Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt nam – Chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.95 KB, 86 trang )

MỤC LỤC
1.3.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc nâng cao chất lượng tín dụng..............26
1.3.4.2. Bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng
tín dụng....................................................................................................................................................27


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU
SƠ ĐỒ
1.3.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc nâng cao chất lượng tín dụng..............26
1.3.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong việc nâng cao chất lượng tín dụng..............26
1.3.4.2. Bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng
tín dụng....................................................................................................................................................27
1.3.4.2. Bài học kinh nghiệm cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong việc nâng cao chất lượng
tín dụng....................................................................................................................................................27


LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ và được coi là xương sống
của nền kinh tế. Trong các trung gian tài chính, hệ thống các ngân hàng thương mại
chiếm vị trí quan trọng nhất về quy mô tài sản và về thành phần các nghiệp vụ. Và
trong tất cả các hoạt động của ngân hàng , tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi
nhuận cao nhất và chủ yếu trong tổng thể các hoạt động của ngân hàng. Tín dụng
ngân hàng là đòn bẩy quan trọng cho nền kinh tế, quyết định đến sự tồn tại và phát
triển của các NHTM , do đó, trong nền kinh tế thị trường nhiều cạnh tranh như hiện
nay, các NHTM buộc phải đưa ra các biên pháp , phương pháp hoạt động hiệu quả
để áp dụng vào thực tế..
Nâng cao chất lượng là vấn đề luôn được quan tâm hàng đầu trong các hoạt
động kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh nói riêng. Phát triển phải đi đều


với chất lượng thì mới bền vững. Hoạt động tín dụng ngân hàng của Ngân hàng
thương mại lại càng phải như vậy, vì Trong các hoạt động của ngân hàng, tín dụng
là hoạt động quan trọng nhất, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản, tạo thu
nhập tiền lời lớn nhất và cũng là hoạt động mang lại nhiều rủi ro nhất của ngân
hàng. Vì vậy, nâng cao chất lượng tín dụng luôn là nhiệm vụ và mục tiêu hàng đầu
của các NHTM. Để đưa ra được một quyết định đầu tư tín dụng, các ngân hàng phải
cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lợi dựa trên quy trình phân
tích tín dụng. Hoạt động tín dụng có ý nghĩa đặc biệt trong việc đánh giá sức mạnh
tài chính, tự chủ tài chính trong kinh doanh nhu cầu tài trợ và khả năng hoàn trả của
khách hàng. Nhưng hoạt động này trong các NHTM còn nhiều bất cập. Chính vì lẽ
đó mà việc nghiên cứu tìm ra các giả pháp nâng cao chất lượng tín dụng sẽ góp
phần quyết định tới hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Với kinh nghiệm thực tiễn công tác tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt
nam – Chi nhánh Hà Nội kết hợp với kiến thức học được của khoá học cao học vừa
qua, nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nên em chọn đề tài nghiên cứu “ Giải
pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt

1


nam – Chi nhánh Hà Nội” làm đề tài luận văn của mình với mong muốn ý nghĩa
thực tiễn của đề tài sẽ giúp cho hoạt động tín dụng của chi nhánh phát triển ngày
càng bền vững.
Kết cấu của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về chất lượng tín dụng của Ngân hàng
thương mại
Chương 2: Thực trạng chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam – Chi nhánh Thành phố Hà Nội


2


CHƯƠNG 1

CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1. Khái niệm và chức năng của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đã có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài.
Ngay nửa đầu thế kỷ 16, ở Châu Âu đã ra đời một số ngân hàng đầu tiên mà tiền
thân là những tổ chức cho vay nặng lãi. Vào thời điểm này, ngân hàng phát triển ở
trình độ thấp, hoạt động của ngân hàng chỉ gói gọn trong lĩnh vực giữ hộ tiền và cho
vay. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, hoạt động của ngân hàng
thương mại cũng được từng bước được củng cố và hoàn thiện, chuyển hoá dần theo
hướng đa năng. Tuy nhiên đến nay chưa có một khái niệm thống nhất về ngân hàng
thương mại do các nhà kinh tế nhận thấy có những khó khăn trong việc định nghĩa
“ngân hàng”, bởi quan niệm về ngân hàng thay đổi trong không gian (tập quán và
phong tục của mỗi nước) và trong thời gian (theo đà tiến triển kinh tế-xã hội).
Theo một số chuyên gia về ngân hàng trên thế giới thì ngân hàng trong nền
kinh tế trên thị trường được quan niệm là “Ngân hàng là một doanh nghiệp đặc biệt
hoạt động trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, tuân thủ theo pháp luật theo đuổi mục tiêu
lợi nhuận”
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt
Nam xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả
và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương
tiện thanh toán”
Chức năng của Ngân hàng thương mại:

 Một là: Chức năng là trung gian tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường các giao dịch kinh tế diễn ra rất sôi động đã tạo ra

