Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

XÁC ĐỊNH SỐ LẦN VÀ TỶ LỆ CHO ĂN THÍCH HỢP TRÊN CÁ TRA (Pangasianodon hypophthalmus_Sauvage, 1878)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

XÁC ĐỊNH SỐ LẦN VÀ
TỶ LỆ CHO ĂN THÍCH HỢP TRÊN CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus_Sauvage, 1878)

Sinh viên thực hiện: LÊ THANH TÚ
Ngành: NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
Niên khóa: 2004 – 2008

Tháng 8/2008


XÁC ĐỊNH SỐ LẦN VÀ
TỶ LỆ ĂN THÍCH HỢP TRÊN CÁ TRA
(Pangasianodon hypophthalmus)

Thực hiện bởi

LÊ THANH TÚ

Khóa luận được đệ trình để hoàn tất yêu cầu cấp bằng Kỹ sư Nuôi Trồng Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn:
TS. NGUYỄN NHƯ TRÍ

Tháng 8 năm 2008


i


TÓM TẮT
Đề tài nghiên cứu “Xác định số lần và tỷ lệ cho ăn thích hợp trên cá tra
(Pangasianodon hypophthalmus)” được tiến hành tại Trại thực nghiệm thủy sản
trường Đại Học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh từ giữa tháng 4 đến cuối tháng 8
năm 2008. Thí nghiệm được bố trí theo kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên.
Kết quả thu được như sau:
 Thí nghiệm 1: Xác định số lần cho ăn thích hợp.
- Trọng lượng trung bình (TLTB): TLTB của cá tra lúc bố trí thí nghiệm là 7,89
gram. TLTB của các nghiệm thức (NT) khi kết thúc thí nghiệm: NT I (cho ăn 2
lần/ngày) là 46,49 gram; NT II (cho ăn 3 lần/ngày) là 53,91 gram; NT III (cho ăn 4
lần/ngày) là 61,31 gram. TLTB giữa các NT sai biệt có ý nghĩa về mặt thống kê (P =
0,011 < 0,05).
- Hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR): FCR trung bình của các NT khi kết thúc thí
nghiệm: NT I là 2,16; NT II là 1,85; NT III là 1,80. FCR giữa các NT sai biệt có ý
nghĩa về mặt thống kê (P = 0,039 < 0,05
 Thí nghiệm 2: Xác định tỷ lệ cho ăn thích hợp dựa trên kết quả đạt được của
thí nghiệm 1.
- Trọng lượng trung bình: TLTB lúc bố trí thí nghiệm là 20,70 gram. TLTB của
các NT khi kết thúc thí nghiệm: NT 100 (cho ăn tối đa) là 94,25 gram; NT 90 (cho ăn
bằng 90% tỷ lệ cho ăn của NT 100) là 95,47 gram; NT 80 (cho ăn bằng 80% tỷ lệ cho
ăn của NT 100) là 88,66 gram. TLTB giữa các NT sai biệt không có ý nghĩa về mặt
thống kê (P = 0,595 > 0,05).
- Hệ số chuyển đổi thức ăn: FCR trung bình của các NT khi kết thúc thí
nghiệm: NT 100 là 2,18; NT 90 là 1,89; NT 80 là 1,80. FCR giữa các NT thì sai biệt
có ý nghĩa về mặt thống kê (P = 0,007 <0,05).

ii



LỜI CẢM TẠ
Tôi xin chân thành cảm tạ:
* Ban Giám Hiệu trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh, Ban chủ
nhiệm Khoa Thủy Sản, cùng tất cả Quý Thầy Cô đã truyền đạt kiến thức cho tôi trong
suốt quá trình học tại trường.
* TS. Nguyễn Như Trí đã hết lòng hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực
tập tốt nghiệp tại trường.
* Ths. Ngô Văn Ngọc, PGS. TS Lê Thanh Hùng, và cô Võ Thị Thanh Bình đã
hỗ trợ chúng tôi về cá thí nghiệm cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn
thành tốt khóa luận tốt nghiệp trong thời gian chúng tôi thực tập tại trại thủy sản của
trường.
* Kỹ sư Lê Đại Quan đã hỗ trợ cho chúng tôi trong thời gian tiến hành điều tra
sơ bộ về tình hình nuôi cá tra ở An Giang.
* Các anh chị tại Trại thực nghiệm thủy sản đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện
thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp.
* Các bạn: Trần Thanh Lưu, Phạm Văn Hùng, Đồng Thị Hồng Diệp, Huỳnh
Minh Nhựt đã tận tình giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện khóa luận tại trại
thực nghiệm thủy sản của trường.
* Các bạn bè thân yêu của lớp DH04NT đã chia sẻ cùng tôi những vui buồn
trong thời gian học cũng như hết lòng hỗ trợ, giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập.

iii


MỤC LỤC
Đề Mục

Trang


Trang tựa

i

Tóm tắt

ii

Lời cảm tạ

iii

Mục lục

iv

Danh sách các bảng

vi

Danh sách các hình và đồ thị

vii

Chương 1. GIỚI THIỆU

1

1.1 Đặt Vấn Đề


1

1.2 Mục Tiêu Đề Tài

1

Chương 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2

2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus)

