Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

Tìm hiểu về kiểm toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (350.61 KB, 52 trang )

I. Bản chất Kiểm toán
1. Khái niệm
Kiểm toán là một quá trình hoạt động của một/một số tổ chức, cá nhân
chuyên môn, độc lập có thẩm quyền trong việc thực hiện kiểm tra, thu
thập bằng chứng, xem xét, đánh giá các hoạt động, các thông tin liên
quan đến một đối tượng cụ thể và cho yù kiến nhận xét, đánh giá, kết
luận về vấn đề đã kiểm tra trên cơ sở một hệ thống tiêu chuẩn xác định
trước.
2. Bản chất
• Hoạt động kiểm toán là hoạt động mang tính chuyên nghiệp cao
• Được thực hiện bởi các cá nhân kiểm toán viên có đủ năng lực nghề
nghiệp (được đào tạo, có kinh nghiệm hay có hiểu biết một cách hợp lí về
vấn đề được chỉ định kiểm toán, có đủ khả năng thực hiện công việc kiểm
toán một cách độc lập, khách quan, chính trực).
• Thực hiện hoạt động kiểm tóan phải tuân theo những quy trình, thủ tục
xác định.
• Kết quả cuối cùng: phải hình thành được y’ kiến kiểm toán (Nhận xét,
đánh giá, đề xuất, kiến nghị, kết luận).
• Tất cả các yù kiến kiểm toán phải được dựa trên một khuôn khổ xác
định trước, và kiểm toán viên thực hiện kiểm tóan phải có đủ hiểu biết về
"khuôn khổ kiểm toán" hay còn gọi là "hệ thống tiêu chuẩn thiết lập trước"
đó.
• Khuôn khổ kiểm toán được quy định bởi đối tượng kiểm toán: lọai hình
doanh nghiệp, lĩnh vực hoạt động, chính sách của nhà nước, quy định
pháp luật điều tiết, và các quy định liên quan chi phối đến hoạt động của
đối tượng đó.
• Tất cả các yù kiến kiểm toán phải được đảm bảo bằng các bằng
chứng (đầy đủ và có hiệu lực).
• Đối tượng kiểm toán – tùy thuộc vào từng cuộc kiểm toán, được quy
định trong hợp đồng kiểm toán, quyết định kiểm toán. Đối tượng kiểm
toán có thể là:


- Là báo cáo tài chính của một doanh nghiệp/HTX.
- Là báo cáo thu chi ngân sách của một huyện.
- Là bảng kê khai thuế GTGT hàng hàng.
- Là báo cáo ngân sách của một tổ chức phi chính phủ, hội từ thiện, bệnh
viện, trường học.
- Là bảng kê khai tài sản của một cá nhân.
- Là hoạt động của một cửa hàng (VD: Phở 24).
- Là một bảng dự toán xây dựng một con đường (kiểm tóan dự toán)
- Là một bát phở.
- Là tất cả các vấn đề, hoạt động được yêu cầu trong khuôn khổ pháp
luật cho phép.
- Tất cả các hoạt động kiểm tra để cho yù kiến đều được xem là kiểm
tóan.
3. Tại sao phải kiểm toán?
- Do quy định của pháp luật.
- Do yêu cầu của hoạt động
- Do nhu cầu của quản lí
- Do yêu cầu của nhà cung cấp
- Do yêu cầu của bên cho vay
- Do yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền
- Vì quyền lợi của người sở hữu
- Vì lợi ích của những người có lợi ích liên quan
- Để giải trình trách nhiệm.
- ...
Logged
DoanHoang
Thành viên
Bài viết: 29
Xem hồ sơ cá
nhân

Giới thiệu một số vấn đề cơ bản Kiểm toán
« Trả lời #1 vào lúc: Tháng Sáu 13, 2008, 12:07:49 pm »
II. Một số loại hình kiểm toán
1. Phân loại theo mục đích kiểm toán
• Kiểm toán báo cáo tài chính
- Mục đích của kiểm tóan báo cáo tài chính: Để xác
định mức độ trung thực và hợp lí của báo cáo tài
chính.
- Đối tượng kiểm toán: là các loại báo cáo tài chính
của một số niên độ xác định của một tổ chức, cá
nhân xác định.
- Hình thức báo cáo kiểm toán: thông thường bằng
văn bản theo quy định.
- Cơ sở của kiểm toán báo cáo tài chính: là tất cả
các quy định liên quan đến các nội dung phải thể hiện
và được thể hiện trên báo cáo tài chính được kiểm
toán.
• Kiểm toán tuân thủ
- Mục đích kiểm toán: là xác định mức độ tuân thủ
các quy định chi phối đến hoạt động của một đối
tượng xác định.
- Đối tượng kiểm toán: Có thể là một báo cáo, một
hoạt động, hay một sản phẩm, dịch vụ (kết quả của
hoạt động). Đối tượng của kiểm tóan tuân thủ rất đa
dạng, có thể là một báo cáo tài chính, hoạt động của
một cửa hàng, một chi nhánh, một công trình, hạng
mục công trình, hay một quy trình.
- Cơ sở của kiểm toán: Là các quy định cần phải
kiểm tra sự tuân thủ đối với đối tượng kiểm toán.
- Hình thức kiểm toán: phụ thuộc vào yêu cầu đối

với từng cuộc kiểm toán.
• Kiểm toán hoạt động
- Mục đích: là để đánh giá mức độ hiệu quả trong
hoạt động của một cá nhân, tổ chức trong một giai
đoạn xác định.
- Kiểm toán hoạt động còn được gọi là kiểm tóan 3
Es: Tính kinh tế, Tính tiết kiệm/Tính hiệu năng và
Tính hiệu quả (Economics, Effectiveness and
Efficiency). Đây là một lọai hình kiểm toán có nhiều
tranh cãi giữa các quan điểm.
Tính kinh tế: được đánhα giá trên cơ sở so sánh
quan hệ tương quan giữa đầu ra và đầu vào. Một hoạt
động được đánh giá là đạt tính kinh tế khi nó tiêu tốn
một mức chi phí thấp nhất để đạt được một mức đầu
ra xác định, hoặc ngược lại là tạo được một lượng đầu
ra cao nhất với mức chi phí thấp nhất.
Tính hiệu năng: được đánh giá trongα mối tương
quan giữa tiến độ thực hiện và mức dự kiến phải đạt
được. (Về chỉ tiêu này hiện nay còn rất nhiều cách
hiểu khác nhau!).
Tính hiệu quả: đượcα đánh giá trên cơ sở mức độ
đáp ứng yêu cầu, mục tiêu đặt ra đối với hoạt động.
2. Phân loại theo đối tượng kiểm toán
• Kiểm toán báo cáo tài chính
- Đối tượng tác nghiệp kiểm tóan: là các báo cáo tài
chính.
BCTC hàng năm của một doanh nghiệp: gồm báo
cáo kết quả kinhα doanh, bảng cân đối kế toán, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ và các thuyết minh báo cáo tài
chính. Tại hầu hết các quốc gia, BCTC được quy định

