Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CÁ NHÂN Trường THPT Thành phố Sóc Trăng – Tổ Toán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.98 KB, 25 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH SÓC TRĂNG
TRƯỜNG THPT THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CÁ NHÂN
NĂM HỌC 2017 – 2018

Họ và tên:
Ngày tháng năm sinh:
Trình độ chuyên môn:
Năm vào ngành:
Chức vụ công tác:

Nguyễn Thanh Tiếu
19/3/1985
Cử Nhân
2006
TTCM

Sóc Trăng, ngày 10 tháng 5 năm 2018

0


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Sách giáo khoa
Sách bài tập

Chữ viết tắt
SGK


SBT

Ban giám hiệu

BGH

Giáo viên

GV

Giáo viên chủ nhiệm

GVCN

Học sinh

HS

Bồi dưỡng thường xuyên

BDTX

Công nghệ thông tin

CNTT

Phương pháp dạy học

PPDH


Trung học phổ thông

THPT

1


SỞ GD&ĐT TỈNH SÓC TRĂNG

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TRƯỜNG THPT TP SÓC TRĂNG

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

BÀI THU HOẠCH
BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GIÁO VIÊN
NĂM HỌC 2017 - 2018
---------Họ và tên: Nguyễn Thanh Tiếu
Đơn vị : Trường THPT Thành phố Sóc Trăng – Tổ Toán
Chức vụ: tổ trưởng chuyên môn.
Căn cứ Kế hoạch số 2363/KH-SGDĐT ngày 10/10/2017 của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh
Sóc Trăng về việc bồi dưỡng thường xuyên cho cán bộ quản lý, giáo viên mầm non, phổ thông và
giáo dục thường xuyên năm học 2017-2018;

Căn cứ Kế hoạch số 120/KH-TPST bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên năm học
2017- 2018 của trường THPT thành phố Sóc Trăng;
Căn cứ Kế hoạch bồi dưỡng thường xuyên của bản thân năm học 2017-2018, Tôi xin
báo cáo kết quả bồi dưỡng thường xuyên như sau:
NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 1

Bồi dưỡng chính trị, nghị quyết, chính sách của Đảng, Nhà nước
1. Học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII
Qua học tập, quán triệt 03 Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII, Bản thân tôi đã nhận thức sâu sắc về những vấn đề cơ bản từ các
chuyên đề được học tập và rút ra một số vấn đề từ các chuyên đề đối với bản thân như sau:
- Nghị quyết số 10 - NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa
XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhận thức của chúng ta về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân
đã có những bước tiến quan trọng. Từ chỗ coi nhẹ đã thừa nhận kinh tế tư nhân “là một
trong những động lực” và đến nay “là một động lực quan trọng” để phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 15 năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành và lãnh đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp quan trọng về
khuyến khích và tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển. Vai trò, vị trí của kinh tế tư
nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ngày
càng được nhận thức rõ hơn và đánh giá đúng hơn.

2


Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, đóng góp lớn hơn trong huy động các nguồn lực
xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế,
tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã
hội, giải quyết các vấn đề xã hội.
Bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt
động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội
ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, từng bước nâng cao trách nhiệm đối với người lao
động, cộng đồng, xã hội và đạo đức, văn hoá trong kinh doanh.
Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ngày càng phù hợp hơn

với cơ chế thị trường. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hoạt động giám sát phản biện, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đối với khu vực kinh tế tư nhân được nâng
lên. Các hiệp hội ngành nghề thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò cầu nối giữa cộng đồng
doanh nhân, doanh nghiệp với các cấp quản lý nhà nước; giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp
thới các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh
doanh, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển thị trường.
Tuy nhiên, kinh tế tư nhân cũng đã bộc lộ một số những hạn chế, yếu kém chủ yếu
sau:
Tốc độ tăng trưởng của kinh tế tư nhân có xu hướng giảm trong những năm gần đây.
Xuất phát điểm phát triển và năng lực nội tại của kinh tế tư nhân nhìn chung còn thấp; chủ
yếu vẫn là kinh tế hộ, cá thể. Phần lớn doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ, trình độ công
nghệ thấp và chậm đổi mới; trình độ quản trị, năng lực tài chính, năng suất lao động, hiệu
quả kinh doanh, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh còn yếu kém; chủ yếu tham gia ở
phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp. Tình trạng vi phạm pháp luật, gian lận thượng
mại, trốn thuế, nợ thuế, cạnh tranh không lành mạnh, gây ô nhiễm môi trường, không bảo
đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, không quan tâm bảo đảm lợi ích của người lao động... diễn
biến phức tạp, có nơi, có lúc rất nghiêm trọng. Khung khổ pháp lý và các cơ chế, chính sách
khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn chưa đồng bộ và bất cập. Nhiều quy định của
pháp luật, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện nghiêm.
Về quan điểm: có 6 quan điểm
Thứ nhất, phát triển kinh tế tư nhân lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu
khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta; là một phương sách quan trọng
để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát
triển
Thứ hai, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập,
3



tự chủ. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát triển nhanh, bền vững,
đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao cả về số lượng, quy mô, chất lượng và tỷ trọng đóng
góp trong GDP.
Thứ ba, xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh
tế tư nhân lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực có lợi cho đất nước của
kinh tế tư nhân, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện
công khai, minh bạch, ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện
của "chủ nghĩa tư bản thân hữu”, quan hệ "lợi ích nhóm", thao túng chính sách, cạnh tranh
không lành mạnh để trục lợi bất chính.
Thứ tư, kinh tế tư nhân được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật
không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để các hộ
kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo
mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và
tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất
và chuỗi giá trị khu vực, toàn cầu.
Thứ năm, khuyến khích kinh tế tư nhân tham gia góp vốn, mua cổ phần của các doanh
nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình
thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi
giá trị thị trường giữa kinh tế tư nhân với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về
công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu
thụ.
Thứ sáu, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực,
tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của các chủ doanh nghiệp. Phát triển đội ngũ doanh nhân
Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành pháp luật, trách nhiệm với xã hội và
kỹ năng lãnh đạo, quản trị cao; chú trọng xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức doanh
nhân.

Về nhiệm vụ, giải pháp: có 5 nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ
trương, chính sách về phát triển kinh tế tư nhân.
Hai là, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân.
Ba là, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
4


Năm là, đổi mới nội dung, phương thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng
cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp đối với kinh tế tư nhân.
- Nghị quyết số 11-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII
về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
- Nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ
hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc
điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính
sách ngày càng hoàn thiện và phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu
cầu thực tiễn và thực hiện cam kết hội nhập quốc tế. Chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế,
loại hình doanh nghiệp phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế
hóa tương đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi
mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh; kinh tế
tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được coi trọng; đội ngũ doanh
nhân không ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt được kết quả tích cực.
- Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng bộ hơn, gắn kết
với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng hóa, dịch vụ được xác lập theo
cơ chế thị trường. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thông thoáng hơn;
quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế được bảo đảm hơn.

- Hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình
thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu. Việc huy
động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Các cơ chế, chính
sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
tạo cơ hội cho người dân tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế.
Phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới phù hợp
hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế.
Tuy nhiên, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu
thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột
phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển.
Về quan điểm: có 5 quan điểm sau:
Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển
nhanh và bền vững; đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công

5


nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Thứ hai, nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan
của kinh tế thị trường, thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa
phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước trong từng giai đoạn. Bảo đảm tính đồng bộ
giữa các bộ phận cấu thành của thể chế kinh tế. Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế
với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình
phát triển liên tục; kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của nhân loại

và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở nước ta; chủ động và tích cực hội nhập kinh
tế quốc tế, đồng thời bảo đảm giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật
tự, an toàn xã hội.
Thứ tư, hoàn thiện thể chế kinh tế đi đôi với hoàn thiện thể chế chính trị mà trọng tâm
là đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của tổ chức bộ máy và cán bộ. Có bước
đi phù hợp, vững chắc, vừa làm vừa tổng kết, rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Xác
định rõ và thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của Nhà nước, thị
trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa;
tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm
vụ quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị. Đổi mới phương thức,
nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chính trị và của toàn xã hội trong quá trình hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về giải pháp: có các giải pháp sau:
- Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta.
- Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại
hình doanh nghiệp.
- Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.
- Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến
bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi
khí hậu.
- Hoàn thiện thể chế đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế.

