Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (377.68 KB, 13 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của nghiên cứu
Lý thuyết và thực tiễn đã chứng minh rằng, tự do hóa thương mại có
những tác động trực tiếp và gián tiếp tới ô nhiễm môi trường của một ngành và
một quốc gia. Nghiên cứu thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới như Hettige
và cộng sự (1996), Edward (1993), Mani và Wheeler (1999), Dean (2002),
Ederington (2004), Mani và Jha (2005), Guminlang (2011) đã cho thấy, không
phải mọi tác động là như nhau mà có sự khác nhau xuất phát từ đặc thù riêng
của từng ngành và từng quốc gia. Nhưng tổng hợp lại thì tác động tiềm tàng của
tự do hóa thương mại đến mơi trường gồm: (i) tự do hóa thương mại tác động
tới các quy định môi trường; (ii) tự do hóa thương mại tác động tới mơi trường
thơng qua sự chun mơn hóa, chuyển dịch cơ cấu trong ngành; (iii) tự do hóa
thương mại tác động tới mơi trường thông qua kênh đầu tư, chuyển giao công
nghệ; (iv) tự do hóa thương mại tác động tới mơi trường bằng hiệu ứng trực tiếp.
Do vậy, cần có những cơng trình nghiên cứu tiếp theo ở mức độ chi tiết hơn
những kênh nào cũng như những yếu tố nào diễn ra tác động của tự do hóa
thương mại tới ơ nhiễm mơi trường và mức độ tác động của nó đến các ngành và
các doanh nghiệp.
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế
giới - WTO (World Trade Organization) từ năm 2007. Cho đến nay, Việt Nam
đã có quan hệ thương mại với hầu hết các nước trên thế giới. Tự do hóa thương
mại trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, có tác động trực tiếp và nhanh nhất đến
thương mại quốc tế và đầu tư, từ đó lan tỏa đến sản xuất trong nước, tạo việc
làm và giảm nghèo. Ngoài ra, tự do hóa thương mại cịn có những tác động vơ
hình khác như làm gia tăng nhận thức của xã hội về nhu cầu hội nhập, đổi mới
mạnh mẽ thể chế nhà nước, hệ thống văn bản pháp luật ngày càng đồng bộ. Tuy
nhiên, Việt Nam không thể né tránh những vấn đề thương mại và suy thối mơi
trường trong hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và trong WTO nói riêng. Vấn
đề thương mại và môi trường trong các Hiệp định của WTO; hiệp định thương
mại song phương, đa phương được thể hiện dưới dạng tiêu chuẩn về quy trình
sản xuất và chế biến, các quy định về nhãn mác, các hệ thống phí, lệ phí liên


quan đến mơi trường đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu (MUTRAP, 2015).
Công nghiệp chế biến, chế tạo là ngành có ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng
toàn nền kinh tế của Việt Nam vì đây là ngành lớn, đóng góp hơn 70% tỷ trọng
giá trị xuất nhập khẩu hàng hóa, đóng góp khoảng 18% vào GDP của cả nước.
Khu vực sản xuất công nghiệp từ giai đoạn năm 2007-2011 chịu ảnh hưởng lớn
của sự tăng giá đầu vào, lạm phát, suy thoái kinh tế thế giới, khủng hoảng nợ

công… khiến mức tăng trưởng chậm lại và hiệu quả thấp. Giai đoạn 2011-2015,
sản xuất công nghiệp từng bước phục hồi; chỉ số phát triển công nghiệp 2015
tăng khoảng 10%; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công
nghiệp tăng mạnh. Cơ cấu trong nội bộ ngành công nghiệp đã dần chuyển dịch
theo hướng tích cực. Cơng nghiệp khai khống giảm từ 37,1% năm 2011 xuống
khoảng 33,1% năm 2015; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 50,1% năm
2011 lên 51,5% năm 2015. Sau 10 năm gia nhập WTO, độ mở nền kinh tế Việt
Nam đã tăng từ 144% năm 2007 lên 173% năm 2016 (Bộ Công Thương, 2017).
Như vậy, tự do thương mại đã thúc đẩy ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trong những năm qua. Nhưng sự phát triển
đó có tác động đến chất lượng mơi trường hay khơng? Đã có những nghiên cứu
thực địa chứng minh rằng, có mối quan hệ giữa tự do hóa thương mại và ơ nhiễm
mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (Hettige và cộng sự, 1996) hay
(Dean, 2002; Edwards, 1993; Ederington và cộng sự, 2004; Nguyen Duy Loi, 2010).
Ở Việt Nam, các nhà kinh tế cũng đã nghiên cứu mối quan hệ giữa tự do hóa thương
mại với ơ nhiễm mơi trường từ ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo và cho rằng đó
là mối quan hệ thuận chiều (Mani và Jha.S, 2005) (Pham Thai Hung và cộng sự,
2008). Tuy nhiên, nghiên cứu này thực hiện khi Việt Nam mới bắt đầu gia nhập
WTO, vì vậy chưa có nhiều thời gian để kiểm định. Ngân hàng thế giới cũng đã
nghiên cứu mối quan hệ giữa thương mại và ô nhiễm môi trường trong ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam (WB, 2007), nhưng nghiên cứu chỉ dừng lại ở
việc xếp hạng các ngành gây ơ nhiễm mơi trường .
Tóm lại, tự do thương mại có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của

ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam, nhưng đồng thời cũng gây ra
những tác động tới môi trường. Tuy nhiên, tác động này chưa được xác định rõ và
đầy đủ trên cả phương diện định tính và định lượng. Từ thực tế đó việc nghiên cứu
sinh (NCS) lựa chọn đề tài “Tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm
mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam” có ý nghĩa
quan trọng cả mặt lý luận và thực tiễn, đáp ứng đúng yêu cầu thực tiễn quản lý ô
nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tác động của tự do hóa thương mại
tới ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam từ
đó đưa ra các giải pháp phù hợp nhằm giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương
mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành này.
Mục tiêu cụ thể
- Nghiên cứu cơ sở lý luận tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm
mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo;


- Phân tích thực trạng của tự do hóa thương mại và ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam;
- Phân tích tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm mơi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hạn chế tác động của tự do hóa thương mại tới ơ
nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác động của tự do hóa thương mại
tới ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung: Luận án nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tác
động tới ơ nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt

Nam thông qua doanh nghiệp trong ngành, các doanh nghiệp được sử dụng theo
ngành cấp 4 và các doanh nghiệp có hoạt động xuất nhập khẩu.
Ngồi ra, NCS cịn nghiên cứu theo loại hình doanh nghiệp, quy mơ
doanh nghiệp và phân vùng kinh tế.
+ Thời gian: từ năm 2006 đến năm 2014, các giải pháp, kiến nghị được đề
xuất đến 2025, tầm nhìn 2035;
+ Khơng gian: Luận án nghiên cứu trên phạm vi cả nước Việt Nam, dựa
trên 7 vùng kinh tế là Thành phố Trung Ương, Đồng bằng sơng Hồng, Miền núi
phía Bắc, Dun Hải, Tây Ngun, Đơng Nam Bộ và Đồng bằng sơng Cửu
Long.
4. Đóng góp mới của luận án
Luận án này, nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm
mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Bên cạnh những
kế thừa, luận án đã khắc phục được một số hạn chế của các nghiên cứu đi trước.
Sau đây là một số đóng góp mới về mặt lý luận và thực tiễn.
Về mặt lý luận: Luận án khẳng định tự do hóa thương mại có tác động tới
ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Trong cùng một
môi trường tự do thương mại như nhau thì loại hình, quy mơ, khu vực phân bố
của doanh nghiệp có tác động đến ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo ở những cấp độ khác nhau.
Về mặt thực tiễn: Luận án có khung lý thuyết vững, sử dụng mơ hình
nghiên cứu của nhà kinh tế học Hettige và cộng sự cùng bộ dữ liệu mảng được
ghép nối từ bộ số liệu của GES và IPPS giai đoạn từ năm 2006 đến 2014. Ngoài
các biến thể hiện đặc điểm doanh nghiệp như yếu tố đầu vào, tuổi, vùng phân
bố thì luận án cịn sử dụng thêm các biến kiểm soát như: i) loại hình, quy mơ
doanh nghiệp, ngành; ii) biến tương tác là tích số giữa tự do thương mại lần lượt
với loại hình và quy mơ doanh nghiệp, ngành. Đặc biệt, luận án sử dụng tỷ lệ

xuất khẩu, tỷ lệ nhập khẩu và tỷ lệ tổng kim ngạch để làm thước đo của tự do
hóa thương mại, đây là thước đo được sử dụng rộng rãi ở trên thế giới, nhưng

còn hạn chế ở Việt Nam.
Bằng chứng thực nghiệm khẳng định tự do hóa thương mại có tác động
đến ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Cụ
thể, tự do hóa thương mại và ơ nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo ở Việt Nam biến thiên ngược chiều. Đây là kết quả khác biệt so với
những kết quả nghiên cứu trước đây.
Bên cạnh đó, chỉ có sự tương tác là tích số giữa tự do hóa thương mại và
loại hình, quy mơ doanh nghiệp, ngành có tác động đến ơ nhiễm môi trường.
Đồng thời, trong cùng một môi trường tự do hóa thương mại, ơ nhiễm mơi
trường do doanh nghiệp FDI gây ra lớn hơn DN ngồi NN. Cịn DN lớn gây ô
nhiễm môi trường nhiều hơn DN nhỏ và DN siêu nhỏ. Đặc biệt, tốc độ gây ô
nhiễm môi trường của ngành bẩn lớn hơn nhiều lần ngành sạch. Cuối cùng, khu
vực Miền núi phía Bắc, Đơng Nam Bộ và Tây Nguyên là nơi tập trung nhiều
DN gây ô nhiễm nhất. Đồng bằng sơng Cửu Long và Miền núi phía Bắc là hai
khu vực được nhận thấy ô nhiễm nhiều nhất do ngành bẩn gây ra.
Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đưa ra các kiến nghị nhằm
giảm nhẹ tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
Thiếu hụt dữ liệu về ô nhiễm môi trường là một hạn chế trong nghiên cứu,
nhưng trong luận án này, NCS đã nghiên cứu và xử lý để có bộ dữ liệu về cường
độ ơ nhiễm của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Đây là một
phần đóng góp của luận án về cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu tiếp theo trong
lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo. Điểm mới này được các chuyên gia
trong lĩnh vực quản lý môi trường đánh giá cao. Bên cạnh đó, tác giả đã phân
loại ngành sạch và ngành bẩn ở cấp độ chi tiết 4 chữ số bằng việc sử dụng bộ
dữ liệu GES và IPPS. Đây là cấp phân loại ngành sạch – bẩn nối giữa VSIC và
ISIC chi tiết nhất hiện nay.
5. Cấu trúc của luận án
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý luận về tác động của tự do
hóa thương mại tới ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo

Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3. Đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Chương 4. Định hướng và giải pháp để giảm thiểu ô nhiễm môi trường
từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở
Việt Nam


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÁC ĐỘNG
CỦA TỰ DO HĨA THƯƠNG MẠI TỚI Ơ NHIỄM MÔI TRƯỜNG TỪ
NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại
tới ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
1.1.1 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp định tính
1.1.2 Các nghiên cứu về tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo bằng phương pháp định lượng
1.1.3 Đánh giá tình hình nghiên cứu và khoảng trống nghiên cứu của luận án
Các nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu IPPS và GSO để đánh giá tác động
của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo đều khẳng định rằng: quá trình hội nhập kinh tế thế giới, tự do thương
mại đã tác động đến môi trường, Việt Nam khơng nằm ngồi quy luật đó.Tuy
nhiên, đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tác động tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam trong thời gian Việt
Nam gia nhập WTO tới nay thì cịn hạn chế. Đặc biệt là sử dụng mơ hình của
Hettige và cộng sự để đánh giá tác động của tự do thương mại lên ô nhiễm môi
trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam cịn ít. Vì vậy
NCS lựa chọn mơ hình lý thuyết của Hettige và cộng sự để phân tích tác động
động của tự do thương mại tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp chế

biến, chế tạo ở Việt Nam dưới hai góc độ: Doanh nghiệp và ngành.
Về mặt lý thuyết, từ các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, tự do hóa
thương mại tác động tới mơi trường cả mặt tích cực lẫn tiêu cực và bằng cả
phương pháp định lượng lẫn định tính. Vì vậy trong nghiên cứu của mình, NCS
sử dụng cả phương pháp định lượng và phỏng vấn chuyên gia để nghiên cứu tác
động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo thông qua các kênh: quy định môi trường; thay đổi quy mô sản
xuất và thay đổi cơ cấu nền kinh tế; di cư ô nhiễm từ các nước phát triển qua các
nước đang phát triển thông qua đầu tư. Đây là nghiên cứu chi tiết hơn các
nghiên cứu trước đây ở Việt Nam. Ngồi ra, xét dưới góc độ ngành, nghiên cứu
của WB thực hiện ở Việt Nam năm 2008 chỉ dừng lại ở xếp loại ngành sạch,
ngành bẩn theo mã ngành ISIC bản sửa đổi lần 3. Nhưng trong nghiên cứu này,
ngoài xếp loại ngành sạch ngành bẩn chi tiết nhất ở cấp độ 4 chữ số theo VSIC
bản sửa đổi lần 4 thì NCS cịn so sánh tốc độ gia tăng ô nhiễm giữa hai ngành
sạch và bẩn để từ đó thấy được sự thay đổi cơ cấu trong ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn, NCS tiến hành đo lường tình trạng ô nhiễm môi trường

từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo dựa trên lượng thải. Từ đó, NCS sử dụng
phương pháp định lượng để nghiên cứu tác động của tự do hóa thương mại tới ơ
nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo qua thành phần ô
nhiễm là nước, không khí, chất độc và kim loại ở cấp độ DN thuộc ngành. Bởi
hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp luôn thải ra chất thải ở thể lỏng và khí,
các thành phần ơ nhiễm: nước, khơng khí, chất độc, kim loại được nghiên cứu
nhiều ở trên thế giới. Tình trạng ơ nhiễm nước, khơng khí, chất độc, kim loại
đang là vấn đề môi trường trầm trọng ở Việt Nam. Tác động này được kiểm
định qua biến loại hình doanh nghiệp, quy mơ doanh nghiệp, phân loại ngành.
Cuối cùng, NCS tiến hành phỏng vấn sâu để bổ sung vào kết quả định
lượng và gợi ý chính sách để giảm nhẹ những tác động của tự do hóa thương
mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở nước ta.

1.2 Cơ sở lý luận về tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
1.2.1 Một số vấn đề lý luận về tự do hóa thương mại
1.2.2 Một số vấn đề lý luận về ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo
1.2.3 Tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo
1.2.3.1 Khái niệm về tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm mơi trường
từ ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo
Tự do hóa thương mại tác động tích cực, tiêu cực đến các khía cạnh mơi
trường xuất phát từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo gọi là tác động của tự do
hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
1.2.3.2 Tự do hóa thương mại tác động tới các quy định môi trường trong ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo
Tóm lại, có 03 nhóm các quy định thương mại để xử lý các vấn đề môi
trường:
- Để xử lý các vấn đề mơi trường bên ngồi lãnh thổ thông qua các công
cụ thương mại như: cấm, hạn ngạch…;
- Để bù đắp đối với các quốc gia nới lỏng các quy định/ tiêu chuẩn về môi
trường thông qua đánh thuế hoặc biện pháp về hải quan;
- Các biện pháp phía sau biên giới: các biện pháp mơi trường nội địa
không trực tiếp vào các quốc gia khác. Đây là nhóm cơng cụ khơng rõ
ràng và dễ bị cho là có nhiều nguy cơ gây ra các tranh chấp thương mại
và tạo ra các rào cản thương mại, như: thuế và các quy định nội địa của
quốc gia nhập khẩu được áp dụng không phân biệt đối xử với các sản
phẩm được sản xuất trong nước và nhập khẩu có thể tạo ra rào cản
thương mại cho quốc gia xuất khẩu nếu các quy định môi trường ở quốc
gia nhập khẩu cao hơn so với quốc gia xuất khẩu. Các trợ cấp cho hàng



hóa xuất khẩu gây ra sự gia tăng các vấn đề mơi trường.
1.2.3.3 Tự do hóa thương mại tác động tới tăng năng suất của ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo
Như vậy, tự do hóa thương mại tác động lên tồn bộ ngành cơng nghiệp
chế biến, chế tạo.Tác động này bao gồm cả các doanh nghiệp nhỏ và doanh
nghiệp lớn, cũng như cả khu vực phi chính thức và chính thức. Đối với khu vực
kinh tế chính thức, việc giảm thuế hàng hóa cuối cùng làm tăng năng suất trung
bình, với sự gia tăng lớn nhất là kênh phân phối. Nếu các DN đầu tư công nghệ
và phân phối lại lực lượng sản xuất để tăng năng suất thì tác động của tự do hóa
thương mại tới ơ nhiễm mơi trường sẽ giảm đi và DN đó có khả năng thành
cơng trong mơi trường tự do hóa thương mại. Ngược lại, nếu DN tăng năng suất
bằng sản xuất nhiều hơn sẽ dẫn đến sự phá sản và gia tăng ô nhiễm bởi cạn kiệt
tài nguyên và gia tăng chất thải.
1.2.3.4 Tự do hóa thương mại tạo sự di cư của các ngành công nghiệp bẩn đến
các nước đang phát triển
Từ lý thuyết của các nhà kinh tế đưa ra, NCS sử dụng dữ liệu để xem xét,
trong tiến trình tự do hóa thương mại, Việt Nam có nằm trong quy luật là “ổ
chứa ô nhiễm” của một nước đang phát triển thơng qua dịng vốn FDI mà các
nhà kinh tế đã đưa ra? Thành phần môi trường bị ô nhiễm được xét đến trong
nghiên cứu này là nước, khơng khí, chất độc và kim loại.
1.2.3.5 Tự do hóa thương mại tạo sự chun mơn hóa trong ngành cơng nghiệp bẩn
Với việc Việt Nam khai thác lợi thế cạnh tranh chính trong các mặt hàng
thâm dụng lao động và thâm dụng tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu sang các đối
tác thương mại chính. Những đối tác nhìn chung có các quy định mơi trường
nghiêm ngặt hơn. Vì vậy, sự mở cửa thương mại ấn tượng của Việt Nam có thể
có những ảnh hưởng tiêu cực lên mơi trường. Bởi vì, để tiếp tục tăng trưởng
nhanh chóng như những năm vừa qua, Việt Nam có thể “chun mơn hóa” trong
những ngành “thâm dụng ơ nhiễm” hay những ngành có cường độ ơ nhiễm cao
(ngành bẩn). Nghiêm cứu thực nghiệm của Mani và Jha năm 2005 đã cho chúng
ta thấy điều đó (Mani và Jha.S, 2005). Như vậy, từ lý thuyết và thực tiễn đều

cho thấy, các nước đang phát triển đang “chuyên mơn hóa” trong những ngành
“thâm dụng ơ nhiễm”. Vậy, Việt Nam có nằm trong quy luật đó hay khơng
chính là mục tiêu của nghiên cứu này.
1.2.3.6 Tự do thương mại tác động đến đến môi trường bằng chuyển giao công
nghệ, tri thức và đầu tư
Tự do hóa thương mại sẽ tạo điều kiện cho quốc gia tham gia giảm thiểu ô
nhiễm môi trường bằng việc áp dụng những công nghệ tiên tiến, công nghệ
xanh. Nhưng ngược lại, tự do thương mại sẽ tạo ra áp lực cho môi trường nếu
quốc gia đó bị hạn chế về tài chính, chính sách.

