Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Chính sách đối ngoại của nhật bản đối với mỹ sau chiến tranh thế giới II

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (320.11 KB, 33 trang )

MỤC LỤC


CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI MỸ TỪ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI
THỨ II ĐẾN NAY


MỞ ĐẦU
Nhật Bản và Mỹ là hai quốc gia có lịch sử quan hệ lâu đời, chính sách
đối ngoại với Mỹ là một trong những chính sách đối ngoại quan trọng nhất chi
phối nền ngoại giao Nhật Bản. Trải qua nhiều thăng trầm Liên minh Nhật –
Mỹ vẫn tiếp tục được củng cố và ngày càng khẳng định vai trò, vị thế của
mình trong việc giải quyết các vấn đề trong khu vực và trên thế giới.
I.

BỐI CẢNH LỊCH SỬ
Sau thế chiến II, Nhật Bản là nước bại trận còn phe Đồng minh gồm
Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô là các nước thắng trận. Ngày 14/8/1945, Nhật
Hoàng tuyên bố đầu hàng quân đội Đồng minh vô điều kiện, Nhật Bản chịu
sự chiếm đóng của lực lượng quân Đồng minh với Tướng Douglas Mac
Arthur được chỉ định giữ chức Tổng chỉ huy tối cao các lực lượng Đồng
minh. Mục tiêu chủ yếu của lực lượng Đồng minh chiếm đóng ở Nhật Bản là
thủ tiêu chủ nghĩa quân phiệt và thiết lập dân chủ hóa nước Nhật. Song lực
lượng Đồng minh chiếm đóng ở Nhật Bản lúc này chủ yếu là người Mỹ nên
các chính sách thực thi của họ không nằm ngoài mục tiêu đảm bảo Nhật Bản
không thể trở thành mối đe doạ đối với Mỹ.
Tuy nhiên, sự chiếm đóng của Mỹ ở Nhật diễn ra đồng thời với việc
Mỹ giúp đỡ Nhật Bản phục hồi kinh tế và phát triển văn hoá. Cùng với kế
hoạch Marshall ở châu Âu, Mỹ viện trợ kinh tế và khoa học kĩ thuật cho Nhật.


Phong cách Mỹ và lối sống Mỹ cũng bắt đầu xâm nhập vào xã hội Nhật Bản.
Năm 1949, khi cách mạng Trung Quốc thành công với sự ra đời của
nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Mỹ đã thực hiện "đường lối đảo ngược",
đẩy mạnh quan hệ với Nhật Bản nhằm ngăn chặn làn sóng cộng sản ở châu Á.
Nhật Bản bại trận trong CTTG II đã mở ra một thời kỳ mới trong
quan hệ Mỹ-Nhật. Kết thúc chiến tranh cũng có ý nghĩa là mở đầu thời kỳ
chiếm đóng của Mỹ ở Nhật Bản. Điều này phản ánh đúng thực trạng của
3


hai nước sau chiến tranh, một bên thắng trận và một bên bại trận. Kẻ bại
trận bị nhiều điều khoản ràng buộc mang tính quốc tế và bị kiệt quệ về kinh
tế. Quan hệ Mỹ-Nhật vốn là cựu thù trong chiến tranh nay đã trở thành
đồng minh chiến lược.
II.

CƠ SỞ CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA NHẬT BẢN ĐỐI
VỚI MỸ
Giữa Mỹ và Nhật Bản, quan hệ đặc biệt đã được xác lập suốt trong giai
đoạn chiến tranh lạnh, đó là mối quan hệ giữa người bảo trợ và người được
bảo trợ. Sau thất bại trong chiến tranh thế giới II, Nhật Bản đã chọn con
đường phát triển kinh tế bằng toàn bộ sức lực của mình, phó thác việc phòng
vệ Nhật Bản vào tay Mỹ, nước thắng Nhật trong chiến tranh. Mối quan hệ bất
bình đẳng này đã tồn tại trong một thời gian dài vì nó phục vụ cho lợi ích của
cả Mỹ và Nhật Bản.
1. Lý thuyết về cơ sở hợp tác an ninh
Trong quá trình để bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích
quốc gia, các quốc gia có cùng chung mục đích hoặc có chung kẻ thù đã
liên kết với nhau để kết hợp khả năng quân sự, chính trị tạo nên sức mạnh
chung nhằm đạt được mục đích đề ra. Do các quốc gia có sự khác nhau về

đặc điểm dân cư, địa lý, giới cầm quyền, văn hóa … nên luôn tồn tại các
mâu thuẫn. Vì vậy từ thời thượng cổ đến nay việc quốc gia này liên minh
hợp tác với các quốc gia khác để bảo vệ an ninh quốc gia là việc thường
thấy. Có những liên minh tạm thời, lỏng lẻo nhưng cũng có những liên
minh tồn tại lâu dài, chặt chẽ.
An ninh quốc gia được đảm bảo khi không có các mối đe dọa đến các
lợi ích của nó hoặc nếu có thì quốc gia này có khả năng ngăn chặn và đẩy lùi
các đe dọa đó. Các quốc gia thường lựa chọn tham gia vào một liên minh là
giải pháp đem lại cho quốc gia nhiều mặt lợi.

4


Thứ nhất, một liên minh sẽ giúp quốc gia bổ sung được sức mạnh. Do
các quốc gia luôn bị giới hạn về nguồn lực nên quốc gia sẽ gặp phải những
hạn chế nhất định khi phải tự đối phó với các nguy cơ an ninh. Với sự kết hợp
thành liên minh khả năng kết hợp sức mạnh lại với nhau để tang cường sức
mạnh của cả hai Ngoài ra hợp tác an ninh là một phương cách hợp lí và có
hiệu quả để góp phần thực hiện được mục tiêu an ninh của một quốc gia thông
qua việc tăng cường khả năng chống chọi với các mối đe dọa, giảm được chi
phí, tiết kiệm được nguồn lực, răn đe các đối thủ và tạo dựng quan hệ tốt hơn
với đồng minh.
Thêm vào đó, các nhà hiện thực chủ nghĩa cho rằng mục đích cơ bản
của các chủ thể trong chính trị quốc tế là bảo vệ lợi ích dân tộc, mà trước hết
là đảm bảo an ninh tối đa của riêng mình. Trong một thế giới vô chính phủ, để
đảm bảo an ninh của mình chống lại một nước hoặc một nhóm nước đang
tăng cường quyền lực quá mức và do đó đe doạ sẽ thống trị cả thế giới hay
một phần thế giới, các quốc gia thường thi hành chính sách cân bằng lực
lượng bằng cách tạo ra một đối trọng sức mạnh tương đương nhờ vào việc
tăng cường sức mạnh của chính mình hoặc thiết lập liên minh phòng thủ với

