Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng Incoterms trong hoạt động xuất nhập khẩu ở Việt Nam. Trình bày một số điểm mới của Incoterms 2010 so với các bản Incoterms trước đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.73 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU...........................................................................................................2
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ INCOTERMS VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG INCOTERMS TRONG HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP
KHẨU....................................................................................................................... 4
1.1. Tổng quan về Incoterms................................................................................4
1.1.1. Khái niệm Incoterms................................................................................4
1.1.2. Lưu ý trong việc sử dụng Incoterms........................................................4
1.2. Thực tiễn áp dụng Incoterms trong hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh
nghiệp Việt Nam hiện nay.....................................................................................5
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA INCOTERMS 2010 SO VỚI CÁC BẢN
INCOTERMS TRƯỚC ĐÓ.......................................................................................8
2.1. Tổng quan về Incoterms 2010.........................................................................8
2.2. Incoterms và các lần ban hành sửa đổi...........................................................9
2.3. Một số điểm mới của Incoterms 2010 so với các bản trước đó.....................11
KẾT LUẬN.............................................................................................................16
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................17


1
LỜI MỞ ĐẦU
Ba mươi năm qua, từ sau năm 1986 khi tiến hành công cuộc đổi mới, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, toàn diện và có ý nghĩa lịch sử thay đổi
đời sống mọi mặt của người dân. Thương mại quốc tế là một trong các nhân tố quan
trọng góp phần thúc đẩy kinh tế đất nước đi lên. Quan hệ thương mại Việt Nam với
các nước đã có sự chuyển mình nhanh chóng: Từ năm 1986, tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu Việt Nam với các nước chỉ đạt hơn 2,4 tỷ USD tăng lên hơn 400 tỷ USD
năm 2017 góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Đất nước hội nhập
sâu rộng với kinh tế thế giới là cơ hội phát triển nhưng cũng mang lại nhiều thách
thức.
Nền kinh tế toàn cầu mở ra cơ hội lớn để các doanh nghiệp trong nước có thể


đưa hàng hóa của mình ra khắp nơi trên thế giới. Hàng hóa đa dạng trên mọi lĩnh
vực, chủng loại ngày càng được trao đổi giữa các doanh nghiệp, quốc gia với nhau
với số lượng ngày một lớn. Thương mại quốc tế là một sân chơi lớn, dành cho
những doanh nghiệp lớn và bản lĩnh. Chính vì vậy, việc hiểu rõ luật khi tham gia
sân chơi đó là một điều vô cùng quan trọng. Cụ thể ở đây, chính là việc hiểu rõ các
quy tắc và điều kiện thương mại trong nước và quốc tế được gọi là Incoterms. Các
quy tắc này đã được soạn thảo và ban hành bởi Phòng Thương mại quốc tế - ICC từ
năm 1936. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hoạt động thương mại thì Incoterms
đã trải qua nhiều lần sửa đổi bổ sung: 1953 (2 lần), 1980, 1990, 2000 và 2010. Bản
cuối cùng được sửa đổi bổ sung và ban hành là Incoterms 2010, có hiệu lực từ ngày
01/01/2011 là một bản đầy đủ và hoàn thiện cũng như được áp dụng rộng rãi, phù
hợp với sự phát triển của thương mại quốc tế ngày nay.
Việc hiểu rõ các quy tắc trong Incoterms là một nhân tố quan trọng và cần
thiết, hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp hiện nay khi nảy sinh các tranh chấp
trong hoạt động thương mại. Nhất là trong thời kỳ thương mại quốc tế đang mở
rộng cả về quy mô, tầm vóc như hiện nay. Đó chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài:
“Phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng Incoterms trong hoạt động xuất nhập
khẩu ở Việt Nam. Trình bày một số điểm mới của Incoterms 2010 so với các
bản Incoterms trước đó.”


2
Mục đích của bài tiểu luận là trình bày những vấn đề cơ bản về lý luận trong
Incoterms và hợp đồng mua bán quốc tế. Trên cở sở đó phân tích và đánh giá thực
tiễn áp dụng Incoterms trong hoạt động xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay. Đồng
thời trình bày một số điểm mới của Incoterms 2010 so với các bản Incoterms trước.
Qua đó nêu một số kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng của
Incoterms cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.
Bài tiểu luận sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp tổng hợp
số liệu, phương pháp định tính, phương pháp phân tích, phương pháp đánh giá,... để