2

2.1.1 Vị trí phân loại

2

2.1.2 Phân bố

3

2.1.3 Hình thái, sinh lý

3

2.1.4 Ðặc điểm dinh dưỡng và tính ăn

3


2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng

4

2.1.6 Đặc điểm sinh sản

4

2.2 Tổng Quan Về Dinh Dưỡng Trên Cá Da Trơn

5

2.2.1 Một số nghiên cứu về dinh dưỡng trên cá da trơn Mỹ

5

2.2.2 Một số nghiên cứu về dinh dưỡng cá tra ở Việt Nam

9

2.2.3 Khảo sát thực tế về số lần cho ăn và tỷ lệ cho ăn trên cá tra
cỡ 8-10 cm ở tỉnh An Giang

10

Chương 3. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

12


3.1 Thời Gian Và Địa Điểm Thực Hiện Đề Tài

12

3.2 Vật Liệu Và Phương Pháp Nghiên Cứu

12

3.2.1 Vật liệu

12

iv


3.2.2 Phương pháp nghiên cứu

13

3.3 Bố Trí Thí Nghiệm

14

3.3.1 Thí nghiệm 1: Xác định số lần cho ăn thích hợp

14

3.3.2 Thí nghiệm 2: Xác định tỷ lệ cho ăn thích hợp dựa trên
kết quả đạt được của thí nghiệm 1


16

Chương 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

18

4.1 Một Số Yếu Tố Môi Trường Trong Thí Nghiệm

18

4.1.1 Hàm lượng oxy hòa tan (DO)

18

4.1.2 Độ pH của nước

20

4.1.3 Nhiệt độ

21

4.1.4 Ammonia

21

4.1.5 Độ trong của nước

22


4.2 Kết Quả Thí Nghiệm 1: Xác Định Số lần Cho Ăn Thích Hợp

22

4.2.1 Chỉ tiêu về tỷ lệ sống

22

4.2.2 Chỉ tiêu về trọng lượng trung bình

24

4.2.3 Chỉ tiêu về hệ số chuyển đổi thức ăn

28

4.2.4 Chỉ tiêu về tỷ lệ phân đàn

30

4.3 Kết Quả Thí Nghiệm 2: Xác Định Tỷ Lệ Cho Ăn Thích Hợp
Dựa Trên Số Lần Cho Ăn Đã Được xác Định Ở TN 1

32

4.3.1 Chỉ tiêu về tỷ lệ sống

32

4.3.2 Chỉ tiêu về trọng lượng trung bình


33

4.3.3 Chỉ tiêu về hệ số chuyển đổi thức ăn

36

4.2.4 Chỉ tiêu về tỷ lệ phân đàn

38

Chương 5. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

41

5.1. Kết Luận

41

5.2. Đề Nghị

43

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

v


DANH SÁCH CÁC BẢNG


Bảng

Trang

Bảng 2.1 Thành phần thức ăn trong ruột cá tra trong tự nhiên
Bảng 2.2 Định lượng thức ăn cho cá trơn Mỹ

4
10

Bảng 4.1 Biên độ dao động của các yếu tố môi trường trong thời gian
thực hiện đề tài

18

Bảng 4.2 Trọng lượng trung bình của các nghiệm thức qua các lần kiểm tra
của thí nghiệm 1

25

Bảng 4.3 FCR trung bình của các nghiệm thức qua các tuần ở thí nghiệm 1

29

Bảng 4.4 Hệ số biến thiên (Cv) về trọng lượng của từng giai ở thí nghiệm 1

31

Bảng 4.5 Trọng lượng trung bình của các nghiệm thức qua các lần kiểm tra

của TN 2

34

Bảng 4.6 FCR của các nghiệm thức qua các tuần của thí nghiệm 2

37

Bảng 4.7 Hệ số biến thiên về trọng lượng của từng giai của thí nghiệm 2

39

vi


DANH SÁCH CÁC HÌNH VÀ ĐỒ THỊ
Hình

Trang

Hình 2.1 Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

2

Hình 3.1 Các test kiểm tra chất lượng nước, nhiệt kế, đèn và cân đồng hồ

17

Hình 3.2 Thức ăn viên dùng trong thí nghiệm


17

Hình 3.3 Cân cá thí nghiệm định kỳ

17

Hình 4.1 Giai thí nghiệm được bố trí thêm các tấm che để phòng địch hại

23

Hình 4.2 Cá tra lúc bố trí thí nghiệm 1

26

Hình 4.3 Cá tra sau 2 tuần của thí nghiệm 1

26

Hình 4.4 Cá tra sau 4 tuần của thí nghiệm 1

26

Hình 4.5 Cá tra sau 6 tuần của thí nghiệm 1

27

Hình 4.6 Cá tra sau 8 tuần của thí nghiệm 1

27


Hình 4.7 Cá tra sau 10 tuần của thí nghiệm 1

27

Hình 4.8 Cá tra lúc bố trí thí nghiệm 2

35

Hình 4.9 Cá tra sau 2 tuần của thí nghiệm 2

35

Hình 4.10 Cá tra sau 4 tuần của thí nghiệm 2

35

Hình 4.11 Cá tra sau 6 tuần của thí nghiệm 2

36

Hình 4.12 Cá tra sau 8 tuần của thí nghiệm 2

36

Đồ thị

Trang

Đồ thị 4.1: Sự biến động hàm lượng oxy hòa tan (mg/L)


19

Đồ thị 4.2 Sự biến động pH trong suốt quá trình thí nghiệm

20

Đồ thị 4.3 Sự biến động của nhiệt độ trong suốt quá trình thí nghiệm

21

Đồ thị 4.4 Tỷ lệ sống của các nghiệm thức khi kết thúc thí nghiệm 1

23

Đồ thị 4.5 Trọng lượng trung bình của các nghiệm thức ở thí nghiệm 1

24

Đồ thị 4.6 FCR của các nghiệm thức sau khi kết thúc thí nghiệm 1

28

Đồ thị 4.7 Hệ số biến thiên về trọng lượng khi kết thúc thí nghiệm 1

30

Đồ thị 4.8 Tỷ lệ sống của các nghiệm thức khi kết thúc thí nghiệm 2

32


Đồ thị 4.9 Trọng lượng trung bình của các nghiệm thức ở thí nghiệm 2

33

Đồ thị 4.10 FCR của các nghiệm thức khi kết thúc thí nghiệm 2

37

Đồ thị 4.11 Hệ số biến thiên về trọng lượng sau khi kết thúc thí nghiệm 2

39

vii


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt Vấn Đề
Cá tra được nuôi phổ biến ở hầu hết các nước Ðông Nam Á, và là một trong các
loài cá nuôi quan trọng nhất của khu vực này. Bốn nước trong hạ lưu sông Mekong
(Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam) đã có nghề nuôi cá tra truyền thống do có
nguồn cá bột tự nhiên phong phú (Hội nghề cá Việt Nam, 2004).
Các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long đã có truyền thống nuôi cá tra lâu năm.
Hiện nay nghề nuôi cá tra đã phát triển ở nhiều địa phương, không chỉ ở Nam bộ mà
một số nơi ở miền Trung và miền Bắc cũng bắt đầu quan tâm nuôi đối tượng này. Ðặc
biệt từ khi chúng ta hoàn toàn chủ động về sản xuất giống nhân tạo thì nghề nuôi càng
ổn định và phát triển vượt bậc (Hội nghề cá Việt Nam, 2004).
Để phục vụ cho nghề nuôi cá tra nước ta có thể phát triển một cách bền vững và
đạt hiệu quả về kinh tế hơn thì đã và đang có các công trình nghiên cứu về đối tượng
nuôi này chẳng hạn như: Nghiên cứu vacxin phòng bệnh hoại tử xuất huyết nội tạng

