng dư
-Thứ ba: Thúc đẩy sự phát triển khoa học-công nghệ hiện đại để tăng năng suất
và giá trị thặng dư

-Thứ tư: Làm giàu cho giai cấp tư sản
1.3.Các phương pháp tìm kiếm giá trị thặng dư:
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Vì vậy, các
nhà tư bản dùng nhiều phương pháp để tăng tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư.
Khái quát có hai phương pháp để đạt được mục đích đó là sản xuất giá trị thặng dư
tuyệt đối và sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
4


a) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, khi kỹ thuật
còn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo
dài ngày lao động của công nhân.
Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện trên cơ sở kéo dài tuyệt đối ngày lao động của công nhân trong điều
kiện thời gian lao động tất yếu không đổi và giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng
phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4
giờ là thời gian lao động thặng dư.
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
m’= ×100(%)=100%
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, trong khi thời gian tất yếu
không thay đổi, vẫn là 4 gịờ.
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:

Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động
tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị
thặng dư tăng lên. Trước đây, tỷ suất giá trị thặng dư là 100% thì bây giờ là 150%.
Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động, nhưng ngày lao động có
những giới hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của

người lao động quyết định. Vì cơng nhân phải có thời gian ăn, ngủ, nghỉ ngơi, giải trí
để phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai
cấp cơng nhân. Cịn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao
động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh tế,
ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới
hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.
Trong phạm vi giới hạn nói trên, độ dài của ngày lao động là một đại lượng
không cố định và có nhiều mức khác nhau. Độ dài cụ thể của ngày lao động do cuộc
đấu tranh giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản trên cơ sở tương quan lực lượng

5


quyết định. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đòi ngày lao động tiêu chuẩn, ngày
làm 8 giờ đã kéo dài hàng thế kỷ.
b) Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối
Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao
động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân. Mặt
khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí, kỹ
thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản
chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội, tức là
bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương pháp sản xuất ra giá trị thặng dư
được thực hiện bằng cách rút ngắn thời gian lao động tất yếu lại để kéo dài một cách
tương ứng thời gian lao động thặng dư trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội trong
điều kiện độ dài ngày lao động không đổi. Giá trị thặng dư được sản xuất ra bằng
phương pháp này được gọi là giá trị thặng dư tương đối.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động
tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư.
Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:


Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần
3 giờ lao động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của
mình. Do đó, tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 5 giờ là thời gian lao động thặng dư.
Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:

Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%.
Làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất
yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị
những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của cơng nhân. Điều đó chỉ có thể
thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những
6


tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động
trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó,
tức là tăng năng suất lao động xã hội.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt
đối là phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất
giá trị thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu. Lịch sử phát triển của lực lượng
sản xuất và của năng suất lao động xã hội dưới chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai
đoạn: hợp tác giản đơn, công trường thủ cơng và đại cơng nghiệp cơ khí, đó cũng là
q trình nâng cao trình độ bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư nói trên được các nhà tư bản sử dụng
kết hợp với nhau để nâng cao trình độ bóc lột cơng nhân làm th trong q trình phát
triển của chủ nghĩa tư bản. Dưới chủ nghĩa tư bản, việc áp dụng máy móc khơng phải
là để giảm nhẹ cường độ lao động của công nhân, mà trái lại tạo điều kiện để tăng
cường độ lao động. Ngày nay, việc tự động hóa sản xuất làm cho cường độ lao động

tăng lên, nhưng dưới hình thức mới, sự căng thẳng của thần kinh thay thế cho cường
độ lao động cơ bắp.
• Giá trị thặng dư siêu ngạch
Cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng phương pháp sản xuất tốt
nhất để tăng năng suất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giám giá trị cá biệt của
hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của háng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu
ngạch.
Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất
lao động cá biệt, làm cho giá trị củ biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.
Xét từng trường hợp thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tạm thời,
nhanh chóng xuất hiện rồi cũng lại nhanh chóng mất đi. Nhưng xét tồn bộ xã hội tư
bản thì giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường xuyên. Theo đuổi giá
trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy
các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, làm cho
năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng. Mác gọi giá trị thặng dư siêu ngạch là
hình thức biến tứơng của giá trị thặng dư tương đối, vì giá trị thặng dư siêu ngạch và
giá trị thặng dư tương đối dều dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động (mặc dù một bên

7


là dựa vào tăng năng suất lao động cá biệt, còn một bên dựa vào tăng năng suất lao
dộng xã hội).
Sự khác nhau giữa giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối còn
thể hiện ở chỗ giá trị thặng dư tương đối do toàn bộ giai cấp các nhà tư bản thu được.
Xét về mặt đó, nó thể hiện quan hệ bóc lột của tồn bộ giai cấp các nhà tư bản đối với
toàn bộ giai cấp công nhân làm thuê. Giá trị thặng dư siêu ngạch chỉ do một số nhà tư
bản có kỹ thuật tiên tiến thu được. Xét về mặt đó, nó không chỉ biểu hiện mối quan hệ
giữa tư bản và lao động làm thuê, mà còn trực tiếp biểu hiện mối quan hệ cạnh tranh
giữa các nhà tư bản.

Từ đó, ta thấy rằng giá trị thặng dư siêu ngạch là động lực trực tiếp, mạnh nhất
thúc đẩy các nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất, hoàn
thiện tổ chức lao động và tổ chức sản xuất để tăng năng suất lao động, giảm giá trị của
hàng hóa.

