Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

vai trò của liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế ngày nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.99 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Cách đây 68 năm, đông đảo đại diện đến từ 50 quốc gia đã nhóm họp tại
San Francisco để đề xuất thành lập một tổ chức quốc tế thay thế cho Hội quốc
liên trước đó hoạt động không hiệu quả nhằm dự phòng các cuộc xung đột vũ
trang cũng như nhằm ngăn chặn các cuộc chiến như Chiến tranh thế giới thứ
nhất và thứ hai không bao giờ xảy ra nữa. Chỉ vài tháng sau đó, Hiến chương
của Liên hợp quốc đã được ký, ra đời Tổ chức đa phương này, "một tổ chức
được hình thành với hy vọng chấm dứt tai họa chiến tranh cho nhân loại"
So với Hội quốc liên, Liên hợp quốc chứng tỏ đầy đủ hơn tính chất toàn cầu
(thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập trên mọi châu lục) và đặc biệt
là tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự không bó hẹp vào vấn đề duy
trì hoà bình, an ninh, mà bao gồm cả việc thúc đẩy hợp tác vì phát triển kinh
tế – xã hội của cộng đồng các dân tộc; bản thân hệ thống Liên hợp quốc bao
gồm hàng loạt cơ quan, chương trình, quỹ, tổ chức chuyên môn tập trung vào
mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và quan hệ quốc tế ngoài lĩnh vực
chính trị - quốc phòng, từ tiền tệ đến nông nghiệp, văn hoá, khoa học – kỹ
thuật . Liên hợp quốc đã đề xuất và tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu
truyền thống như cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện, giải trừ vũ khí hạt nhân
và vũ khí thông thường, gìn giữ hòa bình và giải quyết xung đột, hòa bình
Trung Đông, thương mại quốc tế, chống đói nghèo, và phi truyền thống như
khủng bố, biến đổi khí hậu, khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu và dịch
bệnh HIV/AIDS và nhiều loại bệnh lây nhiễm khác.
Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sống
chính trị quốc tế trong mấy chục năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh
dấu sự xuất hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước
ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói
chung. Sự đóng góp của Liên hợp quốc đối với hoà bình an ninh quốc tế, sự
phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng các dân tộc trong 68 năm qua là rất
đáng kể. Đặc biệt trong kỷ nguyên văn minh và toàn cầu hóa hiện nay, Liên
hợp quốc càng khảng định vai trò to lớn trong quan hệ quốc tế hiện đại, khả
năng hướng tới một tổ chức siêu quyền lực trên thế giới.




1


CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC LIÊN HỢP QUỐC
1.1.

Sự hình thành của tổ chức Liên hợp quốc

Sau khi chiến thắng chủ nghĩa phát xít, ngày 26/6/1945, tại hội nghị Xan
Phranxisco (Mỹ), họp từ ngày 25/4/1945 đến ngày 26/6/1945, đại diện của 51
nước đã ký tham gia Hiến chương Liên hợp quốc.
Trước năm 1945, trước sự yếu kém của Hội quốc liên và nguy cơ xảy ra
chiến tranh thế giới thứ ba, và để đảm bảo một thế cân bằng trong quan hệ
quốc tế sau chiến tranh, ba cường quốc chính của phe đồng minh là Anh, Mỹ
và Liên Xô đã tiến hành hai hội nghị thượng đỉnh quan trọng (Tê-hê-ran,
tháng 11/1943 và Ianta tháng 2/1945). Nội dung trao đổi chính giữa nguyên
thủ của ba cường quốc bao gồm số phận châu Âu và tương lai của Liên hợp
quốc. Việc Liên Xô tán thành thiết lập tổ chức Liên hợp quốc tại hội nghị
Ianta mở ra khả năng hợp tác giữa các nước đồng minh trong việc xây dựng
một trật tự thế giới mới sau chiến tranh. Tại Ianta, ba cường quốc trên đã
thống nhất với nhau về mọt số điểm then chốt trong việc thiết lập tổ chức
Liên hợp quốc: chấp nhận ghế thành viên riêng rẽ của U-crai-na và Bạch Nga
(nay là Bê-la-rút), giành quyền phủ quyết cho các thành viên thường trực của
Hội đồng bảo an, Liên hợp quốc có quyền giám sát việc tạo dựng trật tự châu
Âu. Đến hội nghị Pốt-xđam từ ngày 17/7/1945 đến ngày 2/8/1945, ba cường
quốc nhất trí thỏa thuận thành lập cơ chế để giải quyết các vấn đề sau chiến
tranh như bồi thường chiến tranh của Đức, xác định lại biên giới các quốc