một số nước khác. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh, khi mà hai nước đối đầu
là Liên Xô và Mỹ đều đang tìm cách để nâng cao sức mạnh, mở rộng tầm ảnh
hưởng của mình, đồng thời kìm chế sức mạnh của đối phương thì việc tìm
thêm cho mình một đồng minh là rất quan trọng. Để đối phó với Liên Xô và
chủ nghĩa cộng sản đang ngày càng lớn mạnh, Mỹ và Nhật Bản đã chọn lựa
cách liên minh với nhau. Đối với Mỹ thì Nhật Bản là một đồng minh quan
trọng ở khu vực châu Á Thaí Bình Dương, là căn cứ tiền tiêu của Mỹ chống
lại Liên Xô và các nước cộng sản. Còn với Nhật Bản thì sự có mặt của Mỹ ở
đây sẽ đảm bảo an ninh cho nước này khi mà Liên Xô và Trung Quốc bên
cạnh đang ngày càng tăng cường khả năng quân sự, đặc biệt là vũ khí hạt
nhân của hai nước này lúc nào cũng có thể lăm le đe dọa đến Nhật Bản. Giữa
Mỹ và Nhật Bản, quan hệ đặc biệt đã được xác lập trong suốt giai đoạn chiến
5


tranh lạnh, đó là quan hệ giữa người bảo trợ và người được bảo trợ. Mới nhìn
qua thì có thể thấy được tính bất cân đối, bất bình đẳng trong mối quan hệ
này, tuy vậy hai nước vẫn là đồng minh với nhau ngay cả khi chiến tranh lạnh
kết thúc, có lẽ phần lớn là do nó còn phục vụ cho những lợi ích riêng khác của
cả hai nước.
2. Phía Mỹ
Chính sách đối ngoại của Mỹ sau chiến tranh thế giới 2 nhằm thực hiện
hai mục tiêu chính:
- Xoá bỏ hoàn toàn trật tự thế giới cũ của các đế quốc Tây Âu, đưa toàn bộ thế
giới tư bản chủ nghĩa vào một trật tự chính trị và kinh tế mới do Hoa Kỳ
khống chế.
- Làm suy yếu, ngăn chặn sự phát triển và lan rộng ảnh hưởng của Liên Xô và
chủ nghĩa xã hội.
Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, Mỹ chọn mục tiêu thứ hai làm chủ đạo,
thực hiện chính sách “ngăn chặn cộng sản”.

Học thuyết quân sự của Mỹ trong thời kỳ này nhằm tìm cách giành ưu
thế quân sự trên phạm vi toàn cầu; bao vây cô lập Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa; xây dựng các khối quân sự để vừa kiểm soát các đồng minh, vừa
tạo cơ sở cho hoạt động quân sự khi cần thiết.
Ở Tây Âu, Mỹ đã xây dựng khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO). Trong khi đó ở châu Á Thái Bình Dương, Mỹ đã xây dựng hàng
trăm căn cứ quân sự thành các phòng tuyến nhiều tầng nấc, trong đó Mỹ coi
việc xây dựng Hiệp ước phòng thủ với Nhật Bản lâu dài là hết sức cần thiết,
thậm chí coi Nhật Bản như một NATO phương Đông.
Lợi ích chiến lược của Mỹ ở châu Á được xác định vào khoảng thời
gian 1949-1950. Tháng 1/1950, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson đã tuyên bố:
“Phạm vi phòng thủ của Mỹ trải từ A-lơ-san đến Nhật Bản và tiếp tục đến tận
quần đảo Ryu-kyu và Phillipin”.

6


Chính sách của Mỹ đối với Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới
II phản ánh chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm thực hiện cuộc chiến tranh lạnh
mà nội dung chính của nó là cô lập và tiến tới xoá bỏ hệ thống XHCN theo
mô hình Xô viết. Việc chiếm đóng Nhật Bản sau chiến tranh và giúp Nhật
khôi phục và phát triển kinh tế nằm trong những tính toán chiến lược của
nước này. Một mặt Mỹ muốn chứng tỏ với công luận của Nhật Bản và thế gới
rằng cuộc chiến tranh đã qua, sự giúp đỡ đối với Nhật Bản là cần thiết và qua
đó nhằm xoá đi hình ảnh chẳng đẹp đẽ gì của đội quân chiếm đóng. Mặt khác,
dùng Nhật như một căn cứ tiền tiêu để răn đe hai siêu cường cộng sản là Liên
Xô và Trung Quốc.
Bên cạnh đó, Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật là Mỹ nhằm biến Nhật thành
một bàn đạp cho các lực lượng của Mỹ ở Viễn Đông, lôi kéo Nhật vào liên
minh chống liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, gây chiến tranh xâm lược ở

Triều Tiên (1950- 1953), chống nhân dân hai nước Trung – Triều, đàn áp
phong trào dân chủ đang phát triển mạnh mẽ ở Nhật Bản.
Hơn nữa, việc liên minh với Nhật Bản, đặc biệt là sau sự ra đời của
Hiệp ước phòng thủ giữa hai nước còn tạo cơ sở pháp lý cho việc có mặt dài
hạn của các căn cứ quân sự Mỹ ở Nhật, đồng thời Mỹ cũng muốn kiểm soát
trực tiếp và kiềm chế khả năng quân sự của Nhật Bản. Một liên minh quân sự
với Nhất cũng là một sự đảm bảo chắc chắn cho sự có mặt của Mỹ trong khu
vực và sự an tâm của Nhật trước các thách thức lớn như Liên Xô, Trung Quốc
hay Triều Tiên.
3. Phía Nhật Bản
Chính sách của Nhật Bản được bắt đầu với “Học thuyết Yoshida” và
được củng cố, phát triển vào những năm 1960 dưới thời các Chính phủ Ikeda
và Satò, bao gồm 3 điểm cốt lõi:
- Trong chiến tranh lạnh, Nhật Bản coi mình là một thành viên của phương Tây,
xác định phương châm chủ yếu “thoát Á, nhập Âu”.

7


- Dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc phòng, hạn chế đến mức nhỏ nhất việc
xây dựng lực lượng phòng vệ của riêng mình. Nhật hoàn toàn phụ thuộc vào
Mỹ, tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ về an ninh, quốc phòng để tạp trung phát
triển kinh tế.
- Coi trọng khôi phục và phát triển kinh tế.
Đặc trưng của chính sách ngoại giao kinh tế này là đuổi kịp và vượt
các nước phát triển khác. Tôn chỉ của Nhật trong thời kỳ này là “ chỗ ngồi
thấp, lợi nhuận cao”. Do đó, thêm một hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật dường
đóng vai trò tích cực cho chiến lược phát triển của Nhật hơn là những tiêu cực
nó đưa lại.
Chiến tranh thế giới thứ hai để lại cho Nhật Bản những hậu quả nặng

nề (gần 3 triệu người chết và mất tích, kinh tế bị tàn phá, 13 triệu người thất
nghiệp, đói rét…), bị Mỹ chiếm đóng dưới danh nghĩa Đồng minh (1945 –
1952). Trong tình hình hết sức khó khăn như vậy và thêm sức ép của các nước
thắng trận Nhật đã cam kết đi theo chính sách hòa bình và chỉ duy trì một lực
lượng quân sự hòa toàn có tính chất phòng thủ. Điều 9 Hiến pháp năm 1947
của Nhật quy định Nhật không được quyền sở hữu các lực lượng bộ binh, hải
quân và không quân cấm xuất khẩu vũ khí cũng như không cho phép Nhật
giải quyết tranh chấp bằng vũ lực. Với hạn chế như thế và trước một nước
Nga hùng mạnh với vô số các đầu đạn hat nhân tên lửa và Trung Quốc đang
muốn khẳng định mình thì Nhật không có cách nào tốt hơn là hợp tác an ninh
với Mỹ, dựa vào Mỹ và ô hạt nhân của Mỹ để duy trì hạt nhân trong thời kỳ
chiến tranh lạnh.
Bên cạnh đó, việc ký hiệp ước với Mỹ sẽ giúp Nhật tiết kiệm được một
khoản chi phí quốc phòng lớn và cho phép Nhật chỉ tập trung vào một mối
quan tâm chủ yếu là phát triển kinh tế. Ngoài ra cũng phải ghi nhận rằng sự
phục hồi sau chiến tranh chưa tạo cho nước Nhật một vị trí đủ mạnh để mặc
cả với Mỹ khi ký kết hiệp ước giữa hai nước.