8


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG LÝ LUẬN GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀO SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜ NG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Tình hình phát triển kinh tế ở việt nam hiện nay
Trong suốt 30 năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ.
Từ một nước lạc hậu,thiếu đói thường xun,kém phát triển,đến nay chúng ta đã trở
thành nước có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện một cách
khái quát,rõ ràng tư tưởng,quan điểm của Đảng về nền kinh kinh tế thị trường ở nước
ta.
2.1.1. Nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
Nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là sản phẩm của quá trình
Đảng và nhân dân ta nhận thức ,vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin,thể hiện tư
duy mới của chúng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Đại hội VI, khi đề ra đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta chủ trương đa
dạng hố các loại hình sở hữu, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước tiến quan trọng về tư duy lý luận và nhận thức
thực tiễn. Đảng không chỉ thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu của nền kinh tế nhiều
thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, mà còn nhận thấy sự cần thiết phải có chính sách
đúng đắn nhằm sử dụng và phát triển các thành phần kinh tế, trong đó có kinh tế tư
nhân nhằm thực hiện những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Cùng với sự vận động của
thực tiễn và sự phát triển của nhận thức, lý luận về phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được Đảng Cộng sản Việt Nam bổ
sung, hoàn thiện qua các kỳ Đại hội VII, VIII, IX và X. Tại Đại hội X (năm 2006),

Đảng ta xác định cơ cấu nền kinh tế nước ta gồm năm thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài. Điểm mới ở đây là đã gộp kinh tế cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân thành
thành phần kinh tế tư nhân, đồng thời khẳng định đảng viên được phép làm kinh tế tư
nhân. Văn kiện Đại hội X cũng khẳng định các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, các thành
phần kinh tế bình đẳng với nhau. Điều này có tác dụng tích cực tạo sự n tâm phát
triển sản xuất kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế phi
nhà nước.
9


Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, có những thành phần
kinh tế đã thể hiện tốt vai trị của mình.
Về kinh tế nhà nước, thành phần kinh tế này lấy sở hữu công cộng về tư liệu
sản xuất là cơ sở kinh tế. Kinh tế nhà nước không chỉ bao gồm các doanh nghiệp nhà
nước, mà cịn bao gồm các tài sản, cơng cụ kinh tế quan trọng thuộc sở hữu nhà nước,
v.v.. Văn kiện Đại hội X của Đảng xác định rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo,
v.v.. Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân”.
kinh tế Nhà nước khơng ngừng lớn mạnh và đóng vai trị chủ đạo. nó nắm
những lĩnh vực then chột trong nền kinh tế, nhữngngành, những lĩnh vực có tác động
đến tồn bộ các hoạt động kinh tế - xã hội hoặc cóý nghĩa quan trọng đối với sự ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội, chính trị của đấtnước như ngành điện, nước, giao
thông, thông tin liên lạc, công nghiệp quốc phịng...Nó là một cơng cụ có sức mạnh vật
chất mang tính quyết định để nhà nước điều tiết vàhướng dẫn nền kinh tế hàng hoá
nhiều thành phàan phát triển theo định hướng xã hộichủ nghĩa.
Một hình thức doanh nghiệp đang được khuyến khích phát triển đó là cổ phần
hố các doanh nghiệp Nhà nước. Mục đích của việc làm này là nhằm thu hút nguồn
vốn từ người lao động, hạn chế tiêu cực, nâng cao tinh thần lao động. Đặc biệt Nhà

nước có chính sách động viên chính các cán bộ, công nhân của doanh nghiệp mua cổ
phần. Trong các doanh nghiệp đó, Nhà nước nắm phần lớn cổ phần hoặc cổ phần
khống chế. Việc thực hiện cổ phần hố đã được tiến hành thí điểm ở thành phố Hồ Chí
Minh và đang được nhân rộng. Vấn đề cịn vướng mắc là Nhà nước cần hồn chỉnh
quy chế và tiêu chuẩn lựa chọn hội đồng quản lý, giám đốc điều hành và tuyên truyền
cho mọi người thấy lợi ích to lớn của việc cổ phần hoá.
Cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể được coi là một thành phần kinh tế
của chủ nghĩa xã hội.Thành phần kinh tế này tồn tại và phát triển dựa trên hình thức sở
hữu tập thể và sở hữu của các thành viên. Sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta đòi hỏi phát triển mạnh mẽ và vững chắc thành phần kinh tế này, bởi
như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, đó là mơ hình dễ tiếp thu nhất của những người nông dân
để tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa. Rút bài học kinh nghiệm sâu sắc từ phong
trào tập thể hoá trước đổi mới và thực tế những năm đổi mới vừa qua, Đảng và Nhà
nước ta rất quan tâm đến việc phát triển thành phần kinh tế này, chủ trương xây dựng
10


các hợp tác xã kiểu mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất và nhu cầu của
các chủ thể sản xuất.
Để nó có thể hoạt động với hiệu quả cao cần tuân thủ những nguyên tắc cơ bản
của q trình hợp tác hố mà V.I. lênin đã đề ra. Đó là tự nguyện, dân chủ, cùng có lợi
dưới sự lãnh đạp của Đảng. Trong đó, nguyên tắc tự nguyện là nguyên tắc đầu tiên, cơ
bản nhất. Ngoài ra cịn có những ngun tắc khác như: phải sử dụng các hình thức đa
dạng, từ lĩnh vực lưu thơng, dịch vụ, đến lĩnh vực sản xuất, phát triển từ thấp đến cao,
từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã, quản lý dân chủ...Tất cả các nguyên tắc trên có liên
quan mật thiết với nhau. Chẳng hạn, khơng thể đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, nếu
như gia nhập hợp tác xã mà khơng mang lại lợi ích cho người lao động, trước hết là lợi
ích kinh tế và để các tổ chức kinh tế đó có thể mang lại lợi ích cho người lao động, thì
nó phải sản xuất - kinh doanh có hiệu quả.
Ở nước ta, quan trọng hợp tác hoá đối với những người sản xuất nhỏ diễn ra

từ sau khi hồ bình lập lại ở miền Bắc (1954). "Năm 1958, ở miền Bắc có từ 65 - 67%
số hộ nông dân đã vào kinh tế tập thể dưới hình thức tổ đội cơng. Đến năm 1960 đa số
hộ nông dân (85,8%) đã vào hợp tác xã (chủ yếu là bậc thấp)". Tiếp sau đó là chuyển
từ hợp tác xã bật thấp lên hợp tác xã bậc cao, các tư liệu sản xuất được tập thể hoá ở
mức độ cao và mở rộng quy mô sản xuất. Ở miền Nam sau khi giải phóng, các tổ chức
kinh tế hợp tác cũng được thành lập. Trong tiểu thủ cơng nghiệp, thương nghiệp và
dịch vụ, q trình hợp tác hoá cũng diễn ra như vậy.
Về Kinh tế tư nhân bao gồm cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Nhìn chung,
sau hơn 20 năm đổi mới, kinh tế tư nhân đã có bước phát triển mạnh mẽ và đóng vai
trị ngày càng quan trọng trong nền kinh tế nước ta. Trong những năm gần đây, kinh tế
kinh doanh phát triển khá nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, chiếm
45,7% GDP (trong đó kinh tế hợp tác đóng góp 6,8%GDP). Như vậy, kinh tế tư nhân
đạt 38,9% GDP, tương đương với tỷ trọng GDP của kinh tế nhà nước(5).
Trong kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về
tư liệu sản xuất, có vai trị quan trọng trong nhiều ngành nghề ở cả thành thị và nơng
thơn, có khả năng huy động vốn và lao động. Đóng góp của kinh tế cá thể, tiểu chủ
trong lĩnh vực nông nghiệp khá lớn, tỷ trọng GDP khá cao nhưng lại đang giảm liên
tục. Sự giảm sút này không đáng lo ngại, thậm chí là một dấu hiệu tích cực, phản ánh
sự di chuyển khá mạnh mẽ của nó vào các bộ phận, các thành phần kinh tế có trình độ
11