3


những khoản thu nhập, chi tiêu và tích luỹ bằng tiền của các tầng lớp trong xã hội.
Quá trình đó làm hình thành nên những người có tiền tích luỹ có khả năng cung cấp
tín dụng và những người có nhu cầu tín dụng để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát
triển. Nhưng làm thế nào để họ tìm gặp được nhau và làm sao có thể cùng thoả mãn
những nhu cầu vốn đa dạng và to lớn trong khi các nguồn tiền tiết kiệm đang nằm
phân tán trong xã hội mà mỗi khoản tiết kiệm lại theo đuổi một mục đích riêng.
Nhờ có thị trường tài chính và cơ chế chuyển giao vốn năng động của thi
trường tài chính mà trong đó hệ thống NHTM giữ vai trò chủ đạo, NHTM hoạt
động như một chiếc cầu nối giữa khả năng cung ứng vốn và nhu cầu về vốn tiền tệ
trong xã hội. Là trung gian tín dụng, Ngân hàng đóng vai trò là người môi giới giữa
một bên là người có tiền cho vay và một bên là những người có nhu cầu chi tiêu cần
đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, bằng những biện pháp, chính sách và áp
dụng những phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại Ngân hàng có khả năng thu
hút hầu hết những nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để phân bổ vốn cho nhu cầu
sản xuất kinh doanh. Như vậy có nghĩa là Ngân hàng đã biến những đồng tiền tạm
thời nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động, biến những đồng tiền tệ nằm phân
tán thành nguồn tiền tệ tập trung phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, qua dó
phát triển hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
 Hai là: Chức năng làm trung gian thanh toán
Trong đời sống hàng ngày diễn ra hàng tỷ lượt giao dịch, thanh toán bằng tiền
mặt. Nếu như mọi khoản thanh toán đầu thanh toán bằng tiền mặt trao tay thì sẽ kéo
theo hàng loạt các công việc phức tạp và tốn kém mà nhiều khi còn gặp rủi ro
không lường trước được. Khi NHTM ra đời và phát triển, trong quá trình làm trung
gian tín dụng Ngân hàng đã thu hút được hầu hết các nhà kinh doanh có quan hệ

buôn bán với nhau mở tài khoản tại Ngân hàng tạo cơ sở cho các Ngân hàng đứng
ra làm trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản bằng cách trích số dư tiền
gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người bán, tiến hành
các nghiệp vụ này Ngân hàng trở thành là người thủ quỹ và là bộ máy kế toán đáng
tin cậy của các nhà kinh doanh trong việc làm trung gian nhận và trả tiền theo yêu
4


cầu của họ, kế toán và kết toán tài khoản cho họ. Do đó, quá trình thực hiện chức
năng này hệ thống NHTM đã góp phần quan trọng làm giảm bớt khối lượng lưu
thông tiền mặt, tiết kiệm chi phí lưu thông thuần tuý, giúp cho việc thanh toán tiền
hàng hoá dịch vụ được thuận lợi, nhanh chóng, an toàn. Đối với Ngân hàng thực
hiện chức năng này tạo cho Ngân hàng có thể duy trì và nâng cao khả năng thanh
toán, quản lý được tình hình thu chi của các đơn vị qua đó có các quyết định kịp
thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và an toàn tài sản cho khách hàng và
Ngân hàng.
 Ba là: Chức năng tạo phương tiện thanh toán
Quá trình tạo tiền của NHTM bắt nguồn từ quá trình phát triển hoạt động tín
dụng gắn liền với việc mở rộng thanh toán qua Ngân hàng. Qua việc thực hiện hai
chức năng trên Ngân hàng đã thu hút được một lượng khách hàng và số lượng tiền
gửi khá lớn tại Ngân hàng, bằng cách dùng tiền gửi của người này để cho người
khác vay và người này lại tạo nên tiền gửi của người khác nằm trong cùng hệ thống
Ngân hàng. Quá trình đó NHTM đã tự tạo được khối lượng tiền gửi tăng thêm nhiều
lần từ số tiền gửi đầu tiên (Tiền gửi sử dụng Sec), khối lượng tiền đó sẵn sàng cung
ứng cho nhu cầu thanh toán vì người ta có thể viết Sec để rút tiền từ tài khoản tiền
gửi của họ, Sec được sử dụng làm phương tiện thanh toán thay thế cho tiền trong
việc mua bán hàng hoá và chi trả dịch vụ khác.
1.1.2. Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Nhận tiền gửi
Đây là hoạt động cơ bản của NHTM, Ngân hàng nhận được các khoản tiền gửi

từ khách hàng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi
tiết kiệm và các hình thức khác. Ngân hàng nhận tiền gửi của các cá nhân, của các
tổ chức kinh tế và Ngân hàng phải hoàn trả gốc và lãi cho khách hàng khi đến hạn
hoặc khi khách hàng có nhu cầu sử dụng là đến rút tiền ở Ngân hàng. Qua hoạt
động này Ngân hàng đã thu hút một lượng lớn tiền tạm thời nhàn rỗi để phục vụ cho
các hoạt động của mình như hoạt động cho vay và thông qua đó cung cấp phương