theo mẫu do một cơ quan có thẩm quyền ban hành.
Báo cáo thu chi NSNN của một tỉnh, thànhα phố
Báo cáo tình hình thu chi NSNN trên địa bàn của Sở
tài chính mộtα tỉnh
Báo cáo thu chi của một trường học.α
Báo cáo quyết toán khốiα lượng hoàn thành.
Báo cáo tài chính của một dự án, của một Ban quản
lí dựα án
Báo cáo ngân sách của một tổ chức phi chính phủ:
IMF, WB, Hội kế toán,α Hội nhà văn, hội cựu chiến
binh.
- Mục đích kiểm toán: có thể là để xác nhận mức độ
trung thực và hợp lí của báo cáo tài chính, cũng có
thể là để phục vụ cho mục đích khác: như đánh giá
hiệu quả hoạt động, hay mức độ tuân thủ.
- Cơ sở kiểm tóan: Tùy thuộc vào yêu cầu đối với
cuộc kiểm tóan.
• Kiểm toán nghiệp vụ
- Đối tượng kiểm toán: là các hoạt động nghiệp vụ
của các cá nhân, tổ chức liên quan.
Ví dụ kiểm tóan vấn đề đảm♣ bảo an toàn cháy nổ
của chợ Bến Thành: Đối tượng kiểm toán là vấn đề tổ
chức, xắp xếp nhân lực chịu trách nhiệm kiểm tra
giám sát, vấn đề mua sắm và bố trí các thiết bị PCCC,
vấn đề tập huấn nhân viên an ninh, vấn đề thông tin
và truyền thông, vấn đề cảnh báo, vấn đề bố trí các
phương tiện ứng cứu khi có sự cố, vấn đề thiết kế
đường thoát hiểm, vấn đề bảo hiểm hỏa hoạn và các
cá nhân liên quan.
Ví dụ: kiểm toán nghiệp vụ tín dụng của một ngân

hàng thương♣ mại.
Ví dụ: kiểm toán nghiệp vụ an toàn vệ sinh thực
phẩm của♣ Metro.
- Cơ sở của kiểm toán: là các quy định liên quan đến
nghiệp vụ được kiểm toán
- Mục đích kiểm toán: Thu thập thông tin về thực tế
hoạt động nhằm phát huy những thành tích, xác định
trách nhiệm, khắc phục các hạn chế, khiếm khuyết.
• Kiểm toán liên kết/liên ngành
- Đối tượng của cuộc kiểm toán: liên quan đến nhiều
lĩnh vực, nhiều ngành nghề, hoặc nhiều địa phương.
- Mục đính kiểm toán: thu thập thông tin đầy đủ về
tình hình hoạt động, phát hiện các ưu điểm, nhược
điểm, các tồn tại, nhằm cung cấp thông tin đầy đủ,
chính xác phục vụ cho công tác quản lí.
- Cơ sở của cuộc kiểm toán: tùy theo từng cuộc
kiểm toán
- Ví dụ: Kiểm tóan chương trình phát triển hệ thống
thông tin trong các cơ quan hành chính nhà nước.
- Ví dụ : Kiểm toán chương trình phát triển hệ thống
tưới tiêu nội đồng.
- Ví dụ: Thực hiện một cuộc kiểm toán nhưng kết
hợp nhiều mục tiêu khác nhau, cuối cùng là phát
hành 3 báo cáo kiểm tóan khác nhau: 1 báo cáo kiểm
tóan về báo cáo tài chính, 1 báo cáo kiểm tóan về
hiệu quả hoạt động của một chi nhánh, 1 báo cáo về
khối lượng đầu tư hoàn thành một dự án do chính chi
nhánh đang triển khai.
Logged
DoanHoang

Thành viên
Bài viết: 29
Xem hồ sơ cá
nhân
Giới thiệu một số vấn đề cơ bản Kiểm toán
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Sáu 13, 2008, 12:13:40 pm »
III. Quy trình kiểm toán
1. Giai đoạn tiền kế hoạch
- Tiếp cận khách hàng:
- Truyền thông, quảng cáo
- Tiếp xúc các khách hàng tiềm năng.
- Hội thảo
- Giới thiệu KTV, doanh nghiệp kiểm toán
- Phân công kiểm toán viên
- Thỏa thuận sơ bộ
- Kí hợp đồng kiểm toán
2. Chuẩn bị kiểm toán
+ Tìm hiểu khách hàng
- Tìm hiểu về cơ cấu tổ chức
- Hoạt động kinh doanh
- Quy mô hoạt động
- Đặc thù hoạt động kinh doanh
+ Xác định trọng yếu
- Xác định các chỉ tiêu kiểm toán, các nội dung cần
kiểm toán
- Cơ sở xác định trọng yếu: độ lớn, tầm quan trọng,
mức độ ảnh hưởng của một chỉ tiêu, một hoạt động,
một nội dung đến các yếu tố khác.
+ Xác định rủi ro kiểm toán
- Xác định tầm quan trọng của một yếu tố, một hoạt

động và tác động của nó đến tổng thể.
- Xác định mục tiêu hoạt động
- Xác định các xung đột lợi ích
- Xác định các nguyên nhân tạo ra sự thay đổi, sai
lệch (variances)
+ Xây dựng kế hoạch kiểm toán: Kế hoạch tổng thể
và kế hoạch chi tiết
- Kế hoạch kiểm toán tổng thể: Nội dung lớn cần
kiểm tóan, mục tiêu kiểm tóan,đơn vị cần kiểm toán,
thời gian, nhân sự.
- Kế hoạch kiểm toán: chi tiết mục tiêu kiểm toán, nội
dung kiểm toán, nhân sự tham gia, phân công nhiệm
vụ, những vấn đề cần làm rõ, bảng câu hỏi, phương
pháp kiểm toán, thời gian, phương tiện, kế hoạch sử
dụng dịch vụ bên ngoài, ...
+ Lịch trình thực hiện
3. Thực hiện kiểm toán
+ Phương pháp kiểm toán chứng từ:
- Chứng từ: là tất cả các loại phương tiện lưu giữ
thông tin, dạng phổ biến là giấy (văn bản, báo cáo,
hóa đơn, hợp đồng, . . .)
- Là phương pháp kiểm toán dựa trên quan sát, phân
tích các thông tin trên các chứng từ để thu thập bằng
chứng kiểm toán và hình thành ý kiến kiểm toán.
+ Phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ:
Là phương pháp kiểm toán mà việc thu thập các bằng
chứng kiểm tóan để hình thành nên yù kiến kiểm
toán dựa vào các cơ sở dữ liệu không phải là chứng
từ. Ví dụ: phỏng vấn, quan sát thực tế, quay phim,
chụp hình, cân, đong, đo đếm thực tế.