cao hơn; thực chất, là sự thu hẹp cách thức sản xuất nhỏ lẻ để tiến lên những hình thức
sản xuất tiến bộ hơn. Đây là một xu thế tất yếu, do sự phát triển của nền kinh tế thị
trường và q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hố đang diễn ra một cách mạnh mẽ
buộc những thành viên của kinh tế cá thể, tiểu chủ phải thay đổi, di chuyển vào các bộ
phận, các thành phần kinh tế khác để bảo đảm lợi ích, do đó làm tăng sức cạnh tranh
và cơ hội để phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất.
Đối với kinh tế tư bản tư nhân, đây là bộ phận kinh tế dựa trên hình thức sở hữu
tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã

hội, bộ phận kinh tế này đã đóng góp tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất,
huy động vốn, tạo việc làm cho người lao động, v.v..
Từ khi Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty ra đời (21/12/1990), các
doanh nghiệp tư nhân đã thực sự đi vào hoạt động với đầy đủ tư cách pháp nhân, kinh
tế tư bản tư nhân đã có sự phát triển đáng kể, phát huy có hiệu quả khả năng huy động
vốn và tạo việc làm mới cho người lao động; đóng góp của nó cũng ngày càng tăng.
Tuy nhiên, do mới hình thành, nên tỷ trọng cơ cấu GDP của nó chưa cao. Đối với
thành phần kinh tế này, Đảng ta chủ trương khuyến khích phát triển rộng rãi trong
những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm; tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để nó phát triển trên những định hướng ưu tiên
của Nhà nước, v.v..
Về Kinh tế tư bản nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên hình thức sở hữu hỗn
hợp về vốn giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong và ngồi nước dưới
các hình thức hợp tác, liên doanh. Trong quan niệm của V.I.Lênin, kinh tế tư bản nhà
nước là hình thức kinh tế quá độ đặc biệt quan trọng và cần thiết để đi lên chủ nghĩa xã
hội. Ơng coi nó là thứ chủ nghĩa tư bản mà 2/3 là chủ nghĩa xã hội, là cái “khơng đáng
sợ”, thậm chí cịn là “phịng chờ” để đi vào chủ nghĩa xã hội.
Tuy vậy, sự vận động hiện thực của thành phần kinh tế này ở nước ta đang là
một vấn đề cần phải bàn. Các cơ chế, chính sách, điều kiện ở Việt Nam hiện nay chưa
tạo ra sự thuận lợi cho thành phần kinh tế này phát triển. Những năm đầu tiên khi
chúng ta mới thực hiện đường lối mở cửa, có lẽ các doanh nghiệp nước ngoài hy vọng
vào việc khai thác những tiềm năng của một thị trường còn rất mới mẻ, nên họ đã đầu
tư rất lớn vào Việt Nam, liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với các doanh
nghiệp nước ngoài diễn ra mạnh mẽ, vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ở mức cao.
12


Tuy nhiên, chỉ sau đó một thời gian, số vốn này giảm mạnh. Chính vì nguồn vốn đầu
tư giảm nên tỷ trọng GDP của thành phần kinh tế này cũng liên tục giảm. Đầu tư nước
ngoài là bộ phận phát triển nhất của kinh tế tư bản nhà nước ở nước ta, nếu đầu tư

nước ngồi giảm sút thì tất yếu sẽ làm cho thành phần kinh tế này kém phát triển, thậm
chí là khơng phát triển.
Tuy nhiên, theo chúng tôi, trong thời gian tới, kinh tế tư bản nhà nước có khả
năng phát triển mạnh mẽ, bởi hiện nay, chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO), Đảng và Nhà nước ta đang tìm mọi biện pháp tích cực và hiệu quả để cải
thiện mơi trường đầu tư. Hơn nữa, hiện nay, một số thành phần kinh tế khác đang phát
triển rất mạnh mẽ, nên trong tương lai không xa, nhu cầu liên doanh, liên kết sẽ tăng
cao, từ đó sẽ làm cho kinh tế tư bản nhà nước phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho
việc chuyển sang nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Về Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi là một thành phần kinh tế mới nảy sinh
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Năm 1987, khi Luật Đầu tư trực
tiếp nước ngoài được ban hành thì kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi mới thực sự có
bước phát triển nhanh chóng. Hiện nay, đã có hàng ngàn cơng ty nước ngồi có dự án
đầu tư ở Việt Nam. Tính từ năm 1988 đến năm 2003, nước ta đã thu hút được trên 40
tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài và đã thực hiện được hơn 20 tỷ USD. Năm 2005,
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi đóng góp khoảng 15,9% GDP, năm 2007
khoảng 17%. Từ khi chúng ta gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) đổ vào Việt Nam tăng đột biến, năm 2007 là hơn 20 tỷ USD (tăng khoảng 70%
so với năm 2006), sáu tháng đầu năm năm 2008 là 31,6 tỷ USD.
Như vậy, cùng với quá trình tổng kết kinh nghiệm và phát triển sáng tạo lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã bước đầu
tìm ra những biện pháp, bước đi mang tính quy luật của q trình đi lên chủ nghĩa xã
hội. Một trong những biện pháp đó, xét về mặt kinh tế, là phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần. Để nền kinh tế nhiều thành phần phát triển theo đúng định hướng xã hội
chủ nghĩa, một mặt, chúng ta phải tạo môi trường phát triển thuận lợi, đảm bảo tính
độc lập, tự chủ của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước phải thực sự
đóng vai trò chủ đạo; mặt khác, chúng ta phải tăng cường vai trò của Đảng và Nhà
nước trong lãnh đạo, quản lý kinh tế.