5


tiện thanh toán cho nền kinh tế.
1.1.2.2 Hoạt động tài trợ của ngân hàng
Trên cơ sở lượng tiền gửi từ nền kinh tế mà Ngân hàng đã tiếp nhận và quản lý
được sau khi trừ đi phần dự trữ cần thiết theo qui định, phần còn lại sẽ được Ngân
hàng sử dụng để tài trợ cho các hoạt động của mình. Do tính đa dạng của khách
hàng và nhu cầu phong phú về phương thức sử dụng tiền tài trợ của khách hàng nên
Ngân hàng đã thiết lập và xây dựng các phương thức tài trợ khác nhau.
 Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ
Khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của Ngân hàng đã trở thành
trọng tâm chú ý của chính phủ. Do nhu cầu chi tiêu lớn của chính phủ và thường là
cấp bách trong khi thu không đủ chi hoặc thu chưa đủ thì chính phủ các nước đều
muốn tiếp cận với các khoản cho vay của Ngân hàng. Phương thức được sử dụng
nhiều nhất là Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ mua bán tín phiếu, trái phiếu hoặc làm
đại lý phát hành các giấy tờ có giá cho Chính phủ, qua nghiệp vụ này một mặt vừa
thực hiện nghĩa vụ với nhà nước mặt khác vừa đem lại thu nhập cho Ngân hàng.
 Tài trợ cho nền kinh tế
Để tiến hành hoạt động kinh doanh thì vấn đề sống còn là phải có nguồn lực
tài chính đủ mạnh, trước hết là dể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mặt khác
là để mở rộng qui mô và tham gia cạnh tranh để đứng vững trong nền kinh tế thị
trường. Nguồn lực này thì ngoài nguồn vốn tự có của các Doanh nghiệp (thường chỉ

chiếm tỷ trọng nhỏ), thì phần lớn các doanh nghiệp đều phải dựa và nguồn vốn tín
dụng Ngân hàng. Tuỳ theo nhu cầu và loại hình kinh doanh mà Ngân hàng chấp
nhận cấp tín dụng theo các phương thức khác nhau trên cơ sở thoả mãn các điều
kiện vay vốn do Ngân hàng đưa ra. Khi thực hiện nghiệp vụ này thì nó đem lại lợi
nhuận rất lớn cho Ngân hàng và đây là nguồn thu chủ yếu của Ngân hàng.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng, theo đó Ngân hàng giao cho khách hàng
một khoản tiền để sử dụng trong một khoảng thời gian và theo mục đích nhất dịnh
trên cơ sở với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây là phương thức phổ biến

6


nhất trong hoạt động tài trợ của Ngân hàng đối với khách hàng.
Cho thuê tài chính: Là hoạt động tín dụng trung và dài hạn kéo dài trên cơ sở
hợp đồng cho thuê tài sản giữa bên cho thuê là các tổ chức tín dụng và khách hàng
đi thuê. Khi kết thúc thời hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó hoặc tiếp
tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê. Trong thời
hạn cho thuê các bên không được đơn phương hủy bỏ hợp đồng. Hình thức này giúp
người thuê có ngay tài sản có giá trị lớn để phục vụ cho sản xuất nhưng người thuê
phải trả lãi suất thuê thường cao hơn các hình thức vay khác.
Góp vốn đầu tư: Là hình thức Ngân hàng cùng với một số đối tác cùng góp
vốn để thực hiện các dự án sản xuất kinh doanh. Có thể là hình thức đầu tư trực tiếp
hoặc đầu tư gián tiếp, và Ngân hàng được hưởng quyền lợi và nghĩa vụ như một cổ
đông thường.
Mua nợ: Ngân hàng có thể tài trợ cho khách hàng thông qua việc mua lại các
khoản nợ, hay chiết khấu các chứng từ có giá.
Mua bán ngoại tệ
Đây là hình thức Ngân hàng làm trung gian trong việc chuyển đổi các đồng
tiền của các quốc gia với nhau theo nhu cầu của khách hàng dựa trên tỷ giá mua bán
các đồng tiền đó với nhau, qua hoạt động này Ngân hàng thu được lợi nhuận từ

chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán. Số lượng ngoại tệ mà Ngân hàng mua
được có thể dùng để cho vay đối với các khách hàng có nhu cầu vay bằng ngoại tệ
hoặc dùng để thanh toán trong các giao dịch bằng ngoại tệ.
 Các dịch vụ của Ngân hàng
-

Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán hộ.

Thông qua việc thu hút khách hàng (Cá nhân hoặc tổ chức) mở tài khoản giao
dịch tại Ngân hàng, Ngân hàng sẽ quản lý tài khoản của khách hàng và tiến hành chi
trả tiền hàng hóa dịch vụ cũng như thu hộ các khoản phải thu của chủ tài khoản theo
lệnh của họ. Thực hiện nghiệp này một mặt Ngân hàng giúp khách hàng giảm bớt
được chi phí trong quá trình thanh toán mặt khác Ngân hàng tập trung được một

7


lượng tiền lớn trong nền kinh tế để sử dụng cho các hoạt động của mình.
-

Bảo quản vật có giá

Đây là một dịch vụ mang lại thu nhập khá cao cho các Ngân hàng. Trên thế
giới dịch vụ này rất phát triển. Nội dung của nghiệp vụ này là các Ngân hàng cho
khách hàng thuê két của Ngân hàng để bảo quản tài sản của mình và thu phí từ hoạt
động cho thuê đó.
-

Dịch vụ bảo lãnh


Bảo lãnh Ngân hàng là cam kết bằng văn bản của các tổ chức tín dụng với bên
có quyền về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng
không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết. Muốn vạy khách hàng phải có được sự
đồng ý của Ngân hàng, nó phải tuân theo một qui trình bảo lãnh riêng. Khi Ngân
hàng thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng thì Ngân hàng được hưởng một khoản
phí gọi là phí bảo lãnh, mức phí này tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro của từng hợp đồng
bảo lãnh.
-

Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn đầu tư

Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về
quản lý tài chính vì vậy có rất nhiều cá nhân và doanh nghệp đã nhờ Ngân hàng
quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng sẵn sàng tư vấn về đầu
tư, về quản lý tài chính, về thành lập, mua bán và sáp nhập doanh nghiệp.
-

Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán

Với trình độ của đội ngũ cán bộ công nhân viên và hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật, Ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng các thông tin về chứng khoán và đầu
tư chứng khoán như các danh mục đầu tư, quản lý tài khoản, mua bán hộ, bảo quản
chứng khoán…
-

Cung cấp dịch vụ đại lý

Nhiều Ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc
văn phòng ở khắp mọi nơi, nhiều Ngân hàng (thường là các Ngân hàng lớn) cung
cấp dịch vụ đại lý cho các Ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành chứng chỉ


8


tiền gửi, làm Ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ…
1.2. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1. Khái niệm hoạt động tín dụng
Khái niệm tín dụng đã có từ rất lâu đời, khi bắt đầu có sự phân công lao
động xã hội dẫn tới phát sinh các quan hệ trao đổi và thanh toán do nhu cầu của
con người. Ban đầu hình thức cấp tín dụng chỉ là mua chịu bán chịu các hàng
hóa, sau phát triển thành hình thức vay mượn tiền tệ giữa các chủ thể và ngoài
khoản vốn vay ban đầu còn phải trả thêm một khoản lãi phát sinh. Có thể đơn
giản hiểu tín dụng là sự chuyển nhượng một lượng giá trị từ người sở hữu sang
người sử dụng để sau một khoảng thời gian nhất định thì sẽ thu về một lượng giá
trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Lượng giá trị lớn hơn đó chính là lãi vay, hay
còn gọi là lợi tức tín dụng.
Nguyên thể ban đầu của ngân hàng là các chủ kho quỹ bảo quản tiền hộ
cho các lái buôn lớn và lãnh chúa giàu có. Họ phát hiện ra số tiền trong kho nếu
đem bớt một phần cho vay thì ngoài tiền lương nhận được, họ còn lời thêm
được một khoản lãi nữa. Ngày nay, phạm vi họat động của ngân hàng đã đa
dạng hơn rất nhiều, và do đó khái niệm ngân hàng cũng được mở rộng. Nếu căn
cứ theo Luật các tổ chức tín dụng nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2010, có thể hiểu ngân hàng là các tổ chức tài chính kinh doanh, cung ứng
thường xuyên một hoặc một số các nghiệp vụ gồm nhận tiền gửi, cấp tín dụng và
các dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
Vậy, khái niệm hoat động tín dụng dùng để chỉ các quan hệ vay mượn mà một
bên tham gia là ngân hàng – với tư cách là người đi vay (huy động vốn thông qua
tiền gửi, chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu…) hay với tư cách là người cho các đơn vị,
tổ chức, cá nhân vay nhằm kiếm được lợi nhuận từ phí và tiền lãi.
1.2.2. Các hình thức tín dụng của Ngân hàng

Phân loại tín dụng là việc sắp xếp các khoản vay theo nhóm dựa trên một số
tiêu thức nhất định. Phân loại tín dụng một cách khoa học sẽ giúp cho nhà quản trị

9


lập một quy trình tín dụng thích hợp, giảm thiểu rủi ro tín dụng. Trong quá trình
phân loại có thể dùng nhiều tiêu thức để phân loại, song thực tế các nhà kinh tế học
thường phân loại tín dụng theo các tiêu thức sau đây:
 Căn cứ vào mục đích
Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại sau:
Cho vay bất động sản: Là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương
mại và dịch vụ.
Cho vay công nghiệp và thương mại: Là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn
lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ.
Cho vay nông nghiệp: Là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như
phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu…
Cho vay các định chế tài chính: Bao gồn cấp tín dụng cho các ngân hàng, công
ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định
chế tài chính khác.
Cho vay cá nhân: Là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua
sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trải các chi phí thông
thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
Cho thuê: Cho thuê của các định chế tài chính bao gồm 2 loại cho thuê vận
hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản,
trong đó chủ yếu là máy móc - thiết bị.
 Căn cứ vào thời hạn cho vay
Theo căn cứ này cho vay được chia làm 3 loại sau:
Cho vay ngắn hạn: Loại cho vay này có thời hạn đến 12 tháng và được sử

dụng để bù đắp sự thiết hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi
tiêu ngắn hạn của cá nhân.
Cho vay trung hạn: Loại cho vay này có thời hạn từ trên 12 tháng đến 5 năm.

10


Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải
tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các
dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Tín dụng dài hạn là
loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở,
các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới.
 Căn cứ mức độ tín nhiệm đối với khách hàng
Theo căn cứ này, cho vay được chia làm 2 loại:
Cho vay không có bảo đảm: Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố
hoặc sự bảo lãnh của bên thứ 3, việc cho vay chỉ dựa vào uy tín của bản thân khách
hàng. Đối với những khách hàng tốt, trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài
chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín
của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.
Cho vay có bảo đảm: Là loại cho vay dựa trên cơ sở các bảo đảm như thế
chấp, cầm cố, hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ ba.
 Căn cứ phương pháp hoàn trả
Dựa vào căn cứ này cho vay của NHTM được chia làm hai loại:
Cho vay có thời hạn: Là loại cho vay có thoả thuận thời hạn trả nợ cụ thể theo
hợp đồng, cho vay có thời hạn bao gồm các loại sau:
+ Cho vay chỉ có một thời hạn trả nợ
+ Cho vay có nhiều thời hạn trả nợ cụ thể
+ Cho vay hoàn trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn trả nợ cụ thể
Cho vay không có thời hạn cụ thể: Với loại cho vay này, ngân hàng có thể yêu

cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả nợ bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một
thời gian hợp lý, thời gian này có thể thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
 Căn cứ xuất xứ tín dụng
Dựa vào căn cứ này cho vay chia làm hai loại:
Cho vay trực tiếp
Chovay gián tiếp
11