+ Xác định sai sót, gian lận:
- Sai sót: là việc phản ánh không đúng thực tế, hoặc
thực hiện một hoạt động không theo quy định của
pháp luật một cách không cố ý, không vụ lợi.
- Gian lận: là việc phản ánh không đúng thực tế, hoặc
thực hiện hoạt hoạt động trái với quy định của pháp
luật một cách cố ý nhằm mục đích tư lợi.
+ Thu thập và đánh giá bằng chứng kiểm toán:
- Là quá trình kiểm toán viên sử dụng các biện pháp
nghiệp vụ để xác định các nguồn thông tin, phát hiện
các sai lệch, phát hiện các sai sót, gian lận, và thu
thập các cơ sở dẫn liệu phản ánh tình trạng đó, làm
cơ sở cho ý kiến kiểm toán.
- Đánh giá bằng chứng kiểm toán: Là việc kiểm toán
viên sử dụng chuyên môn của mình để xác định xem
một cơ sở dẫn liệu thu thập được có đủ để được xem
là bằng chứng hiệu lực cho ý kiến kiểm toán hay
không.
+ Phân tích – Tổng hợp – đánh gía và hình thành nên
phát hiện kiểm toán, Ý kiến và kết luận kiểm toán
viên.
4. Lập và phát hành báo cáo kiểm toán
- Phân tích, thẩm tra lại các bằng chứng và các phát
hiện kiểm toán
- Trao đổi với đối tượng liên quan
- Soạn thảo báo cáo kiểm toán (dự thảo).
- Chính thức phát hành báo cáo kiểm toán.
(Nguồn cung cấp: Th.S. Trương Thị Hương Giang)
Logged
DoanHoang

Thành viên
Bài viết: 29
Xem hồ sơ cá
nhân
Một số kinh nghiệm kiểm toán
« Trả lời #3 vào lúc: Tháng Sáu 14, 2008, 10:18:01 am »
1. Đặc trưng của loại hình hợp tác xã
- Là một pháp nhân được hình thành từ hoạt động
góp tài sản và lao động của các cá nhân, tổ chức.
- Hoạt động theo luật HTX
- Được hưởng một số ưu đãi về tài chính, vốn từ
chính phủ.
- Được hưởng các ưu đãi về thuế như các doanh
nghiệp khác
- Thực hiện hạch toán kế toán theo quy định của
chuẩn mực kế toán Việt nam.
- Khai báo và quyết toán thuế TNDN theo quy định
của luật thuế TNDN
- Khai báo, kê khai, khấu trừ thuế GTGT theo quy
định của luật thuế GTGT.
- Theo các quy định tại các luật thuế của Việt nam,
chỉ có ưu đãi theo ngành nghề, lĩnh vực, và khu vực,
không có ưu đãi theo đối tượng đối với đề kê khai –
quyết toán – kiểm tra – thanh tra trong lĩnh vực thuế.
- Nhiều HTX không tự yù về vấn đề phải tuân thủ
về chế độ tài chính kế toán như là một doanh nghiệp,
do đó chưa chú trọng nhiều đến khía cạnh tổ chức hệ
thống kế toán chặt chẽ và chuyên nghiệp như cách
doanh nghiệp. Phần lớn các vấn đề về hạch toán kế
toán phát sinh từ nhận thức này.

2.Một số kinh nghiệm kiểm toán HTX
- Vấn đề góp tiền, vốn, tài sản của xã viên:
- Vấn đề hạch toán doanh thu chi phí
- Vấn đề xác định kết quả kinh doanh
- Vấn đề tiền lương, tiền công, thù lao người lao
động, xã viên, người quản lí.
- Vấn đề chi phúc lợi cho người lao động.
- Vấn đề kê khai và quyết toán thuế.
/>Lời nói đầu
Kiểm toán Nhà nước là hoạt động kiểm tra tài chính mới được hình thành ở
nước ta trong vài năm trở lại đây. Để các vị đại biểu Quốc hội có thêm
thông tin về lĩnh vực này, Trung tâm Thông tin-Thư viện và Nghiên cứu
khoa học xin trân trọng giới thiệu bản tin chuyên đề Một số vấn đề về
Kiểm toán Nhà nước.
Trên cơ sở phân tích các định hướng chủ đạo của công tác kiểm tra tài
chính công, tài liệu tập trung giới thiệu sự hình thành và phát triển của
Kiểm toán Nhà nước trong nền kinh tế chuyển đổi của nước ta. Ngoài ra,
tài liệu còn cung cấp một số nét sơ lược về mô hình kiểm toán truyền
thống và mô hình của các nước trong khu vực. Hy vọng chuyên đề này sẽ
cung cấp một số thông tin cơ bản về vấn đề kiểm toán phục vụ công tác
nghiên cứu tham khảo của các vị đại biểu Quốc hội.
Xin chân thành cảm ơn sự cộng tác của cơ quan Kiểm toán Nhà nước trong
việc biên soạn tài liệu này.

Phần thứ nhất: Một số vấn đề về Kiểm toán và kiểm toán nhà nước
của Việt Nam
I- Vài nét về lịch sử phát triển Kiểm toán nhà nước trên thế giới
Kiểm toán có nguồn gốc từ tiếng Latinh, theo nghĩa của từ "Audit". Kiểm
toán ra đời từ thời La Mã, thế kỷ thứ III trước Công nguyên. Tuy nhiên,
hoạt động kiểm toán chỉ phát triển mạnh mẽ và mang tính phổ biến trong

khoảng vài trăm năm trở lại đây. Ở Đức, từ năm 1714, Vua Phổ là
Friedrich Wilhelm I đã ra Sắc lệnh thành lập Phòng Thẩm kế tối cao (hay
Thẩm kế viện dưới thời Đế chế Đức). Ở Pháp, từ năm 1807, dưới thời
Hoàng đế Napoleon I, Toà Thẩm kế (Cour des comptes) đã được thành
lập.
Hoạt động kiểm toán xuất phát từ yêu cầu sử dụng hợp lệ và hợp lý các
nguồn tài chính của Nhà nước. Bởi vậy, mục tiêu cụ thể của công tác này
là sử dụng xác thực và có hiệu quả nguồn kinh phí công, phấn đấu đạt
được sự quản lý kinh tế chặt chẽ, tính hợp lệ của công tác quản lý hành
chính và việc thông tin cho các cơ quan nhà nước cũng như công luận
thông qua việc công bố các báo cáo khách quan về sự ổn định và phát
triển của nền tài chính quốc gia.
Kiểm toán hiện diện như một công cụ không thể thiếu được đối với bất kỳ
một mô hình kinh tế nào, một hình thái xã hội nào và không hề bị chi phối
bởi kiến trúc thượng tầng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm toán chỉ thực sự có
ý nghĩa quan trọng đối với quá trình lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia
kể từ sau các cuộc cách mạng về kinh tế và hiện đại hoá vào những năm
đầu của thế kỷ XX.
Cơ quan Kiểm toán nhà nước (KTNN) ở mỗi quốc gia có những tên gọi
khác nhau. Ví dụ: Toà Thẩm kế Cộng hoà Pháp, Cơ quan Tổng Kế toán
Hoa Kỳ, Cục Kiểm toán Liên bang Nga, Uỷ ban Kiểm toán và Thanh tra
Hàn Quốc, Uỷ ban Kiểm toán và Kiểm soát Ấn Độ; Uỷ ban Kiểm toán Nhật
Bản; v.v.. Phần lớn các khu vực trên thế giới đều thành lập Tổ chức các cơ
quan kiểm toán tối cao của khu vực. Đồng thời các quốc gia cũng gia nhập
Tổ chức Quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao (International Organization
of Supreme Audit Institutions-INTOSAI). Cơ quan này gồm có 178 thành
viên.
Năm 1996, KTNN Việt Nam là thành viên chính thức của Tổ chức Quốc tế
các cơ quan Kiểm toán tối cao - INTOSAI). Năm 1997, KTNN Việt Nam là
thành viên chính thức của Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán tối cao châu Á