cho cá tra (Bùi Quang Tề và ctv, 2005); ảnh hưởng của Aflatoxin B1 lên cấu trúc mô
gan cá tra và cá basa (Trương Quốc Phú và Dương Thúy Yên, 2006); chọn giống cá tra
nhằm tăng tỷ lệ phi lê bằng phương pháp chọn lọc gia đình (Nguyễn Văn Sáng, 2007);
xây dựng quy trình nuôi cá tra thịt trắng phục vụ xuất khẩu (Viện nghiên cứu nuôi
trồng thủy sản II, 2007)…
Tuy nhiên nghiên cứu trên đối tượng này ở nước ta nhất là trong vấn đề dinh
dưỡng vẫn còn hạn chế. Để góp phần cho mục tiêu trên chúng tôi tiến hành đề tài
nghiên cứu “Xác định số lần và tỷ lệ cho ăn thích hợp trên cá tra (Pangasianodon
hypophthalmus )”.
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
1. Xác định số lần cho ăn thích hợp.
2. Xác định tỷ lệ cho ăn thích hợp dựa trên số lần cho ăn đã được xác định.
1


Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1 Đặc Điểm Sinh Học Của Cá Tra (Pangasianodon hypophthalmus)
2.1.1 Vị trí phân loại
Cá tra là một trong số 11 loài thuộc họ cá tra (Pangasiidae) đã được xác định ở
sông Cửu Long. Tài liệu phân loại gần đây nhất của tác giả W.Rainboth xếp cá tra nằm
trong giống cá tra dầu. Cá tra dầu rất ít gặp ở nước ta và còn sống sót rất ít ở Thái Lan
và Campuchia, đã được xếp vào danh sách cá cần được bảo vệ nghiêm ngặt (sách đỏ).
Cá tra của ta cũng khác hoàn toàn với loài cá nheo Mỹ (Ictalurus punctatus) thuộc họ
Ictaluridae.
Bộ: Cá nheo – Siluriformes
Họ: Cá tra - Pangasiidae
Giống: Cá tra dầu - Pangasianodon
Loài: Cá tra - Pangasianodon hypophthalmus (Sauvage, 1878).


Hình 2.1 Cá tra (Pangasianodon hypophthalmus)

2


2.1.2 Phân bố
Cá tra phân bố ở lưu vực sông Mekong, có mặt ở cả 4 nước Lào, Việt Nam,
Campuchia và Thái Lan. Ngoài ra, cá tra còn được tìm thấy ở Malaysia. Ở Thái Lan
còn gặp cá tra ở lưu vực sông Chao Phraya. Ở nước ta những năm trước đây khi chưa
có cá sinh sản nhân tạo, cá bột và cá giống được vớt trên sông Tiền và sông Hậu. Cá
trưởng thành chỉ thấy trong ao nuôi, rất ít gặp trong địa phận tự nhiên Việt Nam vì cá
có tập tính di cư ngược dòng sông Mekong để sinh sống và tìm nơi sinh sản tự nhiên
(Hội nghề cá Việt Nam, 2004).
2.1.3 Hình thái, sinh lý
Cá tra là cá da trơn (không vẩy), thân dài, lưng xám đen, bụng hơi bạc, miệng
rộng, có 2 đôi râu. Cá tra sống chủ yếu trong nước ngọt, có thể sống được ở vùng nước
hơi lợ (nồng độ muối <10%o ), có thể chịu đựng được nước phèn với pH >5, dễ chết ở
nhiệt độ thấp dưới 15oC, nhưng chịu nóng tới 39oC. Cá tra có số lượng hồng cầu trong
máu nhiều hơn các loài cá khác. Cá có cơ quan hô hấp phụ và còn có thể hô hấp bằng
bóng khí và da nên chịu đựng được môi trường nước thiếu oxy hòa tan (Hội nghề cá
Việt Nam, 2004).
2.1.4 Ðặc điểm dinh dưỡng và tính ăn
Cá tra khi hết noãn hoàng thích ăn mồi tươi sống. Vì vậy chúng ăn thịt lẫn nhau
ngay trong bể ấp và chúng vẫn tiếp tục ăn nhau nếu cá ương không được cho ăn đầy
đủ, thậm chí cá vớt trên sông vẫn thấy chúng ăn nhau trong đáy vớt cá bột. Ngoài ra
khi khảo sát cá bột vớt trên sông còn thấy trong dạ dày của chúng có rất nhiều phần cơ
thể và mắt cá con. Dạ dày của cá phình to hình chữ U và co giãn được. Ruột cá tra
ngắn, không gấp khúc lên nhau mà dính vào màng treo ruột ngay dưới bóng khí và
tuyến sinh dục. Dạ dày to và ruột ngắn là đặc điểm của cá thiên về ăn thịt. Ngay khi

vừa hết noãn hoàng cá thể hiện rõ tính ăn thịt và ăn lẫn nhau, do đó để tránh hao hụt do
ăn nhau trong bể ấp cần nhanh chóng chuyển cá ra ao ương. Trong quá trình ương nuôi
thành cá giống trong ao, chúng ăn các loại phù du động vật có kích thước vừa cỡ
miệng của chúng và các thức ăn nhân tạo. Khi cá lớn thể hiện tính ăn rộng, ăn tạp thiên
về động vật và dễ chuyển đổi loại thức ăn. Trong điều kiện thiếu thức ăn, cá có thể sử

3


dụng các lọai thức ăn bắt buộc khác như mùn bã hữu cơ, thức ăn có nguồn gốc động
vật. Trong ao nuôi cá tra có khả năng thích nghi với nhiều loại thức ăn khác nhau như
cám, rau, động vật đáy (Hội nghề cá Việt Nam, 2004).
Khi phân tích thức ăn trong ruột cá đánh bắt ngoài tự nhiên, cho thấy thành phần
thức ăn của cá tra ăn tạp thiên về động vật.
Bảng 2.1: Thành phần thức ăn trong ruột cá tra trong tự nhiên.
STT