xử lí các số liệu thu thập được từ thực tiễn và các nguồn dữ liệu khác qua đó rút ra
nhận xét và đưa ra giải pháp tối ưu.
Ngoài mục mở đầu và kết luận, bài tiểu luận chia làm 2 chương chính:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về Incoterms và thực tiễn áp dụng
Incoterms trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Chương 2: Một số điểm mới của Incoterms 2010 so với các bản Incoterms
trước đó.
Mặc dù đã dành nhiều thời gian và công sức để nghiên cứu nhưng do vẫn
còn hạn chế về nguồn tài liệu cũng như kinh nghiệm thực tiễn… nên bài tiểu luận
của em không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự phê bình và chỉ bảo
của các thầy cô để em có thể có một nghiên cứu hoàn chỉnh và đầy đủ hơn nữa.


3

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ INCOTERMS VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG INCOTERMS TRONG HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU
1.1. Tổng quan về Incoterms
1.1.1. Khái niệm Incoterms
Incoterms (viết tắt của International Commercial Terms) - Các điều kiện
thương mại quốc tế là bộ quy tắc thương mại quốc tế được công nhận và sử dụng
rộng rãi trên toàn thế giới quy định những quy tắc liên quan đến chi phí và nghĩa vụ
của các bên trong hoạt động thương mại quốc tế. Nói một cách cụ thể, các điều kiện
thương mại chỉ ra cho các bên phải làm gì đối với việc chuyên chở hàng hóa từ
người bán đến người mua, và thông quan xuất nhập khẩu. Ngoài ra chúng cũng giải
thích về việc phân chia rủi ro và chi phí giữa các bên về trả phí vận tải, chi phí về
thủ tục hải quan, bảo hiểm hàng hoá, điều khoản về giao nhận hàng hoá, những tổn
thất và rủi ro của hàng hoá trong quá trình vận chuyển, thời điểm chuyển giao trách
nhiệm về hàng hóa. Từ đó tránh được hoặc ít nhất là làm giảm được đáng kể, sự

không chắc chắn do cách giải thích khác nhau về những điều kiện đó tại các nước
khác nhau.
Lý do chính của việc liên tục sửa đổi Incoterms là nhu cầu làm cho chúng
phù hợp với các tập quán thương mại hiện hành. Một điều rõ ràng là Incoterms ngày
nay đã được toàn thế giới công nhận và do vậy Phòng Thương mại Quốc tế (ICC)
đã quyết định ủng hộ sự công nhận này và tránh những thay chỉ để phục vụ lợi ích
của riêng mình. Mặt khác, ICC cũng thực sự cố gắng để đảm bảo từ ngữ sử dụng
trong Incoterms phản ánh rõ ràng và đầy đủ tập quán thương mại quốc tế.
Kể từ khi ra đời đến nay, Incoterms đã trải qua những lần sửa đổi, bổ sung
vào các năm 1953, 1967, 1976, 1980, 1990, 2000 và 2010. Trong đó bộ Incoterms
2010 chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2011.
1.1.2. Lưu ý trong việc sử dụng Incoterms
Thứ nhất, Incoterms chi áp dụng cho hàng hóa vật chất (hữu hình) không áp
dụng cho hàng hóa phi vật chất.


4
Thứ hai, Incoterms là tập quán thương mại, không có tính chất bắt buộc. Chỉ
khi nào các bên tham gia hợp đồng quy định sử dụng trong hợp đồng mua bán hàng
hóa thì nó mới trở thành điều kiện bắt buộc, ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của
các bên tham gia hợp đồng.
Thứ ba, các phiên bản ra đời sau không phủ nhận tính hiệu lực của các phiên
bản trước. Chính vì vậy, mà khi sử dụng thì cần phải ghi rõ áp dụng Incoterms phiên
bản nào để đối chiếu, để xác định trách nhiệm của các bên.
Thứ tư, Incoterms chỉ giải thích những vấn đề chung nhất có liên quan đến
việc giao hàng, như việc bên nào có nghĩa vụ thuê phương tiện vận tải hoặc mua
bảo hiểm, khi nào người bán giao hàng cho người mua và phân chia chi phí cho các
bên ra sao.
Song các vấn đề khác như giá cả, phương thức thanh toán, việc bốc, xếp, dỡ
hàng hóa, lưu kho, lưu bãi thì tùy theo vào thỏa thuận của các bên thể hiện trong