(Asian Organization of Supreme Audit Institutions - ASOSAI).
II- Các định hướng chủ đạo của công tác kiểm tra tài chính
Ngày nay, việc xác định địa vị pháp lý và các chức năng cơ bản của cơ
quan kiểm toán tối cao của một quốc gia thường dẫn chiếu tới ‘’Tuyên bố
Lima về những chuẩn mực của kiểm tra tài chính’’. Tuyên bố này được
thông qua tại Đại hội lần thứ IX của Tổ chức INTOSAI tháng 10 năm 1997.
Không chỉ soạn thảo ra những định hướng chung, Tuyên bố Lima còn
tuyển chọn và hệ thống hoá những nguyên tắc cơ bản của kiểm tra tài
chính công đã được các quốc gia ứng dụng và công nhận. Tuy không có sự
ràng buộc về mặt pháp lý trong phạm vi của từng quốc gia, nhưng có thể
thấy Tuyên bố Lima có ảnh hưởng rõ rệt đối với sự phát triển của cơ quan
kiểm toán tối cao ở mỗi quốc gia. Các chuẩn mực do Tuyên bố Lima đưa
ra được xem là những định hướng chủ đạo trong việc tổ chức một cơ quan
kiểm tra tài chính hiệu quả.
1. Tính độc lập của kiểm tra tài chính nhà nước
Tính độc lập của cơ quan kiểm toán tối cao là tiền đề cơ bản trong việc
kiểm tra tài chính công. Các cơ quan kiểm toán tối cao chỉ có thể hoạt
động một cách khách quan và thật sự hiệu quả khi có vị trí độc lập với cơ
quan bị kiểm tra và không phải chịu những tác động từ bên ngoài. Tính
độc lập của cơ quan này cần phải được đảm bảo về mặt pháp lý, được ghi
nhận bằng Hiến pháp và pháp luật.
Tính độc lập của hoạt động kiểm tra tài chính được thể hiện thông qua
việc xác nhận địa vị pháp lý của cơ quan này trong hệ thống tài chính nhà
nước, quy chế bổ nhiệm và bãi miễn các thành viên, sự độc lập về tài
chính.
2. Các hình thức hoạt động của cơ quan kiểm toán tối cao
Bên cạnh các định hướng về thiết chế và tổ chức, Tuyên bố Lima cũng đưa
ra các khuyến nghị về các hình thức kiểm toán, bao gồm việc kiểm tra
trước, kiểm tra sau, kiểm tra nội bộ và kiểm tra từ bên ngoài.
Kiểm tra trước đối với một nền tài chính lành mạnh là cần thiết, nhưng đó

không phải là nhiệm vụ hàng đầu của cơ quan kiểm toán tối cao. Kiểm tra
sau là hoạt động chính của cơ quan này.
Công tác kiểm toán mang tính Nhà nước cần có sự phân biệt rạch ròi giữa
kiểm toán ngoại vi (hay ngoại kiểm) và kiểm toán nội bộ (hay nội kiểm).
Trong một Nhà nước pháp quyền hiện đại, kiểm toán ngoại vi được thực
hiện thông qua KTNN hay nói một cách khác, cơ quan kiểm toán ngoại vi
không nằm trong khối tổ chức các cơ quan bị kiểm tra. Kiểm toán nội bộ
được hiểu là hoạt động kiểm tra tài chính công trong phạm vi một tổ chức,
cơ quan, đơn vị và đặt dưới quyền của người đứng đầu tổ chức, cơ quan,
đơn vị đó. Các cơ quan, đơn vị, các tổ chức Nhà nước và các doanh nghiệp
Nhà nước có sử dụng Kiểm toán nội bộ đều phải chịu sự kiểm tra của
KTNN. KTNN có trách nhiệm đánh giá, kiểm tra chất lượng kiểm toán và
ấn định cả những chuẩn mực và quy trình kiểm toán áp dụng cho các tổ
chức Kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán ngoại vi không mang tính Nhà nước là sự kiểm toán đối với khu
vực kinh tế không phải do Nhà nước tổ chức, hoặc là những doanh nghiệp
mà Nhà nước không phải là chủ sở hữu chính. Những doanh nghiệp như
vậy, chịu sự kiểm toán của các tổ chức Kiểm toán độc lập (hay còn gọi là
các Công ty dịch vụ tư vấn kế toán và kiểm toán).
Về nguyên tắc, các cơ quan kiểm toán tối cao phải đạt được các mục tiêu
kiểm toán, bao gồm: tính hợp pháp, tính tuân thủ, tính kinh tế, đúng mục
đích và tính tiết kiệm ngang bằng như nhau.
3. Quyền hạn và nghĩa vụ của cơ quan kiểm toán tối cao
Với tư cách là cơ quan kiểm tra tài chính công tối cao, KTNN phải thực
hiện 4 nhiệm vụ quan trọng:
Một là, KTNN phải báo cáo và tư vấn cho Quốc hội về những vấn đề có liên
quan trong quá trình ra các quyết định của Quốc hội, không chỉ vì Quốc
hội là cơ quan giám sát cơ quan hành pháp, mà còn với tư cách là cơ quan
ban hành Luật NSNN và các đạo luật chuyên môn có hiệu lực tài chính.
Hai là, KTNN phải báo cáo, tư vấn và giải toả trách nhiệm cho Chính phủ,

cụ thể là cho các cấp quản lý hành chính Nhà nước, các Bộ, ban, ngành
trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình, cũng như về tác động tài chính
của những biện pháp đề ra.
Ba là, KTNN thực hiện chức năng phòng ngừa và răn đe đối với bộ máy
hành chính Nhà nước nhằm chống lại việc sử dụng phung phí và lạm dụng
các phương tiện tài chính của Nhà nước.
Bốn là, KTNN cần thông báo công khai trước công luận về việc sử dụng các
phương tiện tài chính Nhà nước của Chính phủ và Quốc hội.
4 nhiệm vụ trên là biểu thị thước đo giá trị thành công của một cơ quan
KTNN với tư cách là cơ quan công quyền có chức năng kiểm tra tài chính
công tối cao của Nhà nước.
Để cơ quan KTNN có thể đảm nhiệm được những chức năng, nhiệm vụ của
mình trong một Nhà nước pháp quyền thì đòi hỏi 3 tiền đề cơ bản, đó là:
1. Tính độc lập của cơ quan KTNN với các cơ quan quyền lực khác của Nhà
nước phải được đảm bảo bằng Hiến pháp và pháp luật:
- Đảm bảo tính độc lập về tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động.
- Đảm bảo quyền chủ động của cơ quan KTNN trong việc xây dựng
Chương trình kế hoạch kiểm toán, mục tiêu của mỗi cuộc kiểm toán và nội
dung kiểm toán.
- Đảm bảo quyền được công khai kết quả kiểm toán trước công luận.
2. Nguyên tắc kiểm toán đầy đủ phải được thể chế hoá trong luật:
- Về nguyên tắc, cơ quan KTNN phải có thẩm quyền kiểm toán tất cả các
chức năng Nhà nước có tác động đến ngân sách, không phụ thuộc vào việc
những chức năng đó được thực hiện dưới bất cứ hình thức pháp lý nào.
Nếu lĩnh vực nào đó (bí mật quốc gia) mà không muốn kiểm toán thì cũng
phải xác định rõ bằng luật và thông báo cho công luận biết.
- Thẩm quyền kiểm toán của cơ quan KTNN phải không bị hạn chế về thực
chất. Điều đó có nghĩa là, bao gồm cả việc kiểm tra tính hợp pháp, tính
tuân thủ, tính kinh tế và tính tiết kiệm của các hoạt động kinh tế nhà
nước.