Thành phần thức ăn

Tỷ lệ

1

Nhuyễn thể

35,4%

2

Cá nhỏ


31,8%

3

Côn trùng

18,2%

4

Thực vật lớn

10,7%

5

Thực vật đa bào

1,6%

6

Giáp xác

2,3%

(Nguồn: D.Menon và P.I.Cheko, 1955)
2.1.5 Đặc điểm sinh trưởng
Cá tra là loài tăng trưởng nhanh. Khi còn nhỏ cá tăng nhanh về chiều dài, từ

khoảng 2,5 kg trở đi, mức tăng trọng lượng nhanh hơn so với tăng chiều dài cơ thể. Cá
tra trong tự nhiên có thể sống trên 20 năm. Cá nuôi ao trong năm đầu tiên có thể đạt 12 kg/con và những năm sau tăng trọng nhanh hơn (Thông Tin Chuyên Đề Thủy Sản,
2008).
2.1.6 Đặc điểm sinh sản
Cá thành thục sau 2 - 3 năm tuổi với trọng lượng từ 2,5 - 3 kg. Trong tự nhiên
chỉ gặp cá thành thục ở địa phận của Campuchia và Thái Lan.
Cá tra không có cơ quan sinh dục phụ (sinh dục thứ cấp) nên nếu chỉ nhìn hình
dáng bên ngoài thì khó phân biệt được cá đực, cái. Tuyến sinh dục của cá tra bắt đầu
phân biệt được đực cái từ giai đọan II tuy màu sắc chưa khác nhau nhiều. Các giai
đoạn sau, buồng trứng tăng về kích thước, hạt trứng màu vàng, tinh sào có hình dạng
4


phân nhánh, màu hồng chuyển dần sang màu trắng sữa. Hệ số thành thục của cá tra
khảo sát được trong tự nhiên (cỡ cá sống trên sông nặng khoảng 8 – 11 kg) từ 1,76 12,94% ở cá cái và từ 0,83 - 2,1% ở cá đực (Nguyễn văn Trọng, 1989). Trong ao nuôi
vỗ, hệ số thành thục cá tra cái có thể đạt tới 19,5%. Mùa vụ thành thục của cá trong tự
nhiên bắt đầu từ tháng 5 - 6 dương lịch, cá có tập tính di cư đẻ tự nhiên trên những
khúc sông có điều kiện sinh thái phù hợp thuộc địa phận Campuchia và Thái lan,
không đẻ tự nhiên ở phần sông của Việt Nam. Bãi đẻ của cá nằm từ khu vực ngã tư
giao tiếp 2 con sông Mekong và Tonlesap, tập trung nhất từ Prek Kampi đến hết Koh
Rongiev thuộc địa giới 2 tỉnh Kratie và Stung Treng. Tại đây có thể bắt được những cá
tra nặng tới 15 kg với buồng trứng đã thành thục. Cá đẻ trứng dính vào giá thể, thường
là rễ của một loài cây (Gimenila asiatica) sống ven sông (Thông Tin Chuyên Đề Thủy
Sản, 2008).
Trong sinh sản nhân tạo, ta có thể nuôi thành thục sớm và cho đẻ sớm hơn trong
tự nhiên từ tháng 3 dương lịch hàng năm. Cá tra có thể tái phát dục 1 - 3 lần trong một
năm (Thông Tin Chuyên Đề Thủy Sản, 2008).
Sức sinh sản tuyệt đối của cá tra từ 200 ngàn đến vài triệu trứng. Sức sinh sản
tương đối có thể tới 135 ngàn trứng/kg cá cái. Kích thước của trứng cá tra tương đối
nhỏ và có tính dính. Trứng sắp đẻ có đường kính trung bình 1mm. Sau khi đẻ ra và hút

nước, đường kính trứng khi trương nước có thể tới 1,5 - 1,6 mm (Thông Tin Chuyên
Đề Thủy Sản, 2008).
2.2 Tổng Quan Về Dinh Dưỡng Trên Cá Da Trơn
2.2.1 Một số nghiên cứu về dinh dưỡng trên cá da trơn Mỹ
Cá bột trong các trại giống được cho ăn thức ăn được xay nhuyễn chứa 45 50% protein. Những con cá hương lớn hơn được cho ăn thức ăn viên nổi (đường kính:
1/8 inch (3mm) chứa 35% protein. Cá giống lớn 5 - 6 inch (12,7 – 15,2 cm) và cá thịt
thì nên cho ăn thức ăn nổi có đường kính khoảng 5/32-3/16 inch (4 – 5 mm), chứa 28 32% protein (Robinson và ctv, 1998).

5


Thông thường, cá nên được cho ăn một lần một ngày thì thức ăn đó sẽ được
chúng tiêu thụ mà không gây bất lợi đến chất lượng nước. Tuy nhiên, tùy thuộc vào sự
thay đổi của chất lượng nước và sức khỏe của cá mà chúng được cho ăn ít hơn lượng
thức ăn hàng ngày hoặc cho ăn kém thường xuyên hơn. Về lâu dài lượng thức ăn cho
phép không nên vượt quá 100 - 125 pound/mẫu Anh/ngày (45,4 – 56,75
kg/0,4ha/ngày) (Robinson and Li, 2007).
Hầu hết người nuôi cá da trơn cho ăn một lần/ngày, 7 ngày/tuần trong suốt
những tháng ấm. Mặc dù vậy, cách cho ăn 2 lần/ngày có thể cải thiện một ít về tăng
trưởng trên cá giống, nhưng về mặc hậu cần việc làm này là không thực tế đối với các
trang trại lớn (Robinson và ctv, 1998).
Có một vài nhân tố giúp người nuôi xác định được lượng thức ăn cho cá. Nó
bao gồm toàn bộ những sinh vật có trong ao trong một thời điểm nhất định (số lượng
và trọng lượng cá trong ao, kích cỡ cá, nhiệt độ nước, chất lượng nước, và thời tiết).
Việc cho ăn đặc biệt quan trọng khi nuôi cá trong một hệ thống nuôi nhiều lứa, lúc đó
sẽ có nhiều cỡ cá trong một ao bởi vì những con nhỏ hơn thì ít hiếu chiến hơn trong
giành thức ăn. Việc cho ăn trong trường hợp này có thể là một vấn đề vì khi đó ta
không biết tất cả cá trong ao có ăn hết không. Do đó sẽ dễ dàng dẫn đến cho ăn quá
mức dẫn đến tiêu phí thức ăn và ảnh hưởng đến chất lượng nước (Robinson và ctv,
1998).