8


III. CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA NHẬT BẢN ĐỐI
VỚI MỸ THỜI KỲ CHIẾN TRANH LẠNH(1945-1991)
1. Thiết lập chính sách liên minh chặt chẽ với Mỹ

Từ sau chiến tranh Thế giới thứ II, Nhật bản đã tiến hành những chính
sách ngoại giao tương đối năng động, khôn khéo và thận trọng. Cùng với sự
phát triển thành công về kinh tế, chính sách đối ngoại đã góp phần đáng kể
nâng cao vị trí của Nhật bản trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, chính sách đối ngoại của Nhật Bản

được bắt đầu với Học thuyết Yoshida theo đó Nhật Bản dựa hoàn toàn vào
Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ để phòng thủ đất nước và tập trung sức phát
triển kinh tế.
Học thuyết này bắt nguồn từ Thủ tướng Yoshida và được củng cố, phát
triển vào những năm 1960 dưới thời các Chính phủ Ikeda và Satò. Có 3 điểm
cốt lõi trong học thuyết này:
• Trong thời chiến tranh lạnh Nhật Bản coi mình là thành viên của
Phương Tây, nghĩa là đi với Mỹ. Coi đó là nền tảng của ngoại giao.
• Dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh quốc phòng, hạn chế đến tối thiểu
việc xây dựng lực lượng phòng vệ của riêng mình.
• Coi trọng ngoại giao kinh tế.
Trong quá trình đàm phán hoà ước Sanfransisco, Shigeru Yoshida,
người chủ trương chỉ hoà giải với đa số các nước phương tây thay vì hoà giải
toàn diện, đã cự tuyệt áp lực của Ngoại trưởng Mỹ Đalét đòi Nhật tái vũ trang
quy mô lớn, cho rằng làm như vậy sẽ huỷ hoại sức lực của nước Nhật. Sau đó
Yoshida đã thúc đẩy nền ngoại giao lấy kinh tế làm nền tảng.
Chính sách đối ngoại của Nhật Bản giai đoạn thập kỷ 60 được đặc
trưng bởi chính sách ngoại giao kinh tế nhằm phục vụ cho nhu cầu đuổi kịp
và vượt các nước phát triển khác. Mục tiêu này đã đạt được vào cuối những
năm 60 khi Nhật Bản trở thành cường quốc thứ hai về kinh tế trong hệ thống
tư bản chủ nghĩa.

9


Nền tảng chính sách đối ngoại của Nhật Bản là liên minh chặt chẽ với
Mĩ bằng việc kí hai hiệp ước: Hiệp ước hòa bình Xan Phranxixcô và Hiệp ước
an ninh Mĩ -Nhật (tháng 9 – 1951).
-Khi Chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Nhật Bản đã trở thành hậu cần cho
quân đội Mỹ. Và, 8 tháng 9 năm 1951, Hiệp ước San Francisco hay Hiệp ước

hòa bình San Francisco giữa các lực lượng Đồng Minh và Nhật Bản được
chính thức ký kết bởi 49 quốc gia, có hiệu lực từ ngày 28 tháng 4 năm 1952. "
Quan hệ Mỹ-Nhật lần đầu tiên đã được ký kết và xác nhận. Hiệp ước bắt Nhật
Bản phải bồi thường cho các nước Đồng Minh từng phải chịu thiệt hại chiến
tranh do Nhật gây ra cũng như tận dụng tối đa Hiến chương Liên Hiệp
Quốc và Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền để nêu rõ mục đích của các lực
lượng đồng minh, theo đó trao quyền kiểm soát Okinawa cho Mỹ
Khi Hiệp ước San Francisco có hiệu lực, Nhật Bản đã trở thành một
nước có chủ quyền chính thức. Tuy nhiên, do Hiệp ước Liên minh Mỹ-Nhật
Bản lần thứ nhất, các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ đã rời Nhật Bản nhưng Nhật
Bản vẫn chịu sự ảnh hưởng của quân đội Hoa Kỳ.
-Hiệp ước an ninh song phương Mỹ- Nhật (08/09/1951)
Vì kí kết hiệp ước hòa bình khiến cho Nhật Bản mất quyền duy trì quân
đội , Nhật Bản đã chấp nhận cho Mỹ duy trì quân đội tại Nhật để đảm bảo an
ninh phòng thủ. Thực tế đây là sự chính thức hóa sự hiện diện của quân Mỹ
tại Nhật Bản cũng như sự phụ thuộc an ninh hoàn toàn của Nhật vào Mĩ.
Hiệp ước hòa bình công nhận rằng Nhật Bản là một quốc gia có chủ
quyền có quyền tham gia vào các thỏa thuận an ninh tập thể, và hơn nữa, Điều
lệ của Liên Hiệp Quốc công nhận rằng tất cả các quốc gia có quyền cố hữu
của cá nhân và tập phòng thủ tự.
Trong thực hiện các quyền này, Nhật Bản mong muốn, như một sự sắp
xếp tạm thời cho quốc phòng của mình, rằng Hoa Kỳ sẽ duy trì lực lượng vũ

10


trang của riêng mình và về Nhật Bản để ngăn chặn cuộc tấn công vũ trang vào
Nhật Bản.
Hoa Kỳ, vì lợi ích của hòa bình và an ninh, hiện đang sẵn sàng để duy
trì nhất định của lực lượng vũ trang của mình và về Nhật Bản, với mong

muốn, tuy nhiên, Nhật Bản sẽ ngày càng tự chịu trách nhiệm phòng thủ của
riêng mình chống lại trực tiếp và gián tiếp xâm lược, luôn luôn tránh bất kỳ
trang bị vũ khí mà có thể là một mối đe dọa tấn công hoặc phục vụ khác hơn
là để thúc đẩy hòa bình và an ninh theo quy định của mục đích và nguyên tắc
của Hiến chương Liên Hợp Quốc.
Hoa Kỳ cung cấp các lực lượng không quân và lực lượng biển cho
Nhật Bản. Các lực lượng này có thể được sử dụng để góp phần duy trì hòa
bình và an ninh ở vùng Viễn Đông và đến an ninh của Nhật Bản chống lại
cuộc tấn công vũ trang, bao gồm cả hỗ trợ được theo yêu cầu rõ ràng của
Chính phủ Nhật Bản để đưa ra cuộc bạo loạn và rối loạn nội mô lớn ở Nhật
Bản, gây ra thông qua sự xúi giục hoặc can thiệp của một quyền lực bên
ngoài, quyền hạn.
Trong quá trình thực hiện quyền nêu tại Điều 1, Nhật Bản sẽ không
cấp, nếu không có sự đồng ý trước của Hoa Kỳ, bất kỳ cơ sở hoặc bất kỳ
quyền, quyền hạn, cơ quan nào, trong hoặc liên quan đến cơ sở, quyền của
đơn vị đồn trú hoặc của cơ động, hoặc quá cảnh của mặt đất, không khí hay
các lực lượng hải quân đến bất kỳ quyền lực thứ ba.
Các điều kiện đó phải phối trí các lực lượng vũ trang của Hoa Kỳ tại
và về Nhật Bản được xác định bằng các thoả thuận hành chính giữa hai Chính
phủ.
Hiệp ước này sẽ hết hạn bất cứ khi nào theo ý kiến của các Chính phủ
của Hoa Kỳ và Nhật Bản có trách nhiệm đã có hiệu lực như Liên Hợp Quốc
sắp xếp hoặc bố trí thay thế như an ninh cá nhân hoặc tập thể tốt sẽ cung cấp
cho việc bảo dưỡng của Liên Hiệp Quốc hay không hòa bình và an ninh trong
khu vực Nhật Bản.
11