hợp đồng hoặc theo tập quán cảng, tập quán ngành kinh doanh, tập quán của nước
sở tại của các bên tham gia mua bán.
Thứ năm, hai bên mua bán có thể tăng giảm trách nhiệm, nghĩa vụ cho nhau
tùy thuộc vào vị thế mạnh (yếu) trong giao dịch nhưng không được làm thay đổi
bản chất điều kiện cơ sở giao hàng. Việc tăng, giảm trách nhiệm, nghĩa vụ (nếu có)
cần phải được cụ thể hóa trong hợp đồng mua bán.
Thứ sáu, Incoterms chỉ xác định thời điểm di chuyển rủi ro hàng hóa từ
người mua đến người bán chứ không xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu hàng
hóa, cũng như hậu quả của việc vi phạm hợp đồng. Những vấn đề này thường được
quy định trong các điều khoản khác của hợp đồng hoặc trong luật điều chỉnh hợp
đồng. Các bên cũng cần biết rằng luật địa phương được áp dụng có thể làm mất hiệu
lực bất cứ nội dung nào của hợp đồng, kể cả điều kiện Incoterms đã được lựa chọn
trước đó.


5
1.2. Thực tiễn áp dụng Incoterms trong hoạt động xuất nhập khẩu của các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
Các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay phần lớn sử dụng Incoterms 2000 và
Incoterms 2010 cho hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp mình. Với các điều
kiện tron Incoterms, sử dụng điều kiện nào là do sự thỏa thuận của hai bên; phụ
thuộc vào hành trình, công cụ và phương thức vận tải. Các điều kiện trong
Incoterms hầu hết chưa được sử dung cho thương mại nội địa. Mức độ hiểu biết và
vận dụng của các doanh nghiệp còn khá hạn chế.
Đa số các doanh nghiệp Việt Nam lực chọn giá FOB khi xuất khẩu và giá
CIF khi nhập khẩu. Trong khi đó ở các nước phát triển thì người xuất khẩu khi xuất
khẩu hàng hóa luôn tìm mọi cách để giao hàng với điều kiện giá CIF và mua hàng
theo giá FOB. Với việc lựa chọn các điều kiện thương mại như vậy sẽ có nhiều bất
lợi cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Đối với nhà nước sẽ thất thu ngoại tệ do xuất khẩu giá
thấp mà nhập khẩu giá cao, không tạo điều kiện gia tăng doanh số dịch vụ cho các

hãng tàu và hãng bảo hiểm của Việt Nam. Đối với các doanh nghiệp, việc lựa chọn
này làm giảm khả năng tự cân đối ngoại tệ do nhập khẩu chịu chi phí nhiều, xuất
khẩu thu giá thấp, doanh nghiệp bị động với phương tiện vận tải, gặp khó khăn
trong việc khiếu nại đòi bồi thường nếu xảy ra tranh chấp với các hãng tàu và bảo
hiểm nước ngoài.
Các doanh nghiệp thường làm theo thói quan và tập quán kinh doanh đã có
từ trước. Đây là nguyên nhân chính mà các doanh nghiệp luôn lựa chọn giá FOB
khi xuất khẩu và giá CIF khi nhập khẩu. Chúng ta có thể phân tích một số nguyên
nhân dẫn tới hiện tượng này:
Thiếu kiến thức và kinh nghiệm về vận tải bảo hiểm:
Nhiều nhà kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam chưa nắm vững nghiệp vụ
thuê tàu và bảo hiểm, họ cũng không có mối quan hệ với tất cả các hãng vận tải và
các công ty bảo hiểm, để lựa chọn người chuyên chở và có uy tín trên thị trường.
Đặc biệt khi hàng hóa có số lượng lớn phải thuê tàu chuyên để chở, nghiệp vụ thuê
tàu rất phức tạp, trình độ cán bộ của nhiều doanh nghiệp chưa thể đáp ứng được.


6
Hiểu sai về điều kiện FOB và CIF: theo điều kiện FOB thì việc giao hàng tại
cảng bốc hàng, còn theo điều kiện CIF thì việc giao hàng tận cảng đến cho người
mua chính. Vì vậy nhiều doanh nghiệp cho rằng “xuất FOB an toàn hơn và thanh
toán nhanh hơn CIF và nhập CIF an toàn và được thanh toán nhanh hơn FOB”.
Thực tế, theo Incoterms 2010, trong cả điều kiện FOB và CIF (kể cả CFR) người
bán chỉ chịu rủi ro và các phí tổn phát sinh liên quan đến hàng hóa cho đến khi hàng
qua lan can tàu tại cảng bốc hàng. Việc thanh toán tiền hàng nhanh hay chậm hoàn
toàn tùy thuộc vào quy định trong hợp đồng chứ không phụ thuộc vào điều kiện
FOB hay CIF.
Doanh nghiệp Việt Nam còn yếu thế trong giao dịch thương mại:
Do xuất FOB và bán CIF, các doanh nghiệp Việt Nam không phải thuê tàu và
mua bảo hiểm cho hàng hóa nên có thể tránh được những rủi ro như giá cước vận