6


- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện thể chế kinh tế
của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoàn thiện thể chế kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 03/6/2017 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII
về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước
Trong 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa IX về “Tiếp tục sắp xếp, đổi
mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước” và các chủ trương của Đảng
về doanh nghiệp nhà nước; các cấp, các ngành, các doanh nghiệp nhà nước đã cụ thể hóa và
triển khai thực hiện nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để tiếp tục đổi mới, phát triển,
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.
Thứ nhất, cùng với cơ chế, chính sách của Nhà nước, doanh nghiệp nhà nước là công
cụ quan trọng để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách ổn định vĩ mô, kiềm chế
lạm phát, đối phó với những biến động thị trường; tạo nguồn thu lớn cho ngân sách nhà
nước; đóng góp quan trọng trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế; thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và chính
sách an sinh xã hội.
Thứ hai, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước được đẩy mạnh, số lượng doanh nghiệp
nhà nước đã được thu gọn hơn, tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt. Cơ chế hoạt
động của doanh nghiệp nhà nước đã có bước đổi mới theo hướng tự chủ kinh doanh, cạnh
tranh bình đẳng, công khai, minh bạch hơn. Hiệu quả hoạt động, năng lực cạnh tranh của
một số doanh nghiệp nhà nước được nâng lên.
Thứ ba, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước được điều chỉnh phù hợp
hơn với cơ chế thị trường. Hoạt động của tổ chức đảng trong doanh nghiệp nhà nước đã có
bước đổi mới theo hướng phù hợp hơn với sự thay đổi về cơ cấu sở hữu trong doanh nghiệp
nhà nước và cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, vai trò của doanh nghiệp nhà nước là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà
nước, dẫn dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế còn hạn chế.
- Nhìn chung, hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng góp của nhiều doanh nghiệp nhà
nước còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực Nhà nước đầu tư; nợ nần, thua lỗ, thất thoát
lớn. Cơ chế quản trị doanh nghiệp nhà nước chậm được đổi mới, kém hiệu quả, chưa phù
hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tính công khai, minh bạch còn hạn chế.
- Việc cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và thoái vốn nhà nước triển khai chậm, quá
trình cổ phần hóa còn nhiều yếu kém, tiêu cực và có một số khó khăn, vướng mắc về thể

chế chậm được giải quyết, nhất là thể chế định giá đất đai, tài sản. Trách nhiệm của người
quản lý doanh nghiệp nhà nước chưa rõ ràng; công tác cán bộ, chính sách tiền lương còn
bất cập, chưa phù hợp với cơ chế thị trường. Việc tách chức năng quản lý nhà nước và chức
năng của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước thực hiện
7


chậm. Cơ chế quản lý, giám sát và việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan và người
đại diện chủ sở hữu nhà nước chưa thật rõ ràng và phù hợp.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của các tổ chức đảng, phương thức hoạt động của các
tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp chưa theo kịp yêu cầu đổi mới, cơ cấu lại
doanh nghiệp nhà nước.
Về quan điểm chỉ đạo: Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII đã đề ra 6 quan
điểm chỉ đạo cụ thể sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty
cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. Doanh nghiệp nhà nước là một lực lượng vật
chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội. Doanh nghiệp nhà nước tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết
yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh
tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm, cạnh tranh bình đẳng với
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật. Bảo đảm
công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp nhà nước. Tách bạch
nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường
và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích.
Thứ ba, nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước để làm tốt vai trò dẫn dắt phát triển các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác,
bảo đảm doanh nghiệp Việt Nam thật sự trở thành lực lượng nòng cốt trong phát triển kinh

tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.
Thứ tư, cơ cấu lại, đổi mới doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế thị trường là quá trình
thường xuyên, liên tục với phương thức thực hiện và lộ trình hợp lý. Tiếp tục đẩy mạnh cơ
cấu lại doanh nghiệp nhà nước theo hướng kiên quyết cổ phần hóa, bán vốn tại những
doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm hoặc không cần giữ cổ phần, vốn góp chi phối,
kể cả những doanh nghiệp đang kinh doanh có hiệu quả; đồng thời xử lý triệt để, bao gồm
cả việc cho phá sản các doanh nghiệp nhà nước yếu kém.
Thứ năm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát đối với
hoạt động của doanh nghiệp nhà nước; không để xảy ra thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà
nước. Tách bạch, phân định rõ chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước với chức
năng quản lý nhà nước đối với mọi loại hình doanh nghiệp, chức năng quản trị kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực

8


quản trị, phẩm chất đạo đức để kiện toàn đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp
nhà nước.
Thứ sáu, tiếp tục đổi mới phương thức và nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức
đảng; phát huy vai trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội trong giám sát đối với việc cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp
nhà nước; bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội.
Về nhiệm vụ và giải pháp: Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII đã đưa ra 5
nhiệm vụ giải pháp chủ yếu sau:
- Đẩy mạnh cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để doanh nghiệp nhà nước thật sự vận hành theo
cơ chế thị trường.
- Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống quản trị và nâng cao năng lực,
phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước.

- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng; phát huy vai
trò của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề
nghiệp tại doanh nghiệp nhà nước.
Với vai trò, vị trí của mình, tôi có đề xuất một số giải pháp để thực hiện tốt các
nghị quyết của Trung ương, chương trình hành động của Tỉnh ủy, Thành ủy:
- Phấn đấu học tập, nghiên cứu đầy đủ các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước.
- Nghiêm túc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ và các quy định của Đảng; Hiến pháp,
pháp luật của Nhà nước.
- Tiếp tục tổ chức tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức các nghị quyết, chương
trình hành động của Tỉnh ủy, Thành ủy trong toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên và học
sinh trung tâm.
- Tích cực nghiên cứu các văn bản; căn cứ chương trình, kế hoạch công tác, chủ động
tham mưu Chi ủy ban hành các văn bản và triển khai thực hiện Nghị quyết đạt kết quả.
- Xây dựng kế hoạch hành động cá nhân thực hiện các nghị quyết phù hợp với chức
trách, nhiệm vụ được giao.
- Xác định rõ mục tiêu, giải pháp thiết thực để xây dựng kế hoạch hành động thực
hiện hiệu quả từng nghị quyết hằng năm đồng thời nêu cao tinh thần tự giác của đảng viên
trong nghiên cứu và tổ chức thực hiện.
9


- Việc học tập, quán triệt các chuyên đề là trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên,
giáo viên. Nhằm nắm vững để truyền đạt những nội dụng của nghị quyết chuyên đề, uốn
nắn những nhận thức lệch lạc, nâng cao nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng,
chống lại những quan điểm sai trái, thù địch.
- Phát huy tính tiên phong gương mẫu, nêu cao tinh thần trách nhiệm cá nhân, rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực hiện
nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của người cán bộ, đảng viên.

- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm tra, giám sát cán bộ đảng viên nhân viên phòng
TC-HC trong thực hiện Nghị quyết; Rèn luyện phong cách làm việc khoa học, sâu sát.
2. Học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa XII
Qua nghiên cứu, học tập các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6, khóa XII của Đảng.
Bản thân nhận thấy đây là những quyết sách quan trọng của Đảng, đề cập đến nhiều vấn đề
hệ trọng của đất nước, vừa cơ bản, vừa cấp bách và là sự cụ thể hóa các nhiệm vụ trọng tâm
mà Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đề ra. Cụ thể:
- Nghị quyết số 18/TW “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy
của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”
Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả và phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước và chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội; phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất
lượng, sử dụng hiệu quả đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm chi thường xuyên và
góp phần cải cách chính sách tiền lương.
Thời gian qua, Đảng ta đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiều chủ
trương, nghị quyết, kết luận về xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và đạt được
nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị vẫn còn, cồng
kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ.
Trong thời gian tới, toàn hệ thống chính trị phải chủ động, tích cực, gương mẫu và vào
cuộc quyết liệt, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, quan trọng, cấp bách, được đặt trong tổng thể
nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh
tế, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trước yêu cầu mới.
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo xây dựng và quản lý tổ
chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; phát huy đầy đủ, đúng đắn vai trò lãnh đạo
của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và quyền làm chủ của nhân dân. Chú ý bảo đảm tính
đổi mới, tổng thể, hệ thống, đồng bộ, liên thông; kết hợp hài hoà giữa kế thừa, ổn định với

10


đổi mới, phát triển; đổi mới tích cực, mạnh mẽ, nhưng không nôn nóng đi từ cực này sang
cực khác, không bi quan khi đương đầu với nhiều khó khăn, phức tạp; gắn đổi mới bộ máy
tổ chức với đổi mới phương thức lãnh đạo, với tinh giản biên chế và cải cách tiền lương; xử
lý hài hoà mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị ở
nước ta phù hợp với yêu cầu, điều kiện cụ thể trong giai đoạn mới; trên cơ sở đó xác định
những công việc cần thiết và có thể triển khai thực hiện ngay. Rà soát, quy định chặt chẽ
hơn về biên chế, số lượng cán bộ, công chức, viên chức; chú ý quy định số lượng cấp phó
tối đa của mỗi tổ chức phù hợp với đặc điểm của từng cấp, từng ngành, từng địa phương.
Xây dựng cơ chế cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, đúng đắn trong tuyển
dụng, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong
các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát, sắp xếp, kiện toàn, tinh gọn đầu mối bên trong
của các tổ chức này theo nguyên tắc một tổ chức có thể đảm nhiệm nhiều việc; một việc chỉ
do một tổ chức chủ trì và chịu trách nhiệm chính, gắn với việc tái cơ cấu, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; giảm tỉ lệ người phục vụ, nhất là khối hành
chính.
Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý giữa cấp trên với cấp dưới, giữa Trung ương
và địa phương. Xây dựng cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực bằng các quy định của pháp
luật, bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả; thường xuyên kiểm tra,
giám sát, đôn đốc, đề cao trách nhiệm giải trình, xử lý; xây dựng chế tài đủ mạnh; xử lý
nghiêm những tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu vi phạm, sai phạm.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng rộng rãi khoa học - công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin phục vụ lãnh đạo, điều hành; tinh giản tổ chức bộ máy, biên chế. Thực hiện
giao và quản lý chặt chẽ biên chế trên cơ sở phân loại tổ chức, xác định rõ vị trí việc làm và
tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức, viên chức. Tiến hành tổng kết việc thi tuyển, bổ
nhiệm, sử dụng, đánh giá và thực hiện chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp.
Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công tác kiểm tra của Đảng với thanh tra của Nhà

nước, sự giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan dân cử.
Tập trung ưu tiên triển khai ngay những việc đã rõ, đã chín, có cả cơ sở lý luận và thực tiễn.
Đẩy mạnh xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong các doanh nghiệp, đơn vị sự
nghiệp ngoài nhà nước. Cơ bản thực hiện mô hình Bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch Hội
đồng nhân dân; thực hiện Bí thư cấp uỷ đồng thời là Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện,
cấp xã những nơi có đủ điều kiện.
Tăng cường phân cấp, phân quyền hợp lý đi đôi với xây dựng cơ chế kiểm soát quyền
lực và chế độ kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Các Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ rà soát, chuyển
giao một số nhiệm vụ và dịch vụ công cho doanh nghiệp, người dân đảm nhiệm. Tiếp tục
hoàn thiện thể chế về chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức chính
quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt.
11


- Nghị quyết số 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng
cao chất lượng, hiệu quả các đơn vị sự nghiệp công lập”
Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các đơn vị sự nghiệp công lập, bảo
đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng
dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối,
khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi
ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải
cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công
lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế
tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công.
Cùng với việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, công việc này
có tầm quan trọng không kém, được ưu tiên chỉ đạo thực hiện trong thời gian tới. Nhà nước
phải chăm lo bảo đảm cung cấp dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu; nâng cao khả
năng tiếp cận dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở tăng cường đầu

tư từ ngân sách nhà nước; giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt,
bản chất tốt đẹp của các đơn vị sự nghiệp công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá, nhất là trong các ngành, lĩnh vực mà khu vực ngoài công lập
làm được và làm tốt; huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển
lành mạnh thị trường dịch vụ sự nghiệp công; bảo đảm công bằng, bình đẳng giữa các đơn
vị sự nghiệp công lập và ngoài công lập. Trong quá trình đổi mới, sắp xếp, phải bám sát đặc
điểm tình hình của từng ngành, lĩnh vực, địa bàn, đẩy mạnh xã hội hoá, nhưng không
thương mại hoá lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công. Đẩy mạnh việc chuyển đổi các đơn vị sự
nghiệp kinh tế, sự nghiệp khoa học - công nghệ có đủ điều kiện thành doanh nghiệp, bao
gồm cả hình thức công ty cổ phần.
Đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện về thực hiện nhiệm
vụ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Chú ý rà soát,
hoàn thiện cơ chế, chính sách phù hợp với từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công và từng
loại hình đơn vị sự nghiệp công lập. Đổi mới, tăng cường chế độ kế toán, hạch toán, kiểm
toán, kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, về cơ bản tương tự
như đối với doanh nghiệp nhà nước.
Phân định rõ hoạt động thực hiện nhiệm vụ chính trị, hoạt động sự nghiệp do Nhà
nước giao với hoạt động cung ứng dịch vụ theo yêu cầu của xã hội. Ngân sách nhà nước
bảo đảm đầu tư cho các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu và các đơn vị sự nghiệp công lập
được Nhà nước giao nhiệm vụ cung cấp dịch vụ sự nghiệp công ở các địa bàn vùng sâu,
vùng xa, vùng đồng bào dân tộc ít người. Khẩn trương nghiên cứu sửa đổi, bổ sung pháp
luật về công chức, viên chức; rà soát, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật có liên
12


quan để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tinh giản biên chế; đẩy mạnh việc
phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ
việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự
nghiệp công.
Hội nghị Trung ương 6 đã thảo luận, cho ý kiến về nhiều nội dung quan trọng, phức