13



2.1.2. Kinh tế thị trường phát triển chưa đồng đều
Thời gian qua, hệ thống các loại thị trường ở nước ta đã được hình thành.
Tuy nhiên, đối chiếu với một nền kinh tế thị trường vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các
quy luật của kinh tế thị trường, hiện đại và hội nhập quốc tế và tiềm năng, thế mạnh
của nền kinh tế nước ta thì nhìn một cách tổng qt, đến nay vẫn cịn tình trạng chưa
ăn khớp, chưa đồng bộ, vận hành chưa thông suốt ở một số thị trường và phân đoạn thị
trường ở Việt Nam.
 Quy mô, cơ cấu, tốc độ phát triển của một số thị trường và phân đoạn thị
trường còn mất cân đối, khập khiễng, chưa tương hợp được nói đến như sau:
-Thị trường hàng hóa, dịch vụ có quy mơ tương đối lớn, tốc độ phát triển nhanh
nhưng chưa bền vững, tăng trưởng khơng đều, có những năm suy giảm(1). Cơ cấu thị
trường hàng hóa, dịch vụ chưa hợp lý, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị và đô thị
lớn; thị trường ở khu vực nông thôn quy mô nhỏ, hàng hóa ít. Thị trường hàng hóa,
dịch vụ có sự chia cắt, thiếu liên thông, không đồng đều giữa các vùng, miền. Trong cơ
cấu thị trường hàng hóa, dịch vụ, khu vực thương nghiệp, chủ yếu là bán lẻ hàng hóa,
chiếm tỷ trọng cao nhất (76,8%); cịn khu vực dịch vụ (khách sạn, nhà hàng, du lịch,
dịch vụ) chiếm tỷ trọng nhỏ (23,2%).
-Thị trường lao động phát triển không đồng đều, mất cân đối. Quy mô thị
trường lao động nhỏ, tính ổn định của thị trường khơng cao. Quy mơ của thị trường lao
động chính thức thấp, chỉ đạt khoảng 30%, chủ yếu là thị trường lao động phi chính
thức và khơng chính quy. Trong cơ cấu thị trường lao động, tỷ lệ lao động làm việc
trong khu vực nơng, lâm nghiệp và thủy sản vẫn cịn chiếm tỷ lệ cao hơn so với khu
vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ.
-Thị trường bất động sản, thị trường quyền sử dụng đất phát triển chưa bền
vững, một số phân đoạn thị trường cịn phát triển méo mó, các nguyên tắc thị trường
chưa được vận dụng hiệu quả, Nhà nước vẫn là chủ thể can thiệp chính trên thị trường.
Một số thị trường bất động sản ở các đô thị lớn, như thị trường nhà ở, nhà chung cư
tăng trưởng nóng. Thị trường đất đai nơng nghiệp tồn tại nhiều bất cập, như quy mô

đất nông nghiệp của các hộ nơng nghiệp ít thay đổi, nhỏ lẻ, manh mún, gây rất nhiều
khó khăn cho việc tích tụ và tập trung ruộng đất.
-Thị trường vốn quy mô nhỏ, thanh khoản yếu, thiếu hấp dẫn, chưa đủ khả năng
thu hút mạnh các dịng vốn đầu tư nước ngồi, nhất là các dịng vốn lớn. Có sự mất
14


cân đối giữa thị trường vốn ngắn hạn và dài hạn. Cơ cấu tín dụng mất cân đối về kỳ
hạn, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ lệ cao.
-Thị trường khoa học - công nghệ quy mơ cịn nhỏ, kết nối cung - cầu cịn nhiều
hạn chế. Các nghiên cứu khoa học và cơng nghệ có tính ứng dụng thấp, ít gắn kết với
thực tiễn, chưa đáp ứng được nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Năng lực
nghiên cứu của các viện, trung tâm nghiên cứu thấp. Các doanh nghiệp ít có nhu cầu
mua bán, chuyển giao công nghệ ở trong nước.
 Trình độ phát triển và hiệu quả hoạt động của các loại thị trường khơng đồng
đều.
Nhìn tổng thể, trình độ phát triển một số loại thị trường trong nền kinh tế nước
ta còn thấp, điều này được thể hiện rõ ở chỉ số tự do kinh tế của nước ta chỉ ở mức 5152/100 điểm, thấp hơn nhiều so với một số nước trong khu vực như Thái Lan, Ma-laixi-a, Xin-ga-po.
Trình độ phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ ở khu vực nơng thơn cịn thấp.
Các kênh phân phối hiện đại, các tổ chức kiểm định chất lượng hàng hóa, tổ chức bảo
vệ người tiêu dùng... trên thị trường hàng hóa, dịch vụ chưa phát triển. Hệ thống
thương mại và các kênh phân phối trong nước có nhiều cấp trung gian, hiệu quả hoạt
động thấp. Hiệu quả hoạt động của thị trường hàng hóa và dịch vụ chỉ đạt 4,2/7 điểm,
xếp thứ 81/133 theo như xếp hạng của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2016.
Quan hệ cung - cầu trên thị trường lao động bị mất cân đối. Tồn tại nhiều
nghịch lý trên thị trường lao động, như thừa lao động trình độ thấp nhưng lại thiếu lao
động trình độ cao hay tỷ lệ sinh viên mới tốt nghiệp đại học ra trường chưa tìm được
việc làm phù hợp với trình độ đào tạo cao, hoặc phải đi làm công nhân trong các khu
công nghiệp. Tranh chấp lao động, đình cơng, bãi cơng diễn ra phức tạp.
Thị trường bất động sản vẫn có phân đoạn phát triển tự phát, tình trạng đầu cơ

làm méo mó quan hệ thị trường vẫn tồn tại. Tình trạng giao dịch “ngầm” vượt ngồi
các quy định pháp luật, gây nhiều lãng phí và tổn thất cho ngân sách nhà nước vẫn tồn
tại trên thị trường bất động sản.
Cơ chế giám sát, kiểm tra, kiểm soát nội bộ, đặc biệt là hệ thống quản trị rủi ro
đối với hệ thống ngân hàng còn chưa theo kịp diễn biến thị trường và còn nhiều bất
cập. Thị trường cổ phiếu còn thiếu minh bạch và mang tính đầu cơ hơn là đáp ứng nhu
cầu vốn cho nền kinh tế.
15