Vai trò của hoạt động tín dụng Ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế
Trong nền kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế vận động theo các quy luật
khách quan như: Quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh.... Các
doanh nghiệp để có thể đứng vững trên thương trường thì cần phải có vốn để đầu tư
và tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn tối ưu để doanh nghiệp có thể
khai thác. Các doanh nghiệp phát triển cũng có nghĩa là nền kinh tế phát triển. Như
vậy, tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và góp
phần điều hành nền kinh tế thị trường. Vai trò của tín dụng ngân hàng được thể hiện
trên các khía cạnh sau:
 Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng làm tăng hiệu quả kinh tế.
Các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh dựa trên vốn chủ sở hữu và
vốn vay. Một trong những nguồn để vay là từ ngân hàng, đó là nguồn tài trợ hiệu
quả bởi vì nó thoả mãn nhu cầu vốn về số lượng và thời hạn. Hơn nữa, để có thể
vay vốn được từ ngân hàng thì các doanh nghiệp cần phải nâng cao uy tín của mình
đối với ngân hàng, đảm bảo được các nguyên tắc tín dụng. Muốn vậy, trong các dự
án kinh doanh của mình, doanh nghiệp phải chọ dự án có mức sinh lãi cao nhất. Để
các dự án khả thi, doanh nghiệp phải tìm hiểu thị trường khai thác thông tin để định
lượng hoạt động kinh doanh của mình sao cho có hiệu quả. Điều đó làm tăng hiệu
quả kinh tế của dự án, phương án.
Mặt khác, một trong những quy định tín dụng của ngân hàng là khâu giám sát
sử dụng vốn vay. Với việc giám sát này của ngân hàng, bắt buộc doanh nghiệp phải

sử dụng vốn vay đúng mục đích, phải nhạy bén với những thay đổi của thị trường,
từ đó góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế. Bên cạnh đó, vai trò tư vấn của cán bộ tín
dụng sẽ giúp cho doanh nghiệp lường trước được những khó khăn, vượt qua khó
khăn để đứng vững, điều này cũng góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế.
 Thứ hai: Tín dụng ngân hàng góp phần vào quá trình vận động liên tục
của nguồn vốn, làm tăng tốc độ chu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế tạo
cơ chế phân phối vốn một cách có hiệu quả.

12


Do đặc điểm tuần hoàn vốn nên trong quá trình sản xuất kinh doanh của các
doanh nghiệp luôn có sự không ăn khớp về thời gian và khối lượng giữa lượng tiền
cần thiết để dự trữ vật tư hàng hoá cho quá trình sản xuất kinh doanh trước đó. Vì
vậy, luân chuyển tiền tệ của doanh nghiệp có lúc thừa, có lúc thiếu vốn. Nguồn vốn
doanh nghiệp tạm thời nhàn rỗi cùng với các nguồn tiết kiệm từ dân cư, nguồn kết
dư từ ngân sách... được ngân hàng thương mại huy động và sử dụng để đầu tư cho
các doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn, cho nhu cầu tiêu dùng tạm thời vượt quá
thu nhập của dân chúng, cũng như cho nhu cầu chi của ngân sách nhà nước khi
chưa có nguồn thu.
Thông qua cơ chế sàng lọc, giám sát Ngân hàng thương mại sẽ chỉ cho vay các
dự án có tính khả thi cao, khả năng thu hồi vốn lớn. Điều này tạo nên một cơ chế
phân phối vốn hiệu quả.
 Thứ ba: Tín dụng ngân hàng góp phần hỗ trợ các chiến lược kinh tế

vàcác chính sách tiền tệ.
Một trong những đặc điểm quan trọng của ngân hàng thương mại là khả năng
tạo tiền thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán. Khi nhà nước muốn tăng khối
lượng tiền cung ứng thì Ngân hàng nhà nước có thể tăng hạn mức tín dụng của các
ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế và ngược lại. Do vậy thông qua hình thức

tín dụng ngân hàng nhà nước có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong
lưu thông.
 Thứ tư: Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình mở rộng

mốiquan hệ giao lưu kinh tế quốc tế.
Trước xu thế quốc tế hoá, sự giao lưu kinh tế giữa các nước luôn được đặt ra.
Trong nền kinh tế mở thì các doanh nghiệp không chỉ có quan hệ mua bán với các
thành phần khác trong nền kinh tế mà còn có những quan hệ xuất nhập khẩu với các
doanh nghiệp nước ngoài. Ngân hàng thương mại có thể thúc đẩy mối quan hệ này
thông qua hình thức bảo lãnh, cho vay... đối với các doanh nghiệp để từ đó nâng cao
uy tín của doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Như vậy, tín dụng Ngân hàng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh

13


tế xã hội của một đất nước, nó thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển.

