TÁC ĐỘNG CỦA TỰ DO HOÁ THƯƠNG MẠI TỚI
NGÀNH MÍA ĐƯỜNG VIỆT NAM
Trần Công Thắng - 2004
Để đánh giá tác động của tự do hoá thương mại (TDHTM) và hội nhập tới ngành hàng mía
đường Việt Nam, Mô hình mô phỏng chính sách "MOVISUT" (Model of Vietnam Sugar
Trade) được áp dụng. MOVISUT nhằm tạo một khung phân tích tác động của TDHTM và
Hội nhập kinh tế quốc tế tới ngành hàng mía đường. Các thông số của mô hình được ước
tính bằng phương pháp hồi qui thống kê dựa trên số liệu lịch sử có sẵn, hoặc kế thừa từ các
công trình nghiên cứu liên quan. Mục tiêu của MOVISUT là lượng hoá ảnh hưởng của các
chính sách thương mại dưới tác động của các cú sốc bên ngoài đến một số biến quan trọng
liên quan đến ngành mía đường trong nước, như diện tích, năng suất, sản lượng mía, giá
cả, tiêu dùng và xuất nhập khẩu đường. Dưới đây là phần mô tả khái quát cấu trúc của mô
hình.
Các kịch bản mô phỏng đều áp dụng cho giai đoạn từ 2005 đến 2020. Qui mô dân số và
mức thu nhập (GDP bình quân đầu người) là những nhân tố quan trọng quyết định đến cầu
của mặt hàng đường trong tương lai. Trong mô hình, dân số và GDP (như đã nói ở trên)
được giả định có tốc độ tăng trưởng hàng năm tương ứng là 1,2% và 6%. Những tiến bộ về
năng suất cây trồng và điều kiện khí hậu thời tiết, đặc biệt là lượng mưa hàng năm, là
những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng cung của ngành hàng mía đường và
được dùng như như các biến ngoại sinh. Trong mô hình, năng suất mía đường được giả
định tăng hàng năm 1%. Lượng mưa cho các năm trong giai đoạn 2005-2020 được tính
dựa trên phân bổ xác xuất ngẫu nhiên của 20 năm gần đây. Khối lượng đường chế biến
công nghiệp được giới hạn bởi công suất của các nhà máy phân theo 3 nhóm qui mô: Qui
mô lớn (>= 2000 TMN), Qui mô trung bình (1001-2000 TMN) và Qui mô nhỏ (=< 1000
TMN). Mô hình giả định nếu chi phí khả biến tính trên 1 đơn vị sản phẩm chế biến (tương
ứng với từng nhóm nhà máy) cao hơn mức giá thị trường tính bình quân của 3 năm trước
liền kề, thì các nhà máy chỉ có thể sử dụng không quá 60% công suất thiết kế.
Kịch bản 0: Không có tự do hoá thương mại đối với ngành mía đường.
Giả định trong tương lai Việt Nam vẫn duy trì các chính sách bảo hộ sản xuất trong nước
đối với ngành hàng mía đường, không tham gia các cam kết quốc tế về mở của thị trường
đường nội địa và áp dụng các rào cản thương mại bằng thuế quan và phi thuế quan ở mức
cao nhằm khống chế nhập khẩu đường ở mức xấp xỉ bằng 0, giống như hiện nay. Như vậy
trong kịch bản 0, lượng cung, cầu và giá cả thị trường đường nội địa sẽ chủ yếu do quan hệ
cung cầu trong nước quyết định. Kịch bản 0 được sử dụng như một đối chứng để so sánh
với các kịch bản thực hiện TDHTM và hội nhập quốc tế.
Biểu 3.1. Kết quả mô hình theo Kịch bản 0
1
Tổng cung
1000 đ
Tổng cầu
1000 đ
Giá bán buôn
đ/kg
% cung so cầu
Năm 2005 1296 1296 4820 100.0
Năm 2010 1450 1450 5649 100.0
Năm 2020 1836 1836 7764 100.0
% Biến đổi hàng năm 2.3 2.3 3.2
% 2020 so với 2005 41.7 41.7 61.1
Trong kịch bản 0, do không thực hiện các cam kết về TDHTM và mở cửa thị trường cho
đường nhập khẩu, nên sản xuất mía đường của Việt Nam năm 2020 sẽ tăng gấp 1,5 lần so
với mức hiện tại và người tiêu dùng do không có đường nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chấp
nhận giá cao hơn khoảng 1,7 lần. Tuy nhiên với mức giá trong nước cao do không có cạnh
tranh quốc tế, tất cả các nhà máy chế biến đường trong nước cả qui mô lớn lẫn qui mô vừa
và nhỏ đều có lãi cao.
