Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Luận văn_Giải phápnâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, Công chức ở Tổng cục chính trị Bộ An ninh nhân dân nước Cộng hòa Dân chủ Nhândân Lào.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.93 KB, 74 trang )

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BCHTWĐ

:

Ban chấp hành Trung ương Đảng

BTCTWĐ

:

Ban tổ chức Trung ương Đảng

CHDCND Lào

:

Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào

ĐNDCM Lào

:

Đảng nhân dân cách mạng Lào

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội



HVCT

:

Học viện chính trị


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn quan tâm
và chăm lo đến công tác cán bộ, coi cán bộ và công tác cán bộ là cái gốc của
mọi công việc trong thực hiện nhiệm vụ chính trị trong mọi giai đoạn cách
mạng, coi công tác cán bộ là nhiệm vụ chiến lược: “Cán bộ là người quyết
định thành công hay thất bại của công việc, lại là vốn liếng rất quý giá của
Đảng và đất nước” [9, tr.181]. Chính vì tầm quan trọng của cán bộ, Đại hội
lần thứ IX Đảng Nhân dân Cách mạng Lào (3-2011) đề ra bốn chính sách đột
phá để hoàn thành kế hoạch xóa đói, giảm nghèo, đưa nước Cộng hòa Dân
chủ Nhân dân Lào thoát khỏi tình trạng kém phát triển và tiến lên không
ngừng, đây là một quyết sách quan trọng của Đại hội Đảng lần thứ IX. Một
trong bốn đột phá đó được Đảng Nhân dân Cách mạng Lào tổng kết thành bài
học là đột phá về phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là đào tạo, bồi dưỡng tạo
nguồn cán bộ. Thực trạng đội ngũ cán bộ Lào hiện nay đặt ra yêu cầu khách
quan phải có bước đột phá, tập trung vào 3 mặt quan trọng là: đủ về số lượng;
chất lượng phải tốt hơn, cao hơn; chính sách, chế độ đối với cán bộ, nhất là
chế độ tuyển chọn, sử dụng và quản lý cán bộ hiệu quả hơn.

Thực tiễn chứng minh rằng: nếu không có cán bộ trung thành, gương
mẫu, tiên phong và có lý tưởng, bản lĩnh vững vàng sẽ không hoàn thành
nhiệm vụ của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trước đây, xây dựng bảo vệ đất
nước Lào vững mạnh trong giai đoạn hiện nay: “Dù đường lối đúng đắn,
nhưng thiếu cán bộ, đảng viên có trình độ và thể chế lãnh đạo, tổ chức thực
hiện có hiệu quả thì đường lối đó cũng sẽ chỉ nằm trên giấy tờ mà thôi” [9,
tr.182]. Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản từng nói: “Cán bộ là vốn quý báu
nhất của Đảng, là người lãnh đạo nhân dân, là người phục vụ nhân dân, là

1


cầu nối giữa Đảng và quần chúng; sau khi Đảng đã có đường lối đúng đắn,
công việc của Đảng sẽ tốt hay xấu, sẽ thắng lợi hay thất bại thì tất cả là do
cán bộ của Đảng quyết định" [9, tr. 184]. Do đó, Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào luôn quan tâm đến đội ngũ cán bộ và nhận thức rõ vấn đề tổ chức thực
hiện đường lối đổi mới, đưa sự nghiệp cách mạng của Lào tiến lên theo mục
tiêu xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là
công việc thường xuyên và luôn được các cấp, các ngành thực hiện một cách
có hệ thống, đồng bộ và có kế hoạch, đầu tư ngân sách phù hợp.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân đang tổ chức thực hiện Nghị quyết Đại
hội IX của Đảng Nhân dân cách mạng Lào, đặc biệt là kế hoạch 5 năm lần
thứ 7 về phát triển kinh tế - xã hội. Công cuộc đổi mới toàn diện của Lào đang
diễn ra trong bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đang tác động sâu rộng vào từng quốc gia, khu vực. Tình hình đó mang lại
nhiều thời cơ nhưng cũng không ít những nguy cơ, thách thức đối với Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong công cuộc đổi mới theo hướng văn minh,
thịnh vượng. Đây là sự nghiệp cách mạng to lớn, khó khăn và gian khổ, đòi
hỏi phải phát huy nhiều nguồn lực sức mạnh để đưa sự nghiệp đổi mới đến
thắng lợi. Trong các nguồn lực này, yếu tố con người được đặt lên hàng đầu

và vấn đề cán bộ là khâu then chốt nhất.
Từ nhận thức đó, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn nỗ lực chỉ đạo
việc đào tạo, bồi duỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ có phẩm chất cách mạng
vững vàng, mang bản chất của giai cấp công nhân, có tinh thần yêu nước, hết
lòng phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng chú trọng đào tạo cán bộ nòng
cốt từ Trung ương đến các ngành, địa phương, cơ sở. Cùng với việc đẩy mạnh
đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước Chính phủ và các địa phương luôn chú trọng
cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài, trong đó chủ yếu là Việt Nam.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã giúp Lào đào tạo mỗi năm từ 500 đến 600
cán bộ. Nhờ đó số lượng và chất lượng cán bộ, công chức không ngừng tăng lên.