3. Phải có một tài phán độc lập để cơ quan KTNN có thể khiếu kiện khi
tính độc lập và thẩm quyền kiểm toán của mình bị xâm phạm:
- Khi tính độc lập của mình bị xâm phạm thì con đường pháp lý mở ra đối
với cơ quan KTNN là kiện lên Toà án tối cao.
- Đối với kiểm tra tài chính, khi có vướng mắc về thẩm quyền kiểm toán
thì sẽ được giải quyết thông qua các Toà hành chính.
Ngay trong 178 nước có cơ quan KTNN là thành viên của INTOSAI, việc
đáp ứng những tiền đề này rất khác nhau và chắc chắn, hiệu lực của
chúng cũng rất khác nhau.
Logged
admin
Re: Một số vấn đề về Kiểm toán Nhà nước - tiếp
Quản trị cao
cấp
Bài viết: 29
Xem hồ sơ
cá nhân
Email
« Trả lời #2 vào lúc: Tháng Giêng 26, 2009, 09:00:45 pm »
III- Sự hình thành và phát triển của Kiểm toán
Nhà nước trong nền kinh tế chuyển đổi ở Việt Nam
1. Về tổ chức và hoạt động của KTNN Việt Nam
Để tăng cườờng sự quản lý của Nhà nước trong việc sử
dụng ngân sách Nhà nước và công quỹ quốc gia, bảo
đảm tính trung thực, chính xác, hợp pháp và hợp lệ của
việc sử dụng nguồn lực tài chính công; ngăn ngừa đối
với sự xâm phạm tài sản Nhà nước, xây dựng Nhà nước
pháp quyền có hiệu lực trong việc quản lý kinh tế - xã
hội, đòi hỏi phải thành lập một cơ quan độc lập với cơ
quan trực tiếp quản lý ngân sách và tài sản Nhà nước.

Cơ quan này sẽ kiểm tra tính tuân thủ trong việc sử
dụng tiền của của nhân dân theo những quy định của
pháp luật hiện hành; đảm bảo sự minh bạch về tài
chính và hiệu quả sử dụng nguồn lực tài chính này.
Chính vì vậy, ngày 11/7/1994, Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 70/CP về việc thành lập cơ quan KTNN và
Quyết định số 61/TTg ngày 24/01/1995 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Điều lệ Tổ chức và hoạt
động của Kiểm toán nhà nước nhằm "giúp Thủ tướng
Chính phủ thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận tính
đúng đắn, hợp pháp của các tài liệu và số liệu kế toán,
báo cáo quyết toán của cơ quan Nhà nước, các đơn vị
sự nghiệp, đơn vị kinh tế Nhà nước, các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí do ngân
sách Nhà nước cấp" (Điều 1); đánh giá sự tuân thủ
pháp luật và hiệu quả hoạt động của các đơn vị được
kiểm toán.
Với tinh thần đó, hàng năm các số liệu, báo cáo quyết
toán ngân sách của các địa phương trước khi trình ra
Hội đồng nhân dân; Tổng quyết toán NSNN trước khi
trình ra Quốc hội; báo cáo quyết toán của các cơ quan,
đơn vị thụ hưởng ngân sách, các chương trình, dự án,
công trình đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước, các
DNNN cần phải được KTNN tiến hành kiểm toán và xác
nhận.
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp Tổng Kiểm toán Nhà nước
thực hiện nhiệm vụ được giao gồm: 4 tổ chức KTNN
chuyên ngành (Kiểm toán Ngân sách Nhà nước; Kiểm
toán Đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình, dự
án, vay nợ, viện trợ Chính phủ; Kiểm toán Doanh

nghiệp Nhà nước; Kiểm toán Chương trình đặc biệt: an
ninh, quốc phòng, dự trữ quốc gia)...; Văn phòng Kiểm
toán Nhà nước; Trung tâm Khoa học và bồi dưỡng cán
bộ; Phòng Thanh tra và kiểm tra nội bộ và 4 tổ chức
KTNN khu vực (KTNN khu vực phía Bắc, KTNN khu vực
miền Trung, KTNN khu vực phía Nam và KTNN khu vực
miền Tây Nam Bộ).
Đứng đầu KTNN là Tổng Kiểm toán Nhà nước, giúp Tổng
Kiểm toán Nhà nước phụ trách từng lĩnh vực công tác
của KTNN có các Phó Tổng Kiểm toán Nhà nước. Tổng
Kiểm toán Nhà nước và các Phó Tổng Kiểm toán Nhà
nước do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Đứng đầu các Kiểm toán chuyên ngành và KTNN khu
vực là Kiểm toán trưởng (Vụ trưởng); giúp việc Kiểm
toán trưởng có các Phó Kiểm toán trưởng. Kiểm toán
trưởng và Phó Kiểm toán trưởng do Tổng Kiểm toán Nhà
nước bổ nhiệm và miễn nhiệm.
Kinh phí hoạt động của hệ thống KTNN do NSNN cấp.
Biên chế của hệ thống KTNN thuộc biên chế quản lý Nhà
nước. Tổng Kiểm toán Nhà nước xây dựng và trình Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt biên chế và kinh phí hoạt
động của hệ thống kiểm toán.
Hiện nay, KTNN có 460 cán bộ, kiểm toán viên và nhân
viên. Qua 7 năm hoạt động từ 1994 tới 2001, KTNN đã
khẳng định được sự cần thiết và vai trò quan trọng của
mình; góp phần tăng cường quản lý làm lành mạnh hoá
nền tài chính quốc gia.
Trong quá trình hoạt động, vai trò của KTNN không
ngừng được củng cố và tăng cường thông qua kết quả
kiểm toán đã đạt được, thể hiện trên một số mặt chủ