chuyển tăng, phí bảo hiểm tăng, không thuê được tàu, tàu không phù hợp.. vì sợ
những rủi ro đó nên chúng ta nhượng lại việc thuê tàu và bảo hiểm cho khách hàng
nước ngoài.
Vốn của nhiều doanh nghiệp để xuất nhập khẩu một lô hàng là vốn đi vay từ
các ngân hàng, họ không đủ vốn để trả cước phí vận tải và bảo hiểm. Bên cạnh đó,
hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô hoặc sơ chế có giá trị thấp
nên tỷ lệ cước phí so với tiền hàng khá lớn. Thông thường tiền cước vận chuyển
chiếm từ 7% đến 10% giá CIF của hàng hóa; tỷ lệ này thường cao hơn đối với hàng
hóa xuất khẩu của doanh nghiệp Việt Nam do cồng kềnh và giá trị thấp.
Vận tải biển nước ta chưa đủ mạnh:
Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ bảo hiểm và tầu chưa tận dụng được hết
khả năng vận tải. Quy mô hướng ra thị trường nước ngoài còn ít, cộng với hệ thống
quản lý yếu kém và thưa thớt. Giá cước vận tải so với mặt bằng là khá cao, mặc dù
có nhiều tàu đã sử dụng từ khá lâu và lạc hậu.
Luật liên quan Hàng Hải còn nhiều bất cập:
Tính đồng bộ, thống nhất giữa chính sách hàng hải với luật hàng hải và giữa
luật, chính sách của một số ngành, lĩnh vực liên quan với luật, chính sách vận tải


7
biển còn có bất cập, đang đòi hỏi cần được tiếp tục nghiên cứu đề xuất điều chỉnh
phù hợp. Hiện nay, hoạt động kinh tế hàng hải vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc
nên việc đề xuất sửa đổi hoặc ban hành mới một số cơ chế liên quan và nâng cao
năng lực cạnh tranh cũng đang là những yêu cầu bức thiết đối với doanh nghiệp.


8

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CỦA INCOTERMS 2010 SO VỚI
CÁC BẢN INCOTERMS TRƯỚC ĐÓ

2.1. Tổng quan về Incoterms 2010
Incoterms 2010 được ICC xuất bản tháng 09/2010 với 11 quy tắc và chính
thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2011. Nền kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội to lớn
chưa từng thấy để doanh nghiệp tiếp cận tới các thị trường khắp nơi trên thế giới.
Hàng hoá được bán ra ở nhiều nước hơn, với số lượng ngày càng lớn và chủng loại
đa dạng hơn. Khi khối lượng và tính phức tạp của buôn bán quốc tế tăng lên, và nếu
hợp đồng mua bán hàng hoá không được soạn thảo một cách kỹ lưỡng thì khả năng
dẫn đến sự hiểu nhầm và tranh chấp tốn kém cũng tăng lên.
Incoterms, quy tắc chính thức của ICC về việc sử dụng các điều kiện thương
mại trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho thương mại quốc tế phát triển. Việc
dẫn chiếu Incoterms 2010 trong hợp đồng mua bán hàng hoá sẽ phân định rõ ràng
nghĩa vụ tương ứng của các bên và làm giảm nguy cơ rắc rối về mặt pháp lý.
Kể từ khi Incoterms được ICC soạn thảo năm 1936, chuẩn mực về hợp đồng
mang tính toàn cầu này thường xuyên được cập nhật để bắt kịp với nhịp độ phát
triển của thương mại quốc tế. Incoterms 2010 có tính đến sự xuất hiện ngày càng
nhiều khu vực miễn thủ tục hải quan, việc sử dụng thông tin liên lạc bằng điện tử
trong kinh doanh ngày càng tăng, mối quan tâm cao về an ninh trong lưu chuyển
hàng hoá và cả những thay đổi về tập quán vận tải. Incoterms 2010 cập nhật và gom
những điều kiện “giao hàng tại nơi đến”, giảm số điều kiện thương mại từ 13 xuống
11, trình bày nội dung một cách đơn giản và rõ ràng hơn. Incoterms 2010 cũng là
bản điều kiện thương mại đầu tiên đề cập tới cả người mua và người bán một cách
hoàn toàn bình đẳng.
11 điều kiện Incoterms 2010 được chia thành hai nhóm riêng biệt:
Các điều kiện áp dụng cho mọi phương thức vận tải:
 EXW: Giao tại xưởng
 FCA: Giao cho người chuyên chở
 CPT: Cước phí trả tới