2


Trong đó lực lượng An ninh là lực lượng vũ trang sắc bén của Đảng, là
lực lượng sinh ra từ Nhân dân các bộ tộc, do Nhân dân và bảo vệ lợi ích
chung của Nhân dân, lực lượng An ninh là do Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
xây dựng và lãnh đạo trực tiếp trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền
cũng như trong giai đoạn hiện nay, để đảm bảo lực lượng An ninh trung thành
với đất nước, với Đảng – Nhà nước và Nhân dân các bộ tộc trở thành lực
lượng vững mạnh có thể phá hoại được mọi âm mưu của các thế lực thù địch.
Điều đó nó đòi hỏi chúng ta phải có lực lượng trung thành, có trình độ, khả
năng dũng cảm trong việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo – bồi dưỡng
cán bộ ở Bộ An ninh nói chung và nâng cao chất lượng công tác đào tạo – bồi
dưỡng cán bộ ở Tổng cục chính trị Bộ An ninh nói riêng.
Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn còn có nhiều mặt hạn
chế, bất cập như: đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chưa có kế hoạch, không thường
xuyên, chưa gắn liền với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của một số trường học và trung tâm đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ còn hạn chế, nhiều cán bộ sau khi đào tạo chưa thích ứng

được yêu cầu của cơ chế mới, thiếu kiến thức chuyên môn, kiến thức về quản
lý kinh tế, quản lý xã hội. Vì vậy, số lượng và chất lượng của cán bộ, công
chức chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Một số cán bộ chưa thực sự có bản lĩnh chính trị vững vàng; trách nhiệm đối
với Đảng và đất nước chưa cao, thiếu gương mẫu, thiếu ý thức đối với tổ
chức, vi phạm luật pháp, còn nhiều biểu hiện quan liêu, xa lánh quần chúng,
lợi dụng chức quyền và thu lợi bất chính, tham nhũng, ăn chơi lãng phí v.v...
Những vấn đề đã nêu trên phần lớn thuộc về trách nhiệm của công tác
đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức ở Tổng cục chính trị Bộ An
ninh, tôi chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ,công chức ở Tổng Cục chính trị Bộ An ninh Nhân dân nước
CHDCND Lào trong giai đoạn hiện nay” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp.

3


2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu:
- Khóa luận góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Tổng cục
chính trị Bộ An ninh nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận, quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; Những yêu cầu đặt ra đối với công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở nước Cộng hòa dân chủ Nhân dân
Lào trong giai đoạn hiện nay.
- Đánh giá thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
của Tổng cục chính trị Bộ An ninh nhân dân Lào trong thời gian qua (2009 2014), làm rõ nguyên nhân và rút ra những bài học kinh nghiệm.

- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của Tổng cục chính trị Bộ An
ninh nhân dân Lào đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
khóa luận tập trung nghiên cứu thực trạng công tác đào tạo và bồi
dưỡng cán bộ, công chức của Tổng cục chính trị Bộ An ninh nhân dân Nước
cộng hòa dân chủ nhân dân Lào.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2009 đến năm 2014.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: khóa luận được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm cơ bản của Đảng

4


Nhân dân Cách mạng Lào, Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản về công tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận kết hợp một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp khảo sát, điều tra xã hội học, phương pháp kết hợp logíc và lịch
sử, phương pháp thống kê và tổng hợp, phương pháp phân tích thực tiễn gắn
với lý luận...
5. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu tham mưu cho
lãnh đạo về việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở Tổng cục chinh trị Bộ An ninh nhân dân và làm tài liệu tham
khảo cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, khóa
luận được kết cấu gồm 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
ở Tổng cục chính trị Bộ An ninh.
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở
Tổng cục chính trị Bộ An ninh trong thời gian qua (2009 - 2014).
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Tổng cục chính trị Bộ An ninh nhân
dân nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong thời giai tới.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG
TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở TỔNG
CỤC CHÍNH TRỊ BỘ AN NINH
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM
1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
* Khái niệm cán bộ:
Theo cách quan niệm thông thường những người sau được gọi là cán bộ:
- Những người thoát ly khỏi sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, lâm
nghiệp, ngư nghiệp…để làm việc trong bộ máy chính quyền, đảng, đoàn thể;
- Những người giữ các chức vị lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, Nhà
nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức kinh tế…
Trong Từ điển tiếng Việt, xuất bản năm 1993, thuật ngữ cán bộ được
hiểu theo 2 nghĩa: 1) Người làm công tác nghiệp vụ có chuyên môn trong cơ
quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể. Theo nghĩa này, cán bộ không chỉ là
những người làm công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước
mà còn ở trong cả hệ thống chính trị; 2) Người làm công tác có chức vụ trong
một cơ quan, một tổ chức, phân biệt với người không có chức vụ. Với nghĩa
này, cán bộ là những người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một

tổ chức của hệ thống chính trị, là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, là những
người có chức vụ để phân biệt với người không có chức vụ. Bộ phận cán bộ
này được hình thành thông qua việc bầu cử dân chủ, đề bạt, bổ nhiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã nói về khái niệm cán bộ trong cuốn
“sửa đổi lối làm việc”, Người viết “Cán bộ là những người đem chính sách
của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng

6


thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ rõ để đặt
ra chính sách cho đúng” (3,5,296).
Hiện nay, từ cán bộ được dùng với rất nhiều nghĩa khác nhau:
- Trong tổ chức đảng và đoàn thể, từ cán bộ được dùng với hai nghĩa.
Một là, để chỉ những người được bầu vào các cấp lãnh đạo, chỉ huy từ cơ sở
đến Trung ương (cán bộ lãnh đạo) để phân biệt với đảng viên thường, đoàn
viên, hội viên.
Hai là, những người làm công tác chuyên trách có hưởng lương trong
các tổ chức đảng và đoàn thể.
- Trong quân đội, công an là những chỉ huy từ tiểu đội trở lên (cán bộ
tiểu đội, cán bộ trung đoàn. v.v.) và là sĩ quan từ cấp uỷ trở lên.
- Trong hệ thống nhà nước, từ “cán bộ” được hiểu cơ bản là trùng với
từ “công chức”, chỉ những người làm việc trong cơ quan nhà nước thuộc
ngành hành chính, tư pháp, kinh tế, văn hoá và xã hội. Đồng thời, cán bộ cũng
được hiểu là những người có chức vụ chỉ huy, phụ trách, lãnh đạo (trưởng,
phó phòng, vụ, cục. v.v.).
Dù cách dùng, cách hiểu trong các trường hợp, các lĩnh vực cụ thể có
khác nhau, nhưng về cơ bản, thuật ngữ “cán bộ” có thể quan niệm một cách
chung nhất như sau: Cán bộ là khái niệm chỉ những người có chức vụ, vai trò
và cương vị nòng cốt trong một tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt

động của tổ chức và các quan hệ trong lãnh đạo, chỉ huy, quản lý, điều hành,
góp phần định hướng sự phát triển của tổ chức.
Từ khái niệm chung về cán bộ có thể phân loại cán bộ với 3 cách sau:
Thứ nhất, phân loại theo lĩnh vực hoạt động chuyên môn ta có các loại
cán bộ: Cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý, cán bộ kinh tế, cán bộ quân sự, cán
bộ khoa học - kỹ thuật…

7


Thứ hai, phân loại cán bộ theo chức vụ, trình độ tổ chức xã hội và vị trí
vai trò của cán bộ. Theo cách phân loại này ta có cán bộ cao cấp, cán bộ trung
cấp và cán bộ sơ cấp.
Thứ ba, phân loại theo loại hình tổ chức trong hệ thống chính trị, ta
có các loại cán bộ: Cán bộ Đảng, cán bộ Nhà nước và cán bộ các đoàn thể
nhân dân…
Hiện nay, ở Lào cán bộ bao gồm có những người làm việc trong cơ
quan Nhà nước, Đảng và đoàn thể, cán bộ trong hệ thống chính trị và cán bộ
tổ chức xã hội. Xét về loại hình có thể phân thành:
- Cán bộ lãnh đạo và quản lý;
- Cán bộ Nhà nước (lập pháp, hành pháp, tư pháp);
- Cán bộ kinh tế và quản lý kinh tế;
- Cán bộ khoa học - kỹ thuật, văn hóa...
- Cán bộ lực lượng vũ trang.
Lực lựợng an ninh là lực lượng vũ trang của Đảng và Nhà nước, có
nguồn gốc từ nhân dân, do nhân dân và phục vụ nhân dân bằng hoạt động bảo
vệ an ninh quốc gia, và trật tự an toàn xã hội. Lực lượng an ninh là lực lương
gồm có: An ninh nhân dân và cảnh sát nhân dân được phân thành nhiều cấp
bậc từ hạ sĩ quan, sĩ quan, sĩ quan cao cấp. Lực lực lượng an ninh có trang
phục, cờ hiệu, phù hiệu riêng do chính phủ quyết định. Họ là những người

được tuyển chọn, đào tạo, bố trí, bổ nhiệm theo quy định của pháp luật, để
làm tròn nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích của công dân.
Lực lượng an ninh là lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia
và trật tự an tòan xã hội gồm ba bộ phận:

8


Lực lượng an ninh chuyên trách, được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
đầy đủ theo chương trình. Họ được bố trí và tổ chức của Bộ an ninh và được
trang bị vũ trang kỹ thuật.
Lực lượng nửa chuyên trách là lực lượng không phong cấp bậc, hàm
giống như lực lượng chuyên trách. Họ được bổ nhiệm làm nhiệm vụ bảo vệ
an ninh ở cơ sở làng, bản, bảo vệ nội bộ.
Lực lượng an ninh viên làm nhiệm vụ bảo vệ cơ quan, đơn vị, xí
nghiệp…
Lực lượng an ninh đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng
NDCM Lào, là lực lượng có nguồn gốc từ dân, do dân, vì dân. Lực lượng này
được thành lập, trưởng thành trong phong trào cách mạng của Đảng, của
Nhân dân các bộ tộc Lào. Từ khi thành lập, lực lượng an ninh cùng với quân
đội nhân dân đã phải vượt qua những khó khăn, thử thách, hy sinh, mất mát
để giành được thắng lợi trong sự nghiệp đấu tranh cứu nước, chống quân xâm
lựợc của các thế lực đế quốc mới và cũ, bọn tay sai, nhằm phục vụ cho sụ
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.
* Khái niệm công chức:
Theo Luật cán bộ, công chức năm 2008, có hiệu lực từ ngày
01/01/2010:
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà

nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ( gọi là đơn vị sự nghiệp công lập),