Tỷ lệ cho ăn không nên vượt quá những gì mà cá trong ao cần. Giới hạn trung
bình về tỷ lệ cho ăn hàng ngày không nên vượt quá 120-150 pound/mẫu Anh (54,48 –
68,1 kg/0,4ha), nhưng thỉnh thoảng có thể cho ăn với tỷ lệ cao hơn. Khi được so sánh
với tỷ lệ cho ăn bị hạn chế (không quá 80 pound/mẫu Anh/ngày tương đương với
36,32 kg/0,4ha/ngày) thì cá được cho ăn hàng ngày bằng với lượng 120 - 150
pound/mẫu Anh/ngày (54,48 – 68,1 kg/0,4ha) đạt kết quả là năng suất cao hơn và tăng
trưởng nhanh hơn nhưng hệ số chuyển đổi thức ăn lại cao hơn. Hệ số chuyển đổi thức
ăn thấp trên cá được cho ăn với một tỷ lệ hạn chế là một điều quan trọng bởi vì chi phí
thức ăn sẽ thấp hơn khi được so sánh với cá được cho ăn no. Họ cũng kết luận rằng
tổng lượng thức ăn được hấp thu, năng suất, tốc độ tăng trưởng và hệ số chuyển đổi
6


thức ăn thì như nhau khi cá được cho ăn tối đa hoặc ăn ở một tỷ lệ thấp hơn 120
pound/mẫu Anh/ngày (54,48 kg/0,4ha/ngày) dưới hệ thống nuôi đơn lứa (Mississippi
State University Extension Service, 2007).
So sánh giữa cho ăn một lần/ngày và hai lần/ngày: Cho ăn một lần/ngày thì hợp
lý hơn là cho ăn hai lần/ngày đối với cá nuôi thịt. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng cho
ăn hai lần/ngày đối với cá thịt thì không nhất thiết có lợi. Phương pháp cho cá ăn hai
lần/ngày thường được đề nghị nhiều hơn cá được cho ăn một lần/ngày mặc dù lượng
thức ăn nhiều hơn được sử dụng khi cho ăn sẽ không được chuyển đổi hoàn toàn để
chuyển thành trọng lượng. Việc cho ăn hai lần/ngày còn làm tăng hệ số chuyển đổi
thức ăn bởi vì nếu người nuôi không cẩn thận thức ăn sẽ bị tiêu phí do việc cho ăn quá
mức (Robinson và ctv, 1998)
So sánh giữa cho ăn một lần/ngày và cho ăn một lần sau mỗi 3 ngày: Các
khuyến cáo đều cho rằng cá da trơn nuôi được cho ăn một lần/ngày. Việc cho ăn kém
thường xuyên hơn chỉ được yêu cầu dưới những điều kiện nhất định. So với cá được
cho ăn đầy đủ hàng ngày thì cá được cho ăn một lần sau mỗi 3 ngày tiêu thụ đến 5065% hơn lượng thức ăn trong những ngày được cho ăn. Lượng thức ăn tiêu thụ được
tăng lên trên cá được cho ăn một lần sau mỗi 3 ngày là một kết quả quan trọng của sự
bù đắp tăng trưởng, hoặc một phần của sự bù đắp tăng trưởng. Cá có thể bù đắp toàn

bộ hoặc một phần của sự giảm sút trọng lượng trong một thời gian ngắn không cho ăn
khi được cho ăn đầy đủ trở lại. Mặc dù có một vài lợi thế (hệ số chuyển đổi thức ăn
giảm, chi phí lao động và sục khí) khi cho ăn một lần sau mỗi 3 ngày nhưng không nên
cho ăn theo cách này vì cá được cho ăn một lần sau mỗi 3 ngày có thể làm giảm năng
suất chế biến cá và kéo dài chu kỳ sản xuất. Vì thế, về lâu dài nó không hiệu quả về
kinh tế (Robinson và ctv, 1998).
So sánh giữa cho ăn 7 ngày/tuần với 6 ngày/tuần hoặc 5 ngày/tuần: Trong suốt
mùa nuôi, người sản xuất cá da trơn cho cá ăn 7 ngày/tuần, nhưng một vài người sản
xuất cho ăn 6 ngày/tuần. Việc cho ăn 6 ngày/tuần (không cho ăn vào ngày chủ nhật)
làm giảm năng suất gần 3,3% và cho ăn 5 ngày/tuần (không cho ăn vào thứ bảy và chủ
nhật) thì làm giảm năng suất gần 6,9% so với cá được cho ăn 7 ngày/tuần trong suốt vụ
7


nuôi. Hệ số chuyển đổi thức ăn giảm 4,8% và 7,9% đối với cá được cho ăn 6 ngày và 5
ngày khi được so sánh với cá cho ăn 7 ngày/tuần. Cho ăn 6 ngày/tuần có thể làm giảm
chi phí sản xuất đối với cá nheo đốm khi đạt kích cỡ cá thịt (nghiên cứu dùng hệ thống
nuôi đơn lứa và cá được cho ăn đến mức tối đa). Ngoài ra, nếu sử dụng chiến lược cho
ăn này trong một hệ thống nuôi cá nhiều lứa, việc bỏ cho ăn nhiều ngày có thể có một
tác động tiêu cực hơn so với trong hệ thống nuôi đơn lứa bởi vì những cá nhỏ có thể
mất nhiều trọng lượng hơn (Robinson và ctv, 1998)
Một kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của kích cỡ và tần số cho ăn trên cá nheo
đốm (Ictalurus punctatus) cho rằng cá được cho ăn hàng ngày thì lượng thức ăn được
tiêu tốn nhiều hơn và cho năng suất cao hơn. Khi cá được cho ăn một lần sau mỗi ba
ngày với cá được cho ăn hàng ngày thì tỷ lệ thức ăn bị tiêu tốn trong những ngày được
cho ăn tăng 61% cho cá nhỏ (trọng lượng ban đầu = 36 gram), 46% cho cá trung bình
(169 gram) và 68% cho cá lớn (354 gram). Hệ số chuyển đổi thức ăn trên cá được cho
ăn hàng ngày thì cao hơn cá được cho ăn 3 ngày một lần. Cá lớn hơn thì ăn nhiều hơn
và cho sản lượng cao hơn ở cá có kích thước trung bình và cá lớn. Qua phân tích số
liệu người ta thấy cá được cho ăn hàng ngày thì tiêu thụ nhiều thức ăn hơn và cho năng