14


Để đánh giá hoạt động tín dụng của một Ngân hàng thương mại có tốt hay
không, cần xem xét chất lượng tín dụng.
1.3. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.3.1. Khái niệm chất lượng tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì cạnh
tranh là một tất yếu khách quan, sản xuất hàng hoá càng phát triển thì cạnh tranh
càng gay gắt. Cạnh tranh diễn ra trên 3 phương diện chủ yếu: chất lượng, giá cả và
số lượng, trong đó chất lượng là yếu tố quan trọng hàng đầu, tạo điều kiện nâng cao
tỷ lệ chiếm lĩnh thị trường. Có nhiều quan niệm về chất lượng sản phẩm như chất

lượng là phù hợp với mục đích sử dụng hoặc là một trình độ dự kiến trước về độ
đồng đều và độ tin cậy với chi phí thấp phù hợp với thị trường. Theo hiệp hội tiêu
chuẩn Pháp thì chất lượng là năng lực của một sản phẩm hoặc một dịch vụ nhằm
thoả mãn những nhu cầu của người sử dụng.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu : chất lượng tín dụng ngân hàng là sự đáp ứng một
cách tốt nhất yêu cầu của khách hàng (người gửi tiền và người vay tiền) trong quan
hệ tín dụng, đảm bảo an toàn hay hạn chế rủi ro về vốn, tăng lợi nhuận của ngân
hàng, phù hợp và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội.
* Xét trên góc độ hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì chất lượng tín
dụng là khoản tín dụng được bảo đảm an toàn, sử dụng đúng mục đích, phù hợp
với chính sách tín dụng của ngân hàng, hoàn trả gốc và lãi đúng thời hạn, đem lại
lợi nhuận cho ngân hàng với chi phí nghiệp vụ thấp, tăng khả năng cạnh tranh
của ngân hàng trên thị trường, làm lành mạnh các quan hệ kinh tế, phục vụ tăng
trưởng và phát triển.
* Xét trên góc độ lợi ích của khách hàng thì khoản tín dụng có chất lượng là
phù hợp với mục đích sử dụng của khách hàng với lãi suất và kỳ hạn hợp lý, thủ tục
tín dụng đơn giản, thuận tiện, thu hút được nhiều khách hàng nhưng vẫn đảm bảo
được nguyên tắc tín dụng.
* Đối với nền kinh tế, khoản tín dụng có chất lượng phải hỗ trợ cho hoạt
động kinh doanh, tiêu dùng hợp pháp, góp phần phục vụ sản xuất, lưu thông

15


hàng hoá, giải quyết công ăn việc làm, xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế xã
hội, khai thác khả năng tiềm tàng trong nền kinh tế, thúc đẩy quá trình tích tụ
và tập trung vốn cho sản xuất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng tín
dụng và tăng trưởng kinh tế.
Chất lượng tín dụng là một khái niệm tương đối, nó vừa cụ thể ( thể hiện
thông qua một số chỉ tiêu định lượng được như dư nợ, nợ quá hạn...) vừa trừu tượng

(thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, tác động đến nền kinh tế ...)
Hơn nữa chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp, nó phản ánh mức độ
thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức
mạnh của ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại.
Chất lượng tín dụng trung dài hạn cũng không nằm ngoài khái niệm chất
lượng tín dụng chung. Có thể hiểu chất lượng tín dụng trung và dài hạn là vốn cho
vay trung và dài hạn của Ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất
kinh doanh dịch vụ... tạo ra một số tiền lớn hơn vừa đủ để hoàn trả gốc và lãi, trang
trải chi phí khác và có lợi nhuận, phù hợp với các điều kiện của ngân hàng và của
kinh tế xã hội nói chung.
1.3.2. Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng
thương mại
Nhóm chỉ tiêu chung đánh giá chất lượng tín dụng Ngân hàng
Tổng vốn huy động được của ngân hàng trong một khoảng thời gian: Chỉ tiêu
này cho biết tổng nguồn tiền NHTM huy động được trong nền kinh tế trong một
khoảng thời gian. Nguồn này sẽ cho ta biết rất nhiều điều về ngân hàng trong quá
trình hoạt động vốn như uy tín, khả năng tổ chức các hoạt động, năng lực đội ngũ
nhân viên ngân hàng ..vv. Về phía khách hàng, chúng ta có thể đoán biết được một
phần nào đó sự tín nhiệm, sự hài lòng của khách đối với các dịch vụ mà ngân hàng
cung cấp đồng thời cho thấy ngân hàng có tham gia vào nhiều hình thức huy động
vốn và các dịch vụ ngân hàng hay không.
Tỷ trọng từng loại tiền gửi trên tổng nguồn vốn huy động: Trong tổng nguồn
vốn huy động của ngân hàng gồm nhiều khoản được hình thành từ các nguồn tiền