yếu sau:
Thứ nhất, góp phần kiểm tra việc chấp hành những quy
định hiện hành về nghĩa vụ nộp NSNN, thực hiện nộp
đúng, nộp đủ theo quy định của pháp luật. Kết quả
kiểm toán ở các đơn vị và địa phương trong 7 năm qua,
KTNN đã phát hiện và kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi
cho NSNN gần 4000 tỷ đồng, trong đó tăng thu về thuế
trên 2000 tỷ đồng, tiết kiệm chi NSNN gần 1000 tỷ
đồng và đưa vào quản lý qua NSNN trên 800 tỷ đồng.
Thứ hai, kiểm soát việc sử dụng NSNN, chống thất
thoát, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
và tài sản Nhà nước. Trong điều kiện nhu cầu chi NSNN
rất lớn, khả năng đáp ứng các nhu cầu này còn hết sức
hạn hẹp thì việc tăng cường quản lý NSNN, hạn chế thất
thoát, lãng phí, nâng cao hiệu quả sử dụng NSNN có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc thực hiện các mục
tiêu kinh tế-xã hội đã được hoạch định. Ngoài việc phát
hiện và xuất toán, bồi hoàn NSNN hàng ngàn tỷ đồng
do chi sai chính sách chế độ, lập quỹ trái phép... KTNN
đã phát hiện và kiến nghị xử lý những sai phạm về quản
lý kinh tế- tài chính góp phần tăng cường kỷ luật tài
chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và tài sản của
Nhà nước.
Thứ ba, cung cấp dữ liệu phục vụ các cơ quan quản lý
tài chính và NSNN sát thực và có hiệu quả hơn. Thông
qua việc kiểm tra tài chính, KTNN đã chỉ ra những điểm
bất hợp lý trong việc xác định những chỉ tiêu thu, nhiệm
vụ chi NSNN và tình hình chấp hành dự toán thu-chi
ngân sách; góp phần tạo lập căn cứ để xây dựng dự
toán NSNN cho những năm sau nhằm thu đúng, thu đủ,

chống thất thu cho NSNN; đồng thời kiến nghị việc phân
bổ NSNN cho các ngành, lĩnh vực, địa phương một cách
hợp lý, thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả trong
việc sử dụng nguồn lực tài chính.
Thứ tư, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã đề
xuất kiến nghị một số giải pháp, nhằm hoàn thiện cơ
chế, chính sách về tài chính, kế toán Nhà nước phù hợp
với tình hình thực tiễn của các ngành, các lĩnh vực hoạt
động.
Có thể khẳng định rằng, việc Chính phủ ban hành Nghị
định số 70/CP ngày 11/7/1994, Quyết định số 61/TTg
ngày 24/01/1995 và những điều khoản quy định trong
Luật Ngân sách Nhà nước đã tạo lập hành lang pháp lý
cho hoạt động của KTNN. Sự hình thành và phát triển
cơ quan KTNN hoàn toàn phù hợp với tiến trình cải cách
hành chính quốc gia và thông lệ quốc tế. Đó là một tất
yếu khách quan, là sản phẩm trí tuệ của quá trình đổi
mới; đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn, nhằm tăng
cường sự kiểm soát của Nhà nước trong việc quản lý, sử
dụng NSNN và tài sản quốc gia.
2. Những vấn đề đặt ra về hoàn thiện tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của KTNN
Sau 7 năm hoạt động thực tiễn, những kết quả mà
KTNN đã đạt được không chỉ khẳng định sự nỗ lực,
trưởng thành của cơ quan KTNN mà còn góp phần tích
cực vào việc giúp Quốc hội thực hiện chức năng kiểm
soát và giám sát quá trình quản lý, điều hành, sử dụng
NSNN và công quỹ quốc gia. Song, vấn đề bức xúc hiện
nay là làm thế nào để cơ quan KTNN hoạt động có chất
lượng và hiệu quả, ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu

phục vụ Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước, phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá và hội nhập
quốc tế?
Đã đến lúc cần phải xây dựng chiến lược phát triển
KTNN trên cơ sở hoàn thiện tổ chức và nâng cao hiệu
quả hoạt động của nó theo những định hướng chính
dưới đây:
1) Xác lập địa vị pháp lý của cơ quan KTNN ngang
tầm với chức năng, nhiệm vụ được giao
So với những đòi hỏi có tính nguyên tắc của INTOSAI và
đối chiếu với địa vị pháp lý của các cơ quan KTNN trên
thế giới, chúng ta thấy rằng: KTNN Việt Nam, mặc dù
được coi là công cụ kiểm tra tài chính quan trọng của
Nhà nước nhưng đến nay, KTNN vẫn chưa có vai trò và
địa vị pháp lý tương xứng với chức năng, nhiệm vụ được
giao, chưa đảm bảo tính độc lập, khách quan trong hoạt
động kiểm tra, kiểm soát việc thu-chi NSNN. Có lẽ do
KTNN mới được thành lập từ năm 1994, nên tổ chức và
hoạt động của cơ quan này vẫn chưa được Hiến pháp,
Luật hoặc Pháp lệnh điều chỉnh, để làm căn cứ thực thi
nhiệm vụ có hiệu lực và hiệu quả cao.
Trong điều kiện của Việt Nam, thể chế và tổ chức bộ
máy Nhà nước theo nguyên tắc thống nhất quyền lực,
có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Việc xác lập vị trí độc lập trong hoạt động của
KTNN là hết sức quan trọng và cần thiết. Đây là một
trong những điều kiện để đảm bảo tính khách quan của
công tác kiểm toán. Đồng thời, tạo cơ sở pháp lý để bảo
đảm tính độc lập, khách quan và tự chịu trách nhiệm

trong hoạt động của KTNN; giúp Quốc hội trong việc
thẩm tra và giám sát các hoạt động kinh tế- tài chính,
đảm bảo những thông tin dữ liệu có độ tin cậy cao để
quyết định những vấn đề cơ bản được quy định tại Điều
83 và Điều 84 của Hiến pháp 1992 nước CHXHCN Việt
Nam.
Trong tình hình hiện nay, còn quá nhiều cơ quan thanh
tra, kiểm tra lĩnh vực tài chính Nhà nước, dẫn đến tình
trạng trùng lặp, chồng chéo, gây khó khăn, phiền hà
cho đối tượng thanh tra, kiểm tra. Vì vậy, cần xác định
rõ đối tượng, phạm vi hoạt động, quyền hạn và trách
nhiệm của KTNN; đồng thời, phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn của KTNN với các cơ quan
thanh tra, kiểm tra lĩnh vực tài chính Nhà nước; cần có
sự phối kết hợp chặt chẽ trong hoạt động của các cơ
quan này, đảm bảo tính đồng bộ thực sự có hiệu lực
trong quản lý kinh tế-tài chính của đất nước. Đồng thời,
cần sớm có kế hoạch xây dựng Luật tổ chức KTNN
nhằm đảm bảo sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả với
các cơ quan chức năng theo các văn bản luật hiện hành,
ví dụ Luật NSNN, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam,
Luật tổ chức Toà án nhân dân tối cao,...
KTNN Việt Nam đã là thành viên chính thức của Tổ chức
ASOSAI và Tổ chức INTOSAI nên ngoài những chức
năng, nhiệm vụ hiện có cần bổ sung cho phù hợp với
thông lệ quốc tế: KTNN thực hiện kiểm toán báo cáo tài
chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động, từng
bớc tiến tới lấy kiểm toán hoạt động làm trọng tâm
trong mọi cơ quan, tổ chức có sử dụng kinh phí của Nhà
nước. KTNN giúp Quốc hội thẩm tra tính trung thực và