gia… . Hội đồng ngoại trưởng 5 nước gồm Nga, Mỹ, Anh, Pháp và Trung
Quốc được thành lập trên cơ sở thỏa thuận tại hội nghị Ianta, đại biểu của 50
quốc gia đã tham dự hội nghị Xan Phranxisco và dự thảo hiến chương của
liên hợp quốc. Hiến chương Liên hợp quốc bắt đầu có hiệu lực từ ngày
24/10/1945. Từ đó trở đi, ngày 24/10 hàng năm được kỷ niệm là ngày Liên
hợp quốc. Sự ra đời của Liên hợp quốc là một sự kiện quan trọng: Liên hợp
quốc đã thay thế Hội quốc liên( hội hoạt động kém hiệu quả), trở thành một tổ
2


chức quốc tế toàn cầu với mục tiêu hàng đầu là bảo đảm một nền hòa bình và
trật tự thế giới bền vững.
1.2.

Mục đích và nguyên tắc hoạt động của tổ chức Liên hợp quốc

Liên hợp quốc hoạt động theo các mục tiêu và nguyên tắc quy định trong
Hiến chương Liên hợp quốc. Điều một của Hiến chương nêu rõ bốn mục đích
của Liên hợp quốc là:
Một là, duy trì hòa bình và an ninh quốc tế nhằm ngăn ngừa và loại trừ
những mối đe dọa hòa bình và thủ tiêu hành động xâm lược hoặc sự xâm
phạm hòa bình khác, giải quyết các tranh chấp và xung đột quốc tế bằng
phương pháp hòa bình.
Hai là, phát triển các cơ quan hữu nghị giữa các nước trên cơ sở tôn
trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết giữa các đân tộc.
Ba là, thực hiện sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn
hóa, tôn trọng quyền con người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn
ngữ và tôn giáo.
Bốn là, là trung tâm phối hợp hành động giữa các nước nhằm đạt được
mục đích chung trên.

Và sáu nguyên tắc hoạt động chủ yếu của Liên hợp quốc là:
Một là, bình đẳng chủ quyền của mọi thành viên, không can thiệp vào
công việc nội bộ của bất kỳ nước nào.
Hai là, các thành viên của Liên hợp quốc tự nguyện thực hiện các nghĩa
vụ của Hiến chương.
Ba là,các thành viên của Liên hợp quốc giải quyết các tranh chấp bằng
phương pháp hòa bình, không đe dọa hòa bình, an ninh và đạo lý quốc tế.
Bốn là, không đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực chống lại quyền
bất khả xâm phạm về lãnh thổ hoặc sự độc lập về chính trị của bất cứ nước
nào trái với mục đích của Liên hợp quốc.
Năm là, mọi thành viên giúp đỡ Liên hợp quốc thực hiện các biện pháp
cưỡng chế đối với những nước gây ra hành động đe dọa hòa bình và an ninh
quốc tế.
3


Sáu là, bảo đảm những nước không phải là thành viên của Liên hợp quốc
hành động phù hợp với những nguyên tắc trên, vì đây là điều kiện cần thiết
nhằm duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Các mục đích và nguyên tắc hoạt động của Liên hợp quốc mang tính bao
quát, phản ánh mối quan tâm toàn diện của các quốc gia. Thời gian đầu khi
mới ra đời, cùng với sự tăng vọt về số lượng thành viên, Liên hợp quốc tập
trung vào các vấn đề phi thực dân hóa, quyền tự quyết của dân tộc và chủ
nghĩa phân biệt chủng tộc Apacthai. Trong thời kỳ gần đây, Liên hợp quốc
ngày càng quan tâm nhiều hơn đến các ván đề kinh tế và phát triển. Hoạt động
của Liên hợp quốc trong suốt mấy chục năm qua cho thấy trọng tâm chính của
Liên hợp quốc là duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và giúp đỡ sự nghiệp phát
triển của các quốc gia thành viên.
1.3.