tạp, nhạy cảm, tác động trực tiếp đến đời sống người dân, đó là: Giảm mạnh sự can thiệp
hành chính của cơ quan chủ quản vào hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của đơn vị sự
nghiệp công lập. Tăng cường phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành với
nhau và với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư, tài chính các cấp trong quản lý ngân sách
nhà nước chi cho lĩnh vực sự nghiệp.
Quy định rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm người đứng đầu các Bộ, ngành, địa
phương, cơ quan, đơn vị, đặc biệt là người đứng đầu đơn vị sự nghiệp công lập. Kiên quyết
xử lý nghiêm các vi phạm, sai phạm.
- Nghị quyết sô 20-NQ/TW về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức
khoẻ nhân dân trong tình hình mới”
Nâng cao sức khoẻ cả về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống
của người Việt Nam. Xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập
quốc tế. Phát triển nền y học khoa học, dân tộc và đại chúng. Bảo đảm mọi người dân đều
được quản lý, chăm sóc sức khoẻ. Xây dựng đội ngũ cán bộ y tế "Thầy thuốc phải như mẹ
hiền", có năng lực chuyên môn vững vàng, tiếp cận trình độ quốc tế. Nâng cao năng lực
cạnh tranh trong chuỗi sản xuất, cung ứng dược phẩm, dịch vụ y tế.
Việc bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ là trách nhiệm của mỗi người dân, từng gia
đình, cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; đòi hỏi sự tham gia tích cực, chủ động của các
cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, trong đó
ngành Y tế là lực lượng nòng cốt hàng đầu.
Nhà nước cần phát huy vai trò chủ đạo của các bệnh viện và cơ sở y tế công lập trong
việc tổ chức cung cấp dịch vụ y tế, bảo đảm các dịch vụ cơ bản cho nhân dân, đồng thời
khuyến khích cung cấp dịch vụ theo yêu cầu. Tập trung ưu tiên đầu tư từ ngân sách và có
cơ chế, chính sách phù hợp huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực xã hội để phát
triển y tế và các dịch vụ liên quan đến bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khoẻ nhân dân.
Không ngừng phấn đấu nâng cao sức khoẻ, tầm vóc, tuổi thọ, chất lượng cuộc sống
của người Việt Nam; bảo đảm mọi người dân đều được bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức
khoẻ; bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc tham gia và hưởng thụ bảo hiểm y tế và
các dịch vụ có liên quan.
Phát triển nền y học Việt Nam khoa học, dân tộc, đại chúng; xây dựng nền y tế công

bằng, nhân văn, hiệu quả, chất lượng và hội nhập. Phát triển cân đối, đồng bộ giữa y tế phổ
cập và y tế chuyên sâu, giữa dân y và quân y, gắn kết y học cổ truyền với y học hiện đại.
13


Thực hiện phòng bệnh hơn chữa bệnh; y tế dự phòng là then chốt; y tế cơ sở thực sự là nền
tảng. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống các cơ sở y tế hiện có
của Nhà nước, bao gồm cả dân, quân y, gắn với khuyến khích hợp tác công - tư, phát triển
lành mạnh y tế ngoài công lập; xây dựng hệ thống y tế rộng khắp, gần dân, tổ chức bộ máy
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
cần chủ động, tích cực, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào toàn dân tham gia rèn luyện
thân thể; cải thiện điều kiện sống, lối sống và làm việc; bảo vệ môi trường sinh thái và vệ
sinh an toàn thực phẩm; thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, sinh hoạt điều độ, lành
mạnh. Tăng cường y tế dự phòng, nâng cao sức khoẻ gắn với đổi mới, phát huy vai trò của
hệ thống y tế cơ sở, góp phần khắc phục tình trạng quá tải các bệnh viện, nhất là tuyến trên.
Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; nâng cao y đức; phát triển ngành dược và thiết
bị y tế, bảo đảm đủ thuốc tốt và thiết bị bảo đảm chất lượng. Chăm lo phát triển nguồn nhân
lực và khoa học ngành Y. Nâng cao năng lực nghiên cứu, triển khai ứng dụng, chuyển giao
khoa học, công nghệ, kỹ thuật y tế, dược, sinh học. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách tài
chính y tế, đặc biệt là sớm thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; đổi mới phương thức chi ngân
sách nhà nước cho y tế; đổi mới cơ chế về giá, phí dịch vụ phù hợp, phát huy mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, khắc phục tình trạng thương mại hoá dịch vụ
khám, chữa bệnh. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về y tế gắn với chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế.
- Nghị quyết số 21-NQ/TW về “Công tác dân số trong tình hình mới”
Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân
số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững
chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu
quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất

lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Những năm qua, nước ta có nhiều nỗ lực và thành tựu trong công tác dân số, kế hoạch
hoá gia đình. Cơ cấu dân số, cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực. Nước ta bắt đầu bước
vào thời kỳ dân số vàng từ năm 2007 và dự kiến đạt đỉnh cao vào khoảng năm 2020-2030
với số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 70% dân số.
Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tầm vóc, thể lực của người Việt Nam
từng bước được cải thiện. Tuổi thọ trung bình tăng đáng kể (từ 65,3 tuổi lên 73,4 tuổi).
Dịch vụ dân số, kế hoạch hoá gia đình được mở rộng, chất lượng ngày càng cao. Tuy nhiên,
quá trình toàn cầu hoá, đô thị hoá, công nghiệp hoá dưới tác động của cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 và biến đổi khí hậu, thay đổi về điều kiện, lối sống, môi trường sống,
làm việc và môi trường sinh thái đã và đang dẫn đến những thay đổi nhanh chóng về mô
hình gia đình, kết hôn, ý thức và khả năng sinh sản, tăng nhanh quá trình di cư...
14


Chính sách hạn chế mức sinh của ta kéo dài, rộng khắp cả nước bắt đầu bộc lộ những
hệ luỵ cần sớm được khắc phục. Cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tư duy, cách làm để giải
quyết toàn diện, đồng bộ, có hiệu quả các vấn đề về dân số. Phấn đấu duy trì ổn định vững
chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ lệ giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; duy trì và tận
dụng có hiệu quả lợi thế cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số, nâng cao chất
lượng dân số, phân bố dân số phù hợp với quá trình phát triển.
Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và
phát triển; chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt
trong mối quan hệ gắn bó hữu cơ với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh. Coi công tác dân số và phát triển là nhiệm vụ của toàn dân; đầu tư cho công tác dân
số là đầu tư cho phát triển bền vững; Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy
mạnh xã hội hoá; tranh thủ sự hợp tác, hỗ trợ của quốc tế, bảo đảm nguồn lực cho công tác
dân số.
Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, bảo đảm quyền và
trách nhiệm trong việc sinh và nuôi dạy con tốt để duy trì mức sinh thay thế trên phạm vi cả

nước với quy mô dân số hợp lý (khoảng 104 triệu người vào năm 2030). Tập trung ưu tiên
vận động sinh ít con hơn ở vùng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức
sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp. Ngăn ngừa tư tưởng, tâm lý
không hạn chế số lần sinh con đang nổi lên những năm gần đây. Đổi mới nội dung tuyên
truyền vận động về công tác dân số và phát triển. Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách;
phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số. Kiện toàn tổ chức bộ máy,
nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Liên hệ với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và cá nhân:
- Tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà các Nghị quyết đã đề ra và tiếp tục tổ
chức tuyên truyền, quán triệt nâng cao nhận thức các nghị quyết, chương trình hành động
của Tỉnh ủy, Thành ủy trong toàn thể cán bộ, giáo viên, nhân viên phòng TC-HC.
- Luôn luôn giữ vững quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu
chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh và tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của
Đảng.
- Chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật Nhà nước, vận
động gia đình và người thân thực hiện tốt các quy định của địa phương nơi cư trú, thực hiện
tốt lối sống lành mạnh, giản dị, trung thực, luôn giữ gìn đoàn kết nội bộ, tiếp thu và lắng
nghe ý kiến đóng góp của đồng nghiệp trong đơn vị.
- Chỉ đạo cán bộ phụ trách công tác Đảng tích cực nghiên cứu các văn bản; căn cứ
chương trình, kế hoạch công tác, chủ động tham mưu Chi ủy ban hành các văn bản và triển
khai thực hiện Nghị quyết đạt chất lượng và hiệu quả.