Các Kịch bản về TDHTM từ 1 đến 4 được giả định thực hiện các biện pháp tháo gỡ các rào
cản thương mại và lộ trình cắt giảm thuế đối với mặt hàng mía đường cụ thể như sau: thuế
nhập khẩu đường giảm dần từ mức 50% trong năm 2002 xuống còn 20% vào năm 2005 và
sẽ bằng 0% kể từ năm 2010 trở đi. Bốn kịch bản trong điều kiện thực hiện hội nhập và
TDHTM sẽ chỉ khác nhau ở các giả định về biến động giá quốc tế và tỉ giá hối đoái theo
các hướng tăng hoặc giảm khác nhau. Ảnh hưởng của các kiểu biến động giá quốc tế tới
thị trường đường nội địa sẽ được mô phỏng và lượng hoá, nhằm tạo cơ sở cho việc đề ra
các giải pháp, chính sách phát triển ngành trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Kịch bản 1: Giả định trong giai đoạn 2005-2020 giá thế giới giảm trong khi tỉ giá hối
đoái (TGHĐ) của Việt Nam sẽ tăng
Giá quốc tế (giá CIF) giả định sẽ giảm bình quân 1,25 % năm (tức giảm 17,2 % cho cả
giai doạn 2005-2020) và TGHĐ tăng 1% năm (tức tăng 16.1 %), do vậy giá quốc tế tính
bằng tiền Việt Nam năm 2020 so với 2005 chỉ giảm xấp xỉ 4 %. Dưới tác động của giảm
giá quốc tế, cầu trong nước năm 2020 so với 2005 sẽ tăng khoảng 1,5 lần, trong khi cung
trong nước chỉ tăng khoảng 13 % và đáp ứng khoảng 44 % tổng tiêu dùng đường. Do cầu
về đường trong nước vẫn liên tục tăng dưới tác động của tăng dân số và tăng thu nhập, nên
giá bán buôn trong nước trong cả giai đoạn 2005-2020 chỉ giảm gần 10 % và vẫn đạt trên
4000 đ/kg. Với mức giá này thì phần lớn các nhà máy vẫn có khả năng có lãi. Như vậy,
TGHĐ biến động ngược với xu thế giảm giá quốc tế sẽ làm yếu đi đáng kể tác động bất lợi
tới ngành mía đường Việt Nam.
Biểu 3.2. Kết quả mô hình theo Kịch bản 1
Tổng
cung,
1000
tấn
Tổng
cầu,
1000
tấn
Giá bán
buôn,
đ/kg
Nhập
khẩu,
1000
tấn
Phúc
lợi
XH,
Tỉ đ
% So với KB0
Cung Cầu
Giá
BB
2
Năm 2005 1289 1342 4723 53 2.6 -0.6 3.5 -2.0
Năm 2010 1322 1888 4367 566 363 -8.8 30.2 -22.7
Năm 2020 1452 3340 4267 1888 3300 -20.9 81.9 -45.0
% Biến đổi hàng
năm 0.8 6.3 -0.7
% 2020 so với 2005 12.7 148.9 -9.6
Kịch bản 2: Giả định trong giai đoạn 2005-2020 giá thế giới giảm đồng thời tỉ giá hối
đoái (TGHĐ) của Việt Nam giữ không thay đổi
Năm 2020 so với 2002, giá quốc tế giảm 17,2 % (giảm 1,25% năm) và TGHĐ giữ ổn
định, do vậy giá quốc tế tính bằng tiền Việt Nam cũng giảm 17,2 %.
Biểu 3.3. Kết quả mô hình theo Kịch bản 2
Tổng
cung,
1000
tấn
Tổng
cầu,
1000
tấn
Giá bán
buôn,
đ/kg
Nhập
khẩu,
1000
tấn
Phúc
lợi
XH,
Tỉ đ
% So với KB0
Cung Cầu
Giá
BB
Năm 2005 1289 1342 4723 53 2.6 -0.6 3.5 -2.0
Năm 2010 1287 2031 4064 744 589 -11.3 40.0 -28.1
Năm 2020 1347 4051 3489 2705 5781 -26.7 120.6 -55.1
% Biến đổi hàng
năm 0.3 7.6 -2.0
% 2020 so với 2005 4.5 201.9 -26.1
Như vậy, cú sốc giảm giá quốc tế trong kịch bản 2 do không bị cản bởi TGHĐ sẽ giữ
nguyên cường độ tác động tới thị trường nội địa, khiến giá đường nội địa rớt khá nhanh,
xuống tới mức 3500 đ/kg. Giá giảm mạnh sẽ làm cầu trong nước năm 2020 tăng gấp 2 lần
so với năm 2005. Song với mức giá xuống thấp như vậy thì chỉ các doanh nghiệp qui mô
lớn mới còn khả năng sản xuất có lãi, các doanh nghiệp còn lại sẽ bi thua lỗ. Đặc biệt là
các doanh nghiệp nhỏ, mức giá 3500 đ/kg sẽ không bù đắp nổi chi phí khả biến và rơi vào
tình thế buộc phải đóng cửa. Nếu điều này thực sự xảy ra thì trên 26 vạn công nhân nhà
máy và lao động nông nghiệp (chiếm khoảng 23% trong tổng số trên 1,1 triệu lao động của
toàn ngành) sẽ phải chuyển đổi việc làm.