suất cao hơn cá cho ăn một lần sau mỗi 3 ngày (Robinson và ctv, 1998).
Việc biết được thời gian cho ăn tốt nhất trong suốt một ngày trên một trang trại
lớn là điều quan trọng bởi vì trong một thời gian hạn chế cần phải sử dụng nhiều thiết
bị để có thể hoàn thành việc cho ăn trên một số lượng lớn ao. Trong thời gian thời tiết
ấm áp các nhà sản xuất cá da trơn thường cho ăn vào buổi sáng ngay khi hàm lượng
oxy hòa tan bắt đầu tăng. Trong các nghiên cứu người ta nhận thấy rằng không có một
lợi thế nào trong việc cho ăn vào một thời điểm nhất định trong ngày. Không có những
sự khác nhau trong tăng trưởng, lượng thức ăn được tiêu thụ, và hệ số chuyển đổi thức
ăn giữa cá được cho ăn vào các thời điểm 8 giờ 30; 16 giờ; 20 giờ. Không có sự khác
nhau trong thời gian sục khí khẩn cấp được ghi lại giữa các nghiệm thức. Tuy nhiên
không nên cho ăn vào lúc gần tối hoặc vào buổi tối ở những ao nuôi lớn bởi vì thật
không hợp lý khi tiến hành sục khí trong ao nuôi lớn như trong các thí nghiệm nhỏ
được. Thông thường hàm lượng oxy hòa tan xuống thấp nhất sau 6 giờ cá ăn. Nếu DO
trong thời gian này thấp mà sự sục khí không đủ cung cấp oxy thì cá có thể bị stress và
chết. Nói chung trên thực tế cho ăn vào buổi sáng là tốt nhất, khi hàm lượng oxy hòa
8


tan bắt đầu tăng trong suốt thời gian thời tiết ấm áp. Tuy nhiên trong những ngày trời
lạnh, nhiệt độ nước sẽ cao hơn vào buổi chiều và khi đó cá sẽ ăn tốt hơn (Robinson và
ctv, 1998).
2.2.2 Một số nghiên cứu về dinh dưỡng trên cá tra ở Việt Nam
Cá tra nuôi trong 2 - 3 tháng đầu cần đảm bảo 20 - 28% protein để cá có đủ sức
lớn nhanh trong giai đoạn kế tiếp. Giai đoạn tiếp theo cho đến thu hoạch, hàm lượng
đạm trong thức ăn chỉ cần khoảng 15 - 18%, bột đường 40 – 45%, chất béo 8 – 11%,
xơ 14 – 20% và khoáng 9% (Bùi Quang Tề, 2006).
Cá tra thịt cho ăn 1 - 2 lần/ngày. Cá háu ăn và tranh mồi nhiều, do đó cá lớn
giành ăn trước cá nhỏ hơn. Khẩu phần ăn tùy thuộc vào sức ăn của cá, thường từ 3 –
5% trọng lượng cá/ngày. Hệ số tiêu tốn thức ăn của cá tra trung bình 2,5 - 3,0 đối với
thức ăn tự chế biến. Đối với thức ăn công nghiệp, hệ số chuyển đổi thức ăn từ 1,5 - 2,0

(Bùi Quang Tề, 2006).
Cá nhỏ cho ăn 4 – 6 lần/ngày do kích thước dạ dày nhỏ chứa lượng thức ăn ít,
tỷ lệ giữa lượng thức ăn và trọng lượng lớn và tăng trưởng nhanh hơn cá lớn. Số lần
cho ăn giảm xuống còn 2 – 3 lần/ngày đối với cá lớn. Cùng một kích cỡ với nhau
nhưng số lần cho ăn tăng lên 3 – 4 lần thay vì 2 – 3 lần thì cá sẽ tăng trưởng nhanh hơn
và hiệu quả sử dụng thức ăn tốt hơn vì:
* Cho ăn 1 – 2 lần lượng thức ăn của một lần quá nhiều cá ăn không hết.
Số lần cho ăn tăng lên thì lượng thức ăn được chia nhỏ ra dẫn đến lượng thức ăn cá lấy
vào nhiều hơn (Lê Thanh Hùng, 2000).
* Về phương diện sinh lý tiêu hóa, cùng số lượng thức ăn lấy vào hàng
ngày nhưng số lần cho ăn tăng lên dẫn đến hiệu quả tiêu hóa và hấp thụ thức ăn tăng
do nhịp sản xuất các enzyme tiêu hóa và thời gian thức ăn lưu giữ trong đường
tiêu hóa. Do đó, nếu có điều kiện cho ăn nhiều lần trong ngày sẽ tốt hơn cho ăn 1 – 2
lần/ngày (Lê Thanh Hùng, 2000).

9


Một vấn đề cũng được đặt ra là cho ăn vào thời điểm nào thì tốt nhất. Đối với cá
rô phi cho ăn ban ngày và ban đêm là như nhau. Thường cá ăn khi hàm lượng oxy hòa
tan trong ao cao trên 2 mg/l. Khi oxy giảm thấp cá không ăn, tất cả đều nổi đầu. Vì vậy
đối với cá rô phi nuôi trong ao thường cho ăn vào 8 – 9 giờ sáng và tối không cho ăn.
Trái lại cá trê thường có tập tính ăn mạnh vào ban đêm, do đó nên cho ăn vào lúc sáng
sớm và chiều tối. (Lê Thanh Hùng, 2000).
Lượng thức ăn trong ngày thay đổi tùy kích cỡ cá. Lượng cho ăn tính theo phần
trăm trọng lượng thân. Cá càng nhỏ thì lượng cho ăn trên trọng lượng thân càng lớn và
khi cá lớn lên lượng thức ăn tương đối này giảm theo (Lê Thanh Hùng, 2000).
Bảng 2.2: Định lượng thức ăn cho cá trơn Mỹ
Đường kính thức ăn


% trọng lượng

viên (mm)

thân

Mới nở

0,5

6-8

1,5 - 4 cm

0,8

6

4 – 6,5 cm

2,0

5

5 – 16 cm

3,3

3-4


5 - 10

2

Cá lớn

(Nguồn: Lê Thanh Hùng, 2000)
2.2.3 Khảo sát thực tế về tần số cho ăn và khẩu phần ăn trên cá tra cỡ 8 - 10 cm ở
tỉnh An Giang (Mẫu điều tra xem phần phụ lục 1).
- Về số lần cho ăn: Phần lớn người dân ở đây đều cho ăn 2 lần/ngày vào các
thời điểm 7-8 giờ và 16 giờ. Một số hộ cho ăn 3 lần/ngày vào các thời điểm 7 - 8 giờ,
10 giờ và 16 giờ . Rất ít hộ cho ăn 4 lần/ngày, cho ăn vào các thời điểm: 8 giờ, 11 giờ,
14 giờ và 16 giờ.
- Về tỷ lệ cho ăn: Đa phần người dân không tính khẩu phần ăn trong từng thời
kỳ. Họ cho ăn đến khi nào cảm thấy cá ăn no thì thôi. Cuối vụ dựa vào sản lượng và
lượng thức ăn tổng cộng được cho ăn mà họ tính hệ số chuyển đổi thức ăn. Ở một số