15


- Chỉ đạo người đứng đầu các tổ chức đoàn thể và các phòng chuyên môn thuộc trung
tâm xây dựng kế hoạch hành động cá nhân thực hiện các nghị quyết phù hợp với chức
trách, nhiệm vụ được giao.
- Xác định rõ mục tiêu, giải pháp thiết thực để xây dựng kế hoạch hành động thực
hiện hiệu quả từng nghị quyết hằng năm đồng thời nêu cao tinh thần tự giác của cán bộ,

đảng viên trong nghiên cứu và tổ chức thực hiện.
- Luôn khắc phục những hạn chế, khó khăn, đoàn kết, tương trợ đồng nghiệp để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, nội quy và quy chế làm việc
của đơn vị.
- Nghiên cứu, ứng dụng CNTT vào công tác giảng dạy và quản lý, góp phần tích cực
vào sự phát triển kinh tế xã hội; tự học và trau dồi kiến thức kĩ năng nghiệp vụ chuyên
môn; tu dưỡng đạo đức, lối sống, kĩ năng góp phần nâng cao năng lực và phẩm chất của
nhà giáo.
* Các giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết ở đơn vị:
- Tiếp tục triển khai, quán triệt Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 22/4/2015 của Bộ
Chính trị và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2015 của Chính phủ nhằm nâng cao
nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức về chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước về công tác tinh giản biên chế.
- Xây dựng kế hoạch thực hiện tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức và người lao động đến 2021 nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức; góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của đơn vị, tiết
kiệm, giảm chi thường xuyên, cải cách chính sách tiền lương.
- Trên cơ sở quy định của Bộ Nội vụ; Bộ Giáo dục và Đào tạo về tiêu chuẩn nghiệp vụ
ngạch công chức, viên chức gồm các nội dung về chức trách, nhiệm vụ, tiêu chuẩn về năng
lực, chuyên môn, nghiệp vụ, tiêu chuẩn về trình độ đào tạo, bồi dưỡng. Người đứng đầu
đơn vị tiến hành đánh giá, phân loại viên chức và người lao động tại đơn vị, xác định những
người dôi dư do không đáp ứng được tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức, chức danh
nghề nghiệp viên chức mà không thể bố trí đào tạo, bồi dưỡng để chuẩn hóa theo quy định.
3. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05- CT/TW của Bộ Chính trị về “đẩy mạnh học tập
và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
- Việc xây dựng kế hoạch học tập cá nhân
Căn cứ trên kế hoạch thực hiện tốt Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính
trị về “đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” của
Chi bộ Trung tâm GDTX Sóc Trăng , bản thân đã xây dựng kế hoạch “học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo chuyên đề hàng năm gắn với phòng,

chống suy thoái tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa”.
16


Viết bản cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; không có
biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
- Công tác thông tin, tuyên truyền việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh
Tổ chức học tập quán triệt sâu rộng trong cán bộ, giáo viên, nhân viên nội dung về
cuộc vận động “học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Xác định việc học tập, giáo dục tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là hoạt
động trọng tâm trong việc phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cho toàn thể cán bộ, giáo
viên và nhân viên trong toàn Trung tâm. Trong đó chú trọng việc học tập và làm theo tư
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phòng, chống suy thoái tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa”.
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, giáo viên, nhân
viên, giúp cho đội ngũ vững vàng trước những khó khăn thử thách, tuyệt đối tin tưởng vào
sự lãnh đạo và đổi mới của Đảng, nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công việc được
giao.
- Công tác giáo dục, đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh
Thông qua các hoạt động giáo dục, các cuộc vận động, phong trào thi đua trong trung
tâm, nhằm tạo môi trường lành mạnh để cán bộ giáo viên trẻ và học sinh rèn luyện, trưởng
thành, góp phần hình thành nhân cách, lối sống nghĩa tình, có trách nhiệm, tuân thủ pháp
luật, thực hiện tốt nội qui của đơn vị.
Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ đảng viên, giáo
viên, nhân viên và học sinh giúp cho đội ngũ kiên định con đường đi lên CNXH mà Đảng
và Bác Hồ đã chọn, vững vàng trước những khó khăn thử thách, những tình huống chính trị
xã hội phức tạp, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao tinh thần trách
nhiệm trong công việc được giao.

Giáo dục cán bộ đảng viên, giáo viên, nhân viên và học sinh có lối sống trong sáng,
giản dị, không xa hoa lãng phí, không bè phái, không cục bộ, không quan liêu, quan hệ tốt
với đồng nghiệp, hòa đồng với đồng nghiệp và mọi người xung quanh; không ngừng học
tập chính trị, chuyên môn, không ngừng cải tiến công việc được giao, trao đổi nghiệp vụ,
tích lủy kinh nghiệm, nâng cao hiệu qủa công tác để hoàn thành tốt nhiệm vụ của đơn vị.
Kết hợp với giáo viên chủ nhiệm vận động học sinh chấp hành tốt nội qui của trung
tâm .Thông qua tiết sinh hoạt chủ nhiệm hàng tuần giáo viên chủ nhiệm đánh giá lại những
tiến bộ và hạn chế của lớp cần phải khắc phục, đồng thời nêu gương và khen ngợi những
học sinh có tiến bộ, từ đó kịp thời uốn nắn sửa chữa khi học sinh có thái độ, hành vi không
tốt.
17


Lồng ghép giảng dạy đạo đức, lối sống, kĩ năng sống và ý thức vượt khó thông qua
các môn học như Ngữ văn, Lịch sử. Thông qua các tiết học này, giáo viên tạo cơ hội cho
học sinh được trình bày những ý kiến, quan điểm của bản thân về gia đình, bạn bè. Từ đó,
giáo viên có thể hiểu được tâm sinh lý của học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp, qua
đó học sinh được trau dồi các kiến thức, kĩ năng sống cơ bản, tạo cơ hội cho học sinh được
phát triển một cách toàn diện.
Qua thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của
Bác bản thân thấm nhuần tư tưởng, đạo đức cách mạng và phong cách làm việc của Bác.
Chính vì vậy, bản thân luôn tích cực thi đua rèn luyện đạo đức, ra sức cố gắng khắc phục
khó khăn để đạt được nhiều thành tích cao trong công tác.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành kim chỉ nam cho mọi suy nghĩ,
hành động và việc làm của mỗi cán bộ, đảng viên trong toàn Trung tâm.
Đổi mới tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, thực hiện cải cách hành chính đảm bảo
thời gian, chất lượng, đúng nội dung, nhiệm vụ được phân công; đảm bảo sự phối hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức đoàn thể và các bộ phận trong trung tâm; tổ chức quán triệt, triển khai
thực hiện kịp thời, đầy đủ, đúng quy định các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
lĩnh vực giáo dục.

Căn cứ vào kết quả thực hiện Chỉ thi 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII và
tình hình thực tiễn tại đơn vị. Bản thân tôi đề ra một số nhiệm vụ trọng tâm để thực
hiện như sau:
- Thực hiện chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị, đồng thời đề ra các
giải pháp thiết thực – tham mưu - khắc phục những yếu kém, tồn tại của đơn vị.
- Học tập, sinh hoạt và tổ chức thực hiện có hiệu quả chuyên đề 2018 về xây dựng
phong cách, tác phong của người đứng đầu, của cán bộ đảng viên gắn với đẩy mạnh thực
hiện trách nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm trước của người đứng đầu, của cán bộ,
đảng viên trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực
hiện nhiệm vụ được giao.
- Học tập các điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh, trong các phong trào thi đua do trung tâm và ngành phát động.
- Chủ động, ngăn ngừa những hành vi tiêu cực, những biểu hiện suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ
gắn với việc thực hiện các chủ đề học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh.