Theo hiệp ước, cả hai bên có nghĩa vụ để duy trì và phát triển năng lực
của họ để chống lại cuộc tấn công vũ trang ở chung và để hỗ trợ lẫn nhau

trong trường hợp tấn công vũ trang vào vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lý
của Nhật Bản., tuy nhiên, rằng Nhật Bản không thể giúp đỡ với các quốc
phòng của Hoa Kỳ bởi vì nó đã được hiến pháp cấm việc gửi các lực lượng vũ
trang ở nước ngoài (Điều 9).
Hiệp ước cũng thể hiện sự từ bỏ của người dân Nhật Bản về "mối đe
dọa hoặc sử dụng vũ lực như một phương tiện giải quyết tranh chấp quốc tế".
Điều 6 của hiệp ước quy định về việc đóng quân của lực lượng Hoa Kỳ tại
Nhật Bản, với chi tiết cụ thể về cung cấp cơ sở và các khu vực sử dụng của họ
và chính quyền của công dân Nhật Bản. Biên bản thỏa thuận với các điều ước
quy định rằng chính phủ Nhật Bản phải được tư vấn trước khi thay đổi trong
việc triển khai lực lượng Hoa Kỳ tại Nhật Bản hay với việc sử dụng các căn
cứ của Nhật Bản cho các hoạt động chiến đấu khác trong quốc phòng của
Nhật Bản chính nó.
-Đến năm 1960, 2 bên đã gia hạn Hiệp ước sửa đổi. Năm 1960 MỹNhật Bản hiệp ước an ninh Nhật Bản yêu cầu duy nhất Nhật Bản cung cấp cơ
sở và trang thiết bị quân đội Mỹ đóng quân ở đó.
Hiệp ước ký năm 1960 cho phép quân đội Mỹ đưa vũ khí nguyên tử
vào Nhật Bản mà không cần hỏi ý kiến trước. Hiệp ước này vô hiệu hóa các
thỏa thuận hai nước đã ký trước đó, theo đó Mỹ phải hỏi ý kiến Nhật Bản
trước khi đưa vũ khí nguyên tử tới nước này.
Phía Nhật Bản khẳng định trách nhiệm đơn nhất về an ninh nội địa ,
còn phía Mỹ vẫn đồng ý bảo vệ an ninh Nhật Bản từ bên ngoài trong trường
hợp quốc gia này bị tấn công. Sau tháng 10/1969, theo sự thoả thuận của hai
bên, Hiệp ước an ninh Nhật – Mỹ mặc nhiên được gia hạn sau mỗi khoảng
thời gian 10 năm, nếu như một trong hai bên không chống lại điều đó. Có thể
nói trong khoảng ba thập niên đầu sau chiến tranh, nền an ninh – quốc phòng
Nhật Bản hầu như dựa hoàn toàn vào sự bảo hộ của Mỹ.
12


Tuy nhiên, hiệp ước 1960 loại bỏ khả năng lính Mỹ được huy động để

giải quyết xung đột nột bộ của Nhật. Đồng thời cũng yêu cầu Mỹ cần thông
báo trước bất cứ sự triển khai quân nào đồng thời cung cấp khả năng để 1
trong 2 phía được quyền chấm dứt hiệp định, điều này nhằm giảm bớt sự mất
cân đối khi hiệp ước được kí kết. Lần sửa đổi thứ nhất năm 1960, khu vực mà
hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật trực tiếp nhằm vào là vùng Cận Đông với mục
đích ngăn chặn Nga và chủ nghĩa cộng sản.
Hiệp ước này ký kết tại Washington ngày 19/1/1960, gắn bó hai cựu
thù của Chiến tranh thế giới thứ II trong mối quan hệ đối tác an ninh chiến
lược, Mỹ- Nhật Bản. Mỹ cam kết sẽ bảo vệ Nhật Bản - nước thực thi Hiến
pháp hòa bình - bằng sự hiện diện quân sự lâu dài tại đất nước này. Mỹ sẽ
giúp Nhật đáp trả lại các cuộc tấn công vào Nhật Bản, – “không chỉ đóng góp
vào nền an ninh của quốc gia mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển
của khu vực châu Á – Thái Bình Dương”. Theo hiệp ước, khoảng 47.000 binh
lính Mỹ hiện đồn trú tại Nhật Bản, trong đó hơn một nửa số binh lính có mặt
tại miền Nam đảo Okinawa. Lần sửa đổi thứ nhất năm 1960, khu vực mà hiệp
ước an ninh Mỹ- Nhật trực tiếp nhằm vào là vùng Cận Đông với mục đích
ngăn chặn Nga và chủ nghĩa cộng sản.
2. Chính sách tranh thủ sự giúp đỡ của Mỹ về an ninh, quốc phòng
để tập trung phát triển kinh tế của Nhật Bản
Sau khi Mỹ ký với Nhật hiệp ước an ninh, gần như Nhật Bản độc lập
hoàn toàn với Mỹ về chính trị và kinh tế. Mỹ không để tâm đến việc xóa bỏ
chủ nghĩa quân chủ tại Nhật nhằm thực hiện các cải cách xã hội tiến bộ. Do
đó, liên minh Mỹ - Nhật chủ yếu là liên minh về quân sự để tạo điều kiện cho
Mỹ có quân đội chiếm đóng tại Nhật.
“Hiệp ước an ninh Nhật-Mỹ” đã đánh dấu sự quay trở lại xã hội quốc tế
của Nhật Bản đồng thời cũng biến Nhật Bản thành căn cứ “chống cộng” ở
Châu Á, kể từ đó trở đi Mỹ luôn là đồng minh số một của Nhật Bản và chính
sách đối ngoại của Nhật Bản luôn phù hợp với chiến lược toàn cầu của Mỹ.
13