tính hiệu quả của các dự án đầu tư XDCB, dự toán và
Tổng quyết toán NSNN hàng năm. KTNN được quyền
độc lập trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế
hoạch hoạt động kiểm toán, bao gồm cả quyền đình chỉ,
gia hạn hoặc thay đổi kế hoạch kiểm toán. Trong trường
hợp cần thiết, KTNN có quyền yêu cầu cá nhân hoặc tổ
chức cung cấp dịch vụ tư vấn chuyên ngành có liên
quan đến cuộc kiểm toán đang thực hiện theo phương
thức hợp đồng dịch vụ. KTNN có quyền công bố công
khai kết quả kiểm toán; quyền yêu cầu các cơ quan có
thẩm quyền đình chỉ tạm thời hoạt động, phong toả tài
khoản, yêu cầu tuyên bố phá sản của các đơn vị được
kiểm toán trong các trường hợp xét thấy cần thiết;
quyền chuyển hồ sơ, tài liệu cho các cơ quan bảo vệ
pháp luật về các vi phạm pháp luật có dấu hiệu cấu
thành tội phạm.
2) Kiện toàn cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn hoá đội
ngũ Kiểm toán viên Nhà nước
Cơ cấu tổ chức của KTNN hiện nay đang trong quá trình
hình thành và phát triển. Nó vừa phải tiếp thu có chọn
lọc những kinh nghiệm tốt của các nước trong khu vực
và trên thế giới, vừa phải phù hợp với điều kiện cụ thể
của Việt Nam. Quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng
và kiện toàn tổ chức KTNN là: thống nhất quyền lực và
tập trung quyền lực, đảm bảo thông tin kịp thời, đáp
ứng yêu cầu mở rộng phạm vi và quy mô kiểm toán,
nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ
quan Nhà nước nói chung và cơ quan KTNN nói riêng,
đưa KTNN Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước
trong khu vực và trên thế giới.

Chất lượng hoạt động của cơ quan KTNN là một chỉ tiêu
có tính chất tổng hợp, nó chịu ảnh hưởng của nhiều yếu
tố như chất lượng của hệ thống pháp luật về kinh tế,
con người tham gia vào các mối quan hệ kinh tế...
Trong đó, công tác tổ chức và đặc biệt là công tác cán
bộ đóng vai trò hết sức quan trọng. Công tác cán bộ
vừa là một điều kiện tiên quyết, vừa là một nhân tố có
ý nghĩa quyết định việc thực hiện Chiến lược phát triển
kinh tế-xã hội của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn
2001- 2010. Vì vậy, cùng với việc sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế hiện hành cho
phù hợp với tình hình thực tiễn nhằm xác định căn cứ
để hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTNN (bao gồm:
hệ thống các Chuẩn mực KTNN, Quy trình KTNN, Quy
chế hoạt động của KTNN, Quy chế làm việc của các
Đoàn kiểm toán,...).
Tiêu chuẩn hoá đội ngũ Kiểm toán viên Nhà nước cả về
phẩm chất đạo đức, năng lực tổ chức thực hiện nhiệm
vụ và trình độ chuyên môn hoá theo hướng: thống nhất
trong đa dạng (đa dạng hoá ngành nghề, đa dạng hoá
môi trường đào tạo, đa dạng hoá kiến thức bổ trợ,...);
có chính sách, chế độ đãi ngộ hợp lý đối với đội ngũ cán
bộ, kiểm toán viên để tránh mọi tiêu cực, phiền hà.
Tăng cường cơ sở vật chất-kỹ thuật, phương tiện làm
việc. Ngân sách hoạt động của cơ quan KTNN hàng năm
do Tổng Kiểm toán Nhà nước lập và trình Quốc hội
quyết định. Có như vậy, mới đảm bảo các điều kiện cần
thiết để KTNN thực hiện nhiệm vụ chính trị được giao và
các nhiệm vụ khác khi có yêu cầu của Quốc hội và Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội.

3) Bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ Tổng Kiểm
toán Nhà nước và các chức vụ khác
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ Tổng Kiểm toán
Nhà nước phải bảo đảm tính độc lập và ngang tầm với
tầm quan trọng của cơ quan có tính chất đặc biệt này.
Việc bổ nhiệm và miễn nhiệm chức vụ Tổng Kiểm toán
Nhà nước cũng trực tiếp ảnh hưởng đến địa vị pháp lý
của cơ quan KTNN.
Ở Việt Nam, trình tự và thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm
Tổng Kiểm toán Nhà nước, Phó Tổng Kiểm toán Nhà
nước, Kiểm toán viên cao cấp, Kiểm toán viên chính và
Kiểm toán viên nên được quy định phù hợp với địa vị
pháp lý của KTNN chế định trong Hiến pháp, trong Luật
tổ chức KTNN và các Luật có liên quan như: Luật tổ
chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ...
Việc bổ nhiệm chức vụ Tổng Kiểm toán Nhà nước và các
chức vụ khác cần tuân theo trình tự, thủ tục như đã nêu
ở trên để tạo nên một vị thế độc lập có tính bền vững;
đồng thời, không bị chi phối bởi những ảnh hưởng từ
phía các chủ thể được kiểm toán.
Tóm lại, trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN đòi hỏi tất yếu phải xây dựng cơ quan
KTNN với tư cách là một cơ quan kiểm tra tài chính công
cao nhất của Nhà nước. Việc xác định địa vị pháp lý,
hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực của
KTNN là hết sức quan trọng và cần thiết, góp phần tích
cực vào quá trình công khai hoá và dân chủ hoá, thực
hiện "Dân biết, dân làm, dân bàn, dân kiểm tra" đối với
mọi hoạt động kinh tế của quốc gia.
« Sửa lần cuối: Tháng Giêng 26, 2009, 09:04:12 pm gửi

bởi admin »
Logge
d
admin
Quản trị cao
Re: Một số vấn đề về Kiểm toán Nhà nước
« Trả lời #3 vào lúc: Tháng Giêng 26, 2009, 09:06:19 pm »
cấp
Bài viết: 29
Xem hồ sơ
cá nhân
Email
Phần thứ hai: Mô hình kiểm toán nhà nước của
một số quốc gia trên thế giới
I- Các mô hình KTNN
Trong số 178 thành viên chính thức của Tổ chức Quốc
tế các Cơ quan Kiểm toán tối cao (INTOSAI), mô hình
các cơ quan KTNN không giống nhau. Một số KTNN trực
thuộc Quốc hội, một số trực thuộc Chính phủ, số còn lại
trực thuộc Tổng thống, trực thuộc Nhà Vua hoặc độc lập
hoàn toàn với Quốc hội và Chính phủ.
Theo thống kê sơ bộ, trong số 85 nước được khảo sát:
- 36 nước có cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội: Hoa
Kỳ, Nga, Anh, Đan Mạch, Ôxtrâylia, Hunggari, Phần Lan,
Ba Lan, Séc, Hà Lan, Áo, Lítva, Braxin, Mêhicô, Êcuađo,
Côlômbia, Cô-xta-ri-ca, Guatêmala, Namibia, Canađa,
Uganđa, Vênêxuêla, Gana, Hônđurat, Urugoay, CH
Đôminica, Puêtô Ricô, CH Xêy-chê-lê, Nicaragua, Mông
Cổ, Thổ Nhĩ Kỳ, Mianma, Gióocđani, Papua Niu Ghinê,
Xri-lanca, Ixraen.