Kịch bản 3: Giả định trong giai đoạn 2005-2020 giá thế giới tăng và tỉ giá hối đoái
(TGHĐ) của Việt Nam giữ ổn định
Năm 2020 so với 2002, giá quốc tế tăng 20,5% (tức tăng 1,25% năm) và TGHĐ giữ ổn
định, do vậy giá quốc tế tính bằng tiền Việt Nam cũng sẽ tăng 20,5%.
Biểu 3.4. Kết quả mô hình theo Kịch bản 3
Tổng
cung,
1000
tấn
Tổng
cầu,
1000
tấn
Giá bán
buôn,
đ/kg
Nhập
khẩu,
1000
tấn
Phúc
lợi
XH,
Tỉ đ
% So với KB0
Cung Cầu
Giá
BB
3
Năm 2005 1289 1342 4723 53 2.6 -0.6 3.5 -2.0
Năm 2010 1377 1691 4875 314 122 -5.1 16.6 -13.7
Năm 2020 1599 2594 5470 994 1141 -12.9 41.2 -29.6
% Biến đổi hàng
năm 1.4 4.5 1.0
% 2020 so với 2005 24.1 93.3 15.8
Trong kịch bản 3, giá đường quốc tế tăng sẽ làm giảm bớt nhu cầu nhập khẩu đường, giá
bán đường trong nước năm 2020 có thể sẽ tăng thêm gần 16% so với năm 2005 và đạt gần
5500 đ/kg. Lượng cung trong nước sẽ tăng hơn và mức nhập khẩu cũng thấp hơn đáng
kể.Với mức giá này các nhà máy qui mô trung bình và nhỏ cũng có thể sản xuất có lãi. Tuy
nhiên người tiêu dùng trong nước phải chịu mức giá cao hơn so với trường hợp giá thế giới
giảm.
Kịch bản 4: Giả định trong giai đoạn 2005-2020 giá thế giới tăng đồng thời tỉ giá hối
đoái (TGHĐ) của Việt Nam cũng tăng theo.
Năm 2020 so với 2005, giá quốc tế giả định tăng 20,5% (tức tăng 1,25% năm) và TGHĐ
tăng 16,1 % (tăng 1% năm), do vậy giá quốc tế tính bằng tiền Việt Nam trong cả giai đoạn
sẽ tăng khoảng 40%.
Biểu 3.5. Kết quả mô hình theo Kịch bản 4
Tổng
cung,
1000
tấn
Tổng
cầu,
1000
tấn
Giá bán
buôn,
đ/kg
Nhập
khẩu,
1000
tấn
Phúc
lợi
XH,
Tỉ đ
% So với KB0
Cung Cầu
Giá
BB
Năm 2005 1289 1342 4723 53 2.6 -0.57 3.526 -2.0
Năm 2010 1416 1574 5246 158 32 -2.4 8.499 -7.1
Năm 2020 1699 2201 6463 503 327 -7.51 19.88 -16.8
% Biến đổi hàng
năm 1.9 3.4 2.1
% 2020 so với 2005 31.8 64.0 36.8
Đây là trường hợp có lợi nhất đối với ngành mía đường trong nước, giá bán buôn năm
2020 so với 2005 sẽ tăng thêm gần 37% và đạt mức khá cao gần 6500 đ/kg. Các xí nghiệp
chế biến đường thuộc các loại qui mô đều có thể hoạt động một cách thuận lợi. Sản xuất
đường trong nước năm 2020 tăng gần 32% so với 2005, đáp ứng gần 80% tổng mức tiêu
dùng đường trong nước. Trong kịch bản này mặc dù tổng phúc lợi xã hội ròng vẫn dương,
nhưng người tiêu dùng bị thiệt nhiều hơn so với cả 3 kịch bản nêu trên. Tuy tổng mức cầu
không tăng mạnh như ở các kịch bản khác nhưng trong năm 2020 vẫn tăng hơn mức 2005
là 64%.