Các cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc

Theo Hiến chương Liên hợp quốc có 6 cơ quan chính:
Một là Đại hội đồng: Đại hội đồng bao gồm các thành viên của Liên hợp
quốc, mỗi thành viên có ít nhất là 5 đại diện và 5 phó đại diện, một số cố vấn
và chuyên viên cần thiết, khi biểu quyết mỗi thành viên một là phiếu. Đại hội
đồng có quyền thảo luận bất cứ một vấn đề hoặc sự việc nào trong phạm vi
Hiến chương, xem xét các nguyên tắc chung về sự hợp tác quốc tế và về an
ninh quốc tế, về chính trị, về luật pháp quốc tế, về kinh tế, xã hội, văn hóa,
giáo dục, y tế, thúc đảy việc thực hiện quyền con người và các vấn đề có liên
quan đến các quốc gia, dân tộc. (trừ hai trường hợp: Đại hội đồng không có
quyền khuyến nghị về một tranh chấp đối tượng là Hội đồng bảo an; Đại hội
đồng không có quyền dùng chế tài đối với thành viên vi phạm Hiến chương
Liên hợp quốc).
Hai là Hội đồng bảo an: Gồm có 5 ủy viên thường trực và 10 ủy viên
không thường trực. Nhiệm vụ của hội đồng bảo an là chịu trách nhiệm chính
trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế; giải quyết các phát sinh( kể cả
xung đột quốc tế), điều tra mọi tranh chấp, khuyến nghị các phương pháp giải
quyết. Chức năng của hội đồng bảo an đó là ra khuyến nghị kết nạp thành
4


viên mới; các khu vực chiến lược, thực hiện chức năng quản thác; trình Đại
hội đồng về việc bầu Tổng thư ký, bầu thẩm phán quốc tế.
Ba là Hội đồng kinh tế- xã hội (ECOSOC): Là cơ quan chủ yếu chịu
trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội. Gồm có 54 ủy
viên, đa số do hội đồng bầu hàng năm ( nhiện kỳ 3 năm), các ủy viên có thể
được bầu tiếp vào nhiệm kỳ sau. Chức năng của Hội đông đó là thực hiện
khởi xướng các công việc nghiên cứu và báo cáo liên quan đến kinh tế quốc
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, cũng như các vấn đề liên quan. Đưa ra các

kiến nghị về các vấn đề trên cho Đại hội đồng, các thành viên của Liên hợp
quốc và các cơ quan chuyên môn có liên quan khác. Dự thảo các hiệp ước để
đệ trình cho Đại hội đồng về các vấn đề nằm trong thẩm quyền của mình, tổ
chức hội thảo về các vấn đề này. Thực hiện các hiệp định với các cơ quan
chuyên môn, cung cấp hoạt động tư vấn với các tổ chức phi chính phủ
(NGO).
Bốn là Hội đồng quản thác: Gồm các thành viên Liên hợp quốc đang
thực hiện sự quản thác, các ủy viên thường trực của Hội đồng bảo an không
quản thác và các thành viên khác của Liên hợp quốc do Đại hội đồng bầu với
thời hạn 3 năm, phải thỏa mãn điều kiện số nước quản thác bằng số nước
không quản thác. Hội đồng quản thác có chức năng đó là có quyền xem xét
các báo cáo do chính quyền quản thác trình bày, tiếp nhận các bản điều trần,
tổ chức đi thăm thường kỳ các lãnh thổ quản thác. Hội đồng soạn thảo các bản
tường trình về sự tiến bộ của nhân dân ở các lãnh thổ quản thác về chính trị,
kinh tế, xã hội. Chính quyền sở tại trình báo cáo hàng năm ra Đại hội đồng.
Hội đồng quản thác có hai ủy ban ( Uỷ ban điều trần và Uỷ ban liên minh
hành chính).
Năm là Tòa án quốc tế: là cơ quan xét xử chủ yếu của Liên hợp quốc
thành lập năm 1945 ( thay thế ủy viên thường trực hoạt động tư pháp quốc tế
do Hội quốc liên lập). Tòa án có quyền xét xử các tranh chấp vi phạm điều
ước quốc tế ( kể cả những cam kết quốc tế), ra các quyết định buộc thi hành.
Sau khi xét xử, tòa án ra bản án bắt buộc đối với các đương sự, một bên nếu
5