Điều này luôn được thể hiện rõ trong sách xanh ngoại giao của Nhật Bản xuất
bản hàng năm “ Mối quan hệ hợp tác hữu nghị với Mỹ dựa trên Hiệp ước an
ninh Nhật-Mỹ là trục chính của ngoại giao Nhật Bản, sự hợp tác này được
thực hiện trong các lĩnh vực mà trước hết là trong lĩnh vực chính trị, kinh tế,
quân sự. Mỹ là đối tác quan trọng của Nhật Bản”.
Không chỉ trong lĩnh vực chính trị mà quan hệ kinh tế Nhật-Mỹ cũng
rất lớn. Kể từ những năm 60 trở đi Mỹ luôn là bạn hàng số một của Nhật Bản
với lượng kim ngạch buôn bán tăng hết sức nhanh. Ví dụ, kim ngạch buôn
bán hai chiều giữa hai nước đã đạt 184,29 tỉ USD vào năm 2001, trong đó
Nhật Bản xuất siêu 58,11 tỉ USD.
Trong mối quan hệ với Nhật, Mỹ luôn tìm cách kiềm chế Nhật ở mức
độ cao nhất vì lo sợ Chủ nghĩa quân phiệt Nhật một khi nó trỗi dậy, sẽ có một
sự chuyển hóa từ sức mạnh kinh tế sang sức mạnh quân sự. Mỹ duy trì sự có
mặt về quân sự và ảnh hưởng của mình Nhật Bản nhằm hạn chế khả năng
quân sự của Nhật cũng như duy trì chúng ở trong vòng cương tỏa mà Mỹ có
thể kiểm soát được. Nhờ đó, Mỹ biến Nhật Bản trở thành thành trì vững chắc
nhất chống lại sự lan rộng ảnh hưởng của Chủ nghĩa cộng sản tại Châu Á.
Liên minh Mỹ- Nhật có cách xác định lực lượng quân đồn trú trong
hiệp ước rõ ràng và cách phối hợp cũng toàn diện, và Mỹ phải có nghĩa vụ
và trách nhiệm đảm bảo hỗ trợ và giúp đỡ an ninh cho Nhật Bản rõ ràng
hơn. Cơ chế hợp tác trong Liên minh Mỹ- Nhật đưa ra chi tiết và mạch lạc
hơn phần lớn giải thích cho điều này là sự phụ thuộc của Nhật Bản bởi
những vấn đề của lịch sử, cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm của Mỹ trong
vai trò với Nhật Bản.
Liên minh Mỹ- Nhật trong Chiến Tranh Lạnh có thể thấy là một sự kết
hợp tương đối gắn kết bởi những ràng buộc lợi ích trong giai đoạn này.
3. Chính sách điều chỉnh hợp tác an ninh Nhật Bản - Mỹ
-"Hiệp ước phòng thủ chung" giữa Nhật Bản và Mỹ tồn tại tới đầu năm
1978 mà không có sửa đổi bổ sung gì. Từ cuối những năm 70, tình hình quốc

14


tế có nhiều biến đổi và theo sự đánh giá của Nhật Bản và Hoa Kỳ, thì sự biến
đổi đó là bất lợi cho họ. Việc Liên Xô lúc đố chuẩn bị đưa quân vào
Afganixtan đã gây sự lo ngại cho Nhật Bản và phương Tây. Việc suy giảm
ảnh hưởng của Mĩ ở Đông Nam á gây ra một cú sốc cho một số đồng minh
của Mĩ ở khu vực này.

-Trước bối cảnh đó, Nhật Bản và Hoa Kỳ đã điều chỉnh một bước chíên
lược hợp tác an ninh song phương vào cuối 1978. Có thể nói đây là lần điều
chỉnh đầu tiên của chương trình hợp tác phòng thủ Nhật Bản - Hoa Kỳ kể từ
khi ký hiệp ước an ninh 1960.
-Có thể nói sự điều chỉnh lần này chỉ mang tính chất chiến thuật chứ
không phải chiến lược. Bởi vì hầu như không có sửa đổi gì so với lần sửa đổi
1978. Trong lần sửa đổi năm 1978 "chiến lược hợp tác phòng vệ Nhật Bản"
xác định khu vực phòng thủ của liên minh Nhật Bản - Hoa Kỳ là "vùng Viễn
Đông" không bao gồm Trung Quốc và Nam Triều Tiên. Đây là một bước mở
rộng so với hiệp ước an ninh Nhật Bản - Hoa Kỳ ký năm 1960. Hiệp ước này
xác định, khu vực phòng vệ chung Nhật Bản - Hoa Kỳ được giới hạn trong
phạm vi 200 hải lý mà điểm mốc là căn cứ vào ba eo biển của Nhật Bản là
Tsugaru, Tushima và Soya.
- Lần điều chỉnh hợp tác an ninh Nhật Bản - Hoa Kỳ thứ hai diễn ra từ
giữa những năm 1980. Sự điều chỉnh chương trình hợp tác an ninh lần này chỉ

15


mang tính chất chiến thuật bởi vì thời kỳ đó Nhật Bản tỏ ra kiên quyết ủng hộ
các hành động quân sự và ngoại giao cứng rắn của Mĩ nhằm chống lại "chủ

nghĩa phiêu lưu" của Liên Xô. Đồng thời Nhật Bản cũng đồng ý tham gia
chương trình "sáng kiến phòng thủ chiến lược - cuộc chiến tranh giữa các vì
sao" do Hoa Kỳ chủ xướng. Còn nội dung hợp tác an ninh mà hai nước đã
thoả thuận trước đó không có gì thay đổi.
Sự điều chỉnh chương trình hợp tác an ninh lần này chỉ mang tính chất
chiến thuật bởi vì thời kỳ đó Nhật Bản tỏ ra kiên quyết ủng hộ các hành động
quân sự và ngoại giao cứng rắn của Mĩ nhằm chống lại "chủ nghĩa phiêu lưu"
của Liên Xô. Đồng thời Nhật Bản cũng đồng ý tham gia chương trình "sáng
kiến phòng thủ chiến lược - cuộc chiến tranh giữa các vì sao" do Hoa Kỳ chủ
xướng. Còn nội dung hợp tác an ninh mà hai nước đã thoả thuận trước đó
không có gì thay đổi.
Trên thực tế, những điều chỉnh chiến lược hợp tác an ninh giữa Nhật
Bản và Hoa Kỳ trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh vẫn thiên về học thuyết
lấy phòng vệ làm "phương châm chỉ đạo" và sẵn sàng đáp lại đối phương nếu
nước Nhật bị tấn công.
-Thập niên 1980 đánh dấu sự căng thẳng trở lại trong quan hệ Xô – Mỹ.
Sự tăng cường hoạt động của hạm đội Thái Bình dương của Liên Xô tại vùng
biển Đông Bắc Á cũng như việc cung cấp các loại vũ khí hiện đại cho Bắc
Triều Tiên (Mic-29s, tên lửa đất đối không SA-5) khiến cho Nhật Bản lo lắng.
Từ đó, mục tiêu phòng vệ của Nhật đã chuyển mạnh sang hướng an ninh tập
thể, phối hợp chặt chẽ với chiến lược an ninh của Mỹ tại khu vực châu ÁThái Bình Dương.
-Về cơ bản, hợp tác quân sự Mỹ - Nhật trong thời gian này triển khai
theo mấy hướng sau :
Tăng cường khả năng giám sát khu vực không – hải phận rộng lớn .
Tăng cường khả năng vượt trội của lực lượng phòng không.
Tăng cường khả năng tác chiến chống tàu ngầm.
16


Phối hợp nghiên cứu , phát triển và sản xuất vũ khí.