9






CIP: Cước phí và bảo hiểm trả tới
DAT: Giao tại bến
DAP: Giao tại nơi đến
DDP: Giao hàng đã nộp thuế

Các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa:





FAS: Giao dọc mạn tàu
FOB: Giao lên tàu
CFR: Tiền hàng và cước phí
CIF: Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí

2.2. Incoterms và các lần ban hành sửa đổi
 Incoterms 1936
Incoterms 1936 chủ yếu giải thích những điều kiện sử dụng phương thức vận
tải đường bộ và đường thuỷ. Trên thực tế, Incoterms 1936 không được các nhà kinh
doanh thừa nhận và sử dụng rộng rãi vì không giải thích hết được những tập quán
thương mại quan trọng.
Ban hành với 07 điều kiện giao hàng:
- EXW (Ex Works) – Giao tại xưởng
- FCA (Free Carrier) – Giao cho người chuyên chở

- FOT/FOR (Free on Rail/Free on Truck) – Giao lên tàu hỏa
- FAS (Free Alongside Ship) - Giao dọc mạn tàu
- FOB (Free On Board) – Giao lên tàu
- C&F (Cost and Freight) – Tiền hàng và cước phí
- CIF (Cost, Insurance, Freight) – Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí
 Incoterms 1953
Ban hành với 09 điều kiện giao hàng:
07 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1936.
Bổ sung thêm 02 điều kiện:


10
- DES (Delivered Ex Ship) – Giao tại tàu;
- DEQ (Delivered Ex Quay) – Giao trên cầu cảng, sử dụng cho phương thức
vận tải đường biển và đường thủy nội bộ.

 Incoterms 1953 (sửa đổi lần 1 vào năm 1967)
09 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953
Bổ sung thêm 02 điều kiện:
- DAF (Delivered: At Frontier) – Giao tại biên giới;
- DDP (Delivered Duty Paid) – Giao hàng đã nộp thuế),
sử dụng cho mọi phương thức vận tải, kể cả vận tải kết hợp nhiều phương
thức vận tải khác nhau.

 Incoterms 1953 (sửa đổi lần 2 vào năm 1976)
- 11 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953 (sửa đổi lần 1)
- Bổ sung thêm 01 điều kiện: FOA (FOB Airport) – Giao lên máy bay. Vì
thời điểm này, phương thức vận tải hàng không rất phát triển, mặc dù máy bay đã
xuất hiện từ lâu, song trước đó chủ yếu sử dụng để vận chuyển hành khách và mục
đích quân sự.

 Incoterms 1980
Ban hành với 14 điều kiện giao hàng:
12 điều kiện giao hàng tương tự như Incoterms 1953 (sửa đổi lần 2)
Bổ sung thêm 02 điều kiện:
- CIP (Carriage and Insurance Paid to) - Cước phí và bảo hiểm trả tới địa
điểm đích quy định
- CPT (Carriage Paid to) – Cước phí trả tới địa điểm đích quy định, nhằm
thay thế cho CIF và CFR khi không chuyên chở hàng hoá bằng đường biển.
 Incoterms 1990


11
Ban hành với 13 điều kiện giao hàng. So với Incoterms 1980, có những
thay đổi như sau:
- Bỏ 2 điều kiện FOA và FOT, vì bản chất của chúng giống FCA.
- Bổ sung điều kiện DDU (Delivered Duty Unpaid) – Giao hàng tại đích
chưa nộp thuế.
 Incoterms 2000
Incoterms 2000 giữ nguyên 13 điều kiện như Incoterms 1990 nhưng
sửa đổi nội dung 3 điều kiện FCA, FAS và DEQ.
 Incoterms 2010
Incoterms 2010 gồm 11 điều kiện, trong đó:
Thay thế 04 điều kiện DAF, DES, DEQ, DDU trong Incoterms 2000 bằng 02
điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là:
DAT (Delivered At Terminal) – Giao hàng tại bến
DAP (Delivered At Place) – Giao tại nơi đến.
2.3. Một số điểm mới của Incoterms 2010 so với các bản trước đó
 Hai điều kiện mới – DAT và DAP – thay thế các điều kiện DAF, DES,
DEQ, DDU.
Số điều kiện trong Incoterms 2010 đã giảm từ 13 xuống 11. Có được điều