CHƯƠNG 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Khung phân tích và giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên cơ sở lý thuyết và tổng quan về tác động của tự do hóa thương
mại tới ơ nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Để trả lời câu hỏi
nghiên cứu và kiểm định giả thuyết nghiên cứu, NCS sử dụng phương pháp
nghiên cứu định lượng với sự hỗ trợ của phần mềm kinh tế lượng Stata 12 và
phương pháp phỏng vấn, thống kê cùng với khung phân tích được sử dụng trong
nghiên cứu này như sau:
Tự do hóa thương mại

Quy định mơi
trường

Nơi trú ẩn ơ nhiễm
thông qua nguồn
vốn FDI

Tăng quy mô doanh
nghiệp thuộc ngành

công nghiệp bẩn

Chuyển dịch
cơ cấu sản xuất

Ơ nhiễm mơi trường

Sơ đồ 2.1: Khung phân tích
Nguồn: NCS Tổng hợp từ cơ sở lý luận
Từ các mối quan hệ của khung phân tích này và dựa trên tổng quan
nghiên cứu, các giả thuyết nghiên cứu được đưa ra để kiểm định thực nghiệm
như sau:
Giả thuyết 1: Khi tự do thương mại gia tăng thì ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia tăng. (Dean, 2002)
(Gumilang, 2011; Mani và Wheeler, 1998).
Giả thuyết nghiên cứu: dưới góc độ ngành và Doanh nghiệp
Dưới góc độ ngành:
Giả thuyết 2: Khi tự do thương mại gia tăng thì tải lượng ơ nhiễm từ
ngành bẩn lớn hơn ngành sạch. Hay nói cách khác, khi tự do hóa thương mại
gia tăng thì cơ cấu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam dịch
chuyển theo chiều hướng gia tăng ngành công nghiệp bẩn. (Mani và Jha.S,
2005) (Mani và Wheeler, 1999; Copeland và Taylor, 1994)


Dưới góc độ Doanh nghiệp:
Giả thuyết 3: Khi tự do hóa thương mại gia tăng thì Doanh nghiệp FDI
gây ơ nhiễm môi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác (Grossman and
Krueger, 1993) (Ederington và cộng sự, 2004).
Giả thuyết 4: Khi tự do thương mại gia tăng thì các doanh nghiệp có quy
mơ lớn gây ơ nhiễm mơi trường nhiều hơn các doanh nghiệp khác. (Copeland và

Tayor, 2003) ((Mani và Jha.S, 2005)
2.2 Phương pháp nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp thống kê mô tả
2.2.2 Phươg pháp nghiên cứu định lượng
2.2.2.1 Mơ hình đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường
Để ước lượng tác động của tự do hóa thương mại tới ơ nhiễm mơi trường
ngành cơng nghiệp, NCS sử dụng mơ hình dưới dạng hàm tải lượng ô nhiễm
tổng quát được đề xuất trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự (Hettige và
cộng sự, 1996) như sau:
P = β0 + β1 X+ β2 T+ β3 D+ui
(1)
Trong đó, P là mức độ ơ nhiễm, X là véc- tơ các yếu tố đầu vào, T là biến đại
diện cho tự do hóa thương mại, D là véc – tơ tập hợp các biến giả, ui là số hạng sai
số ngẫu nhiên.
Từ hàm tải lượng ô nhiễm tổng quát, NCS xây dựng mơ hình nghiên cứu
tải lượng ơ nhiễm của một doanh nghiệp và biểu diễn dạng tuyến tính như sau:
Pijt = β0 + β1 Xijt + β2 Tijt +Dijt β3 +ui
(2)
Trong đó, Pijt là mức độ ơ nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim
loại, nước, không khí) của doanh nghiệp thứ i thuộc ngành j theo thời gian t;
Xijt là yếu tố đầu vào; T là biến số đại diện cho mở cửa thương mại ; D là véc
tơ các biến kiểm soát bao gồm kiểm sốt về quy mơ doanh nghiệp, loại hình
doanh nghiệp và vùng miền phân bố; β là các véc – tơ hệ số của các tham số
phù hợp; ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.
Ngoài ra, để đánh giá tổng quát hơn về tác động của tự do hóa thương mại
đến ô nhiễm môi trường ở cấp độ ngành, mô hình được sử dụng dưới dạng tuyến
tính là:
Pjt = β0 + β1 Xjt + β2 Tjt + Djt β3 +ui
(3)
Trong đó, Pjt là mức độ ơ nhiễm (được đo bằng ô nhiễm chất độc, kim

loại, nước, không khí) của ngành thứ j theo thời gian t; Xjt là yếu tố đầu vào; T
là biến số đại diện cho mở cửa thương mại; D là véc tơ các biến kiểm soát bao
gồm kiểm soát về loại ngành và vùng miền phân bố; β là các véc – tơ của các hệ
số của các tham số phù hợp; ui là số hạng sai số ngẫu nhiên.
2.2.2.2 Phương pháp ước lượng
Mơ hình chung của dạng số liệu mảng như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + vit hay Yit = β0 + βi*Xit +ci + uit (vit = ci + uit)
(4)
Trong đó Yit là biến phụ thuộc; Xit là véc tơ các biến giải thích, vit là các

yếu tố ngẫu nhiên, ci là biến không quan sát được (thể hiện đặc điểm riêng của
từng quan sát hoặc từng đơn vị), uit thỏa mãn các giả thiết của phương pháp ước
lượng bình phương tối thiểu OLS.
Mơ hình hồi quy gộp POLS
Nếu khơng có cit thì mơ hình (4) khi được viết lại dưới dạng mơ hình hồi
quy gộp (Pooled Model) như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + uit
(4.1)
Trong đó Yit là biến phụ thuộc ; Xit là véc- tơ các biến giải thích trong phương
trình 4.
Mơ hình tác động cố định FEM
Mơ hình FEM có dạng như sau:
Yit = β0 + βi*Xit + ci + uit
(4.2)
Mơ hình FEM được ước lượng bằng phương pháp hồi quy cổ điến với
biến giả hoặc phương pháp biến đổi dọc như sau:
Có : Yi = β0 + βi*Xi + ci + uit

Y − Y = β (X
it


i

1

it



X

t

) + (u − u )
it

i

Phương pháp này giúp loại bỏ những ảnh hưởng theo chiều ngang của ci và
chỉ còn lại những ảnh hưởng theo chiều dọc. Vì thế hàm cịn có tên gọi là ước
lượng dọc.
Mơ hình hồi quy ngẫu nhiên REM
Cuối cùng, mơ hình được lựa chọn sẽ sử dụng hồi quy robust để kiểm soát
các vi phạm về phương sai thay đổi và tự tương quan của sai số ngẫu nhiên
(Wooldridge, 2002), (Greene, 2003).
2.2.2.3 Dữ liệu
i) Nguồn dữ liệu
Trong nghiên cứu này NCS sử dụng dữ liệu doanh nghiệp được chiết từ
bộ Điều tra Doanh nghiệp (GES) do Tổng cục Thống kê (GSO) thực hiện trong
giai đoạn 2006 – 2014. Bộ dữ liệu điều tra doanh nghiệp cung cấp một nguồn

thông tin phong phú ở cấp độ doanh nghiệp, ngành, bao gồm: giá trị xuất nhập
khẩu, năm thành lập, ngành hoạt động, hình thức sở hữu, cơ cấu vốn, cơ cấu
việc làm, vùng miền phân bố. Các thông tin này được khai thác để có một tập
hợp dữ liệu về đặc điểm của doanh nghiệp, ngành để sử dụng cho khung phân
tích đã nêu trên.
Cường độ ơ nhiễm được định nghĩa là: lượng ô nhiễm trên một đơn vị hoạt
động gây ra bởi các chất gây ô nhiễm. Sau đó, cường độ ơ nhiễm được dùng làm
mức ơ nhiễm ước tính, Hettige và cộng sự đã đưa ra nghiên cứu về cường độ ô
nhiễm năm 1996 (Hettige và cộng sự, 1996).
Lượng ô nhiễm
Cường độ ô nhiễm =
Một đơn vị hoạt động gây ra ô nhiễm


ii) Xử lý dữ liệu
iii) Biến số và thước đo
* Biến phụ thuộc
Hệ thống IPPS sử dụng ba loại hệ số ô nhiễm, bao gồm: (i) các hệ số dựa
vào sản lượng; (ii) các hệ số dựa vào giá trị gia tăng; (iii) các hệ số dựa vào việc
làm. Cả ba loại hệ số trên đều được nhận thấy có tương quan cao với nhau. Nhưng
ô nhiễm và việc làm được nhận thấy có biến thiên cùng chiều nên các hệ số dựa
vào việc làm thường được dùng để ước tính ơ nhiễm ở các nước đang phát triển.
Điều này được giải thích trong nghiên cứu của Hettige và cộng sự năm 1995. Ngoài
ra, hệ thống IPPS được kiểm tra với bộ dữ liệu ngành ở Mỹ và ở Indonesia cho ô
nhiễm nguồn nước, nghiên cứu cho thấy sự thay đổi cao đối với cường độ ô nhiễm
dựa trên hệ số lao động. Mặc khác, bộ số liệu điều tra doanh nghiệp của GSO
khơng có các thơng tin về sản lượng, giá trị gia tăng. Vì vậy trong luận án, NCS
dựa vào việc làm để suy tính giá trị ước tính tải lượng ơ nhiễm .
Cường độ ơ nhiễm =


Tải lượng ô nhiễm =

Lượng ô nhiễm (kg)
1.000 (Lao động)

Lượng ô nhiễm (kg) * Tổng lao động của doanh nghiệp

1.000 (Lao động)

Tải lượng ô nhiễm được lấy logarit trước khi đưa vào mơ hình nghiên
cứu.