Năng lực khoa học và công nghệ của nước ta vẫn còn thấp, chưa gắn kết được
giữa khoa học và công nghệ với thực tiễn sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu
quả hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ thấp, thiếu nhiều tổ chức trung
gian, tư vấn về khoa học và công nghệ. Việc chuyển đổi các tổ chức khoa học - công
nghệ công lập thành các tổ chức tự chủ, tự chịu trách nhiệm cịn chậm và gặp nhiều
khó khăn, vướng mắc.
2.1.3. Kinh tế thị trường phát triển chưa vững chắc
Việc chạy đua chỉ số GDP của các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam
bất yếu tố con người và mơi trường đã khiến thế hệ mai sau của đất nước này mất dần
cơ hội phát triển trong tương lai khi mà tiềm năng của đất nước không vững chắc,ô
nhiễm môi trường, tài chính suy giảm, gặp các vấn đề về an ninh lương thực và năng
lực dẫn đến phát triển không bền vững .Bản chất của mơ hình phát triển khơng bền
vững là phát triển không quan tâm đến môi trường, kích thích tiêu thụ quá mức và khai
thác nguồn tài nguyên quá mức.
Biểu hiện kinh tế: Tăng trưởng nhanh và theo chiều rộng, tiềm lực kinh tế còn
yếu, chưa đạt mức tiềm năng,tốc độ tăng trưởng có nguy cơ suy giảm trong tương lai.
stt
1
2
3

4
5
6
7

Nội dung
2010 2011
2012
Tăng trưởng GDP thực tế
6.4
5.89
5.3
Chỉ số tiêu dùng (CPI)
11.8
18.1
6.8
Tổng vốn ĐTPT so với GDP
38.5
33.3
31.1
Tốc độ tăng xuất khẩu
26.5
34.2
18.2
Nhập siêu so kim ngạch xuất khẩu
-17.4 -10.2
0.7
Tỉ lệ hộ nghèo
14.2
12.6

11.1
Tỉ lệ thất nghiệp thành thị
4.3
3.6
3.2
Số nợ hiện nay của Việt Nam so với các nước khác thì chưa thuộc

2013
5.4
6.0
30.4
15.4
0.7
9.9
3.6
loại cao

2014
5.8
7.0
30.0
10.0
-0.6
2
4


chưa tới giới hạn nguy hiểm, song số nợ đó đang tăng lên nhanh chóng và sẽ có nguy
cơ đe dọa tính bền vững của sự phát triển trong tương lai, nhất là khi vốn vay chưa
được sử dụng có hiệu quả.


16


Đầu tư của nhà nước cịn lãng phí, thất thốt
Năm
Tốc độ tăng trưởng GDP
2008
6,23%
2011
5,89%
2012
5,3%
Từ năm 2007,nền kinh tế có dấu hiệu lạm phát rất cao, từ 2007-2012 khủng
hoảng tài chính. Đặc trưng của giai đoạn này là tốc độ tăng trưởng kinh tế chùng
lại.Năm 2018,tăng trưởng GDP thấp nhất,lạm phát tăng tốc đều ở 10-20%. Năm
2011,một số gói kích cầu được tung ra với số tiền rất lớn nhưng mang lại hiệu quả
ngược lại như:bong bóng chứng khốn,lạm phát tăng cao,thâm hụt ngân sách,gây bất
ổn tỉ giá,bất ổn kinh tế vĩ mơ… Giai đoạn này một số tập đồn lớn như vinasin,
vinalines lâm vào khủng hoảng gây lãng phí lớn. Năm 2012,nền kinh tế Việt Nam lâm
vào tình trạng khó khan trong đó nổi bật là nợ xấu ngân hang và hàng tồn kho tăng
cao. Một lượng lớn doanh nghiệp rơi vào khó khăn hoặc phá sản
2.2. Vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào sự phát triển của nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
Trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
phát triển nguồn nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược
chuyển đổi mơ hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời phát triển nguồn
nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của các

quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn nhân lực.
17


Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng do phát
huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, hồn
thành cơng nghiệp hố và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỷ.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hố và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực
được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát
triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Các nước phát triển lợi dụng ưu thế về vốn, kỹ thuật, đẩy nhanh đào tạo nhân
tài, tranh giành người tài với các nước khác. Các nước đang phát triển tăng cường đầu
tư kinh phí cho khoa học cơng nghệ giáo dục đào tạo nhân tài, đồng thời ngăn ngừa
chảy máu chất xám bằng những chính sách ưu đãi thích hợp. Chính phủ Ấn Độ đầu tư
1,1% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân, 87% tổng đầu tư khoa học công nghệ cho đào
tạo [Định hướng phát triển đội ngũ tri thức Việt Nam – tr.57].
Sau chiến tranh thế giới thứ II, Nhật Bản là nước bại trận bị chiến tranh tàn phá
nặng nề nhưng quốc gia này vẫn khẳng định sự lựa chọn truyền thống trong giáo dục.
Hệ thống giáo dục Nhật Bản được ưu tiên trên nhiều khía cạnh, được sự quan tâm tạo
điều kiện của gia đình và xã hội. Hàn Quốc bị ảnh hưởng nhiều của nền văn hóa Nho
học Trung Hoa nên rất chú trọng phát triển giáo dục. Nhờ đó đầu tư trong giáo dục của
Hàn Quốc không ngừng tăng lên trong 50 năm qua. Đối với Trung Quốc, họ có chính
sách mạnh dạn tìm người tài. Trước mắt Trung Quốc đang thực hiện việc phát hành
“thẻ xanh”, một loại thẻ dành cho những kỹ thuật viên, các nhà đầu tư, các nhà doanh
nghiệp với đặc quyền vào Trung Quốc không cần visa.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển
tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng

những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn
chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho giai
đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế-xã hội trong nước và quốc tế.