18


NỘI DUNG BỒI DƯỠNG 2
Kỹ năng tổ chức và quản lý lớp chủ nhiệm –
Tư vấn tâm lý học đường cho học sinh THPT
1. Kỹ năng tổ chức và quản lý lớp chủ nhiệm
1.1. Xây dựng kế hoạch hoạt động chủ nhiệm
Để có được những điều kiện tâm lý cần thiết cho việc tiến hành các tác động giáo
dục, trong kế hoạch hoạt động chủ nhiệm viên chủ nhiệm lớp lên kế hoạch tìm hiểu và nắm
vững đặc điểm tình hình học sinh về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát đối
tượng, nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp.
Nhiệm vụ đầu tiên của kế hoạch sẽ là điều tra cơ bản về thành phần, hoàn cảnh gia

đình, điều kiện sức khỏe, tinh thần, về sở thích, sở trường, sở đoản, về năng khiếu, đặc biệt
là những khó khăn về quá trình học tập, sinh sống trước đây của học sinh để có biện pháp
đề phòng và kịp thời ứng phó trước những diễn biến xấu trong quá trình học tập, sinh hoạt
của học sinh lớp mình chủ nhiệm.
Kết quả của điều tra cơ bản này là phần lý lịch học sinh của sổ chủ nhiệm. Tránh
những thông tin chung chung ít giá trị cho công tác chủ nhiệm.
Biện pháp hiệu quả của bước thứ nhất này là lên kế hoạch thăm tất cả gia đình học
sinh trong lớp (không riêng học sinh có hoàn cảnh khó khăn)
1.2. Xây dựng qui chế làm việc của giáó viên chủ nhiệm lớp
Quy chế qui định chế độ bồi dưỡng thường xuyên cho giáó viên chủ nhiệm, như tập
huấn kỹ năng tổ chức hoạt động, bồi dưỡng tài chính...
Đồng thời, hướng dẫn giáo viên chủ nhiệm tuyển chọn, xây dựng ban cán sự lớp đủ
năng lực: Ban cán sự lớp phải là học sinh gương mẫu, có uy tín, biết quan tâm đến khó
khăn của bạn bè, biết hy sinh vì quyền lợi chung, tập hợp được sức mạnh chung của lớp.
Giáo viên chủ nhiệm cần bồi dưỡng nhận thức, tập huấn, hướng dẫn cán sự lớp về nội dung,
phương pháp tổ chức lớp, kỹ năng tự quản, về cách giao tiếp, động viên thuyết phục, tập
trung học sinh trong lớp cùng học tập, sinh hoạt. Ban cán sự lớp phải biết báo cáo định kỳ
và đột xuất về các diễn biến, khó khăn của bạn học cho giáo viên chủ nhiệm trong các giờ
sinh hoạt chủ nhiệm, không thụ động chờ sự mọi sự sắp đặt của giáo viên chủ nhiệm. Tạo
lập, rèn luyện thói quen tự đánh giá và đánh giá khách quan về kết quả rèn luyện đạo đức
của từng học sinh theo định kỳ của kế hoạch chủ nhiệm (cần khách quan, công bằng, công
khai, dân chủ, tránh định kiến, thành kiến, thiên vị,..) để đạt được tác dụng giúp học sinh
phấn khởi phát huy mặt mạnh và kích thích sự tự giác điều chỉnh hành vi của học sinh…
19


Những kết quả nghiên cứu từ thực tế về thành công và hạn chế của công tác chủ
nhiệm lớp xác định các kỹ năng và phẩm chất cơ bản, cần thiết mà người giáo viên chủ
nhiệm lớp ở nhà trường phổ thông cần rèn luyện, đó là:
- Năng lực chuyên môn, kỹ năng tổ chức, quản lý hoạt động tập thể, kỹ năng giáo dục,

thuyết phục; tình yêu nghề, tâm huyết với nghề để sẵn sàng hy sinh thời gian, công sức,
thậm chí quyền lợi cá nhân vì sự tiến bộ của học sinh; là tấm gương sáng cho học sinh noi
theo.
- Trong điều kiện hiện nay, giáo viên chủ nhiệm lớp cần biết hy sinh, không quản ngại khó
khăn, dành thời gian đến tìm hiểu về những khó khăn tại gia đình, địa phương của học sinh
sinh sống, biết áp dụng đúng mức các biện pháp tâm lý, nêu gương tốt, … nhằm động viên,
thuyết phục, cảm hóa học sinh.
- Cần bố trí thời gian định kỳ cho sinh hoạt chủ nhiệm lớp, sinh hoạt khối chủ nhiệm, sinh
hoạt chủ nhiệm toàn trường,… Đồng thời áp dụng các biện pháp tổ chức quản lý, thi đua,
khen thưởng, nhân điển hình giáo viên chủ nhiệm lớp tốt.
- Cùng với đó là các biện pháp phát hiện và ngăn chặn các hành vi thiếu trách nhiệm, đối
phó, hình thức; xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm, lạm dụng danh nghĩa, quyền
hạn giáo viên chủ nhiệm lớp gây khó khăn với học sinh, vi phạm điều lệ nhà trường, đạo
đức nhà giáo.
- Trên cơ sở quán triệt các yêu cầu của việc thực hiện vai trò chủ nhiệm lớp như trên, BGH
cụ thể hóa nội dung, biện pháp, trách nhiệm phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm lớp với các
lực lượng liên quan;
- Có kế hoạch định kỳ và trường xuyên liên hệ với các giáo viên bộ môn về tình hình học
và sinh hoạt của học sinh lớp chủ nhiệm, để tạo sự phối hợp đồng bộ giữa các tác động sư
phạm; cùng giáo viên bộ môn tìm mọi biện pháp cải tiến phương pháp, nâng cao hiệu quả
dạy học và giáo dục học sinh.
1.3. Đa dạng các hình thức phối hợp giáo dục
Một trong những nhiệm vụ quan trọng là xây dựng kế hoạch phối hợp với cha mẹ
học sinh trong thực hiện mục tiêu giáo dục đạo đức mà giáo viên chủ nhiệm là nòng cốt.
Giáo viên chủ nhiệm giữ vai trò chủ đạo trong mối liên hệ với cha mẹ học sinh, thường
xuyên liên hệ với gia đình học sinh thông qua sổ liên lạc và các buổi họp mặt với cha mẹ
học sinh để kịp thời nắm bắt những thay đổi, khó khăn có thể gây trở ngại cho việc học tập,
rèn luyện của học sinh. Việc đầu tư thỏa đáng vào xây dựng và thực hiện kế hoạch giáo dục
ngoài giờ lên lớp nhằm giáo dục có hiệu quả kỹ năng sống cho học sinh cũng cần được lưu
ý. Từ kế hoạch chủ nhiệm, kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường, giáo viên

chủ nhiệm phải cụ thể hóa từng hoạt động phù hợp đặc điểm tâm sinh lý của học sinh lớp
20