Đối với mỗi chất ơ nhiễm khơng khí, nước và các chất độc hại cho hơn
240 hóa chất và kim loại, IPPS cung cấp một giá trị giới hạn thấp, giá trị giới
hạn cao và giá trị giới hạn trung vị. Trong nghiên cứu của WB áp dụng IPPS để
tính ảnh hưởng ơ nhiễm từ các ngành công nghiệp năm 2008, đã sử dụng giá trị
giới hạn thấp của cường độ ô nhiễm, để áp dụng cho nhiều biện pháp bảo tồn
của cường độ ơ nhiễm. Vì vậy, trong luận án này NCS cũng sử dụng giá trị giới
hạn thấp của cường độ ô nhiễm.
Cuối cùng, dựa vào nghiên cứu của Hettige và cộng sự (1995, trang 4) thì
“các cường độ ơ nhiễm theo ngành ln ln có phân phối theo hàm số mũ, với
một ít ngành cường độ cao và nhiều ngành cường độ rất thấp”. Như vậy các giá
trị ước tính ơ nhiễm nên được thực hiện ở càng chi tiết càng tốt. Vì vậy NCS sử
dụng các hệ số ô nhiễm ở cấp độ 4 chữ số, đây là cấp độ chi tiết nhất hiện có
trong hệ thống IPPS.
* Nhóm biến giải thích
Yếu tố đầu vào sản xuất được đo bằng K (nguồn vốn). Nguồn vốn (K)
được đại diện bởi nguồn vốn bình quân (trung bình cộng của nguồn vốn đầu
năm và nguồn vốn cuối năm) (Nguyễn Thị Cành, 2004; Bernanke và Gilchrist,
1996). Biến số này được logarit hóa khi đưa vào mơ hình hồi quy.


Halit (2003) ước tính tác động của tự do hóa thương mại đối với tăng
trưởng cho 120 quốc gia trong giai đoạn 1970-1997. Ông đã sử dụng hai phương
pháp đo độ mở của thương mại. Phương pháp đầu tiên được tính bằng cách sử
dụng khối lượng thương mại, bao gồm các tỷ lệ khác nhau của biến thương mại
là: xuất khẩu, nhập khẩu, tổng kim ngạch với GDP (Halit, 2003). Bên cạnh đó,
Santos-Paulino (2002) đã kiểm tra tác động của tự do hoá thương mại đối với
tăng trưởng với 22 quốc gia đang phát triển trong giai đoạn 1972-1998. Ông đã sử
dụng thước đo tăng trưởng xuất khẩu làm đại diện cho độ mở của nền kinh tế. Kết
quả ước lượng bằng phương pháp OLS cho thấy tăng trưởng xuất khẩu nhanh hơn
ở các nền kinh tế mở (Paulino, 2002). Iscan Talan (1998) đã phân tích hiệu quả
của sự mở cửa thương mại đối với tăng trưởng năng suất tổng sản phẩm cho các
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Mexico trong giai đoạn 1970-1990. Để xác
định hiệu quả năng suất của sự tự do hóa thương mại, thước đo đại diện cho độ
mở của thương mại chính là giá trị xuất khẩu. Kết quả là tự do hố thương mại có
những tác động tích cực đến tăng trưởng năng suất (Talan, 1998).
Ngồi tình trạng thiếu đồng thuận về thước đo mức độ mở cửa của thương
mại, việc xây dựng một thước đo mở cửa thương mại phù hợp địi hỏi phải có
đầy đủ dữ liệu. Do đó, việc lựa chọn thước đo tự do thương mại trong các
nghiên cứu thực nghiệm phụ thuộc vào sự sẵn có của số liệu và các mục tiêu
nghiên cứu cụ thể. Trong nghiên cứu này, để đo lường biến tự do thương mại,
NCS sử dụng thước đo, bao gồm:
(i) Tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu với tổng doanh thu của
ngành
(ii) Tỷ lệ giữa giá trị nhập khẩu với tổng doanh thu của
ngành
(iii) Tỷ lệ giữa tổng kim ngạch với tổng doanh thu của
ngành
Trong đó, với cấp độ DN: giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch
được xác định bởi giá trị xuất khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch của doanh

nghiệp thuộc cùng ngành tương ứng; tổng doanh thu được xác định bằng tổng
doanh thu của ngành cấp 4 tương ứng. Với cấp độ ngành: giá trị xuất khẩu, nhập
khẩu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu được xác định bằng tổng giá trị xuất
khẩu, nhập khẩu và tổng kim ngạch, tổng doanh thu của ngành cấp 2 tương ứng.
Ngoài ra, luận án sử dụng biến tương tác là tích số giữa biến tự do hóa
thương mại với biến giả loại hình doanh nghiệp, quy mơ doanh nghiệp, ngành để
đánh giá ảnh hưởng của tự do hóa thương mại đến ơ nhiễm mơi trường so sánh
giữa loại hình doanh nghiệp, quy mô doanh nghiệp và ngành nghề kinh doanh.
Nhóm biến kiểm sốt đặc điểm của doanh nghiệp bao gồm: loại hình
doanh nghiệp, được chia thành doanh nghiệp Ngồi nhà nước (khơng bao gồm
DN FDI) (DN ngồi NN), doanh nghiệp FDI (DNFDI), doanh nghiệp trong
nước (DNNN) (Tổng cục thống kê, 2015); quy mô doanh nghiệp, được chia


thành doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp
siêu nhỏ (Chính Phủ, 2009); ngành nghề kinh doanh và tuổi của doanh nghiệp.
Đối với biến loại hình doanh nghiệp, hai biến giả được sử dụng là DNNN
và DN ngồi NN. Trong đó, các biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối tượng
khảo sát và 0 nếu khác. DN FDI được lựa chọn làm cơ sở để so sánh.
Đối với biến quy mô doanh nghiệp, ba biến giả được sử dụng là DN siêu
nhỏ, DN nhỏ và DN vừa. Trong đó, cá biến số được gán giá trị bằng 1 nếu là đối
tượng khảo sát và 0 nếu khác. DN lớn được lựa chọn làm cơ sở để so sánh.
Sở dĩ NCS sử dụng loại hình doanh nghiệp và quy mơ doanh nghiệp làm
nhóm biến kiểm sốt là vì: với loại hình doanh nghiệp, NCS tiến hành kiểm định
theo giả thuyết H3; còn đối với quy mô doanh nghiệp, NCS tiến hành kiểm định
theo giả thuyết H4.
Tuổi doanh nghiệp được tính bằng hiệu số giữa năm điều tra khảo sát với
năm doanh nghiệp thành lập.
Djt là biến kiểm soát của ngành j theo thời gian t, bao gồm: ngành sạch và
ngành bẩn. Một biến giả được sử dụng là ngành sạch. Các biến số được gán giá

trị bằng 1 nếu là đối tượng khảo sát và 0 nếu khác. Ngành bẩn được lựa chọn
làm cơ sở để so sánh. Trên thế giới, cách tiếp cận “ngành sạch” và “ngành bẩn”
được sử dụng khá phổ biến. Đặc biệt là những nghiên cứu phân tích tác động
của các hoạt động sản xuất và chính sách thương mại tới mơi trường. Theo
nghiên cứu của Min năm 1996, thì những ngành có chi phí giảm ơ nhiễm trên
một đơn vị sản lượng cao thì được cho là ngành bẩn (Min, 1996). Theo Vutha và
Jalilian (Vutha và Jalilian.H, 2008), các ngành công nghiệp được phân loại dựa
trên tổng lượng chất thải độc hại thải ra mơi trường nước, khơng khí và đất trên
1 triệu USD sản lượng. Các ngành công nghiệp có tổng lượng chất thải độc hại
ra mơi trường lớn hơn 1.500 pound/ 1 triệu USD sản lượng là ngành bẩn nhất; từ
500 - 1.500 pound/1 triệu USD sản lượng là ngành bẩn trung bình; bé hơn 500
pound/ 1 triệu USD sản lượng là ngành ít bẩn (hay ngành sạch). Một phương
pháp khác để phân biệt ngành “bẩn” hay “sạch” là dựa vào cường độ ô nhiễm
thực tế như trong nghiên cứu của Wheeler và cộng sự năm 1998 (Mani và
Wheeler, 1998). Trong nghiên cứu này, những ngành có tải lượng ơ nhiễm lớn là
ngành “bẩn”, những ngành có tải lượng ơ nhiễm ít là ngành sạch. Cách phân loại
này giúp ước lượng các chênh lệch ô nhiễm liên ngành đồng thời kiểm soát được
các đặc điểm doanh nghiệp khác nhau thuộc ngành. Từ những lý thuyết trên,
luận án sẽ sử dụng phương pháp phân loại ngành của Wheeler năm 1998. Theo
đó, NCS chia tải lượng ơ nhiễm ngành cấp 4 làm 3 khoảng, khoảng các ngành có
tải lượng ô nhiễm lớn nhất là ngành bẩn và khoảng các ngành có tải lượng ơ
nhiễm thấp nhất là ngành sạch.
Các nhân tố về mặt địa lý, 6 biến giả sẽ được sử dụng để đại diện cho 7
vùng kinh tế của cả nước là thành phố trung ương, Đồng bằng Sơng Hồng, Miền
núi phía Bắc, Dun Hải, Tây Ngun, Đơng Nam Bộ và Đồng bằng Sông Cửu