10


hộ nuôi có theo dõi khẩu phần ăn của cá thì họ cho ăn khoảng từ 4 - 6% trọng lượng
thân và thức ăn được họ chia đều ra cho các lần cho ăn trong ngày.
- Về loại thức ăn sử dụng: Theo số liệu thu thập được thì toàn bộ người dân đều
sử dụng thức ăn viên công nghiệp với đủ loại nhãn hiệu nhưng với cỡ cá điều tra thì đa
phần người dân thường sử dụng thức ăn của công ty Uni-President và công ty
GreenFeed.
- Về thành phần dinh dưỡng được sử dụng: Với cỡ cá điều tra thì trong thời gian
đầu họ cho ăn với hàm lượng protein tối thiểu từ 28-30%, khi cá lớn hơn thì họ cho ăn
với hàm lượng đạm khoảng 25- 26%.


11


Chương 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời Gian Và Địa Điểm Thực Hiện Đề Tài
- Địa điểm: Tại ao C16 của trại Thực Nghiệm Thủy Sản trường Đại Học Nông
Lâm TP Hồ Chí Minh.
- Thời gian: Từ 15/04/2008 đến cuối tháng 08/2008.
3.2 Vật Liệu và Phương Pháp Nghiên Cứu
3.2.1 Vật liệu
- Đối tượng: Thực hiện trên cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) với kích
thước cá trung bình từ 8 -10 cm
- Thức ăn khảo nghiệm: Chúng tôi sử dụng loại thức ăn HILEAN 30 6326 của
công ty GreenFeed với thành phần dinh dưỡng như sau:
* Đạm tối thiểu: 30%
* Xơ tối đa: 7%
* Béo tối thiểu: 5%
* Ẩm tối đa: 11%
* Tro tối đa: 12%
- Dụng cụ và hóa chất sử dụng gồm:
* Cân điện tử, giấy kẻ ô ly, giai lưới có kích thước 1x1x1,3 m, cọc tre,
thau nhựa, vợt.
* Đĩa secchi.
* Nhiệt kế loại 100oC.
* Các test kiểm tra chất lượng nước gồm: Test đo hàm lượng ammonia
(Sera NH3 Test Kit – Germany), test đo hàm lượng oxy hòa tan (Sera O2
Test Kit – Germany), test đo độ pH (Sera pH Test Kit - Germany).

12



3.2.2 Phương pháp nghiên cứu
- Yếu tố thí nghiệm: Số lần cho ăn (thí nghiệm 1) và tỷ lệ cho ăn (thí nghiệm 2).
- Đơn vị thí nghiệm ở cả hai thí nghiệm: Giai cá nuôi có kích thước 1×1×1,3 m,
mỗi giai 50 con.
- Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
- Bố trí thí nghiệm: Hoàn toàn ngẫu nhiên. Các điều kiện khác được giữ đồng
đều.
- Thời gian thí nghiệm: Thí nghiệm 1 được tiến hành trong 10 tuần, thí nghiệm
2 được tiến hành trong 8 tuần.
- Các chỉ tiêu theo dõi:
* Các chỉ tiêu về chất lượng nước: Hàm lượng oxy hòa tan (mg/L), pH,
nhiệt độ nước đo 2 lần/ngày vào lúc 6 giờ 30 và 16 giờ 30; hàm lượng
ammonia (đơn vị: mg/L), độ trong (đơn vị:cm) đo 2 lần/tuần vào buổi
sáng các ngày thứ 3 và thứ 6 hàng tuần.
* Tỉ lệ sống: Chúng tôi tiến hành xác định tỉ lệ sống khi kết thúc thí
nghiệm ở các nghiệm thức.
Tỷ lệ sống (%) = Số cá còn lại*100/ Số cá ban đầu
* Tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng: Về chiều dài chúng tôi tiến
hành đo chiều dài khi bắt đầu và kết thúc thí nghiệm (đo ngẫu nghiên
30 con); còn về trọng lượng chúng tôi cân trọng lượng từng giai sau
mỗi 2 tuần, công thức tính chiều dài trung bình và trọng lượng trung
bình:
Chiều dài trung bình (cm/con) = Tổng chiều dài của từng cá thể / Tổng
số cá đo chiều dài
Trọng lượng TB (gram/con) = Tổng trọng lượng thu được/ Tổng số cá
* Hệ số chuyển đổi thức ăn ( Feed conversion ratio: FCR): Được tính khi
kết thúc thí nghiệm.
FCR = lượng thức ăn sử dụng/ (tăng trọng cá cuối thí nghiệm + tăng

trọng cá bị chết)

13


* Hệ số biến động (Cv): Dùng để xác định mức độ phân đàn của cá thí
nghiệm giữa các nghiệm thức được tính khi kết thúc thí nghiệm.
Cv (%) = 100*Độ lệch chuẩn của nghiệm thức/trọng lượng trung bình
của nghiệm thức.
- Xử lý số liệu:
 Sử dụng phần mềm Minitab 14.0 với trắc nghiệm Tukey để phân tích
phương sai (ANOVA) và so sánh sự sai biệt giữa các nghiệm thức.
 Sử dụng phần mềm Excel để tính các giá trị trung bình, FCR và hệ số
biến động của từng nghiệm thức.
3.3 Bố Trí Thí Nghiệm
3.3.1 Thí nghiệm 1: Xác định số lần cho ăn thích hợp
Thí nghiệm gồm 3 nghiệm thức:
- Nghiệm thức I: Gồm 3 giai (cho ăn 2 lần/ngày vào lúc 7 giờ và 16 giờ).
- Nghiệm thức II: Gồm 3 giai (cho ăn 3 lần/ngày vào lúc 7 giờ, 12 giờ và 17
giờ).
- Nghiệm thức III: Gồm 3 giai (cho ăn 4 lần/ngày vào lúc 7 giờ, 11 giờ và 15
giờ và 19 giờ).
Các bước tiến hành:
- Chuẩn bị ao (ao C16): Trước khi tiến hành thí nghiệm chúng tôi tiến hành tẩy
dọn ao: kéo cá tạp, bơm cạn ao; dọn cỏ quanh bờ ao; bón vôi và phơi ao một
ngày trước khi cắm giai và cho nước vào ao.
- Chuẩn bị giai:
• Tổng số giai: 9 giai thí nghiệm và 1 giai lớn để trữ cá trước khi bố trí.
• Giai cá thí nghiệm có kích thước 1×1×1,3 m. Mực nước trong giai dao
động từ 0,8 – 1,1 m.