- Hình thức phối hợp của Liên minh Mỹ - Nhật
Có thể thấy hiếm có cơ chế hợp tác song phương nào có sự phối hợp
toàn diện như liên minh Mỹ_ Nhật. Theo hiệp ước, mỗi chính phủ sẽ hỗ trợ
nhau trong trường hợp bị tấn công, bất cứ bên nào bị tấn công thì bên kia
cũng coi như sự tấn công nhằm vào quốc gia mình. Chính phủ Nhật có những
điều khoản hỗ trợ trang thiết bị, máy móc phương tiện cho sự hoạt động để
đảm bảo an ninh của quân đội Mỹ tại Nhật. Có thể thấy, có tơí 75% chi phí
quân sự của Mỹ trên đất Nhật do nước chủ nhà cung cấp.
Chương trình viện trợ quân sự đã cung cấp cho việc mua lại của Nhật
Bản vốn, trang thiết bị và các dịch vụ thiết yếu cho quốc phòng của quốc gia.
Although Japan no longer received any aid from the United States by the
1960s, the agreement continued to serve as the basis for purchase and
licensing agreements ensuring interoperability of the two nations' weapons
and for the release of classified data to Japan, including both international
intelligence reports and classified technical information. Mặc dù Nhật Bản
không còn nhận được viện trợ từ Hoa Kỳ, những năm 1960, thỏa thuận tiếp
tục phục vụ như là cơ sở để mua và cấp giấy phép thỏa thuận đảm bảo khả
năng chuyển giao công nghệ quốc phòng của hai quốc gia như vũ khí , việc
phát hành các dữ liệu đã được phân loại vào Nhật Bản, bao gồm cả tình báo
quốc tế báo cáo và thông tin kỹ thuật phân loại.
4. Tác động của chính sách ngoại giao của Nhật Bản đối với Mỹ
trong thời kỳ chiến tranh lạnh
-Tác động đến quan hệ giữa các nước lớn trong khu vực Châu Á – Thái
Bình Dương:

17


Quan hệ Mỹ - Liên Xô – Nhật Bản: sự đối đầu hệ tư tưởng căng thẳng

hơn và những vấn đề lãnh thổ vẫn không được giải quyết.
Ngay sau khi bước ra khỏi cuộc chiến, mối quan hệ đồng minh mỏng
manh Mỹ- Xô dường như bật tung ra với những đối đầu về hệ tư tưởng và
tranh giành ảnh hưởng lan rộng ra bình diện toàn cầu. Hiệp ước an ninh MỹNhật 1960 với những cam kết về hỗ trợ vũ khí hạt nhân cho phòng vệ Nhật
bản khiến cho căng thẳng leo thang và chạy đua vũ trang bùng nổ mạnh mẽ
giữa Liên Xô-Mỹ.
Rõ ràng, sự xuất hiện và tồn tại của Hiệp ước đã tác động mạnh mẽ tới
quan hệ Xô – Mỹ. Đó không chỉ là bằng chứng cho 1 căn cứ quân sự nhắm
thẳng tới Liên Xô mà còn làm cho mối quan hệ với Nhật bản trở nên đối đầu
và những tranh chấp đảo phía Bắc khó giải quyết hơn. Liên minh Mỹ- Nhật
khiến cho Liên Xô không thể tiếp cận với Nhật Bản để giải quyết những
Tranh chấp đã tồn tại trong lịch sử giữa 2 nước. Với hiệp ước này, Nhật Bản
cũng chính thức tuyên bố đối đầu trực diện với Liên Xô trong vai trò đồng
minh của Mỹ. cũng như sự đe doạ Mỹ bao trùm ảnh hưởng lên khu vực.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, việc ký với Nhật một hiệp ước có
nhiều thuận lợi cho Mỹ tại khu vực rõ ràng như một trong những hành động
khai chiến rõ ràng nhất, góp phần khẳng định lại chính sách chuyển từ hợp tác
sang đối đầu của Mỹ với Liên Xô. Quan hệ của hai bên bị đẩy lên ngày một
căng thẳng hơn so với trước đó. Liên minh Mỹ- Nhật đã tuyên chiến với
những giá trị của Liên Xô ở Châu Á và thể hiện sự kìm chế ảnh hưởng của
chủ nghĩa Cộng sản do Liên Xô đứng đầu.
Trong khuôn khổ của Chiến Tranh Lạnh, mọi Liên minh quân sự giữa
2 phe luôn nhắm thẳng vào việc tập hợp lực lượng để kìm hãm, lật đổ đối
phương. Và việc Mỹ ký với Nhật một hiệp ước như thế đã ngay lập tức làm
cho Liên Xô phải xem xét lại chính sách của mình theo hướng gia tăng đối
đầu với Mỹ và Tây Âu, trong đó có việc tích cực viện trợ hơn nữa cho các
nước đồng minh của mình tại Châu Á – Thái Bình Dương nhằm tạo thế cân
18



bằng trước Hoa Kỳ và Tây Âu. Đỉnh cao là vào năm 1955, Khối hiệp ước
Vacxava ra đời, là liên minh quân sự quan trọng hàng đầu của Liên xô nhằm
đối kháng trực tiếp với NATO của Hoa Kỳ.
Như thế, có thể khẳng định rằng, sự kiện Mỹ - Nhật ký kết với nhau
một hiệp ước an ninh đã góp phần làm gia tăng căng thẳng giữa hai phe, thúc
đẩy chính sách đối đầu được thực thi một cách thường xuyên hơn giữa Xô –
Mỹ tại khu vực Châu Á và sau đó là tại Trung Đông và Mỹ Latinh.
Quan hệ Trung – Mỹ: Sự hiện diện về mặt quân sự của Mỹ tại châu Á
ngay sau khi Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật ra đời như một đòn bẩy đẩy Trung
Quốc xích lại gần Liên Xô hơn trong việc chống lại Chủ nghĩa Đế quốc. Hơn
thế nữa, do vị trí của Nhật lại gần ngay Trung Quốc, do đó, sau khi hiệp ước
ra đời trao cho Mỹ những quyền hạn đặc biệt về quân sự tại Nhật Bản và
những vùng lân cận, Trung Quốc không thể không lo ngại một sự gia tăng quá
mức nào đó ảnh hưởng của quân đội Mỹ tại đây sẽ đe dọa tới an ninh của bản
thân Trung Quốc. Bởi thế, người Trung Quốc nghĩ ngay tới việc hợp tác với
Liên Xô để cùng đẩy lùi mối hiểm họa chung.
Liên minh Mỹ- Nhật lại tái khẳng định năm 1960, khiến cho Trung
Quốc không khỏi suy nghĩ tính toán. Mặc dù không cho rằng, Liên minh này
đang nhắm trực tiếp vào mình và nhưng Trung Quốc không khỏi e ngại với
vấn đề Đài Loan, vùng lãnh thổ mà Trung Quốc đang phản đối mạnh mẽ ảnh
hưởng của Mỹ. Trung Quốc đã phải lựa chọn con đường tự lực gia tăng ảnh
hưởng của mình tại khu vực và chọn con đường “ chống Mỹ, chống xô”.
-Tác động đến cục diện chiến tranh lạnh: Hợp tác an ninh Mỹ-Nhật là
chất xúc tác khiến cuộc chiến tranh Lạnh lan rộng nhanh chóng từ Âu sang Á;
cục diện chiến tranh “nóng” hơn trước
Nếu giai đoạn từ 1945 – 1949 được xem là giai đoạn cuộc chiến tranh
diễn ra chủ yếu tại châu Âu thì trong những năm 50, chiến tranh lạnh được
xem là đã lan ra và chủ yếu diễn ra tại châu Á cũng như Châu Phi và Mỹ