mình chủ nhiệm. Phối hợp với đoàn, hội tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp
với tâm sinh lý học sinh, với điều kiện sống, học tập và sức khỏe của học sinh lớp mình phụ
trách;
Hoạt động phải đa dạng, sinh động, hấp dẫn; phương pháp tổ chức hoạt động phải
đảm bảo các nguyên tắc cơ bản, nhằm khắc sâu, mở rộng kiến thức đã học trên lớp, rèn
luyện kỹ năng sống cho học sinh (nhóm kỹ năng sinh tồn, kỹ năng hoạt động tập thể, kỹ
năng giao tiếp,..) để học sinh có thể ứng xử những tình huống xảy ra chung quanh bằng thái
độ phù hợp chuẩn mực đạo đức xã hội, phong tục, văn hóa, văn minh của dân tộc. Tổ chức
các buổi sinh hoạt chuyên đề trao đổi kinh nghiệm học tốt, cải tiến phương pháp học tập
thông minh, sáng tạo, nhằm giúp học sinh xác định được động cơ, phương pháp học tập, tự
học đúng đắn, yêu thích học tập, tránh nạn học tủ, học vẹt, quay cóp, chán học, bỏ học , đạt
được hiệu quả ngày càng cao trong học tập. Xây dựng nề nếp học tập, sinh hoạt tốt cho lớp
chủ nhiệm; xây dựng dư luận lành mạnh, tạo môi trường thân thiện cho mọi học sinh có
khó khăn dễ dàng hòa nhập, tìm đến với lớp để được sự chia sẻ, thông cảm, yêu mến của
thầy cô, bạn bè,…;
Cải tiến các biện pháp kiểm tra đánh giá hoạt động dạy học trên lớp và ngoài giờ lên lớp,
nhằm thực hiện mục tiêu dạy học - giáo dục của nhà trường. Thường xuyên theo dõi (định
kỳ và đột xuất) các loại sổ sách có liên quan đến tình hình học tập, sinh hoạt, sức khỏe,
chuyên cần, kỷ luật của học sinh. Thành lập tổ tư vấn tâm lý học đường để học sinh giải tỏa
những bức xúc trong các mối quan hệ gia đình, nhà trường, xã hội, định hướng kịp thời
cách ứng xử trước các tình huống khó khăn do học sinh thiếu kỹ năng sống. Có thể nói,
trách nhiệm của nhà quản lý trường học là hình thành môi trường thích hợp để phối hợp các
nỗ lực cá nhân, mà trong đó con người có thể đạt được mục tiêu giáo dục một cách hiệu quả
nhất.
2. Tư vấn tâm lý học đường cho học sinh:
2.1.Tư vấn tâm lý học đường ( TVTLHĐ)

Từ lâu đã không còn xa lạ với hệ thống giáo dục nước ta. Tuy vậy, việc tìm hiểu,
thừa nhận tầm quan trọng, xây dựng đội ngũ tư vấn viên và tạo điều kiện cho nhà tâm lý
hoạt động trong môi trường giáo dục của một nhà trường chưa được quan tâm đúng mức.
Tư vấn viên tâm lý được đào tạo định chuẩn làm việc trong nhà trường, là nhân tố thật sự
góp phần cải thiện môi trường giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục. Tư vấn học đường
hiện nay ở Việt Nam, vẫn chưa thống nhất ý nghĩa và tên gọi (tham vấn hay tư vân tâm lý,
tư vấn tâm lý học đường có tư vấn hướng nghiệp hay không…) Ngay trong lịch sử hình
thành tư vấn trong trường học trên thế giới và nhất là ở nước Mỹ, đều phải trải qua một quá
trình hình thành với nhiều cách hiểu khác nhau theo các trường phái học thuyết khác nhau.
Từ đầu thế kỷ 20, tư vấn học đường chỉ là tư vấn hướng nghiệp, nặng về tư vấn thông tin
(consultant) sử dụng kết quả chẩn đoán tâm lý, tính cách con người và nghề nghiệp, và
những thông tin về thị trường lao động, dự báo nhu cầu nhân lực được đưa vào trường học
21


với Jesse B.Davis, Frank Parsons, và Cliffort Beer. (Gladding,2000). Phải đợi đến những
năm 1950,1960, với những công trình công bố của Carl Rogers. và những lý thuyết gia tiếp
theo, góp phần làm nổi bật chức năng của hoạt động tư vấn tâm lý (counseling) trong tư vấn
học đường. Như vậy, tư vấn học đường là tên gọi riêng của một hoạt động chuyên nghiệp
có chức năng chủ yếu được định nghĩa, mô tả rõ ràng do chính những người tiên phong
trong nghiệp vụ xây dựng từng bước tạo nên những đặc điểm phẩm chất, tính nhân văn và
địa vị khoa học ứng dụng trong đời sống. Tư vấn viên tâm lý (counselors) ngày nay đang
hoạt động ở các lãnh vực,các cơ sở khác nhau: trường học, bệnh viện, nhà điều dưỡng,
trung tâm tâm thần, trại cải huấn, nhà tù…
Năm 1945, Good trong tự điển Giáo dục đã cho rằng “ Tư vấn tâm lý là hoạt động
giúp đỡ con người có tính cá nhân, những vấn đề riêng tư, vấn đề học hành, và nghề
nghiệp.(Good,1945,trg104). Từ đây, nhiều tác giả đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau liên
quan đén tư vấn tâm lý theo quan đểm riêng của những học thuyết khác nhau. Carl Rogers
với quan điểm thân chủ tọng tâm thì “ Tư vấn tâm lý là một tiến trình qua đó bản nhiên của
tự thân thân chủ được giải tỏa, trong mối quan hệ an toàn với tư vấn viên, đấy là nơi thân

chủ phủ nhận những trải nghiệm đã được nhận thức, chấp nhận trước đó, hội nhập vào
một bản thân đã thay đổi” (Purkey & Schmidt, 1996,trg149). Ngược lại với quan điểm trên,
những người theo học thuyết hành vi định nghĩa tư vấn tâm lý là “Một tiến trình học hỏi
thu được những kỹ năng mới mà với những kỹ năng đó làm thay đổi và kiểm soát hành vi
của họ”(George &Cristiani,1990). Phái Tâm lý Động lực (Psychodynamic) có người định
nghĩa tư vấn tâm lý như “Một tiến trình làm giảm bớt nỗi lo lắng của thân chủ, quản lý
được những giới hạn để cho cái tôi (ego) xác lập chức năng trong một cách thái khác biệt
và hiệu lực hơn”. Qua tư vấn, thân chủ sẽ được có cơ hội hiểu biết về chính mình, về cuộc
sống của mình với những người chung quanh…Còn nhiều khái niệm mở rộng về tư vấn
tâm lý, tuy vậy hiện nay tư vấn tâm lý được hiểu thống nhất “là một tiến trình ngắn hạn,
liên nhân cách, dựa vào học thuyết, giúp đỡ người khác, mà người đó cơ bản còn ở trạng
thái tâm lý lành mạnh để giải quyết những vấn đề liên quan đến sự phát triển nhân cách,
định vị, định hướng cuộc sống.”(Gladding,1996, trg 8); Bao hàm cả hướng nghiệp.
Tư vấn tâm lý học đường (School Counseling - tư vấn học đường – TVHĐ) là một
tiến trình giúp đỡ sinh viên học sinh, các vị phụ huynh hoặc thầy cô giáo, tự tìm hiểu mình,
biết được những đặc điểm tính cách, những năng lực tiềm ẩn và những hành vi của họ đã
ảnh hưởng đến những người khác như thế nào. Đồng thời giúp họ chọn cách giải quyết vấn
đề tối ưu trong chiến lược định hướng phát triển của những người này khi có nhu cầu. Tư
vấn viên trường học được đánh giá chuyên nghiệp hay không qua mối quan hệ tư vấn tâm
lý mà nhà tư vấn tạo được với học sinh, phụ huynh và quý thầy cô trong nhà trường, từ đó
góp phần làm tốt hoạt động giáo dục học sinh và mối quan hệ giữa ba môi trường giáo dục
gia đình, học đường và xã hội .
2.2. Vai trò xúc tác của tư vấn viên tâm lý vào môi trường giáo dục
Tư vấn viên trong các chương trình tư vấn học đường trước đây, được gọi là là nhà
tư vấn hướng dẫn, tư vấn giáo dục, khải đạo, phụ đạo (guidance counselor, educational
22