- Chuẩn bị cá:
• Cá thí nghiệm được chuẩn bị trước ngày 20/04/2008, có kích thước
trung bình từ 8 - 10 cm, khỏe mạnh và không dị tật.

14


• Cá thí nghiệm được bố trí trong giai sau khoảng 2 - 3 ngày để cá thích
nghi với môi trường mới trước khi tiến hành thí nghiệm. Mỗi giai được
bố trí 50 con.
- Bố trí thí nghiệm: Trước ngày tiến hành thí nghiệm 1 ngày thì thực hiện đo
chiều dài (chiều dài chuẩn của 30 con được bắt ngẫu nhiên) và trọng lượng tổng
của từng giai. Sơ đồ bố trí như sau:
Giai
NT

1
NT
III.2

2
NT
II.2

3
NT
II.1

4
5

NT NT
I.2 I.3

6
NT
III.3

7
NT
I.1

8
NT
II.3

9
NT
III.1

Chăm sóc và quản lý:
• Ngày đầu tiên cá được cho ăn thử ở 3 giai của nghiệm thức cho ăn 2
lần/ngày (nghiệm thức I) để xác định lượng thức ăn trung bình của 3
giai này, rồi dựa vào lượng thức ăn này để tính lượng thức ăn cho các
giai còn lại. Sau mỗi tuần thay đổi lượng thức ăn 1 lần. Lúc này lượng
thức ăn được tính dựa trên lượng thức ăn của 1 trong 3 giai ăn yếu
nhất của nghiệm thức I để đảm bảo các giai còn lại ăn hết.
• Ghi chép lượng ăn hàng ngày cho từng giai, quan sát lượng thức ăn
thừa trong từng giai để vớt ra và tính trọng lượng của nó để tính FCR
được chính xác. Trọng lượng thức ăn thừa được tính dựa trên việc đếm
số lượng viên thức ăn cá không ăn trong từng giai.

• Sau mỗi 2 tuần thì tiến hành cân toàn bộ số cá trong các giai để hiệu
chỉnh lại lượng thức ăn theo cùng một tỷ lệ phần trăm so với tổng
trọng lượng cá trong từng giai.
• Hàng ngày cho ăn đúng giờ ở các nghiệm thức, quan sát có cá chết ở
các giai thì vớt ra, cân cá chết trước khi bỏ đi.
• Theo dõi các chỉ tiêu chất lượng nước, nếu thấy chất lượng nước không
tốt thì tiến hành xử lý như thay nước, bón vôi….
• Đến ngày cuối cùng của tuần thứ 10 thì tiến hành đo chiều dài (đo ngẫu
nhiên 30 con) và cân trọng lượng (gồm cân trọng lượng tổng ở mỗi
15


giai để tính FCR cho giai đó và trọng lượng của từng cá thể còn lại
trong các giai để tính hệ số biến động của các giai).
3.3.2 Thí nghiệm 2: Xác định tỷ lệ cho ăn thích hợp dựa trên kết quả đạt được
của thí nghiệm 1
Thí nghiệm 2 gồm 3 nghiệm thức:
- Nghiệm thức 100: Gồm 3 giai (lượng thức ăn: cho cá ăn tối đa).
- Nghiệm thức 90: Gồm 3 giai (lượng thức ăn = 90% lượng thức ăn của nghiệm
thức 100).
- Nghiệm thức 80: Gồm 3 giai (lượng thức ăn = 80% lượng thức ăn của nghiệm
thức 100).
Các bước tiến hành:
- Chuẩn bị cá:
• Cá thí nghiệm được chuẩn bị trước ngày 01/07/2008 1 tuần và có kích
thước trung bình từ 12-13 cm. Cá lớn hơn thí nghiệm 1 vì điều kiện
khách quan không mua được cá nhỏ hơn như ở thí nghiệm 1.
• Cá thí nghiệm có kích cỡ đồng đều, khỏe mạnh, không dị tật…
- Bố trí thí nghiệm:
• Trước ngày tiến hành thí nghiệm 1 ngày thì thực hiện đo chiều dài

(chiều dài chuẩn của 30 con được bắt ngẫu nhiên) và trọng lượng của
toàn bộ số cá của từng giai. Sơ đồ bố trí như sau:
Giai
NT

1
NT
100.1

2
NT
80.3

3
NT
90.3

4
NT
100.2

5
NT
80.1

6
NT
90.2

7

NT
80.2

8
NT
90.1

9
NT
100.3

- Chăm sóc và quản lý:
• Cách chăm sóc và quản lý cũng tương tự như thí nghiệm 1, chỉ có
phương pháp tính lượng thức ăn của các nghiệm thức là thay đổi.
• Phương pháp tính lượng thức ăn của các nghiệm thức: Ngày đầu tiên cá
được cho ăn thử ở 3 giai của nghiệm thức 100 để xác định lượng thức
ăn trung bình của 3 giai này, rồi dựa vào khẩu phần này để tính lượng
thức ăn cho các nghiệm thức 90 và 80. Sau 1 tuần thì thay đổi lượng
16


thức ăn 1 lần. Lúc này lượng thức ăn được tính dựa trên khẩu phần của
1 trong 3 giai ăn yếu nhất ở nghiệm thức 100 để đảm bảo các giai còn
lại ăn hết.
• Thời gian cân định kỳ, phương pháp tính toán và xử lý số liệu cũng
tương tự như ở thí nghiệm 1.
Một số hình ảnh về vật liệu và dụng cụ dùng trong thí nghiệm:

Hình 3.1 Các test kiểm tra chất lượng


Hình 3.2 Thức ăn viên dùng trong

nước, nhiệt kế, đèn và cân đồng hồ.

thí nghiệm.

Hình 3.3 Cân cá định kỳ
17


×