9


trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước; đối với công chức
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì được bảo
đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một
chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Theo Nghị định số 82/TTg, ngày 19/5/2003 của Thủ tướng Chính phủ,
nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào quy định: công dân Lào được sắp xếp
và bổ nhiệm vào làm việc trong cơ quan Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn
thể từ Trung ương đến cơ sở, được hưởng từ ngân sách Nhà nước đều là công
chức [23, tr.4] .
Như vậy, có thể nói công chức là một trong những bộ phận của nền
hành chính nhà nước, là nhân tố đảm bảo cho quản lý đất nước theo pháp luật
và bằng pháp luật, đảm bảo cho nền hành chính hoạt động thống nhất, liên tục và
có hiệu quả.
1.1.2. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
- Đào tạo được hiểu là “Quá trình tác động đến con người, nhằm làm
cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo v.v.. một
cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và có
khả năng nhận sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào việc

phát triển xã hội, duy trì và khai hóa nền văn minh của nhân loại”.
Như vậy, đào tạo được xem như là một quá trình, làm cho người được
đào tạo có kiến thức chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng nghiệp vụ theo những
tiêu chuẩn nhất định do yêu cầu đòi hỏi của công việc. Đào tạo được coi là
quá trình thực hiện bài bản qua hệ thống các trường dạy nghề, trung cấp, cao
đẳng, đại học và trên đại học nhằm tạo cho đất nước các nguồn nhân lực dồi

10


dào và bền vững. Quá trình đào tạo được phân đoạn ra thành đào tạo và đào
tạo lại (bồi dưỡng).
- Bồi dưỡng cán bộ, công chức là “quá trình cập nhật hóa kiến thức còn
thiếu hoặc lạc hậu, bổ túc kinh nghiệm, các hoạt động này nhằm tạo điều kiện
cho người lao động có cơ hội để củng cố và mở rộng một cách có hệ thống
những tri thức kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ sẵn có để lao động nghề nghiệp
có hiệu quả hơn và thường được xác nhận bằng một chứng chỉ".
Bồi dưỡng còn được coi là quá trình đào tạo tiếp tục, nhằm đổi mới,
nâng cao kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp, trang bị thêm cho con người
những tri thức mới và cập nhật với thực tiễn. Sau quá trình đào tạo cơ bản,
con người phải liên tục được bồi dưỡng (hoặc tự bồi dưỡng) để tiếp cận với
tiến bộ của khoa học công nghệ và những biến đổi của thực tiễn quản lý để
nâng cao khả năng nghề nghiệp. Quá trình đó phát triển liên tục, ngay cả sau
khi con người không tiếp tục lao động nữa mà chuyển sang giai đoạn hưu trí.
Thời lượng dành cho các khóa bồi dưỡng thường ngắn, thường từ 1 tuần đến
3 - 4 tháng, thậm chí có thể 1 - 2 ngày tọa đàm, hội thảo để giới thiệu, phân
tích vấn đề.
1.1.3. Tiêu chuẩn phẩm chất của cán bộ công chức
Chất lượng cán bộ, công chức được thể hiện qua các mặt như: bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức, tác phong làm việc, trình độ nhận thức, trình độ

chuyên môn, năng lực công tác trong thực tiễn, tuổi tác, tình trạng sức
khoẻ,..vv. Dựa vào các yếu tố này, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải đạt
các tiêu chuẩn sau :
- Tiêu chí về trình độ văn hoá: Trình độ văn hoá là mức độ học vấn giáo
dục mà cán bộ, công chức đạt được. Hiện nay, trình độ văn hoá của cán bộ,
công chức được phân thành 3 cấp với mức độ khác nhau từ thấp đến cao: Tiểu
học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông.

11


- Tiêu chí về trình độ chuyên môn nghiệp vụ: Trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của cán bộ, công chức là trình độ được đào tạo qua các trường lớp
có văn bằng chuyên môn phù hợp với yêu cầu của công việc. Trình độ chuyên
môn đào tạo đáp ứng với hệ thống văn bằng hiện nay và được chia thành các
trình độ như: sơ cấp; trung cấp; đại học và trên đại học. Tuy nhiên, khi xem
xét về trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức cần phải lưu ý đến sự phù
hợp giữa chuyên môn đào tạo với yêu cầu thực tế của công việc.
- Tiêu chí về kỹ năng nghề nghiệp: Đây là một trong những tiêu chí
quan trọng đánh giá chất lượng của cán bộ, công chức, phản ánh tính chuyên
nghiệp của cán bộ, công chức trong thực thi công vụ. Cán bộ, công chức
HCNN cần có những kỹ năng quản lý tương ứng với nhiệm vụ được giao để
thể hiện vai trò, nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Có thể chia thành 3 nhóm
kỹ năng chính:
Nhóm 1: Kỹ năng kỹ thuật, liên quan đến khả năng nắm vững các
phương pháp sử dụng các phương tiện, công cụ cũng như kiến thức về một
lĩnh vực cụ thể nào đó.
Nhóm 2: Các kỹ năng quan hệ, liên quan đến khả năng giao tiếp, phối
hợp, chia sẻ và động viên, thu hút người khác với tư cách cá nhân hoặc nhóm.
Nhóm 3: Kỹ năng tổng hợp, tư duy chiến lược. Cán bộ, công chức có

khả năng tổng hợp và tư duy trong công việc một cách linh hoạt để vận dụng
vào thực tiễn. Điều này liên quan đến khả năng nhìn nhận tổ chức như một thể
thống nhất và sự phát triển của các lĩnh vực, hiểu được mối liên hệ phụ thuộc
giữa các bộ phận bên trong của tổ chức, lĩnh vực, dự đoán được những thay
đổi trong bộ phận này sẽ ảnh hưởng tới bộ phận, lĩnh vực khác ra sao.
Với các nhóm kỹ năng trên đều cần đến các khả năng cá nhân tương
ứng với từng vị trí công tác như: khả năng tự nhìn nhận đánh giá, khả năng
quản lý, kiềm chế mọi sự căng thẳng (mà chủ yếu là khả năng tổ chức công