này là nhờ việc thay thế bốn điều kiện cũ trong Incoterms 2000 (DAF, DES, DEQ,
DDU) bằng hai điều kiện mới có thể sử dụng cho mọi phương thức vận tải là DAT –
Giao hàng tại bến và DAP – Giao tại nơi đến.
Theo cả hai điều kiện mới này, việc giao hàng diễn ra tại một đích đến được
chỉ định: theo DAT, khi hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt của người mua, đã dỡ
khỏi phương tiện vận tải (giống điều kiện DEQ trước đây); theo DAP, cũng như vậy
khi hàng hóa được đặt dưới sự định đoạt của người mua, nhưng sẵn sàng để dỡ khỏi
phương tiện vận tải (giống các điều kiện DAF, DES, DDU trước đây).


12
Các điều kiện mới đã làm cho hai điều kiện cũ DES và DEQ trong Incoterms
2000 trở nên thừa. Bến được chỉ định trong điều kiện DAT có thể là một cảng biển,
và do đó điều kiện này có thể dùng để thay thế điều kiện DEQ trong Incoterms
2000. Tương tự, phương tiện vận tải trong điều kiện DAP có thể là tàu biển và nơi
đến được chỉ định có thể là một cảng biển; do đó điều kiện này có thể dùng để thay
thế điều kiện DES trong Incoterms 2000. Các điều kiện mới này, giống như các điều
kiện trước đây, đều là các điều kiện “giao tại nơi đến”, theo đó người bán chịu mọi
chi phí (trừ các chi phí liên quan tới thủ tục thông quan nhập khẩu, nếu có) và rủi ro
trong quá trình đưa hàng tới nơi đến được chỉ định.
 Phân loại 11 điều kiện Incoterms 2010
11 điều kiện Incoterms 2010 được chia thành hai nhóm riêng biệt:
Các điều kiện áp dụng cho mọi phương thức vận tải:
EXW: Giao tại xưởng
FCA: Giao cho người chuyên chở
CPT: Cước phí trả tới
CIP: Cước phí và bảo hiểm trả tới
DAT: Giao tại bến
DAP: Giao tại nơi đến
DDP: Giao hàng đã nộp thuế

Các điều kiện áp dụng cho vận tải đường biển và đường thủy nội địa:
FAS: Giao dọc mạn tàu
FOB: Giao lên tàu
CFR: Tiền hàng và cước phí
CIF: Tiền hàng, bảo hiểm và cước phí


13
Nhóm thứ nhất gồm bảy điều kiện có thể sử dụng mà không phụ thuộc vào
phương thức vận tải lựa chọn và cũng không phụ thuộc vào việc sử dụng một hay
nhiều phương thức vận tải. Nhóm này gồm các điều kiện EXW, FCA, CPT, CIP,
DAT, DAP, DDP. Chúng có thể được dùng khi hoàn toàn không có vận tải biển. Tuy
vậy, nên nhớ rằng các điều kiện này cũng có thể được sử dụng khi một phần chặng
đường được tiến hành bằng tàu biển.
Trong nhóm thứ hai, địa điểm giao hàng và nơi hàng hóa được chở tới người
mua đều là cảng biển, vì thế chúng được xếp vào nhóm các điều kiện “đường biển
và đường thủy nội địa”. Nhóm này gồm các điều kiện FAS, FOB, CFR và CIF. Ở ba
điều kiện sau cùng, mọi cách đề cập tới lan can tàu như một điểm giao hàng đã bị
loại bỏ. Thay vào đó, hàng hóa xem như đã được giao khi chúng đã được “xếp lên
tàu”. Điều này phản ánh sát hơn thực tiễn thương mại hiện đại và xóa đi hình ảnh đã
khá lỗi thời về việc rủi ro di chuyển qua một ranh giới tưởng tượng.
 Các điều kiện dùng cho thương mại quốc tế và nội địa
Theo truyền thống, các điều kiện Incoterms thường được sử dụng trong các
hợp đồng mua bán quốc tế, khi có sự di chuyển của hàng hóa qua biên giới quốc
gia. Tuy vậy, tại nhiều nơi trên thế giới, sự phát triển của các khối thương mại, như
Liên minh Châu Âu đã khiến các thủ tục tại biên giới giữa các quốc gia không còn
quan trọng nữa. Do đó, tiêu đề phụ của Incoterms 2010 đã chính thức khẳng định
chúng có thể được sử dụng cho cả các hợp đồng mua bán quốc tế và nội địa. Vì lý
do này, các điều kiện Incoterms 2010 đã nói rõ tại nhiều nơi rằng nghĩa vụ thông
quan xuất khẩu/nhập khẩu chỉ tồn tại khi có áp dụng.