18


Yêu cầu đối với phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay
Nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội
nhập quốc tế, từ bối cảnh trong nước, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước
những yêu cầu:
Thứ nhất, bảo đảm nguồn nhân lực là một trong ba khâu đột phá cho cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã được đề ra trong Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020: chuyển đổi mơ hình tăng trưởng từ chủ yếu
theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu; tăng cường ứng
dụng khoa học và công nghệ; chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện tái cấu trúc nền
kinh tế; tăng nhanh hàm lượng nội địa hóa, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản
phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế; tăng năng suất lao động, tiết kiệm trong sử
dụng mọi nguồn lực;…
Thứ hai, Việt Nam có lực lượng lao động lớn (khoảng 52.207.000 người; hàng
năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động)(*), một
mặt, tạo cơ hội cho nền kinh tế có bước phát triển mạnh mẽ, mặt khác, tạo sức ép lớn
về giải quyết việc làm và đào tạo nghề nghiệp.
Thứ ba, nhu cầu đào tạo nghề nghiệp của người lao động ngày càng cao hơn cả
về số lượng và chất lượng do mức thu nhập ngày càng cao, do chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, do q trình đơ thị hố ngày càng mạnh mẽ, do sự xuất hiện của những ngành, nghề
mới,…
Thứ tư, sự phát triển nguồn nhân lực cần đáp ứng yêu cầu phát triển cân bằng
hơn giữa các vùng miền, xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh, quốc phịng để phát triển đất nước.

Từ bối cảnh quốc tế, phát triển nguồn nhân lực đang đứng trước những yêu cầu:
Thứ nhất, Việt Nam phải có đủ nhân lực để có khả năng tham gia vào quá trình
vận hành của các chuỗi giá trị toàn cầu trong xu thế các tập đoàn xuyên quốc gia có
ảnh hưởng ngày càng lớn.
Thứ hai, nguồn nhân lực phải có năng lực thích ứng với tình trạng nguồn tài
nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm và sự sụt giảm các nguồn đầu tư tài chính (do
tác động và hậu quả của khủng hoảng kinh tế thế giới); có khả năng đề ra các giải pháp
gia tăng cơ hội phát triển trong điều kiện thay đổi nhanh chóng của các thế hệ công
nghệ, tương quan sức mạnh kinh tế giữa các khu vực.
19


Thứ ba, nhân lực nước ta phải được đào tạo để có khả năng tham gia lao động ở
nước ngồi do tình trạng thiếu lao động ở nhiều quốc gia phát triển để phát huy lợi thế
của thời kỳ dân số vàng; đồng thời có đủ năng lực để tham gia với cộng đồng quốc tế
giải quyết những vấn đề mang tính tồn cầu và khu vực.
2.2.2. Khuyến khích và sử dụng nguồn vốn đầu tư có hiệu quả
Vốn đầu tư là yếu tố trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời
cũng là một trong những yếu tố liên quan đến chất lượng tăng trưởng, đến lạm phát,
đến ổn định kinh tế vĩ mô
Thị trường vốn Việt Nam đang hội nhập sâu rộng trong khu vực khi Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) hình thành.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, đầu tư bằng nguồn vốn nhà nước vào các
chương trình, dự án có vai trị quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội, tạo động
lực thúc đẩy phát triển đất nước.
Tính đến hết năm 2016, cả nước có 22.509 dự án cịn hiệu lực với tổng vốn
đăng ký đạt gần 293,25 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án FDI đạt hơn
154,54 tỷ USD (bằng gần 53% tổng vốn đăng ký còn hiệu lực). Khu vực FDI đã đầu tư
vào 19 trong tổng số 21 ngành, trong đó lĩnh vực cơng nghiệp chế biến và chế tạo
chiếm tỷ trọng lớn nhất (58,8% tổng vốn đăng ký), kinh doanh bất động sản đứng thứ

hai (17,7% tổng vốn đăng ký). Có 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt
Nam, trong đó Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 5.747 dự án còn hiệu lực, tổng vốn
đăng ký hơn 50,7 tỷ USD (chiếm 17,3% tổng vốn đầu tư); đứng thứ 2 là Nhật Bản với
3.280 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký hơn 42 tỷ USD (chiếm 14,3% tổng vốn
đầu tư).
Đến nay, FDI đã có mặt tại 63 tỉnh, thành phố trên cả nước, trong đó tập trung
chủ yếu tại các địa bàn trọng điểm, có lợi thế. Xếp theo quy mô vốn, thành phố Hồ Chí
Minh dẫn đầu với 6.737 dự án cịn hiệu lực, vốn đăng ký hơn 44,82 tỷ USD, chiếm
15,3% tổng vốn đăng ký cả nước; thứ hai là Bà Rịa - Vũng Tàu với 342 dự án, vốn
đăng ký 26,86 tỷ USD, chiếm 9,2%; thứ ba là Bình Dương với 3.035 dự án, vốn đăng
ký 26,96 tỷ USD, chiếm 9,1%(7).
Đầu tư sử dụng nguồn vốn tác động sâu sắc đến rất nhiều mặt của đời sống
kinh tế - xã hội, do vậy, cần có cách tiếp cận tồn diện và bao quát để xem xét, đánh
giá về hiệu quả kinh tế - xã hội của đầu tư sử dụng nguồn vốn nhà nước.
20


Khu vực có vốn đầu tư nước ngồi đã khơng ngừng được mở rộng và phát triển,
trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, giải quyết việc làm và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, cải thiện trình độ công nghệ, nâng cao khả năng xuất khẩu và
hội nhập, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần tích cực vào cơng
cuộc CNH, HĐH.
Nguồn vốn kiều hối
Hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở nước ngoài, đây
là nguồn lực to lớn xét cả về tiềm năng vốn đầu tư cũng như năng lực sáng tạo. Nguồn
vốn kiều hối tăng dần qua các năm: Giai đoạn 1996-2000 là: 4,8 tỷ USD, giai đoạn
2001-2005 đạt 13,7 tỷ USD, giai đoạn 2006-2010 là 31,6 tỷ USD, giai đoạn 2011-2015
là 54,7 tỷ USD, đây là lượng vốn lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với nước ta trong quá
trình phát triển. Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam lớn, đáp ứng nhu cầu đầu tư trong
nước, giúp cân bằng cán cân thanh toán ngoại tệ. Nếu so với các nguồn thu ngoại tệ