Long, các biến giả được gán giá trị 1 nếu thuộc đối tượng nghiên cứu và 0 nếu
khác, trong đó thành phố trung ương được lựa chọn làm cơ sở để so sánh. Trong
luận án này, NCS sử dụng biến kiểm soát về mặt địa lý nhằm mục đích đánh giá
q trình phân bố lực lượng sản xuất của Việt Nam trong quá trình tự do hóa

thương mại.
1.2.3 Phương pháp phỏng vấn chuyên gia
Để giải thích thêm cho các kết quả nghiên cứu thu được từ phương pháp
định lượng, NCS tiến hành phỏng vấn các chuyên gia với mong muốn có những
dữ liệu định tính để đối chiếu với kết quả nghiên cứu định lượng. NCS thực
hiện phỏng vấn hai nhóm chuyên gia: chuyên gia môi trường và chuyên gia
thương mại. Các chuyên gia được phỏng vấn là những người quản lý, tư vấn
chính sách pháp lý cho Chính phủ Việt Nam trong quản lý môi trường và
thương mại. Câu hỏi phỏng vấn là các câu hỏi mở, tập trung vào triết lý và mục
tiêu của các chính sách mơi trường, thương mại trong tiến trình hội nhập, bảng
câu hỏi được trình bày trong phụ lục 4
CHƯƠNG 3
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HĨA
THƯƠNG MẠI TỚI Ơ NHIỄM MƠI TRƯỜNG TỪ NGÀNH
CƠNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO Ở VIỆT NAM
3.1 Thực trạng tự do hóa thương mại ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo
ở Việt Nam
3.1.1 Quá trình cải cách thương mại của Việt Nam
3.1.2 Những yêu cầu về môi trường của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
trong thương mại quốc tế và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
3.1.3 Tình hình tự do hóa thương mại ngành cơng nghiệp chế biến, chế
tạo ở Việt Nam
3.1.3.1 Thực trạng xuất nhập khẩu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở
Việt Nam
Từ năm 2007 đến 2014, khoảng cách nhập siêu của ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo Việt Nam đang thu hẹp, đến năm 2014, cán cân xuất nhập của
Việt Nam đã gần cân bằng. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam tới các nền kinh
tế thu nhập thấp và trung bình rất đa dạng. Liên minh Châu Âu (EU) và Bắc
Mỹ (Hoa Kỳ và Canada) trở thành thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam,
chủ yếu là hàng dệt may, giày dép và thủy sản. Mặc dù thị phần ở Bắc Mỹ,

EU chiếm bình qn khơng đến 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam, nhưng giá trị xuất khẩu đến hai thị trường này mang lại gần 50% tổng
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2014.
3.1.3.2 Thực trạng xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp thuộc ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam


Doanh nghiệp FDI ln là loại hình doanh nghiệp dẫn đầu về kim
ngạch xuất khẩu (XK) của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam.
DN lớn cũng là những DN nhập khẩu và tham gia thị trường nhập khẩu
nhiều nhất, đạt mốc 50.000 triệu USD năm 2012.
3.1.3.3 Thực trạng thuế quan của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở
Việt Nam
Hiện nay, để khuyến khích các doanh nghiệp, Chính phủ Việt Nam áp
dụng miễn thuế cho hầu hết các mặt hàng xuất khẩu, một số rất nhỏ hàng hóa
chịu thuế xuất khẩu là các loại tài nguyên.
3.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
ở Việt Nam
3.2.1 Thực trạng các chính sách môi trường tác động tới ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo trên thế giới và ở Việt Nam
3.2.2 Thực trạng ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
ở Việt Nam
3.2.2.1 Ô nhiễm chất độc trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Năm 2006 lượng chất độc của ngành chỉ ở mức 220 tấn, nhưng đến năm
2014 con số này đã tăng lên 366 tấn. Như vậy, thương mại và ơ nhiễm chất
độc có mối quan hệ thuận chiều.
Lượng chất độc tăng đều trong tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc
ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo. DN ngoài Nhà nước là loại hình DN thải ra
lượng chất độc cao nhất, hơn 200 tấn vào năm 2011
DN nhỏ là những DN gây ô nhiễm chất độc cao nhất cả về lượng thải và

bình qn
3.2.2.2 Ơ nhiễm kim loại trong ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Theo số liệu thống kê, ô nhiễm kim loại trong ngành công nghiệp chế biến,
chế tạo ở Việt Nam gia tăng trong suốt khoảng thời gian từ năm 2006 đến 2014.
DN ngoài Nhà nước là loại hình DN gây ơ nhiễm kim loại nhiều nhất,
tăng từ 124 tấn năm 2006 lên 250 tấn năm 2011, sau đó giảm và giữ mức gần
220 tấn
DN lớn là những DN có tải lượng ơ nhiễm kim loại lớn nhất, từ 134 tấn năm
2006 tăng lên 226 tấn năm 2014
3.2.2.3 Ơ nhiễm nước trong ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Ơ nhiễm nước trong ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam gia
tăng đều từ năm 2006 đến 2014.
DN ngoài Nhà nước là những DN gây ô nhiễm môi trường nước lớn nhất,
tăng từ 138 tấn năm 2006 lên 233 tấn năm 2011, sau đó giảm nhưng khơng đáng kể.
Ơ nhiễm nước trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
chịu sự tác động lớn của các DN thuộc quy mô DN lớn.
3.2.2.4 Ơ nhiễm khơng khí trong ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
Ơ nhiễm mơi trường khơng khí gia tăng trong q trình tự do hóa thương

mại. DN ngồi Nhà nước là loại hình DN có tải lượng thải gây ơ nhiễm khơng khí
nhiều nhất và tăng đều từ năm 2006 đến 2011, từ 408 tấn lên đến 671 tấn.
DN lớn là quy mơ DN có tải lượng ơ nhiễm nhiều nhất và bình qn ơ
nhiễm cũng lớn nhất.
3.3 Đánh giá tác động của tự do hóa thương mại tới ô nhiễm môi trường từ
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam
3.3.1 Mô tả thống kê và tương quan biến
3.3.1.1 Mô tả thống kê
3.3.2 Kết quả ước lượng và phân tích ảnh hưởng của tự do hóa thương mại
tới ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cấp độ doanh
nghiệp ở Việt Nam

Tự do hóa thương mại có tác động tích cực giúp giảm thiểu ô nhiễm môi
trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Các biến về xuấtnhập khẩu và tổng kim ngạch có tác động ngược chiều với lượng thải trong hầu
hết các mơ hình đánh giá. Điều này cho thấy khi xuất- nhập khẩu và tổng kim
ngạch gia tăng, thì lượng thải các dạng chất độc, kim loại, nước và khơng khí từ
ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm.
Tại cùng mức độ tự do hóa thương mại thì doanh nghiệp (DN) FDI gây ơ nhiễm
mơi trường nhiều hơn DN Ngồi Nhà nước và DN Nhà nước. Việt Nam dường
như đang là “nơi trú ẩn ô nhiễm” thông qua các dự án FDI.
3.3.3 Kết quả ước lượng và phân tích về ảnh hưởng của tự do hóa thương mại
tới ơ nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cấp độ
ngành ở Việt Nam
Luận án đã phân loại ngành sạch, ngành bẩn dựa vào bộ dữ liệu cường độ
ô nhiễm công nghiệp của Ngân hàng thế giới và bộ dữ liệu Điều tra doanh
nghiệp. Phân loại ngành sạch, ngành bẩn chi tiết đến cấp độ 4 chữ số theo mã
VSIC là bộ dữ liệu chi tiết nhất hiện nay.
Tóm lại, kết quả ước lượng cấp ngành củng cố thêm cho kết quả ước lượng
cấp doanh nghiệp rằng tự do thương mại không làm trầm trọng thêm vấn đề ô
nhiễm môi trường ở Việt Nam. Ngành bẩn là ngành gây ô nhiễm môi trường với
tốc độ lớn hơn ngành sạch. Đặc biệt, Việt Nam đang ưu tiên đầu tư, mở rộng quy
mơ các doanh nghiệp thuộc ngành bẩn. Đây chính là hướng chuyển dịch cơ cấu
đáng lo ngại ở nước ta. Vì vậy, Chính phủ cần có chiến lược, lựa chọn ngành để
hướng tới phát triển bền vững.
3.4 Đánh giá kết quả chung
3.4.1 Kết quả
Tự do hóa thương mại khơng làm cho vấn đề môi trường trở nên trầm
trọng hơn là kết quả nghiên cứu định lượng. Điều này cũng được sự đồng thuận
của các chuyên gia mà NCS phỏng vấn. Bởi vì, trong q trình tự do hóa thương
mại các quy định, chính sách mơi trường nhận được sự quan tâm và ưu tiên
trong cả hai lĩnh vực, thương mại và mơi trường. Những chính sách thương mại
và mơi trường được thực hiện dưới góc độ Chiến lược, chương trình hành động