counselor), nhưng nay thống nhất gọi là tư vấn viên học đường (School counselor) . Từ sơ
khai người làm tư vấn học đường là tư vấn hướng dẫn (giudance counselor) hoặc tư vấn

giáo dục (education counselor) nhưng ngày nay, tư vấn viên học đường còn thường làm
những việc có liên quan đến việc biện hộ, bênh vực, giúp đỡ tất cả học sinh từ việc học tập,
đến định hướng nghề nghiệp, những thành đạt có ý nghĩa cá nhân và xã hội trong trong các
trường học từ tiểu học đến trung học … (ASCA, 2005). Hằng ngày, người làm tư vấn học
đường tham gia tích cực vào việc hỗ trợ giáo dục, đào tạo học sinh, hoạt động bảo vệ, biện
hộ, phòng ngừa các hành vi bạo hành, giúp học sinh định hướng, xây dựng kế hoạch nghề
nghiệp, và vô số công việc khác làm thay người làm công tác giáo dục và công tác y tế xã
hội trong nhà trường. Tư vấn viên học đường là một giáo dục viên quan trọng trong đội ngũ
giáo dục viên của nhà trường. Giúp đỡ tất cả học sinh trong lãnh vực chăm lo kết quả học
tập, hỗ trợ phát triển, cá nhân, xã hội, phát triển nghề nghiệp, đảm bảo người học trò ngày
nay sẽ là người lớn trưởng thành hữu ích, biết tự điều chỉnh, làm chủ chính mình trong
tương lai. Bất kể là tư vấn viên học đường cấp tiểu học cấp trung học cơ sở, hay phổ thông
trung học đều là người giữ nhiệm vụ và có chức năng quan trong bộ phận lãnh đạo giáo dục
học sinh. Họ là người cung ứng những sự trợ giúp, nâng đỡ học sinh trong hoạt động học
tập và rèn luyện nhân cách, phòng ngừa các tệ nạn trong một nhà trường cụ thể. Trung bình
ở Mỹ cứ 250 học sinh có một tư vấn viên chăm sóc giáo dục và hỗ trợ giải quyết các vấn đề
tâm lý xã hội có liên quan. Tuy vậy ở mỗi quốc gia có một cách nhìn nhận vai trò chức
năng và cách tổ chức hệ thống tư vấn viên học đường khác nhau. Nhìn chung, tư vấn viên
học đường là một nhà tư vấn tâm lý (tham vấn viên) vừa là nhà giáo dục làm việc trong
trường học đem đến sự động viên cho tất cả học sinh sẵn lòng trong học tập, học nghề
chuyên nghiệp; làm tăng năng lực cá nhân và xã hội, thông qua sự hỗ trợ tinh thần, sự dẫn
đạo, thay đổi tình trạng có tính hệ thống, và cùng tham gia như là một thành viên của nhóm
làm việc hợp tác với các hoạt động lợi ích khác của nhà trường trong chương trình phát
triển toàn diện trường học. Trong tư vấn tâm lý học đường, qua tác động của tư vấn viên
học sinh được tư vấn sẽ tự mình thay đổi tình thế, chuyển biến quan niệm, nhìn thấy tính
không phù hợp hoạt động của mình, và ra sức chuyển đổi. Tiến trình đó chỉ có thể hoàn
thành khi phát triển được mối quan hệ, thăm dò được hướng đi tốt. Khơi dậy được ý chí tự
lực, tự quyết, giúp học sinh đó làm chủ được cảm xúc, thích nghi với hoàn cảnh mới, có
hành động tích cực tạo ra các hoạt động phù hợp với điều mong đợi hơn. Phía học sinh
được tư vấn thường là một cá nhân, có những vấn đề riêng tư của một chủ thể cần được

tăng cường khả năng giải quyết và thực hiện chức năng một cách thích hợp. Tư vấn viên
tâm lý học đường có ba nhiệm vụ chính:
1. Phát triển và quản lý chương trình tư vấn học đường
2. Trực tiếp thưc hiện chương trình tư vấn học đường: Giúp học sinh làm kế
hoạch cá nhân cho đời mình; Bảo vệ, biện hộ và giúp đỡ theo yêu cầu học sinh;
Nhiệm vụ báo cáo phúc trình
3. Trách nhiệm giải trình
2.3. Tư vấn học đường bậc phổ thông trung học
23


Tư vấn học đường bậc phổ thông trung học, đi sâu hơn về hướng dẫn cách học tập,
hứng thú đến trường, vấn đề học tập đối với những môn học ưa thích của học sinh, giúp tất
cả học sinh có cơ hội đi lên hướng nghiên cứu lý thuyết hay hướng thực hành, bằng vào sự
theo dõi, giúp đỡ, đánh giá khách quan về tiềm năng và các nguồn lực có được từ cá nhân
gia đình và yêu cầu tình hình nhân lực kinh tế, xã hội, môi trường. Đặc biệt quan tâm
hướng phát triển nghề nghiệp, nhân cách và trí tuệ. Những học sinh có nguy cơ bỏ học lao
động sớm được tư vấn viên chăm sóc giúp đỡ bằng nhiều nguồn lực của nhà trường, gia
đình và cộng đồng. Những học sinh có nguy cơ rơi vào tệ nạn xung đột, bạo hành, uống
rượu, cờ bạc, ma túy, bị lạm dụng tình dục, lạm dụng lao động… được tư vấn viên học
đường phát hiện sớm bảo vệ, giúp đỡ, hướng dẫn chữa trị, tránh xa tệ nạn.
Tóm lại, tư vấn viên học đường ngày nay hoạt đông như một giáo dục viên, một
nhân viên công tác xã hội trong nhà trường, đã thật sự góp sức cải thiện môi trường giáo
dục vốn bị dồn nén bởi kỷ luật hình thức, giám hộ nặng nề của gia đình, hệ thống giám thị,
tổng giám thị của nhà trường, thiếu thông tin ngoài xã hội, chưa quan tâm tạo cho học sinh
bản lĩnh, trang bị những kỹ năng cần thiết ứng phó trong cuộc sống …
Về phía Bộ GDĐT, từ năm 2005 theo tinh thần công văn 2564/HSSV ngày 5/4/2005
và công văn 9971/BGD&ĐT, ngày 28/10/2005) của Bộ GDĐT, xác định “Tư vấn cho học
sinh, sinh viên là phương pháp tác động mang tính định hướng giáo dục tới những học sinh,
sinh viên đang có những khó khăn tâm lý, tình cảm, những bức xúc của lứa tuổi cần được

giải đáp, những vướng mắc trong học tập, sinh hoạt, trong hướng nghiệp, trong tìm kiếm
việc làm…”. Cũng từ năm 2005, với sự chỉ đạo đầy quyết tâm của Sở GDĐT TpHCM, hầu
hết các trường công lập trên địa bàn đã có bộ phận tư vấn học đường. Các trường đại học
như đại học KHXH &NV, Đại học Mở, Đại học Văn Hiến Đại học Sư Phạm, TpHCM; Đai
học Sư Phạm, Đại học Khoa học Giáo dục, Dại học Quốc Gia Hà Nội. có khoa tâm lý giáo
dục, khoa xã hội, công tác xã hội cũng mở các chứng chỉ, học phần tư vấn tâm lý, tư vấn
tâm lý trong trường học…
Hiệu quả trước mắt là nhờ tính nhân văn của hoạt động tâm lý trong nhà trường làm
cho nhà trường dân chủ hơn, trở nên thân thiện hơn trong quan hệ: thầy trò, quan hệ tình
bạn, tình yêu - được các phụ huynh ghi nhận và ủng hộ. Mối quan hệ giữa 3 m ôi trường
giáo dục được thật sự cải thiện.
NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

NGUYỄN

24

VĂN

@


×