khác, lượng kiều hối mang về cho đất nước cao hơn hoạt động xuất nhập khẩu (thường
là nhập siêu). Nếu tính lượng kiều hối so với GDP, Việt Nam đứng thứ 5 trên thế giới
(khoảng 6% GDP, sau Bănglađét, Philippines, Ai Cập và Pakixtan(8)).
2.2.3. Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
Với việc đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nơng nghiệp đã
góp phần thúc đẩy q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa nơng nghiệp, cũng như nâng
cao năng suất, chất lượng hàng hóa, dịch vụ và đời sống nhân dân. Thời gian qua, các
ban, ngành đã đầu tư, nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên tiến trong việc thực hiện
nhiều mơ hình sản xuất cho năng suất cao, chất lượng tốt, bảo đảm an tồn vệ sinh
thực phẩm. Trong đó, đáng chú ý là huyện Cư M’gar, đơn vị tiên phong trong việc
phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao (CNC).
Qua thực tế cho thấy, hầu hết các mơ hình đều đem lại hiệu quả kinh tế cao,
góp phần tăng thu nhập cho người dân. Hiện nay, huyện đang xây dựng khu nông
nghiệp ứng dụng CNC tập trung với diện tích khoảng 50 ha; đồng thời kêu gọi, tạo
điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân vào đầu tư sản xuất kết hợp với phân phối,
bao tiêu sản phẩm.
Tại huyện Krông Ana, việc ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp cũng được
thể hiện qua thực tiễn nông dân trồng nấm khi có thể cho ra sản phẩm theo ý của mình.
Cụ thể, phương pháp trồng theo kiểu treo ngang bịch nấm và cho nấm ra cổ khắc phục
21


được những nhược điểm so với trồng nấm theo phương pháp truyền thống treo đứng
và rạch nhiều vết trên bịch nấm... Được biết, trên địa bàn huyện hiện có khoảng 50 hộ
dân trồng các loại nấm: rơm, sò, mèo, linh chi (chủ yếu tập trung ở thị trấn Buôn Trấp,
xã Quảng Điền).
Một mơ hình ứng dụng cơng nghệ mới là tưới tiết kiệm cho cây trồng. Với lợi
ích thiết thực như phù hợp điều kiện nắng hạn mùa khô Tây Ngun; có thể vận hành
thường xun, giảm sự rửa trơi hóa chất vào mơi trường và sự xói mịn đất, giảm 50%
chi phí đầu tư cơng lao động…, cơng nghệ này đã thực sự trở thành cứu cánh cho

người dân trước diễn biến thất thường của thời tiết.
Từ việc tham gia thực hiện các mơ hình bước đầu đã thay đổi được tập quán sản
xuất lạc hậu, độc canh của nhiều vùng địa phương trước đây; đặc biệt, hoạt động ứng
dụng chuyển giao tiến bộ khoa học – công nghệ đã giúp người dân tiếp cận kỹ thuật
canh tác mới, đa dạng hóa cây trồng, vật ni. Đơn cử như huyện Bn Đơn đã triển
khai nhiều chương trình hỗ trợ nguồn vốn, cây con giống, chuyển giao tiến bộ khoa
học kỹ thuật và đồng hành với bà con thực hiện các mơ hình sản xuất nơng nghiệp
hiệu quả, trị giá hàng tỷ đồng như: chuyển đổi cơ cấu cây trồng từ trồng bắp, đậu, cà
phê sang trồng cây ăn trái (cam, quýt, chuối Nam Mỹ) và phát triển kinh tế trang trại
đa cây, đa con…
Áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất công nghiệp ở Việt Nam . Khoa học
cơng nghệ đã tập trung vào sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ bảo
trường khi phục vụ cho công nghiệp khai thác.
Áp dụng các công nghệ và phương pháp nghiên cứu tiên tiến, viễn thám, địa vật
lý vào cơng tác điều tra, thăm dị tài nguyên thiên nhiên,đã phát hiện được nhiều tài
nguyên mới: than đá, dầu khí ở Bắc Bộ
Nhiều kết quả mơi trường được đánh giá cao,nghiên cứu chính sách và biện
pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái và xử lý ơ nhiễm nước, khơng khí
ở các khu công nghiệp tập trung. Khoa học công nghệ đã chú ý phát triển các ngành
khoa học tự nhiên và công nghệ cao.
Nhiều thành tựu toán học,cơ học vật lý được đánh giá cao ở nước ngoài.Đã áp
dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất công nghiệp một cách triệt để, lựa chọn
được hệ thống công nghệ phù hợp với sức sản xuất công nghiệp ở nước ta cụ thể là:

22


Trong lĩnh vực cơng nghiệp năng lượng, nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học
công nghệ đã tập trung vào công tác quy hoạch sử dụng hợp lý nguồn năng lượng.
Đối với công nghiệp xây dựng các nhà máy thủy điện, nhiệt điện, nghiên cứu

các pháp giảm tổn thất năng lượng trong truyền tải điện và đổi mới công nghệ. Hệ
thống năng lượng đã phát triển nhanh chóng 80 địa bàn xã ở khu vực nơng thơn hơn 50
hộ gia đình đã có điện sử dụng.
Tập đồn Điện lực Việt Nam (EVN) đang nỗ lực đưa khoa học công nghệ vào
quản lý vận hành, đầu tư xây dựng và sản xuất kinh doanh.
Năm 2017, Tập đoàn tập trung thực hiện chủ đề “Đẩy mạnh khoa học công
nghệ” với mục tiêu ứng dụng mạnh mẽ và phát triển khoa học công nghệ, áp dụng
trong quản lý, điều hành, vận hành hệ thống điện, kinh doanh và dịch vụ khách hàng,
bảo vệ môi trường.
Bên cạnh đó, EVN cũng quyết liệt triển khai có hiệu quả các dự án nguồn năng
lượng mới khu vực miền Nam, đảm bảo cân đối cung cầu giữa các vùng miền, nâng
cao độ tin cậy vận hành hệ thống, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh gắn với bảo
vệ mơi trường, chống biến đổi khí hậu.
Mang cơng nghệ tiếp cận khách hàng
Từ đầu năm, nhiều công ty điện lực cả nước đã đẩy mạnh ứng dụng KHCN
trong kinh doanh, đa dạng hóa dịch vụ chăm sóc khách hàng. Đơn cử như Tổng công
ty Điện lực TP.HCM (EVNHCMC). Mọi hoạt động kinh doanh điện của đơn vị này
đều hướng đến khách hàng với yêu cầu “hai dễ”: dễ nhớ và dễ thực hiện.
Đến nay, trừ dịch vụ thu tiền điện đạt cấp độ 4, tất cả các dịch vụ cịn lại của
EVNHCMC như chăm sóc khách hàng qua tổng đài, website - email, SMS và ứng
dụng di động (cho cả hệ điều hành iOS, Android và Window Phone) đều đạt dịch vụ
trực tuyến cấp độ 3.
Áp dụng hóa đơn điện tử, đa dạng hóa hình thức thanh tốn tiền điện cũng là cải
cách công nghệ đáng kể của EVN. Theo đó, ngành điện khuyến khích khách hàng
thanh tốn qua các kênh giao dịch điện tử như: trích nợ tự động qua tài khoản,
SMS/Mobile Banking, Internet Banking, ví điện tử.
Tính đến cuối năm 2016, tỷ lệ khách hàng thanh toán qua ngân hàng và tổ chức
thanh toán trung gian tại các thành phố lớn đều cao (Hà Nội 45,57%, TP.HCM
59,08%). Riêng tại TP.HCM, EVNHCMC đã hợp tác với 22 ngân hàng và 8 đối tác thu
23