12


việc một cách có kế hoạch), khả năng giải quyết vấn đề một cách tự tin và
sáng tạo...Thực tiễn cho thấy, cán bộ, công chức HCNN đều cần phải có đủ
những kỹ năng trên, trong khi đó số cán bộ, công chức HCNN có được kỹ
năng này hiện nay lại không phải là nhiều.
- Tiêu chí về kinh nghiệm công tác: Kinh nghiệm công tác là tiêu chí
quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ, công chức. Kinh nghiệm là những
vốn kiến thức thực tế mà cán bộ, công chức tích luỹ được trong thực tiễn công
tác. Kinh nghiệm là kết quả được hình thành trong hoạt động thực tiễn. Chính
kinh nghiệm đã góp phần vào việc hình thành năng lực thực tiễn của cán bộ,
công chức và làm tăng hiệu quả công vụ mà cán bộ, công chức đảm nhận.
Kinh nghiệm phụ thuộc vào thời gian công tác của cán bộ, công chức nói
chung và thời gian công tác ở một công việc cụ thể nào đó nói riêng của cán
bộ, công chức. Tuy nhiên, giữa kinh nghiệm công tác và thâm niên công tác
không phải hoàn toàn tuân theo quan hệ tỷ lệ thuận. Thời gian công tác chỉ là
điều kiện cần cho tích luỹ kinh nghiệm nhưng chưa phải là điều kiện đủ. Điều
kiện đủ để hình thành kinh nghiệm công tác của cán bộ, công chức phụ thuộc
vào chính khả năng, nhận thức, phân tích, tích luỹ và tổng hợp của từng cán
bộ, công chức.

- Tiêu chí về sức khoẻ: Sức khoẻ của cán bộ, công chức được xem là
tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ, công chức. Vì sức khoẻ
được hiểu là trạng thái thoải mái về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không
đơn thuần chỉ là không có bệnh tật. Sức khỏe là tổng hoà nhiều yếu tố được
tạo bởi bên trong và bên ngoài, thể chất và tinh thần.
Tiêu chí sức khoẻ đối với cán bộ, công chức không những là một tiêu
chí chung, cần thiết cho tất cả cán bộ, cán bộ, công chức nhà nước, mà tuỳ
thuộc vào những hoạt động đặc thù của từng loại cán bộ, công chức mà có
thêm những yêu cầu tiêu chuẩn riêng về sức khoẻ. Vì vậy, việc xây dựng tiêu

13


chí phản ánh về sức khoẻ của cán bộ, công chức cần xuất phát từ yêu cầu cụ
thể đối với hoạt động có tính đặc thù đối với từng loại cán bộ, công chức. Yêu
cầu về sức khoẻ không chỉ là một quy định bắt buộc khi tuyển chọn cán bộ,
công chức, mà còn phải là yêu cầu được duy trì trong suốt quá trình công tác
của cán bộ, công chức cho đến khi về hưu.
Nhóm tiêu chí đánh giá về khả năng nhận thức và mức độ sẵn sàng đáp
ứng sự thay đổi công việc của cán bộ, công chức hành chính nhà nước
Đây là nhóm tiêu chí đánh giá chất lượng của cán bộ, công chức trên cơ
sở đáp ứng sự thay đổi công việc. Khi phân tích, đánh giá chất lượng cán bộ,
công chức phải dựa trên cơ sở trạng thái tĩnh của cán bộ, công chức cũng như
của công việc và tổ chức. Nhiệm vụ, nội dung và yêu cầu của công việc luôn
thay đổi do các nhân tố khách quan như: áp dụng tiến bộ khoa học trong quản
lý, do yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, do yêu cầu của thời kỳ
CNH, HĐH đất nước...Nếu như cán bộ, công chức không nhận thức được sự
thay đổi công việc của mình trong thực tiễn và tương lai, thì sẽ không có sự
chuẩn bị và đầu tư cập nhật kiến thức, nâng cao kỹ năng, thay đổi thái độ và
hành vi của mình trong công việc và như vậy sẽ không thể đảm nhận và hoàn

thành công việc được giao.
Có hai nội dung quan trọng được xem xét khi đánh giá chất lượng cán
bộ, công chức trong tiêu chí này là: nhận thức về sự thay đổi công việc trong
thực tế và tương lai; những hành vi sẵn sàng đáp ứng sự thay đổi. Khi nhận
thức được sự thay đổi của công việc, người cán bộ, công chức tự chuẩn bị cho
mình những kiến thức cần thiết, đi trước, đón đầu sự thay đổi của công việc
để thích nghi, nhưng cũng có những cán bộ, công chức chấp nhận bị đào thải
trong tương lai do không chuẩn bị kịp với yêu cầu của sự thay đổi công việc.

14


Nhóm tiêu chí đánh giá mức độ đảm nhận công việc của đội ngũ cán
bộ, công chức hành chính nhà nước
Đây là nhóm tiêu chí đánh giá năng lực thực thi nhiệm vụ của cán bộ,
công chức, phản ánh mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, công chức và
mức độ đảm nhận chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, công chức. Để đánh giá
cán bộ, công chức theo tiêu chí này, cần dựa vào kết quả thực hiện công việc
của cán bộ, công chức. Đánh giá thực hiện công việc là phương pháp, nội
dung của quản trị nguồn nhân lực trong các tổ chức, cơ quan HCNN. Đánh
giá thực hiện công việc, thực chất là xem xét, so sánh giữa thực hiện nhiệm vụ
cụ thể của cán bộ, công chức với những tiêu chuẩn đã được xác định trong
bản mô tả công việc và bản tiêu chuẩn đánh giá hoàn thành công việc.
Kết quả đánh giá thực hiện công việc cho phép phân tích và đánh giá về
chất lượng cán bộ, công chức trên thực tế. Nếu như cán bộ, công chức liên tục
không hoàn thành nhiệm vụ mà không phải lỗi của tổ chức, thì có nghĩa là cán
bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong trường hợp này,
có thể kết luận chất lượng cán bộ, công chức thấp, không đáp ứng được yêu
cầu nhiệm vụ được giao ngay cả khi cán bộ, công chức có trình độ chuyên
môn đào tạo cao hơn yêu cầu của công việc.