quốc gia, quy định, rào cản, pháp lệnh…


Trong q trình tự do hóa thương mại chính sách thương mại, môi trường đều
được ưu tiên ở mức độ cao và qua các giai đoạn: Ban hành chính sách, thực thi, bắt
buộc và tự nguyện. Chính sách mơi trường, thương mại được ưu tiên, đổi mới qua
các giai đoạn.
Tự do hóa thương mại giúp nhận thức mơi trường tăng lên, Việt Nam học hỏi
được nhiều kinh nghiệm của các quốc gia, cũng như đáp ứng được các yêu cầu
của FTA
3.4.2 Hạn chế
Kết quả định lượng và phỏng vấn cho thấy, tự do hóa thương mại thúc
đẩy q trình sản xuất gia tăng để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu, vì vậy gia tăng
khả năng khai thác tài nguyên hoặc nhập khẩu nhiên liệu. Mặt khác, gia tăng sản
lượng sẽ gia tăng áp lực lên mơi trường. Bởi vì, khơng phải tất cả các doanh
nghiệp đều có khả năng tài chính để đổi mới, đầu tư cơng nghệ.
Tự do thương mại thu hút đầu tư FDI vào Việt Nam với tốc độ gia tăng
mạnh mẽ. Và lý thuyết đã chứng minh ô nhiễm dư cư từ các quốc gia phát triển
sang các quốc gia đang phát triển thông qua kênh FDI. Kết quả thực nghiệm ở
nghiên cứu này cũng cho thấy điều đó. Như vậy, FDI cũng gây ra tác động tiêu
cực cho môi trường ở Việt Nam.
3.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Với mục tiêu phát triển kinh tế và trở thành nước cơng nghiệp vào năm
2020, vì vậy, một số động cơ khuyến khích kinh tế của Việt Nam ảnh hưởng đến
môi trường.
Việt Nam đang thu hút nguồn vồn FDI, vì vậy, DN FDI được ưu ái hơn về
chính sách đầu tư. Thơng thường các dự án FDI là các dự án quy mô lớn, nhưng
lại đang tập trung ở những ngành gây ô nhiễm sâu. Mặt khác, các dự án FDI
được phân biệt đối xử với chính sách môi trường.
Về mặt công nghệ, hệ thống quy chuẩn mơi trường Việt Nam chưa kiểm

sốt hết giá trị thơng số cao, số lượng thơng số ít hơn các nước. Đánh giá cơng
nghệ khơng có sự sàng lọc, cơng nghệ sản xuất khơng có rào cản, ngưỡng để
kiểm sốt. Việt Nam cần ưu tiên kiểm sốt các ngành gây ơ nhiễm mơi trường
nghiêm trọng, cần có các u cầu về bảo vệ môi trường cao và tập trung vào các
ngành gây ô nhiễm môi trường lớn.
Cơ sở hạ tầng và sự phát triển thiếu quy hoạch cũng là nguyên nhân gây ô
nhiễm môi trường cục bộ giữa các vùng trong cả nước. Vì vậy, cần có các chính
sách để phân bổ lại các khu công nghiệp trên cả nước.
CHƯƠNG 4
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỂ GIẢM THIỂU Ô NHIỄM MÔI
TRƯỜNG TỪ NGÀNH CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN, CHẾ TẠO TRONG
BỐI CẢNH TỰ DO HÓA THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
4.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế liên quan đến thương mại và môi trường
4.1.1 Bối cảnh quốc tế liên quan đến thương mại và môi trường
4.1.2 Bối cảnh trong nước liên quan đến thương mại và môi trường

4.2 Một số quan điểm phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam
4.2.1 Quan điểm phát triển bền vững
4.2.2 Lựa chọn mô hình phát triển bền vững
4.2.3 Đảm bảo sự tiến bộ xã hội
4.2.4 Gắn tăng trưởng với chống ô nhiễm môi trường và ứng phó với biến đổi
khí hậu
4.3 Kiến nghị và gợi ý chính sách
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu đạt được, cho thấy rằng, tự do hóa
thương mại đóng vai trị rất lớn trong q trình phát triển nền kinh tế của Việt
Nam. Tuy nhiên tự do hóa thương mại cũng tác động lớn tới mơi trường, vì vậy
Chính phủ Việt Nam đã có các chiến lược để thay đổi mơi trường Quốc gia một
cách tồn diện. Các hệ thống quản trị đang được thay đổi liên tục thơng qua q
trình cải cách hành chính cơng. Trở thành thành viên của các tổ chức thương
mại quốc tế và thỏa thuận ký kết các hiệp định thương mại cũng là những yếu tố

bổ sung vào quy mô và động lực cho sự thay đổi trong nền kinh tế Việt Nam.
Mỗi điều luật mới được Quốc hội thông qua chính là sự cải cách mạnh mẽ của
Chính phủ và các ngành nhằm thúc đẩy sự tiến bộ trong nước, phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế, như việc sửa đổi: Luật Bảo vệ môi trường, Luật Đất đai, Luật
Quản lý tài nguyên. Điều này thể hiện mối quan hệ giữa Chính phủ, doanh
nghiệp và cộng đồng đã được điều chỉnh.Tuy nhiên, bất chấp những nỗ lực của
Chính phủ trong cải cách hành chính thì vấn đề mơi trường đang có dấu hiệu suy
giảm. Đây chính là cảnh báo để có những giải pháp giải quyết những thách thức
về môi trường xuất phát từ sản xuất công nghiệp như: ô nhiễm, cạn kiệt tài
nguyên, thâm dụng lao động. Sau đây NCS xin đưa ra một số giải pháp hàm ý
chính sách để cải thiện tình trạng ơ nhiễm mơi trường từ ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo ở Việt Nam.
Thứ nhất, Chính phủ cần có các chính sách để đáp ứng các yêu cầu môi
trường trong thương mại quốc tế. Kết quả thực nghiệm cho thấy, tự do hóa
thương mại khơng làm trầm trọng thêm vấn đề ô nhiễm môi trường từ ngành
công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Vì vậy, Việt Nam cần tận dụng được
cơ hội của q trình tự do hóa thương mại để phát triển kinh tế nhưng đồng thời
hạn chế được những tác động tiêu cực của nó đối với các vấn đề xã hội và mơi
trường. Vì vậy, cần thiết phải có sự phối hợp chính sách trong phát triển thương
mại và bảo vệ môi trường ngay từ giai đoạn đầu của quá trình cơng nghiệp hóa.
Về phía Chính phủ:
- Điều chỉnh các chính sách thương mại phù hợp với các chuẩn mực
thương mại quốc tế;
- Có các biện pháp hữu hiệu và kịp thời ngăn ngừa và đối phó với nguy
cơ ơ nhiễm môi trường qua biên giới;
- Bảo vệ tài nguyên đa dạng sinh học và các nguồn tài nguyên không tái
tạo khác, hạn chế ơ nhiễm do tăng trưởng nóng của nền kinh tế;


- Đáp ứng các yêu cầu môi trường đối với sản phẩm để nâng cao khả

năng tiếp cận thị trường;
- Quản lý chặt chẽ thị trường trong nước để hạn chế đến mức tối đa ảnh
hưởng đối với môi trường do đẩy mạnh sản xuất;
- Thực thi triển khai áp dụng hệ thống quản lý môi trường của doanh
nghiệp chặt chẽ và quết liệt.
Về phía doanh nghiệp:
- Thường xuyên cập nhật thông tin về các tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường
từ các nước nhập khẩu;
- Chủ động đầu tư, đổi mới cơng nghệ, xây dựng quy trình sản xuất chế
biến đảm bảo các tiêu chuẩn môi trường trong nước và quốc tế;
- Triển khai áp dụng các hệ thống quản lý tiêu chuẩn chất lượng theo tiêu
chuẩn quốc tế và đáp ứng yêu cầu về bảo vệ môi trường nhằm nâng cao khả
năng tiếp cận thị trường xuất khẩu, tăng cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng bền
vững toàn cầu.
Thứ hai, trong đề án tái cơ cấu nền kinh tế cần hạn chế phát triển các
ngành công nghiệp bẩn. Theo mơ hình tăng trưởng và theo định hướng trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020 cũng như kết quả nghiên cứu thì Việt Nam
đang ưu tiên phát triển các ngành cơng nghiệp “bẩn” vì vậy Chính sách quản lý
mơi trường cần ưu tiên quản lý và can thiệp đối với các ngành công nghiệp bẩn.
Theo kết quả đánh giá, đã xác định được thành phần môi trường ô nhiễm, ngành
ô nhiễm và khu vực ô nhiễm trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Vì vậy,
để giải quyết các vấn đề môi trường cần tiếp cận dưới nhu cầu của quốc gia để
xác định thành phần ô nhiễm quan trọng nhất, các doanh nghiệp, khu vực cho sự
ưu tiên. Với nguồn lực và khả năng có hạn Chính phủ khơng thể thực hiện khắp
cả nước mà cần phải có sự ưu tiên. Các ngành gây ô nhiễm nhất cần phải có một
khn khổ chính sách tốt và chương trình xử lý tại chỗ. Bên cạnh đó cũng địi
hỏi sự củng cố, liên tục, điều chỉnh và quản lý một cách hiệu quả hơn các cơ sở
gây ô nhiễm nghiêm trọng. Ví dụ, quản lý hóa chất đã được chú trong nhiều
thập kỷ qua nhưng hệ thống quản lý khá phức tạp và nhiều khoảng trống, vì vậy,
cần một khn khổ bao quát hơn và các thể chế tập trung hơn. Đối với chất thải

và chất ô nhiễm độc hại phải có sự ưu tiên quản lý. Trong nghiên cứu này, bằng
những số liệu cụ thể cho thấy khu vực và ngành gây ô nhiễm độc hại, đây là
thông tin quan trọng để xác định được đối tượng gây ô nhiễm một cách rõ ràng.
Do vậy, với nguồn lực và tài chính có hạn nên ưu tiên tập trung xử lý và kiểm
sốt ơ nhiễm độc hại, vì đây là vấn đề nghiêm trọng khơng chỉ hiện tại mà cịn
là tương lai của Việt Nam. Để xử lý và kiểm sốt độc hại trong cả nước thì
Chính phủ sẽ phải chi một khoản tiền rất lớn nhưng cần thiết và nếu so với vấn
đề sức khỏe, năng suất mà con người phải đối mặt với ơ nhiễm thì đây cịn là chi
phí ít tốn kém hơn.
Để đánh giá tình trạng ô nhiễm công nghiệp chế biến, chế tạo ban đầu