hộ trên địa bàn TP.HCM, tỷ lệ thu qua ngân hàng và các điểm thu ngoài đạt 80,25% tương ứng 86,80% doanh thu.
Tại Hà Nội, Tổng công ty Điện lực TP Hà Nội (EVNHANOI) phấn đấu đến
cuối năm nay không cịn hình thức thu ngân viên đến nhà/trụ sở khách hàng thu tiền,
100% thu qua ngân hàng, điểm thu và công ty dịch vụ thu tiền.
2.3. Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả vận dụng lý luận giá trị thặng dư vào
xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Chuyển dịch cơ cấu về vấn đề vốn đầu tư , khuyến khích và thu hút vốn đầu

Cố gắng trong việc thu hút các nguồn vốn của các thành phần kinh tế ở trong
nước và nước ngồi, trong điều kiện trong nước thì đang phải ưu tiên ổn định kinh tế
vĩ mô, kiềm chế lạm phát; trên thế giới, nhiều nền kinh tế hoặc chưa hồn tồn ra khỏi
khủng hoảng nợ cơng, hoặc chưa hồn tồn phục hồi tăng trưởng.
Có sự chuyển đổi tư duy, không chạy theo tăng trưởng bằng mọi giá, vẫn kiên
định, nhất quán với mục tiêu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mơ, kiềm chế lạm phát, khơng
kích cầu đầu tư, tiêu dùng mà chủ yếu là tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ
trợ thị trường, bởi trong mục tiêu phải thực hiện có việc chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng từ số lượng sang chất lượng, từ chiều rộng sang chiều sâu tăng trưởng giảm sự
lệ thuộc vào tăng lượng vốn đầu tư.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển nhà nước ngày
càng đóng vai trị quan trọng đáng kể trong chiễn lược phát triển kinh tế , xã hội.
Thu hút vốn đầu tư , nguồn vốn trong nước sẽ đóng vai trị để mở đường, đầu tư
vào việc san lấp giải phống mặt bằng, xây dựng các kết cấu hạ tầng cơ bản, đầu tư đổi
mới trang thiết bị và mở các lớp dạy nghề cho đội ngũ công nhân.
Nhờ có nguồn vốn trong nước mà các vùng có điều kiện chưa thật sự thuận lợi
đã có khả năng thu hút và đón nhận với đầu tư nước ngồi, tạo cơ hội phat triển kinh tế
của các vùng.
Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
Chú trọng xúc tiến đầu tư trực tiếp từng dự án, từng nhà đầu tư có tiềm năng.

Đối với một số dự án lớn quan trọng, cần chuẩn bị kỹ dữ liệu dự án, lựa chọn đàm
phán trực tiếp với các tập đồn có tiềm lực về tài chính, cơng nghệ. Ngân sách nhà
nước nên hỗ trợ một khoản kinh phí cho công tác này. Tập trung chỉ đạo và hỗ trợ kịp
24


thời các dự án đang hoạt động là biện pháp vận động có hiệu quả và có sức thuyết
phục nhất.
2.3.2. Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường LĐ trong nước
Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ với chất lượng cao, phù hợp với xu
hướng của cách mạng 4.0, thỏa mãn nhu cầu tuyển dụng của nhà đầu tư, nhằm tạo điều
kiện cho các DN FDI, tăng năng suất lao động, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản
phẩm, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, xuất khẩu. Nhờ có nguồn vốn trong
nước mà các vấn đề địa điểm,cơng nghệ trình độ tay nghề của lao động được giải
quyết, tạo nên môi trường đầu tư thuận lợi đối với các nhà đầu tư nước ngồi.
Trước xu thế chung của thế giới, chúng ta khơng thể đứng ngồi cuộc. Trong
cơng cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa phát triển kinh tế đất nước chúng ta cần hội
nhập vào nền kinh tế thế giới. Nước ta tham gia vào rất nhiều các tổ chức kinh tế như
ASEAN, APEC và đặc biệt khi gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới WTO thì tính
cạnh tranh của nền kinh tế phải được nâng cao. Do đó việc nắm được khoa học kỹ
thuật công nghệ hiện đại để chủ động trong quá trình sản xuất, kinh tế đối ngoại… rất
quan trọng, chúng ta phải xác định rõ ràng những chính sách thích hợp để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực.
2.3.3. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất
Để đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào đời sống, sản xuất
trong những năm tới rất cần thực hiện đồng bộ những giải pháp như: Đẩy mạnh công
tác tuyên truyền về vai trò nền tảng, động lực, giải pháp đột phá để phát triển kinh tế xã hội. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, trình độ, hiệu quả lãnh đạo của các cấp ủy,
sự điều hành của chính quyền và tham gia của toàn xã hội về phát triển khoa học và
cơng nghệ.
Nghiên cứu xây dựng, bổ sung, hồn thiện các quy hoạch, kế hoạch phát triển

khoa học và công nghệ gắn với các ngành sản xuất quan trọng . Xác định nhiệm vụ
phải phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó tập trung ưu
tiên các nhiệm vụ khoa học và công nghệ có tính khả thi cao, có khả năng ứng dụng,
nhân rộng thành công, đặc biệt ứng dụng công nghệ cao vào phát triển các loại cây
trồng, vật ni có thế mạnh của địa phương, hoặc tạo ra ngành nghề, lĩnh vực mới.

25


×