16


gửi khác nhau. Mỗi loại tiền gửi có các mức lãi suất khác nhau, Chỉ tiêu này xác
định kết cấu của nguồn vốn huy động và hình thành nên chi phí vốn bình quân.
Ngân hàng sẽ dựa trên cơ sở lãi suất từng nguồn huy động để phát hiện mặt mạnh,

mặt yếu của ngân hàng trong kinh doanh. Nếu ngân hàng có tỷ trọng tiền gửi không
kỳ hạn cao, ngân hàng đó sẽ có nhiều thuận lợi trong việc tạo ra lợi nhuận vì tiền
gửi không kỳ hạn có mức lãi suất thấp. Ngược lại ngân hàng nào có tỉ lệ tiền gửi với
lãi suất cao chiếm tỷ trọng lớn sẽ gặp khó khăn trong việc giải quyết đầu ra của
nguồn vốn do chi phí vốn tăng cao .
Tổng dư nợ: Đây là chỉ tiêu hết sức quan trọng. Nếu tổng vốn huy động phản
ánh đầu vào thì tổng dư nợ của ngân hàng phản ánh đầu ra của vốn huy động. Nó
cho biết ngân hàng cho vay được nhiều hay ít. Khoản tiền ngân hàng cho các tổ
chức kinh tế và các chủ thể khác vay mà lớn chứng tỏ ngân hàng đã tạo được uy tín
với khách hàng, cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng, phong phú, phù hợp và được
khách hàng ưa dùng, tham gia vào nhiều nghiệp vụ thanh toán. Ngược lại chứng tỏ
ngân hàng hoạt động kém, khả năng cho vay thấp, vốn ứ đọng nhiều.
Hiệu suất sử dụng vốn vay: Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa đầu vào và đầu ra
về mặt vốn của một ngân hàng người ta đưa ra chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn vay.

Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng
với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy
động. Chưa thể nói được chỉ tiêu này càng lớn hay càng thấp là tốt, vì nếu tiền gửi ít
hơn tiền vay thì ngân hàng phải tìm kiếm nguồn vốn có chi phí cao hơn, nếu tiền
gửi nhiều hơn tiền vay, ngân hàng sẽ thừa vốn, số vốn thừa coi như lỗ. Tuy nhiên
nếu mọi khoản vay đều có hiệu quả thì tỉ lệ này >= 1 là tốt nhất.
Vòng quay vốn tín dụng: Ngoài chỉ tiêu hiệu suất sử dụng vốn, khi phân tích
người ta còn sử dụng chỉ tiêu nữa là mức độ luân chuyển của vốn .

17


Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lý, khai thác vốn tín dụng, đồng
thời thể hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn
vốn tín dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất

lượng tín dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng đối
với từng loại cho vay cụ thể. Tỷ lệ này lớn chứng tỏ khả năng sử dụng vốn của ngân
hàng là tốt, vốn ít bị ứ đọng.
Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn được hiểu là các khoản nợ đã
đến hạn hoàn trả nhưng khách hàng không có khả năng hoàn trả cho ngân hàng. Tỷ
lệ nợ quá hạn là một chỉ tiêu quan trọng cho phép đánh giá chất lượng tín dụng
Theo quy định chung của NHNN, các ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ
≥7% được xem là ngân hàng yếu kém. Nếu chỉ số này ≤ 5% ngân hàng đó được
đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt, chất lượng cho vay cao và được
nhận nhiều thang điểm trong bảng xếp hạng ngân hàng.
Trong loại chỉ tiêu này chia làm 2 loại:

Đây là các khoản nợ có vấn đề đối với ngân hàng thể hiện chất lượng tín dụng
của khoản vay kém chất lượng. Nếu ngân hàng không có biện pháp để xử lý khoản
nợ này thì sẽ có thể phải gánh chịu các tổn thất.

Nếu tỉ lệ này cao có nghĩa ngân hàng không những phải gánh chịu rủi ro tín
dụng cao, chất lượng tín dụng kém mà ngân hàng còn có thể nguy cơ mất khả năng
thanh toán. Việc đòi nợ đối với những khoản vay này là rất khó khăn và tổn thất là

18


điều rất có thể xảy ra.
Nhóm chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn:
Đối với tín dụng trung, dài hạn, áp dụng những chỉ tiêu trên có những chỉ tiêu
sau để đánh giá chất lượng tín dụng trung dài hạn.

Chỉ tiêu này cho thấy biến động tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn trong
tổng dư nợ tín dụng qua từng thời kỳ. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ mức độ phát

triển nghiệp vụ này càng lớn, mối quan hệ ngân hàng với khách hàng có uy tín.

19


Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tín dụng trung dài hạn. Lợi
nhuận ở đây phản ánh chênh lệch giữa chi phí đầu vào (lãi suất huy động) và
thu lãi đầu ra. Chất lượng tín dụng tốt phải gồm cả lợi nhuận mà tín dụng đó
mang lại cho ngân hàng.
1.3.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng
Có rất nhiều nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng ngân hàng, nhưng gộp
chung lại có thể phân thành 4 nhóm nhân tố chính sau:
+ Môi trường kinh tế
+ Môi trường pháp lý
+ Ngân hàng
+ Khách hàng
 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường kinh tế
Khi nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho tín dụng ngân hàng phát
triển. Nền kinh tế ổn định, lạm phát thấp không có khủng hoảng, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành tốt có hiệu quả mang lại lợi nhuận cao,
doanh nghiệp hoàn trả được vốn vay ngân hàng cả gốc và lãi, nên hoạt động tín
dụng của ngân hàng phát triển, chất lượng tín dụng được nâng cao. Ngược lại trong
thời kỳ suy thoái kinh tế, sản xuất kinh doanh bị thu hẹp, đầu tư, tiêu dùng giảm sút,
lạm phát cao, nhu cầu tín dụng giảm, vốn tín dụng đã thực hiện cũng khó có thể sử
dụng có hiệu quả hoặc trả nợ đúng hạn cho ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân
hàng giảm sút về quy mô và chất lượng.
Mức độ phù hợp giữa lãi suất ngân hàng với mức lợi nhuận của doanh nghiệp
sản xuất kinh doanh và dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân cũng ảnh hưởng đến chất
lượng tín dụng, lợi tức của ngân hàng thu được bị giới hạn bởi lơị nhuận của doanh
nghiệp sử dụng vốn vay ngân hàng, nên với mức lãi suất cao các doanh nghiệp vay