19



Latinh mà tiêu biểu là 2 cuộc chiến tranh “nóng” Triều Tiên và Việt Nam. Vào
năm 1950, khi cộng đồng thế giới đang khắc phục những hậu quả của cuộc
Chiến tranh Thế giới lần thứ II, thì ở một nơi xa xôi của Châu Á Chiến tranh
lạnh bất ngờ trở nên nóng bỏng - các nước Hoa Kỳ, Nhật Bản và đồng minh
của nó, rồi cả Liên Xô, Bắc Triều Tiên và cả Trung Quốc cộng sản cũng bị lôi
kéo vào cuộc chiến.
Việc kí kết hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật làm tăng thêm nghi kỵ vốn có
trong quan hệ giữa các nước lớn trong nền chính trị quốc tế ở khu vực CATBD. Căng thẳng leo thang tai khu vực khi các lực lượng quân sự Mỹ chính
thức lập căn cứ tại Nhật Bản với danh nghĩa bảo vệ đồng minh và sẵn sàng
can thiệp vào những khu vực nhạy cảm nhằm ngăn chặn làn sóng đỏ, và hỗ
trợ cho khối quân sự NATO khi cần thiết.
Để đáp trả lại những khối quân sự do Mỹ lập nên như SEATO (9/1954),
ANZUS (1951) và đặc biệt Hiệp ước an ninh Mỹ-Nhât với việc thiết lập hơn
60.000 quân tại nước này với hàng ngàn căn cứ quân sự, với trang bị vũ khí
hiện đại có thể ngay lập tức tiến tới các khu vực quan trọng thiết yếu với cả 2
bên.
Hiệp ước an ninh Mỹ- Nhật cũng khiến cho vấn đề Triều tiên trở nên
khó khăn hơn. Sau khi chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, để ngăn chặn cái gọi là
“sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản”, Mỹ đã bắt đầu lao vào những cuộc
chiến tranh ở Châu Á- Thái Bình Dương. Trong thời kỳ này, Mỹ ký hòa ước
với Nhật (1951) và dành được quyền đóng quân trên đất Nhật.
Với những diến biến như vậy, Trung Quốc cũng sớm bị lôi kéo vào
cuộc chiến này. Ngày 18-10-1950 trung Quốc đã gửi quân chí nguyện vào
Triều Tiên tham chiến, ủng hộ cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân Triều
Tiên dưới sự lãnh đạo của Kim Nhật Thành. Sự hợp tác giữa 3 nước TrungTriều- Xô đã thể hiện tinh thần quốc tế của Chủ nghĩa Cộng Sản.. càng khiến
sự đối đầu Xô- Mỹ trở nên gay gắt.

20



Hợp tác an ninh Mỹ- Nhật dù ít nhiều đã góp phần đưa Nga- Mỹ đến bờ
vực thẳm của chiến tranh, khiến cho cục diện chiến tranh Lạnh “Nóng” hơn
bao giờ hết.
- Hợp tác an ninh Mỹ- Nhật lại góp phần kiềm chế lẫn nhau giữa các
nước lớn tại khu vực
Tiếp theo phải tính đến nhân tố Trung Quốc với sự đánh dấu sự ra đời
của Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa 10/1949 phần nào cũng báo hiệu sự lớn
mạnh của Trung Quốc trong khu vực. Chiến tranh Trung- Nhật trong Thế chiến
II(1937-1945) vẫn để lại những dư âm không tốt trog mối quan hệ Trung-Nhật.
Sự bắt tay Mỹ- Nhật rõ ràng là một diễn biến không có lợi cho Trung Quốc.
Tuy nhiên chính điều này lại kiềm chế Trung Quốc ở một mức độ nào đó, làm
giảm mối lo ngại của Mỹ đối với Trung Quốc và nhìn chung đó lại là một sự
kiếm chế lẫn nhau giữa các cường quốc trong chiến tranh Lạnh.
Việc Mỹ- Nhật bắt tay nhau trong chiến tranh lạnh đã có những ảnh
hưởng không nhỏ đến tư duy các nước lớn, khiến mâu thuẫn ý thức hệ trở nên
sâu sắc hơn. Từ đó, tạo thành nhân tố thúc đẩy chiến tranh lạnh đi đến giai
đoạn xung đột gay gắt và mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, hợp tác an ninh giữa Mỹ
và Nhật Bản giai đoạn này lại tạo nên thế kiềm chế lẫn nhau giữa các nước
lớn trong cục diện chiến tranh lạnh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

IV.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN ĐỐI VỚI
MỸ SAU 1991 ĐẾN NAY
1. Bối cảnh
Chiến tranh lạnh kết thúc làm cho cục diện thế giới nói chung và khu
vực châu Á - Thái Bình Dương (CA - TBD) nói riêng có những biến đổi to
lớn. Trước hết và quan trọng nhất là sự sụp đổ của trật tự thế giới hai cực XôMỹ. Cùng với đó là sự thay đổi rất căn bản trong đời sống chính trị, kinh tế
thế giới. Mỹ trở thành một siêu cường duy nhất cả về quân sự và kinh tế.


21


Quá trình liên kết khu vực và toàn cầu là một xu thế tất yếu của nền
kinh tế thế giới khi lực lượng sản xuất đã vượt qua biên giới quốc gia của một
nước để trở thành một lực lượng quốc tế do sự phát triển của cách mạng khoa
học - công nghệ, đặc biệt là cách mạng tin học
Kể từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt là sự điều chỉnh chiến lược của tất
cả các nước, nhất là của các nước lớn nhằm giành cho mình một vị trí tối ưu
trong hệ thống quan hệ quốc tế đang trong quá trình cơ cấu lại. Chiến tranh
lạnh chấm dứt, sự đối đầu đặc biệt là đối đầu về ý thức hệ cũng đang dần mất
đi. Điều này không có nghĩa là hiện nay cuộc đấu tranh về ý thức hệ không
còn nữa. Nó vẫn tiếp tục nhất là trong nội bộ từng nước. Trên phạm vi quốc
tế, trong quan hệ giữa các nước với nhau cuộc đấu tranh ý thức hệ không còn
ở vị trí hàng đầu mà diễn ra dưới những hình thức khác ít bạo lực hơn, dưới
chiêu bài đấu tranh đòi nhân quyền, dân chủ, đa nguyên, đa đảng v.v... Do đó
về cơ bản thế giới đã chuyển từ thời kỳ đối đầu sang thời kỳ vừa đấu tranh
vừa hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình hoặc ít nhất là tránh đối đầu. Hai là sự
tan rã của thế giới hai cực. Sự sụp đổ của Liên Xô làm cho Mỹ trở thành siêu
cường duy nhất còn lại trên thế giới. Nhưng điều này không đồng nghĩa với
việc xem trật tự thế giới sau chiến tranh lạnh là trật tự thế giới một cực, bởi lẽ
rất đơn giản là Mỹ không còn đủ sức cả về kinh tế lẫn chính trị để điều khiển
thế giới theo ý muốn của mình. Không những các nước lớn như Trung Quốc,
Â'n Độ không làm theo gậy chỉ huy của Mỹ, mà ngay những nước vốn là
đồng minh của Mỹ trong chiến tranh lạnh ngày nay cũng dám đứng lên thách
thức sự lãnh đạo của Mỹ. Nhân tố này đang đóng một vai trò quan trọng trong
sự điều chỉnh chiến lược của các nước theo hướng đa phương, đa dạng hoá
quan hệ quốc tế.
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, những biến động của tình hình thế