KẾT LUẬN TỪ MÔ HÌNH
Từ các kịch bản mô phỏng sự biến động của thị trường đường Việt Nam dưới các tác động
khác nhau của TDHTM trong giai đoạn 2005-2020 có thể rút ra một số nhận xét như sau:
4
4 kịch bản về TDHTM (xoá bỏ các rào cản phi thuế và thực hiện lộ trình cắt giảm hàng
rào thuế quan) với các giả định tăng giảm giá đường quốc tế và thay đổi TGHĐ khác
nhau cho thấy ngành mía đường Việt Nam giai đoạn 2005-2020 sẽ vẫn duy trì và ổn
định khối lượng sản xuất trong nước, ít nhất là bằng và hơn mức hiện tại, chủ yếu là
nhờ cầu trong nước sẽ liên tục tăng do dân số tăng và mức thu nhập được cải thiện
không ngừng. Nếu giá đường quốc tế tính bằng tiền Việt Nam đến năm 2020 so với
2005 tăng 40% như ở Kịch bản 4, thì sản xuất đường trong nước sẽ tăng thêm đáng kể,
32% (hay 410 nghìn tấn). Và cho dù dưới áp lực cạnh tranh mạnh của đường nhập
khẩu do giá đường thế giới tính bằng đồng Việt Nam giảm 17% trong cùng giai đoạn
(như giả định trong Kịch bản 2), thì lượng đường sản xuất trong nước vẫn có thể tăng
thêm tới 4,5% (hay gần 60 nghìn tấn). Đối với trường hợp không có TDHTM thì sản
lượng đường Việt Nam năm 2020 sẽ tăng gấp 1,5 lần so với mức hiện tại và người tiêu
dùng do không có đường nhập khẩu giá rẻ, buộc phải chấp nhận mức giá cao hơn
khoảng 1,7 lần.
Chính sách Tỉ giá Hối đoái có vai trò hết sức quan trọng trong việc điều tiết tác động
của các cú sốc giá cả trên thị trường quốc tế, nó có thể làm hạn chế hoặc ngược lại làm
trầm trọng thêm ảnh hưởng của biến động giá trên thị trường thế giới. Khi giá quốc tế
giảm bình quân 1,25% năm, nếu TGHĐ tăng 1% năm thì giá QT tính bằng tiền Việt
Nam chỉ giảm 0,26% năm [(100-1,25)*(100+1)-100 = -0,262%] và như vậy sau 15
năm giá QT cũng chỉ giảm gần 4% (xem Kịch bản 1). Ngược lại, khi giá quốc tế tăng
bình quân 1,25% năm, nếu TGHĐ tăng 1% năm thì giá QT tính bằng tiền Việt Nam sẽ
tăng 2,262% năm [(100+1,25)*(100+1)-100 = 2,262%] và sau 15 năm giá QT sẽ tăng
thêm gần 40% (xem Kịch bản 4). Tuy đều giả định giá QT tăng 1,25% năm, nhưng với
Kịch bản 2 TGHĐ được giữ ổn định trong khi Kịch bản 1 lại có TGHĐ tăng 1% năm.
Kết quả là mức nhập khẩu đường năm 2020 trong kịch bản 2 sẽ lớn hơn Kịch bản 1 là
43%. Kết quả mô phỏng cho thấy rất rõ vai trò của TGHĐ, có thể được sử dụng như
một công cụ hữu hiệu để điều tiết thị trường trong nước trong bối cảnh tham gia hội
nhập quốc tế. Trên thực tế, trong quộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt, Mỹ cũng đã sử
dụng chính sách TGHĐ để chống lại EU, Nhật Bản và các đối thủ cạnh tranh khác.
Kịch bản 2 là trường hợp xấu nhất đối với ngành công nghiệp mía đường trong nước,
khi giá quốc tế giảm 17% (năm 2020 so với 2005) và TGHĐ lại được giữ ổn định trong
cả giai đoạn, dẫn đến giá đường trong nước năm 2020 chỉ còn khoảng 3500 đ/kg. Sản
xuất đường nội địa vì thế sẽ ở mức thấp nhất so với các kịch bản khác, tuy nhiên vẫn
đạt mức 1,35 triệu tấn. Mức sản xuất nội địa được duy trì trong điều kiện giá cả thị
trường bất lợi, chủ yếu sẽ phải nhờ vào việc mở rộng và tăng hiệu suất của các nhà
máy đường qui mô lớn. Do giá thế giới và giá nội địa giảm nên cầu trong nước sẽ tăng
vọt. Ở kịch bản 2, vào năm 2020 lượng tiêu dùng đường trong nước có thể lên tới 4
triệu tấn, gấp 3,5 lần so với mức của năm 2002.
Với mức giá thị trường xuống thấp như trong kịch bản 2 thì cho dù giá thành chế biến
đường của các nhà máy trong nước có thể giảm bớt được 10% và tình trạng nợ tồn
đọng đã được sử lý cũng chỉ có các nhà máy đường qui mô lớn với lợi thế về hiệu quả
qui mô mới có đủ khả năng duy trì được sản xuất kinh doanh không bị lỗ. Đối với các
5