cũng có thể thực hiện bằng cách sử dụng hệ thống thông tin từ IPPS, thông tin
này sẽ là kỹ thuật hỗ trợ cho GSO trong thiết kế bổ sung cho các cuộc điều tra
tiếp theo. Đặc biệt, thông tin này sẽ giúp Chính phủ lựa chọn tài chính một cách
hợp lý để thực hiện u cầu kiểm sốt ơ nhiễm ở ngành công nghiệp với các vấn
đề nghiêm trọng nhất. Nhiều doanh nghiệp khơng thể tự mình thực hiện hoặc
đầu tư xử lý chất thải một cách có hệ thống và doanh nghiệp khơng có nguồn lực
để đầu tư vào những gì họ cho là phi sản xuất để kiểm sốt ơ nhiễm, vì với
doanh nghiệp hành vì tối đa hóa lợi ích kinh tế ln được đặt lên hàng đầu. Điều
đó đặt ra cho Chính phủ Việt Nam một câu hỏi, một hệ thống vốn về quản lý ô
nhiễm là cần thiết?
Trong quá trình hội nhập, để quản lý ô nhiễm công nghiệp thì các chương
trình trợ cấp đặc biệt cần được đảm bảo. Nhưng theo thời gian Chính phủ cần
các nguồn kinh phí khác. Hệ thống pháp luật của Việt Nam cũng cần có sự
hướng dẫn và khuyến khích doanh nghiệp huy động các nguồn lực tài chính để
đầu tư xử lý ô nhiễm. Các doanh nghiệp hiện nay thiếu sự chủ động và hỗ trợ
trong tìm kiếm sự hỗ trợ từ các quỹ tín dụng và ngân hàng. Tóm lại là Việt Nam
đang thiếu vắng các cơ chế tài chính cho đầu tư mơi trường, làm hạn chế sự lựa
chọn cho doanh nghiệp khi họ cần hỗ trợ. Nguồn vốn của quốc gia và địa
phương về môi trường cần được phát triển để lấp đầy khoảng trống này.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu cho thấy, DN lớn là những DN gây ô nhiễm
môi trường nhiều hơn các quy mơ DN khác. Vì vậy, Chính phủ cần có các chính
sách, cơng nghệ, quy chuẩn để kiểm sốt theo quy mô DN. Hiện nay, hệ thống
quy chuẩn môi trường của nước ta chưa kiểm sốt hết giá trị thơng số cao, số
lượng thơng số ít, chưa có rào cản về cơng nghệ, ngưỡng kiểm sốt. Vì vậy, việc
kiểm sốt tải lượng chất thải của các DN lớn gặp nhiều khó khăn.
Trên thực tế, các DN lớn có ý thức tuân thủ tốt và thực hiện nhiều biện
pháp bảo vệ môi trường như tiết kiệm năng lượng, tái chế chất thải và xử lý
nước thải hơn các DN vừa và nhỏ. Do đó, điều cần thiết là phải có các quy định
về môi trường theo quy mô DN.
Thứ tư, cần có chính sách quản lý mơi trường ưu tiên đối với các thành
phần môi trường. Trong luận án này, NCS lựa chọn ô nhiễm chất độc, ô nhiễm
kim loại, ô nhiễm nước và ơ nhiễm khơng khí để đánh giá tác động của tự do
hóa thương mại lên ơ nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Kết quả thực nghiệm cũng như thực trạng đều cho thấy, tình trạng ơ nhiễm của
bốn thành phần mơi trường này đang là vấn đề báo động ở Việt Nam. Tải lượng
ô nhiễm của bốn thành phần này gia tăng cùng với q trình tự do hóa thương
mại. Vì vậy, cần nâng tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn, chất thải y tế, nước
thải sinh hoạt và công nghiệp đúng quy chuẩn; đối với khí thải cần giám sát
cơng nghệ, q trình xử lý các doanh nghiệp, khu cơng nghiệp chặt chẽ hơn.
Thực trạng cho thấy, q trình cơng nghiệp hóa đang làm cho nguồn nước
mặt từ sơng, ao hồ của Việt Nam lâm vào tình trạng ơ nhiễm trầm trọng. Rất


nhiều hệ thống sông đã trở thành sông chết. Mặc dù Chính phủ đã có đề án cải
thiện các hệ thống sông Cầu, Nhuệ - Đáy, Đồng Nai, nhưng các hệ thống sơng
này hiện tại vẫn nằm trong tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong báo cáo phân tích hiện trạng mơi trường khơng khí xung quanh Bộ
Tài ngun và Mơi trường (2014), cho thấy, ơ nhiễm khơng khí tập trung ở các
đô thị phát triển, các khu, cụm công nghiệp. Một số ngành cơng nghiệp như

ngành khai khống, nhiệt điện, xi măng…đang hoạt động vẫn tiếp tục phát thải
vào môi trường khơng khí một lượng bụi lớn, đây là những ngành được chia vào
nhóm ngành cơng nghiệp bẩn trong luận án này (Bộ Tài ngun và Mơi trường,
2014).
Vì vậy sự cần thiết đối với Chính phủ Việt Nam là phải ưu tiên tập trung
giải quyết những vấn đề môi trường cấp bách hiện nay như nước và khơng khí.
Thứ năm, cần có các chính sách tăng cường quản lý mơi trường trong
chính sách thu hút vốn đầu tư cũng như các DN FDI. Kết quả nghiên cứu đã cho
thấy, Việt Nam đang là quốc gia “chứa ô nhiễm” thông qua các dự án FDI. Việt
Nam đang theo đuổi mục tiêu trở thành nước cơng nghiệp vào năm 2020, vì vậy,
các chính sách khuyến khích kinh tế, thu hút đầu tư nước ngồi chưa thực sự
chú trọng đến cơng tác bảo vệ môi trường. Thật vậy, Việt Nam cần hạn chế
những dự án FDI gây ô nhiễm môi trường sâu. Vị trí địa lý để thực hiện những
dự án FDI cũng là điều rất quan trọng, quy hoạch tổng để phòng ngừa các sự cố
mơi trường xảy ra. Bên cạnh đó, cần thẩm định cơng nghệ trước q trình thực
hiện dự án, tránh những công nghệ lạc hậu đội lốt đầu tư. Mặt khác, trên thực tế,
nước sở tại khơng có thẩm quyền trong công tác quản lý môi trường ở các doanh
nghiệp FDI cũng là bất cập rất lớn.
Chính sách, tỷ lệ ký quỹ, bảo hiểm đối với các dự án khai thác khoáng
sản là rất cần thiết để hạn chế sự cạn kiệt tài nguyên.
Thứ sáu, tăng cường công tác BVMT tại các khu, cụm công nghiệp, quy
hoạch khu công nghiệp phù hợp. Bất chấp những nỗ lực gần đây và quan trọng
để tăng biên chế, nguồn lực và năng lực của chính quyền địa phương để giám sát
hành vi và hoạt động môi trường của các cơ sở cơng nghiệp, nhưng hệ thống
giám sát cịn yếu. Để có thể góp phần làm giảm bớt điểm yếu này, một số vấn đề
quan trọng cần được giải quyết:
- Quyền và trách nhiệm của kiểm sốt ơ nhiễm, thanh tra cần được xác
định rõ ràng. Trên thực tế, các khu công nghiệp thường xun cấm khơng cho
thanh tra kiểm sốt ơ nhiễm. Hoặc có cơng văn thơng báo trước khi thanh tra,
điều này đã tạo cho doanh nghiệp, khu công nghiệp có sự chuẩn bị để đối phó

với cơ quan quản lý, vì vậy khơng phản ánh chân thực cơng tác xử lý mơi trường
của doanh nghiệp.
- Phải có một hệ thống những yêu cầu tự báo cáo cho các cơ sở cơng
nghiệp, cùng với các hình phạt hành chính về hành vi tự báo cáo thiếu, và hình
phạt nghiêm khắc đối với cố ý báo cáo thông tin sai hoặc sai phạm. Hiện nay, báo

cáo môi môi trường hiện trạng của Việt Nam đã được thực hiện thường xuyên,
định kỳ hằng năm. Nhưng báo cáo này chỉ mang tính hành chính khơng phản ánh
trung thực hiện trạng mơi trường doanh nghiệp. Vì vậy, cơ quan quản lý mơi
trường cần phối hợp và có chế tài để doanh nghiệp có sự quan trắc, thu thập số
liệu môi trường một cách trung thực nhất.
- Cần phải nỗ lực đáng kể để tăng số phịng thí nghiệm được cơng nhận
có thể cung cấp, lấy mẫu và phân tích cho các cơ sở cơng nghiệp để thực hiện
yêu cầu tự báo cáo của họ. Điều này đi song song với sự cần thiết cho một hệ
thống đáng tin cậy của các phịng thí nghiệm cấp giấy chứng nhận, trong đó có
tiêu chí, lệ phí, và hình phạt đối với sự thiếu tuân thủ với các u cầu chứng
nhận. Các phịng thí nghiệm của Sở TN & MT không nên được phép ký hợp
đồng với các cơ sở cơng nghiệp cho các mục đích mà họ phải thực hiện yêu cầu
tự báo cáo. Các khu vực tư nhân cũng nên được phép nhận các lĩnh vực hoạt
động này, vì điều này giúp minh bạch hóa thơng tin.
- Quản lý và phân tích dữ liệu là rất quan trọng để đánh giá, sử dụng hiệu
quả các thông tin và cải thiện chất lượng môi trường một cách hiệu quả. Hiện
nay, các thông tin thu thập được ít được sử dụng cho mục đích đưa ra quyết định
như vậy mục tiêu nhắm vào hiệu quả của hoạt động chưa được thực hiện. Ví dụ:
chúng ta chỉ thực hiện nhằm vào các nhà máy bị thanh tra và nhà máy chỉ xuất
hiện để được báo cáo sai phạm hoặc vi phạm tiêu chuẩn. Cịn các thơng tin thực
tế của các doanh nghiệp báo cáo thì ít khi được sử dụng làm thông tin nghiên
cứu hoặc đưa ra quyết định.
- Nên có hệ thống điểm chuẩn cần được thiết kế đúng và công bố thông tin
của hoạt động môi trường của chính quyền địa phương, đi kèm với một hệ thống