Các tiêu chí khác phản ánh chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính nhà nước.
Bên cạnh các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cán bộ, công chức HCNN,
còn có một số chỉ tiêu khác phản ánh chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
HCNN như: chỉ tiêu theo cơ cấu tuổi, giới tính, sự phối hợp giữa các nhóm
trong thực thi nhiệm vụ, sự tuân thủ kỷ luật, văn hoá làm việc công sở..vv. Do
vậy, khi nghiên cứu phân tích đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ, công
chức HCNN, cũng cần quan tâm tới các tiêu chí này.

15


1.2. VAI TRÒ CỦA ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Trong quản lý nguồn nhân lực nói chung, phát triển nhân lực là một trong
những vấn đề quan trọng mà bất cứ tổ chức nào cũng cần phải giải quyết bởi phát
triển là nhu cầu của mọi cá nhân người lao động cũng như của tổ chức. Vì thế đào tạo
được coi là hoạt động để duy trì và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của tổ chức,
là điều kiện quyết định để các tổ chức có thể tồn tại và tăng sức cạnh tranh của mình.
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực không chỉ có vai trò đối với sự phát triển cua các
tổ chức sử dụng mà còn có vai trò quan trọng dối với từng cá nhân cán bộ, công
chức.
Đối với các tổ chức sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng giúp cho ác cán bộ, công
chức thục hiện tốt hơn công việc được giao. Nhờ đó hiệu qủa công việc được nâng
lên do tiết kiệm thời gian và chi phí trong công việc của cán bộ, công chức giảm thời
gian giám sát của cấp trên đối với nhân viên. Bên cạnh dó nhờ đào tạo, bồi dưỡng mà
các tổ chức duy trì và nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực của mình, có được
đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Trên cơ sở đó, mới nâng
cao được tính ổn định và linh hoạt trong hoạt động của mình, mới có khả năng áp
dụng nhanh chóng những thành tựu mới nhất của khoa học công nghệ và quản lý vào
hoạt động. Thêm vào đó, một vai trò không thể bỏ qua của đào tạo, bồi dưỡng là nhờ

có đào tạo, bồi dưỡng, có thể tạo ra được đội ngũ cán bộ, công chức giỏi nghề, một
mặt duy trì được đội ngũ nhân viên đó, mặt khác nhờ đó cũng thu hút được những
người giỏi đến với tổ chức.
Đối với cá nhân người cán bộ, công chức, đào tạo bồi dưỡng cũng đóng vai
trò không kém phần quan trọng. Nhờ có đào tạo, bồi dưỡng mà cán bộ, công chức
thực hiện công việc tốt hơn và do vậy họ được hưởng những lợi ích lớn hơn từ việc
nâng cao hiệu quả công việc, tiết kiệm chi phí và được thưởng cho hoàn thành tốt
công việc đồng thời uy tín của họ đối với đồng nghiệp cũng tăng lên. Đào tạo, bồi
dưỡng còn làm tăng mức độ hài long của người cán bộ, công chức đối với công việc,

16


vì thế mà họ sẽ gắn bó hơn với cơ quan của mình. Bên cạnh đó, đào tạo, bồi dưỡng
còn làm cho sự thích ứng của cán bộ , công chức đối với công việc trong hiện tại
cũng như trong tương lai bởi tạo cho họ cách làm mới, tư duy mới trong công việc,
nâng cao tính sáng tạo của họ trong thực hiện công vụ và giải quyết những vấn đề
phát sinh trong quá trình thực hiện công vụ. Đào tạo, bồi dưỡng không những chỉ
khắc phục những hẫng hụt về năng lực làm việc của cán bộ, công chức mà còn liên
quan đến việc xác định và thỏa mãn các nhu cầu phát triển khác của bản thân từng cá
nhân cán bộ, công chức như phát triển đa kỹ năng, tăng cường năng lực toàn diện và
chuẩn bị cho đề bạt, bổ nhiệm lên vị trí cao hơn với trách nhiệm nặng nề hơn trong
tương lai của cán bộ, công chức.
Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng có vai trò quan trọng trong việc tạo thương hiệu
cá nhân của người cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính Nhà nước.
1.3. QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VỀ ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
CÔNG CHỨC
1.3.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: Giai cấp vô sản và chính đảng của

mình muốn giành được quyền lãnh đạo, giữ vững chính quyền thì phải xây
dựng được đội ngũ cán bộ trung thành và tài năng, đáp ứng được yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng. Cán bộ là một trong những nhân tố quan trọng quyết
định sự thành công hay thất bại của cách mạng. Muốn có đội ngũ cán bộ tốt
thì trước hết và quan trọng nhất là phải làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ. V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào
giành được quyền thống trị, nếu nó không tạo ra được trong hàng ngũ của
mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ
chức và lãnh đạo phong trào" [25, tr.145].