- 16 nước có cơ quan KTNN trực thuộc Chính phủ: Trung
Quốc, Nhật Bản, Arập Xêút, Thái lan, Lào, Campuchia,
Thuỵ Điển, Pêru, Achentina, Bốt-xoa-na, Đôminích, En
Sanvađo, Môrixơ, Kiribati, Xanh Luxia, Xanh Vinxen.
- 14 nước có cơ quan KTNN trực thuộc Tổng thống: Hàn
Quốc, Chi-lê, Băng-la-đét, Bô-li-vi-a, Tan-da-ni-a, Guy-
a-na, Ấn Độ, Ma-la-uy, Man-ta, Dăm-bi-a, Pa-ra-goay,
Gia-mai-ca, Pa-ki-xtan, Be-li-ze.
- 2 nước có cơ quan KTNN trực thuộc nhà Vua: Nê-pan,
Bru-nây.
- 17 nước có cơ quan KTNN độc lập hoàn toàn: Đức,
Malaixia, Síp, Pháp, Phi-lip-pin, In-đô-nê-si-a, Hy Lạp,
CH Xu-đăng, Tây Ban Nha, Panama, Xu-ri-nam, Luých-
xăm-bua, Thụy Sĩ, Bồ Đào Nha, Italia, Ôman, Ki-rơ-gi-
xtan.
Xin giới thiệu 3 mô hình cơ quan kiểm toán tối cao quốc
gia: Cơ quan KTNN trực thuộc Quốc hội (CHLB Nga),
trực thuộc Chính phủ (Trung Quốc) và mô hình độc lập
(CHLB Đức).
1. Liên bang Nga
a. Vị trí: Kiểm toán nhà nước liên bang Nga (KTNNLB) là
cơ quan cao nhất hoạt động thường xuyên của hệ thống
kiểm tra tài chính Nhà nước, được lập ra bởi Hội nghị
Liên bang và trực thuộc Hội nghị.
KTNNLB Nga trong hoạt động của mình tuân thủ theo
Hiến pháp Liên bang, Đạo luật KTNN và các Đạo luật
khác của Liên bang Nga. Trong khuôn khổ các nhiệm vụ
do luật định, KTNNLB Nga độc lập về tổ chức và chức
năng.
KTNNLB Nga là một pháp nhân, có con dấu khắc hình

Quốc huy Liên bang.
b. Nhiệm vụ: Tổ chức và thực hiện kiểm tra việc hoàn
thành đúng thời hạn các khoản thu, khoản chi của Ngân
sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang nằm
ngoài ngân sách Liên bang, cả về số lượng, cơ cấu và
mục tiêu.
Đánh giá cơ sở lý giải của các khoản thu, khoản chi
trong các dự toán ngân sách Liên bang và ngân sách
các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang.
Thẩm định về mặt tài chính các dự thảo Luật Liên bang,
các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan quyền
lực Nhà nước Liên bang khác có dự kiến các khoản chi
lấy từ ngân sách Liên bang hoặc ảnh hưởng đến việc
thành lập và sử dụng ngân sách Liên bang cũng như
ngân sách của các quỹ Liên bang nằm ngoài ngân sách
Liên bang.
Phân tích việc không thực hiện đúng các chỉ tiêu đã xác
định của ngân sách Liên bang và của ngân sách các quỹ
Liên bang nằm ngoài ngân sách Liên bang, cũng như
chuẩn bị các kiến nghị nhằm khắc phục các sai sót đó
và hoàn thiện ngân sách Liên bang.
Kiểm tra tính hợp pháp và tính kịp thời của việc chuyển
ngân sách Liên bang và ngân sách các quỹ Liên bang
nằm ngoài ngân sách Liên bang trong Ngân hàng Trung
ương Nga, trong các Ngân hàng được uỷ nhiệm và các
tổ chức tín dụng khác của Liên bang.
Đệ trình thường xuyên các thông tin về việc thực hiện
ngân sách Liên bang cũng như kết quả các hoạt động
kiểm toán lên Hội đồng Liên bang và Viện Duma quốc
gia.

c. Tổ chức bộ máy: KTNNLB bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ
tịch, Kiểm toán trưởng và bộ máy giúp việc của
KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB do Viện Duma quốc gia bổ nhiệm theo
nhiệm kỳ 6 năm. Nghị quyết về việc bổ nhiệm Chủ tịch
KTNNLB được Viện Duma quốc gia thông qua với đa số
phiếu cuả tất cả đại biểu Viện Duma quốc gia. Mọi công
dân Liên bang Nga đã tốt nghiệp Đại học tổng hợp, có
kinh nghiệm trong lĩnh vực hành chính Nhà nước, kiểm
tra Nhà nước, kinh tế và tài chính đều có thể được bổ
nhiệm làm Chủ tịch KTNNLB.
Chủ tịch KTNNLB không được có quan hệ họ hàng với
Tổng thống Liên bang Nga, Chủ tịch Hội đồng Liên
bang, Chủ tịch Viện Duma quốc gia, Chủ tịch Chính phủ
Liên bang, Thủ trưởng Phủ Tổng thống Liên bang,
Chánh Toà án tối cao Liên bang và Chủ tịch Hội đồng
trọng tài tối cao Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB có quyền tham dự các phiên họp của
Hội đồng Liên bang, Viện Duma quốc gia, các Uỷ ban và
tiểu ban của Nghị viện, các phiên họp của Chính phủ
Liên bang và của Đoàn Chủ tịch Chính phủ Liên bang.
Chủ tịch KTNNLB không được phép là Đại biểu của Viện
Duma quốc gia, là thành viên của Chính phủ Liên bang,
không được làm bất kỳ công việc nào có tính chất sinh
lợi, trừ công tác giảng dạy khoa học nghệ thuật...
Phó Chủ tịch KTNNLB do Hội đồng Liên bang bổ nhiệm
theo nhiệm kỳ 6 năm. Nghị quyết bổ nhiệm Phó Chủ
tịch KTNNLB được thông qua bởi đa số tất cả các đại
biểu Hội đồng Liên bang.
d. Đánh giá kết quả kiểm toán: KTNNLB đánh giá một

cách có hệ thống các kết quả thu được từ các biện pháp
kiểm tra, khái quát chúng và nghiên cứu các nguyên
nhân và hậu quả của các việc sai trái và vi phạm trong
khi tạo các nguồn thu và chi từ ngân sách Liên bang.
Trên cơ sở các dữ liệu có được, KTNNLB xây dựng các
kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật Ngân sách và tiếp tục
phát triển hệ thống tài chính và ngân sách của Liên
bang, trình lên Viện Duma quốc gia.
e. Các kiến nghị của KTNNLB: Dựa vào các kết quả do
các biện pháp kiểm tra đưa lại, KTNNLB kiến nghị với
các cơ quan Nhà nước Liên bang, Thủ trưởng các cơ
quan, doanh nghiệp được kiểm toán về các biện pháp
để khắc phục các thiếu sót, truy cứu trách nhiệm của
các quan chức đã vi phạm các Đạo luật của Liên bang
và gây ra bê bối.
Kiến nghị của KTNNLB phải được xem xét trong thời hạn
được ấn định, nếu không có thời hạn thì là 20 ngày kể
từ ngày nhận được chúng. Các biện pháp được đưa ra
để thực hiện kiến nghị phải được thông báo ngay cho
KTNNLB. Nếu trong khi tiến hành kiểm toán mà phát
hiện việc biển thủ phương tiện tài chính hoặc tài sản
Nhà nước cũng như các vụ việc lạm dụng chức vụ khác

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×