Có hai lý do khiến ICC tin tưởng hướng đi này là hợp lý. Thứ nhất, các
thương nhân thường sử dụng các điều kiện Incoterms trong các hợp đồng mua bán
nội địa. Thứ hai, trong thương mại nội địa, các thương nhân Mỹ thích sử dụng các
điều kiện Incoterms hơn là các điều kiện giao hàng trong Bộ luật Thương mại
Thống nhất (UCC).
 Hướng dẫn sử dụng


14
Trước mỗi điều kiện Incoterms sẽ có một Hướng dẫn sử dụng. Hướng dẫn sử
dụng giải thích những vấn đề cơ bản của mỗi điều kiện Incoterms, chẳng hạn như:
khi nào thì nên sử dụng điều kiện này, khi nào rủi ro được chuyển giao và chi phí
được phân chia giữa người mua và người bán như thế nào. Hướng dẫn sử dụng
không phải là một bộ phận của các điều kiện Incoterms 2010 mà nhằm giúp người
sử dụng lựa chọn một cách chính xác và hiệu quả điều kiện Incoterms thích hợp cho
từng giao dịch cụ thể.
 Trao đổi thông tin bằng điện tử
Các phiên bản Incoterms trước đã chỉ rõ những chứng từ có thể được thay
thế bằng thông điệp dữ liệu điện tử. Tuy vậy, giờ đây các mục A1/B1 của Incoterms
2010 cho phép các trao đổi thông tin bằng điện tử có hiệu lực tương đương với việc
trao đổi thông tin bằng bằng giấy, miễn là được các bên đồng ý hoặc theo tập quán.
Cách quy định này sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của các giao dịch điện tử mới
trong suốt thời gian Incoterms 2010 có hiệu lực.
 Bảo hiểm
Incoterms 2010 là phiên bản điều kiện thương mại đầu tiên kể từ khi Các
điều kiện bảo hiểm hàng hóa được sửa đổi và đã tính đến những sự thay đổi của các
điều kiện này. Incoterms 2010 đưa ra nghĩa vụ về thông tin liên quan tới bảo hiểm
trong các mục A3/B3, mục quy định về hợp đồng vận tải và bảo hiểm. Những điều
khoản này được chuyển từ các mục A10/B10 trong Incoterms 2000 vốn được quy
định chung chung hơn. Ngôn từ liên quan tới bảo hiểm trong các mục A3/B3 cũng

đã được hiệu chỉnh nhằm làm rõ nghĩa vụ của các bên về vấn đề này.
 Thủ tục an ninh và các thông tin cần thiết để làm thủ tục
Hiện nay, mối quan tâm về an ninh trong quá trình vận tải hàng hóa ngày
càng gia tăng, đòi hỏi phải có bằng chứng xác nhận hàng hóa không gây nguy hiểm
cho con người hoặc tài sản vì bất cứ lý do gì trừ bản chất tự nhiên của hàng hóa. Do
đó, Incoterms 2010, trong các mục A2/B2 và A10/B10 của nhiều điều kiện, đã phân
chia nghĩa vụ giữa người mua và người bán về việc tiếp nhận sự hỗ trợ để làm thủ
tục an ninh, như là thông tin về quy trình trông nom, bảo quản hàng hóa.


15
 Phí xếp dỡ tại bến bãi (THC)
Theo các điều kiện CPT, CIP, CFR, CIF, DAT, DAP và DDP, người bán phải
tổ chức việc vận chuyển hàng hóa tới nơi đến theo thỏa thuận. Dù người bán trả
cước phí nhưng thực chất người mua mới là người chịu cước phí vì chi phí này
thường đã bao gồm trong tổng giá bán. Chi phí vận tải đôi khi bao gồm cả chi phí
xếp dỡ và di chuyển hàng hóa trong cảng hoặc bến container và người chuyên chở
hoặc người điều hành bến bãi có thể buộc người mua trả chi phí này khi nhận hàng.
Trong những trường hợp như vậy, người mua không muốn phải trả cùng một khoản
chi phí tới hai lần: một lần trả cho người bán dưới dạng một phần tổng giá hàng và
một lần trả độc lập cho người chuyên chở hoặc người điều hành bến bãi. Incoterms
2010 đã cố gắng khắc phục điều này bằng cách phân chia rõ ràng các chi phí này tại
mục A6/B6 của các điều kiện kể trên.
 Bán hàng theo chuỗi
Hàng nguyên liệu đồng nhất, khác với hàng hóa chế biến, thường được bán
nhiều lần trong quá trình vận chuyển theo một “chuỗi”. Khi điều này diễn ra, người
bán ở giữa chuỗi không phải là người “gửi” (ship) hàng vì chúng đã được gửi bởi
người bán đầu tiên trong chuỗi. Người bán ở giữa chuỗi, do đó, thực hiện nghĩa vụ
của mình đối với người mua không phải bằng việc gửi hàng mà bằng việc “mua”
hàng hóa đã được gửi. Nhằm mục đích làm rõ vấn đề này, Incoterms 2010 đưa thêm