17


Thực tiễn nước Nga, khi giai cấp vô sản đã trưởng thành, Lênin đã nêu
ra: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, chúng tôi sẽ làm
đảo ngược nước Nga và ngay từ những ngày đầu cách mạng, Người đã rất coi
trọng công tác cán bộ, Người cho mở các lớp đào tạo cán bộ và tham gia đào
tạo cán bộ của nước Nga. Từ thực tiễn công tác đào tạo cán bộ, Lênin luôn
đặc biệt coi trọng việc nâng cao năng lực cho cán bộ, nhất là trình độ tổ chức
quản lý.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định: “Cán bộ là
cái gốc của mọi công việc”,“Công việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hay kém” [25, tr.145]. Vì thế, Người yêu cầu Đảng phải đặc biệt quan
tâm đến công việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phải bỏ nhiều công sức, phải
tiến hành chu đáo, công phu.
Những thắng lợi to lớn của Cách mạng Việt Nam trong hơn 80 năm qua
trước hết bắt nguồn từ đường lối chính trị đúng đắn đồng thời cũng bắt nguồn
từ tầm nhìn xa, trông rộng về chiến lược cán bộ, sự dày công chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu nhiệm vụ đào tạo, bồi

dưỡng nâng cao phẩm chất và năng lực công tác cho cán bộ, đảng viên đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ. Theo Người, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ phải làm sao cho mỗi người được đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao được nhận thức để từ đó vận dụng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ
lãnh đạo và quản lý, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt của
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể quần chúng chiếm một vị trí chiến lược quan
trọng. Sự thành công hay thất bại của sự nghiệp đổi mới trước hết tuỳ thuộc
vào công tác đào tạo, huấn luyện đội ngũ cán bộ chủ chốt này. Vì vậy, việc

18


quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đào tạo và huấn luyện cán bộ,
công chức có ý nghĩa cơ bản cả về phương diện lý luận và thực tiễn.
Trước hết, khi xác định về công tác đào tạo cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ rõ: “Nói đến cán bộ trước hết, vì cán bộ là tiền vốn của đoàn thể.
Có vốn mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì
thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”
[25,tr145].
Thứ hai, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chất lượng đào tạo và huấn luyện
cán bộ là yêu cầu hàng đầu và là trọng tâm của công tác đào tạo. Người kiên
quyết chống chủ nghĩa hình thức, chống việc huấn luyện chỉ chú ý đến”hữu
danh vô thực”, chỉ cốt làm nhiều mà không thiết thực, chu đáo.
Trong khi bàn về “huấn luyện thế nào?”, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra
5 yêu cầu cụ thể:
“1. Cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”
“2. Huấn luyện từ dưới lên trên”
“3. Phải gắn liền lý luận với công tác thực tiễn”
“4. Huấn luyện phải nhằm đúng yêu cầu”

“5. Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng”
Thứ ba, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đào tạo và huấn
luyện cán bộ, chúng ta cần phải học tập tinh thần phê bình và tự phê bình của
Người, trước hết là đối với đội ngũ giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Muốn nâng cao chất lượng đào tạo cần được thực hiện lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh: “Người huấn luyện phải học thêm vào thì mới làm được
công việc huấn luyện của mình. Người huấn luyện nào tự cho mình là đã biết
đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất”.

19


Thứ tư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh: “Phải nâng cao và
hướng dẫn việc tự học”. Thực chất đây là bước quá trình đào tạo thành quy
trình tự đào tạo, phát huy tính chủ động, sáng tạo của họ.
Điều cốt lõi của học viên là “phải biết tự động học tập”. Mục đích của
việc học tập cần phải được quán triệt một cách cụ thể, nghiêm túc, rõ ràng.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh mục đích của việc học tập tập trung vào các nội
dung sau:
“Học để sửa chữa tư tưởng”
“Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng”
“Học để tin tưởng”
“Học để hành”
Những câu trả lời hướng dẫn của Người về mục tiêu học tập rất cụ thể,
sâu sắc bao gồm cả tài, đức, tin, hành.
Thứ năm, trong cơ cấu chương trình, cần đánh giá và xem xét lại cấu
trúc tổng thể các bộ môn và phân bố số tiết hợp lý hơn. Mặc dù khối lượng tri
thức được đưa vào chương trình giảng dạy rất lớn nhưng không nên quan
niệm chương trình là số cộng của các bộ môn khoa học khác nhau mà cần
xem xét và đánh giá về khoa học và tính hệ thống của nó. Chủ tịch Hồ Chí

Minh đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ giữa học và hành, học và làm: “Học để
hành, học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích”,“lý luận
phải liên hệ với thực tiễn”; “Làm mà không có lý luận thì không khác gì mò
trong đêm tối".
Những tư tưởng, quan điểm trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực sự
là định hướng chiến lược cho toàn bộ hoạt động huấn luyện, đào tạo cán bộ
của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong suốt thời gian qua. Những tư tưởng,
quan điểm đó trước hết và luôn luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng.
Chính Người đã trực tiếp tổ chức và tham gia giảng dạy cho nhiều khoá huấn