khen thưởng.
- Cuối cùng, kết quả nghiên cứu thực nghiệm cũng như thực trạng cho
thấy, hầu hết các vùng đều có tác động đên ơ nhiễm mơi trường. Tuy nhiên, một
số vùng điển hình như Đồng bằng sơng Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long, Đông
Nam Bộ là những vùng nhận thấy ô nhiễm nhất. Trên thực tế, những khu vực
này tập trung số lượng DN nhiều hơn các khu vực khác. Vì vậy, cần có những
chính sách phân bổ hợp lý số lượng doanh nghiệp và quy hoạch cơ sở hạ tầng
đảm bảo công tác quản lý môi trường tại các Khu cơng nghiệp.
Thứ bảy, Chính phủ Việt Nam cần xây dựng hài hịa giữa chính sách
thương mại và môi trường đáp ứng các quy định về môi trường trong thương mại
quốc tế, như:
Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2011 - 2020, định hướng
tới năm 2030 theo Quyết định 950/QĐ-TTg ngày 25/7/2012 đã đề ra mục tiêu
chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng các sản
phẩm xuất khẩu có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế biến sâu, sản phẩm có
hàm lượng cơng nghệ cao, sản phẩm thân thiện với mơi trường và việc giảm
dần nhóm hàng nhiên liệu, khống sản thơ.


Chương trình hành động quốc gia về sản xuất và tiên dùng bền vững giai
đoạn đến 2020 và tầm nhìn đến 2030 theo quyết định số 76/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ ban hành ngày 11 tháng 01 năm 2016 đưa ra mục tiêu về xuất
khẩu bền vững với việc nâng dần tỷ trọng sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường
trong cơ cấu xuất khẩu.
Thứ tám, khuyến khích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thân thiện
với môi trường trong ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo. Bên cạnh đó cần xử
lý nghiêm những doanh nghiệp sử dụng, nhập khẩu cơng nghệ lạc hậu, gây tổn
hại đến mơi trường.
Những chính sách để hỗ trợ người tiêu dùng tiếp cận, sử dụng những sản
phẩm thân thiện với môi trường. Một số sản phẩm thân thiện với môi trường

nhưng chỉ dùng để xuất khẩu mà chưa đến được với người dân Việt Nam.
Cuối cùng, nâng cao nhận thức cộng đồng, người lao động trong công tác
bảo vệ môi trường là điều cần thiết. Vì yếu tố đầu vào lao động ảnh hưởng lớn
tới ô nhiễm môi trường trong ngành công nghiệp sản xuất. Do đó, cần có những
chương trình giáo dục, đào tạo, truyền thông bắt buộc về bảo vệ môi trường cho
người lao động.
KẾT LUẬN
Thương mại đã biến Việt Nam từ một nền kinh tế nhập khẩu thành một
nền kinh tế hết sức tự do hóa. Việt Nam đã trở thành thành viên, đối tác của hầu
hết các quốc gia trên thế giới. Cải cách thương mại và Đổi mới đã đưa Việt Nam
trở thành một trong những quốc gia hoạt động tốt hàng đầu trong các nước đang
phát triển, theo nghiên cứu của Glewwe và đồng nghiệp năm 2004 (Glewwe và
cộng sự, 2004). GDP bình quân đầu người của Việt Nam thuộc nhóm tăng
nhanh nhất thế giới, đạt mức 5,5% trong thập kỉ 1990 và 6,4% trong thập kỉ
2000. Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng trong năm 2015 với tốc độ tăng
trưởng ước đạt 6,7%. Kinh tế Việt Nam giảm nhẹ trong nửa đầu năm 2016, với
mức tăng trưởng GDP đạt 5,5%, so với 6,3% của cùng kỳ năm 2015. Sự suy
giảm này được cho là hậu quả tác động của đợt hạn hán nghiêm trọng ảnh hưởng
tới sản xuất nông nghiệp (WB, 2016). Nhưng các nhà kinh tế mơi trường có lý
do để lo lắng về sự thành cơng của nền kinh tế vì sự tăng trưởng nhanh chóng
hàng xuất khẩu thâm dụng tài nguyên và thâm dụng lao động cũng như sự thay
đổi chiều hướng thương mại hướng tới những đối tác thương mại nói chung có
các quy định mơi trường nghiêm ngặt hơn có hại cho môi trường như đã từng
thấy ở một số nước đang phát triển.
Nghiên cứu thực nghiệm của luận án đánh giá tác động của tự do hóa
thương mại tới ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt
Nam đã chỉ ra rằng, hầu hết các biến của tự do thương mại đều có ý nghĩa thống
kê ở mức 10%. Chứng tỏ rằng, hầu hết những thay đổi của tự do thương mại đều
ảnh hưởng đến ô nhiễm môi trường từ ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.
Trước hết là chỉ tiêu tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nhập khẩu và tỷ lệ tổng kim


ngạch có tác động ngược chiều với ơ nhiễm mơi trường ở cả cấp doanh nghiệp
cũng như cấp độ ngành. Kết quả này đúng với thực tiễn, bởi khi tham gia các
hiệp định thương mại quốc tế, các doanh nghiệp Việt Nam phải nâng cao công
nghệ, chất lượng sản phẩm để xuất khẩu những sản phẩm đạt tiêu chuẩn với thị
trường quốc tế, người tiêu dùng khắt khe. Như vậy, tự do hóa thương mại khơng
làm trầm trọng thêm vấn đề môi trường trong ngành công nghiệp chế biến, chế
tạo ở Việt Nam. Kết quả này không ủng hộ giả thuyết H1 cũng như các nghiên
thực nghiệm trước đây ở Việt Nam.
Thật vậy, kết quả nghiên cứu trong luận án này nhận thấy kênh đầu tư là
tác nhân gây ô nhiễm mơi trường từ ngành cơng nghiệp trong q trình tự do
hóa thương mại ở Việt Nam. Bởi vì, DN FDI là doanh nghiệp có giá trị xuất
khẩu lớn nhất, đồng thời cũng là loại hình DN gây ơ nhiễm mơi trường lớn nhất
trong hầu hết thành phần của môi trường. Kết quả này phù hợp với lý thuyết
kinh tế, ủng hộ giả thuyết H3 và một lần nữa ủng hộ lý thuyết các nước đang
phát triển là “nơi trú ẩn ô nhiễm” của Ederington và cộng sự; Rober Hoffmann;
Grossman và Krueger.
Bên cạnh đó, kết quả ước lượng trong luận án cho thấy, DN lớn là DN
gây ô nhiễm môi trường nhiều nhất trong hầu hết các thành phần môi trường
được xét đến. Kết quả này ủng hộ giả thuyết H4. Mặc dù, DN lớn chỉ chiếm tỷ
lệ 6% trong tổng số DN ở Việt Nam và DN thuộc ngành bẩn. Vì vậy, Việt Nam
khơng nên dựa vào lợi thế so sánh của mình để tăng quy mơ doanh nghiệp. Thực
tế, các doanh nghiệp có quy mơ lớn ở Việt Nam như: dệt may, giày da, hóa chất,
sắt thép… là những doanh nghiệp phát triển dựa vào nguồn lao động giá rẻ. Do
đó, ngồi chính sách vĩ mơ để quản lý đầu tư, cơng nghệ, chiều sâu thì các quy
định về xử lý chất thải tại các khu công nghiệp và người lao động cũng rất cần
thiết để có thể giúp giảm ô nhiễm công nghiệp.
Mặt khác, ở cấp độ ngành, kết quả ước lượng của luận án cho thấy, tốc
độ gây ô nhiễm môi trường của ngành bẩn lớn hơn rất nhiều lần ngành sạch
trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ở Việt Nam. Kết quả này phù hợp

với lý thuyết kinh tế và ủng hộ giả thuyết H2. Để thực hiện mục tiêu trở thành
nước công nghiệp vào năm 2020, Chính phủ Việt Nam cần có những chính
sách cơ cấu ngành hợp lý. Bởi theo kết quả nghiên cứu thực nghiệm này, Việt
Nam đang thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa ở những ngành bẩn. Thật vậy, dệt may,
sản xuất thép, sản xuất giấy, sản xuất xi măng… là những ngành có tỷ lệ hàng
hóa xuất khẩu lớn ở Việt Nam. Như vậy, Chính phủ Việt Nam cần có những
chính sách để cải cách thương mại song song với nhiệm vụ bảo vệ môi trường.
Cuối cùng, khu vực đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long
và Đông Nam Bộ được nhận thấy là những vùng ô nhiễm nhất ở Việt Nam.
Vì vậy, Chính phủ cần có chính sách quy hoạch lại các khu cơng nghiệp,
khuyến khích các vùng kinh tế khác phát triển. Song song với điều này thì
Chính phủ cũng cần có các chính sách, chế tài để khắc phục môi trường hiện


trạng ở các khu cơng nghiệp.
Tóm l ạ i, để kh ắ c ph ụ c tình tr ạ ng ô nhi ễ m môi tr ườ ng t ừ ngành công
nghi ệ p ch ế bi ến, ch ế t ạ o ở Vi ệ t Nam c ầ n th ự c hi ệ n đồ ng b ộ ở ba c ấ p
là Chính ph ủ , ngành, doanh nghi ệ p



×