nghĩa vụ “mua hàng đã gửi” như một phương án thay thế cho nghĩa vụ gửi hàng
trong các quy tắc Incoterms thích hợp


16

KẾT LUẬN
Nền kinh tế toàn cầu đã mở ra cơ hội to lớn để các doanh nghiệp tiếp cận tới
các thị trường khắp nơi trên thế giới. Hàng hóa được trao đổi, thông thương ở nhiều
nước với số lượng ngày càng lớn, phong phú và đa dạng trên mọi lĩnh vực, chủng
loại. Trong thương mại quốc tế, một vấn đề rất quan trọng đó là việc xây dựng hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế giữa các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau
trên thế giới. Sử dụng Incoterms thực sự mang lại nhiều tiện ích cho hoạt động xuất
nhập khẩu. Nó cung cấp cho bên mua và bên bán những quy tắc có thể tham khảo
và áp dụng một cách thống nhất trong thương thảo và kí kết hợp đồng. Tuy nhiên,
như đã nói, việc nắm rõ Incoterms là gì là rất cần thiết để không ảnh hưởng đến quá
trình đàm phán và thực hiện giao dịch thương mại quốc tế.
Đối với doanh nghiệp trên thế giới nói chung và các doanh nghiệp của Việt
Nam nói riêng hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đang ngày càng phát triển,
mở rộng hơn về quy mô và tầm vóc. Tuy nhiên, càng phát triển và càng hoạt động
sâu trong hoạt động giao thương quốc tế thì càng nảy sinh nhiều vấn đề vướng mắc,
tranh chấp trong hoạt động thương mại quốc tế. Các điều kiện thương mại quốc tế
Incoterms thực sự là văn bản cần thiết và hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp. Việc
am hiểu và thực hiện hiệu quả các điều khoản Thương mại quốc tế – Incoterm của
ICC sẽ thuận lợi hơn nhiều cho các doanh nghiệp.
Do vậy, để nâng cao tầm vóc của doanh nghiệp mình, các doanh nghiệp Việt
Nam phải nâng cao trình độ nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như trình
độ sinh ngữ, hiểu đúng về các điều kiện giao hàng qui định trong Incoterms, nâng
cao thế và lực trong kinh doanh để giành được quyền chủ động trng lựa chọn điều
kiện thương mại có lợi cho mình. Khi đó các doanh nghiệp nên chọn điều kiện

nhóm C khi xuất khẩu và ngược lại các điều kiện nhóm F khi nhập khẩu, như vậy sẽ
bán được với giá cao và mua với giá thấp hơn, đồng thời tạo điều kiện để gia tăng
hoạt động cho các háng tàu và hãng bảo hiểm của Việt nam.


17

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phòng Thương mại quốc tế - ICC, Incoterms 2000 - Quy tắc của ICC về sử dụng
các điều kiện thương mại quốc tế và nội (2000), NXB Thông tin và Truyền thông
2. Phòng Thương mại quốc tế - ICC, Incoterms 2010 - Quy tắc của ICC về sử dụng
các điều kiện thương mại quốc tế và nội (2010), NXB Thông tin và Truyền thông;
3. TS. Võ Thanh Thu, Hỏi đáp Incoterms 2010, NXB Tổng hợp, TP. Hồ Chí Minh
4. Phân bổ nghĩa vụ liên quan đến vận chuyển, bảo hiểm hàng hóa và chuyển giao
rủi ro trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Thương mại 2017.
5. Rủi ro từ việc hiểu sai Incoterm -
6. Cẩn thận hơn với Incoterm 2010 -
7. Sự khác nhau giữa INCOTERMS 2010 và INCOTERMS 2000
8. Incoterms 2010 và những thay đổi so với Incoterms 2000 -



×