20


luyện cán bộ Đảng. Người cũng đã viết nhiều tác phẩm và tài liệu để huấn
luyện cán bộ, trong đó có những tài liệu quý giá như: “ Sửa đổi lối làm
việc” hoặc bài báo “Dân vận” mà trải qua hơn 50 năm, nay vẫn là những
cuốn sách giáo khoa có nội dung hết sức sâu sắc, toàn diện và có giá trị
rất to lớn cho việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong điều kiện,
hoàn cảnh hiện nay.
Phương châm huấn luyện, đào tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là học kết
hợp với hành, lý luận phải đi đôi với thực tiễn; Người cho rằng: “Làm mà
không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối”.
Việc huấn luyện cán bộ phải thực hiện toàn diện, bên cạnh việc đào tạo
về văn hoá, chuyên môn, khoa học, kỹ thuật còn phải rèn luyện phẩm chất đạo
đức, tác phong làm việc. Bởi vì: “Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân".
1.3.2. Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Chủ tịch
Cay Sỏn Phôm Vi Hản về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Từ khi Đảng Nhân dân Cách mạng Lào ra đời (22/3/1955), trong mỗi
giai đoạn cách mạng, Đảng đặc biệt quan tâm đến công tác đào tạo và bồi

dưỡng cán bộ, công chức. Đảng đã khẳng định rõ: “Cán bộ là tiền vốn quý
giá của Đảng, của nhân dân. Là người quyết định sự thành công hay thất bại
trong việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật
của Nhà nước”.
Trong thực tiễn cũng đã cho thấy, cán bộ vừa là người tuyên truyền giáo dục, vừa là người tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng vào thực
tiễn. Đồng thời cán bộ còn là người nghiên cứu tổng hợp, báo cáo lên cấp trên
và phát hiện vấn đề, tìm biện pháp giải quyết hoặc đề nghị lên cấp trên những
vấn đề nảy sinh từ thực tiễn để điều chỉnh đường lối, chính sách. Mọi công

21


việc nói chung, dù ở trong lĩnh vực nào, tốt hay chưa tốt, nhanh hay chậm, có
kết quả cao hay thấp phụ thuộc vào sự quyết định của cán bộ.
Qua thực tế hơn 50 năm qua, trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức ở Tổng cục chính trị Bộ An ninh, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào
luôn khẳng định cán bộ có vai trò quyết định sự thành công hay thất bại của
cách mạng. Vì vậy, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào luôn quan tâm đến việc
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Trong những năm tới cần chú trọng
nâng cao chất lượng và năng lực của cán bộ, công chức đáp ứng kịp thời đòi
hỏi của nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới. Để làm được điều đó, trước
hết phải sớm có kế hoạch về đào tạo cán bộ cả dài hạn và ngắn hạn, cử đi học
trong nước và ngoài nước, đảm bảo tính giai cấp của Đảng, trẻ hóa, chuyên
môn hóa, tri thức hóa đảm bảo tính kế thừa liên tục, đa dạng hóa các loại hình
đào tạo, bồi dưỡng, đảm bảo tính trọng tâm, trọng điểm, nhất là đối với đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội, cán bộ ngoại giao, chuyên gia,
doanh nhân, chuyên viên mọi lĩnh vực, cán bộ dân tộc, cán bộ phụ nữ, đảm
bảo cân đối nguồn và chất lượng cán bộ giữa Trung ương và địa phương gắn
liền với yêu cầu của từng chức vụ, công việc.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải tuân theo yêu cầu công việc

trước mắt và lâu dài của từng chuyên môn và lĩnh vực công tác, trong đó đặc
biệt chú ý đào tạo cán bộ lãnh đạo chiến lược. Đảng đã chú trọng việc đào tạo
trong nước kết hợp với việc đào tạo và bồi dưỡng ở nước ngoài, chú ý đào tạo
cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ và cán bộ cơ sở.
Để thực hiện hoá quan điểm của Đảng cũng như quan điểm của Chủ
tịch Cay Sỏn Phôm Vi Hản nêu trên, Nghị quyết của Đại hội Đảng từng khóa
đã xác định mục tiêu phấn đấu đào tạo cán bộ để đáp ứng được yêu cầu của
việc thực hiện nhiệm vụ chiến lược của Đảng. Đối với cán bộ phải vững vàng
về chính trị, có đạo đức cách mạng, có kiến thức, năng lực về chuyên môn cần

22


thiết để đảm bảo hiệu quả của công việc. Để đạt được mục tiêu đó, các cấp uỷ
đảng, ban chỉ đạo các cấp và cán bộ tổ chức trong các lĩnh vực, các ngành phải
có trách nhiệm cao đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vì đây
là công việc đặc biệt quan trọng không thể thiếu của các cấp ủy và ban tổ chức
các cấp.
Để đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng trong giai
đoạn mới, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải vững vàng về chính trị, đạo đức
cách mạng, đủ cả kiến thức, năng lực và phẩm chất. Muốn làm được điều đó
phải quan tâm bồi dưỡng, đào tạo cán bộ chủ chốt. Việc bồi dưỡng, đào tạo
cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có trọng tâm, trọng điểm, có kế hoạch, chương
trình rõ ràng, bảo đảm có cán bộ nguồn theo hệ thống một cách thường xuyên
làm cho cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, luôn luôn trung
thành với mục đích lý tưởng của Đảng.
Tóm lại, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Chủ tịch Cay Sỏn Phôm Vi
Hản luôn luôn quan tâm và chú ý tới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; tạo điều kiện để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Lào.

1.4. NHỮNG YÊU CẦU ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG TÁC ĐÀO
TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở NƯỚC CỘNG HÒA
DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.4.1. Về mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Đây là những dự kiến về kết quả của quá trình đào tạo trong một thời
gian nhất định. Mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng
cho quá trình hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng
phụ thuộc vào mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, theo đó phải hướng tới
mục tiêu:

23


×