vốn ngân hàng không có khả năng trả nợ ảnh hưởng tới sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp nói riêng và tới toàn bộ nền kinh tế nói chung. Hoạt động tín dụng
ngân hàng lúc này không còn là đòn bẩy để thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển

20


và chất lượng tín dụng cũng giảm sút.
Ngoài ra những sự biến động về lãi suất thị trường, tỷ giá thị trường cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến lãi suất của ngân hàng. Bài học từ cuộc khủng hoảng tài chính
Đông Nam á đã cho thấy sự mất giá của đồng nội tệ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động tín dụng ngân hàng.
 Nhóm nhân tố thuộc về môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được hiểu là một hệ thống luật và văn bản pháp quy liên
quan đến hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của nhà nước, pháp luật có vai trò
quan trọng, là một hàng rào pháp lý tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng
thuận lợi, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể kinh tế, nhà nước, cá nhân
công dân, bắt buộc các chủ thể phải tuân theo.
Nhân tố pháp lý ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, đó là sự đồng bộ thống
nhất của hệ thống pháp luật, ý thức tôn trọng chấp hành nghiêm chỉnh những quy
định của pháp luật và cơ chế đảm bảo cho sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm
minh triệt để.
Quan hệ tín dụng phải được pháp luật thừa nhận, pháp luật quy định cơ chế hoạt
động tín dụng, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng lành mạnh, phát
huy vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời duy trì hoạt động tín dụng
được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích của các bên tham gia quan hệ tín dụng. Những
quy định pháp luật về tín dụng phải phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển kinh tế
xã hội, trên cơ sở đó kích thích hoạt động tín dụng có hiệu quả hơn.
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật chưa đồng bộ, gây khó khăn cho ngân

hàng khi kí kết thực hiện hợp đồng tín dụng. Luật ngân hàng còn nhiều sơ hở, chưa
đồng bộ với các văn bản luật khác. Điều này ảnh hưởng đến việc quản lý chất lượng
tín dụng của ngân hàng.
Sự thay đổi chủ trương chính sách của Nhà nước cũng gây ảnh hưởng đến khả
năng trả nợ của các doanh nghiệp. Cơ cấu kinh tế, chính sách xuất nhập khẩu, do

21


thay đổi đột ngột, gây xáo động trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp không tiêu
thụ được sản phẩm, hay chưa có phương án sản xuất kinh doanh mới dẫn đến nợ
quá hạn, nợ khó đòi, chất lượng tín dụng giảm sút.
 Những nhân tố về phía ngân hàng
Đây là những nhân tố thuộc về bản thân, nội tại ngân hàng liên quan đến sự
phát triển của ngân hàng trên tất cả các mặt ảnh hưởng tới hoạt động tín dụng, gồm:
chính sách, công tác tổ chức, trình độ lao động, quy trình nghiệp vụ, kiểm tra, kiểm
soát và trang thiết bị.
Chính sách tín dụng: là đường lối, chủ trương đảm bảo cho hoạt động tín dụng
đi đúng quỹ đạo liên quan đến việc mở rộng hay thu hẹp tín dụng, nó có ý nghĩa
quyết định đến sự thành bại của một ngân hàng. Một chính sách tín dụng đúng đắn
sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín
dụng. Bất cứ ngân hàng nào muốn có chất lượng tín dụng cao đều phải có chính
sách tín dụng phù hợp với điều kiện của ngân hàng, của thị trường.
-

Công tác tổ chức của ngân hàng:

Khả năng tổ chức của ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng. tổ
chức ở đây bao gồm tổ chức các phòng ban, nhân sự và tổ chức các hoạt động trong
ngân hàng. Ngân hàng có một cơ cấu tổ chức khoa học sẽ đảm bảo được sự phối

hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ, nhân viên, các phòng ban trong ngân
hàng, giữa các ngân hàng với nhau trong toàn bộ hệ thống cũng như với các cơ quan
khác liên quan đảm bảo cho ngân hàng hoạt động nhịp nhàng, thống nhất có hiệu
quả, qua đó sẽ tạo điều kiện đáp ứng kịp thời yêu cầu khách hàng, theo dõi quản lý
chặt chẽ sát sao các khoản vốn huy động cũng như các khoản cho vay, từ đó nâng
cao hiệu quả tín dụng.
-

Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng:

Chất lượng đội ngũ cán bộ, nhân viên ngân hàng là yêu cầu hàng đầu đối với
mỗi ngân hàng, vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng hoạt động và khả năng tạo
lợi nhuận của ngân hàng. Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong
quản lý vốn tín dụng nói riêng và hoạt động của ngân hàng nói chung. Kinh tế càng

22


×