giới cũng như trong nội tại đã tạo ra những cơ hội và thách thức to lớn, buộc
Nhật Bản phải có một số điều chỉnh về chính sách đối ngoại: Thực hiện chiến
22


lược “trở lại châu Á”. Xử lý hài hòa quan hệ với các nước láng giềng; Tích
cực tham gia các định chế toàn cầu, đa phương hóa quan hệ, xác lập vị thế
trên trường quốc tế… Nhìn chung, Nhật Bản đã đạt được một số thành công
nhất định, qua đó tăng cường sức mạnh, nâng cao vị thế, vai trò, phát huy
được ảnh hưởng to lớn đối với thế giới.
2. Chính sách củng cố quan hệ đối tác toàn diện Mỹ - Nhật
Chính sách đối ngoại của Nhật trong thập kỷ 90 được đặc trưng bởi
việc củng cố quan hệ với Mỹ qua việc ký Tuyên bố chung về “An ninh NhậtMỹ trong thế kỷ 21” năm 1996 và đưa ra Phương châm phòng thủ mới NhậtMỹ vào năm 1997.
Định hướng hợp tác quốc phòng đầu tiên giữa Washington và Tokyo
được công bố vào năm 1978. Đôi bên phân chia công việc trong giai đoạn
Chiến tranh Lạnh tương ứng với khả năng quốc phòng của Nhật Bản. Theo
bản định hướng năm 1997, liên minh thành lập một Cơ chế Phối hợp Song
hương (BCM), để tiến hành các hoạt động trong trường hợp xảy ra tấn công
quân sự vào Nhật Bản hoặc tình huống nguy hiểm khác.
Bản định hướng ban đầu năm 1978 và bản sửa đổi năm 1997 từng bước
thể hiện vai trò ngày càng tăng của Nhật Bản, tuy nhiên vai trò này vẫn chỉ
dừng lại ở mức “tự vệ”, chia sẻ trách nhiệm, và bị “giới hạn địa lý” là Nhật
chỉ hỗ trợ trong trường hợp quân Mỹ đóng tại Nhật Bản hoặc các vùng phụ
cận bị tấn công.
Liên minh với Mỹ được coi là “hòn đá tảng” trong chính sách đối ngoại
của Nhật Bản mấy chục năm qua; mọi động thái trong chính sách đối ngoại
của Nhật đều dựa trên nền tảng là quan hệ Nhật – Mỹ. Đây cũng là mối quan
hệ toàn diện trên hầu hết các lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, ngoại giao đến hợp
tác an ninh, khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực…
3. Nhật Bản ngày càng độc lập và ít lệ thuộc hơn vào Mỹ trong

chính sách đối ngoại

23


Một mặt Nhật chủ trương nâng cấp quan hệ an ninh để Nhật có vai trò
lớn hơn không phải chỉ ở vùng chung quanh nước Nhật mà ra cả Châu A' Thái Bình Dương, mặt khác Nhật tìm cách tách khỏi Mỹ khi tỏ thái độ đối với
một số vấn đề ở châu A' như thuyết phục các nước G7 bỏ cấm vận đối với
Trung Quốc sau vụ Thiên An Môn, vấn đề Campuchia, Nhật hoàng thăm
Trung Quốc, Nhật tham dự đầy đủ việc chuyển giao Hồng Kông cho Trung
Quốc v.v...
Đáp ứng các nhu cầu an ninh trong kỷ nguyên mới đòi hỏi phải dỡ bỏ
phần lớn những sự kiềm chế mà Nhật Bản đã bị tự áp đặt. Từ đầu những năm
1990, Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản đã được triển khai ra nước ngoài. Gần
đây, Nhật Bản cũng đưa ra những nguyên tắc mới đối với xuất khẩu vũ khí và
đã ký một thỏa thuận cùng nhau chế tạo vũ khí với Thổ Nhĩ Kỳ. Tất các
những hành động này có vẻ như trái với Điều 9 – điều khoản hòa bình của
Hiến pháp Nhật Bản.
Trên thực tế, việc diễn giải lại Điều 9 Hiến pháp Nhật Bản cũng tượng
trưng cho một biểu hiện quan trọng đối với Mỹ. Xét cho cùng, liên minh Mỹ Nhật là yếu tố cốt tử trong các chiến lược an ninh của cả hai nước ở châu Á –
Thái Bình Dương. Hiến chương Liên hợp quốc cho phép các nước được bảo
vệ đồng minh của họ khỏi sự xâm lược của bên thứ ba. Tuy nhiên, Nhật Bản
không thể sử dụng quyền này do hạn chế của Hiến pháp. Vì vậy, dù là đồng
minh song phương nhưng cho đến nay, nghĩa vụ bảo vệ chỉ được thực hiện
một chiều từ phía Mỹ.
-7/2014, Nội các của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã phê
chuẩn đề xuất kêu gọi “quyền phòng vệ tập thể” cho phép quân đội Nhật
Bản trợ giúp bảo vệ một quốc gia thân thiện khi bị tấn công. Đây là một
trong những thay đổi lớn nhất trong chính sách an ninh của Nhật Bản kể
từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Đề xuất này, vẫn cần Quốc hội

phê chuẩn, sẽ cho phép quân đội Nhật Bản đóng một vai trò quốc tế lớn
hơn bằng cách nới lỏng các hạn chế về phạm vi hoạt động trong các hoạt
24


động gìn giữ hòa bình do Liên hợp quốc lãnh đạo và những sự cố trong
“khu vực chưa phân rõ trắng đen” – các cuộc xung đột có cường độ thấp
chưa đạt tới mức một cuộc tấn công quy mô toàn diện.
4. Chính sách đối ngoại của Nhật Bản đối với Mỹ trong một số vấn
đề nóng hiện nay
Quan hệ Nhật - Mỹ hiện đang ở trong một giai đoạn được coi là bước
ngoặt lịch sử, trong đó cả hai nước cũng như mỗi nước đang đứng trước
những thách thức mang tính chất sống còn và do đó rất cần sự hợp tác cùng
nhau và hành động chung để hóa giải.
Bước vào thế kỷ 21, với những diễn biến phức tạp của cuộc chiến tranh
chống khủng bố và tình hình vũ khí hạt nhân của Bắc Triều Tiên, Nhật Bản tiếp
tục chính sách ủng hộ mạnh mẽ Mỹ và tăng cường khả năng tự vệ của mình.
-Mỹ - Nhật đều bày tỏ lo ngại về tham vọng bành trướng lãnh thổ của
Trung Quốc tại châu Á - Thái Bình Dương. Theo ông Obama, Mỹ - Nhật tăng
cường hợp tác nhằm xử lý tốt hơn các thách thức chung, từ tranh chấp hàng
hải đến an ninh mạng.

25


×