không chấp nhận thì bên kia sẽ có quyền đưa ra Hội đồng bảo an để áp dụng
các biện pháp nhằm làm cho bản án được thi hành.
Sáu là Ban thư ký: Đứng đầu ban thư ký là Tổng thư ký, Tổng thư ký chỉ
đạo công việc của Ban thư ký, các ủy ban, các tiểu ban. Tổng thư ký có quyền
thông báo cho Hội đồng bảo an biết mọi tranh chấp đe dọa hòa bình và an

ninh quốc tế. Tổng thư ký phải trình Đại hội đồng báo cáo hàng năm. Ban thư
ký thực hiện chức năng hành chính, phục vụ các cơ quan của Liên hợp quốc
thực hiện các chương trình. Ban thư ký có bộ máy của Ban thư ký và 30 ban
chuyên môn.
Đến nay, Liên hợp quốc đã hoạt động theo chức năng, mục đích của
mình được 68 năm. Liên hợp quốc đã trãi qua 8 kỳ Tổng thư ký, từ 1945-1953
là ông Trygve Lie người Nauy; từ 1953-1961 là ông Day Hammanskjold,
người Thụy Điển; từ 1961-1971 là ông Uthant, người Miến Điện; từ 19711981 là ông Kurt Waldheim, người Áo; từ 1982-1991 là ông Javier Perez de
Cuellar, người Peru; từ 1991-1996 là ông Boutrous Ghali, người Ai Cập; từ
1997-2006 là ông Kofi Annan người Ghana; từ 2007 đến nay là ông Ban Ki
Moon người Hàn Quốc.
1.4.

Ngôn ngữ chính của Liên hợp quốc

Ngôn ngữ chính của Liên hợp quốc là tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha,
Nga và Trung Quốc. Đây là những ngôn ngữ làm việc chính, ngoài ra đến
năm 1973 thêm tiếng Arập.
Trụ sở chính của Liên hợp quốc đặt tại Niu-Ooc (Mỹ).

Trụ sở chính của Liên hợp quốc được đặt tại Niu-Ooc ( Mỹ)
6


CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG QUAN HÊ
QUỐC TẾ HIÊN ĐẠI
2.1. Hai đặc điểm cơ bản của tổ chức Liên hợp quốc
Đặc điểm bao trùm của Liên hợp quốc là tổ chức này không phải là một
nhà nước siêu quốc gia. Liên hợp quốc là một tổ chức đa phương toàn cầu đầu
tiên có những hoạt động thực chất và có nhiều cố gắng trong việc phối hợp và

điều tiết các mối quan hệ giữa các quốc gia độc lập có chủ quyền trên nguyên
tắc tôn trọng chủ quyền bình đẳng giữa các quốc gia. Theo Điều 2, mục 7 của
Hiến chương, Liên hợp quốc không được can thiệp vào các vấn đề thuộc
quyền tài phán nội bộ của các nước. Tất cả các quốc gia tham gia Liên hợp
quốc đều theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền. Nguyên tắc này được phản
ánh triệt để nhất trong cơ chế tham gia bỏ phiếu các quyết định và nghị quyết
tại Đại Hội đồng Liên hợp quốc (các quốc gia lớn nhỏ đều có một phiếu).
Một đặc điểm nổi bật khác của Liên hợp quốc là tổ chức này phản ánh sự
dàn xếp và cân bằng quyền lực giữa các cường quốc thắng trận. Thực tế này
được thể hiện trong cơ chế hoạt động của Hội Đồng bảo an Liên hợp quốc- cơ
quan chấp hành có thực quyền nhất của Liên hợp quốc và đảm nhiệm trách
nhiệm hàng đầu của Liên hợp quốc là duy trì hòa bình và an ninh thế giới. Chỉ
các quyết định của Hội đồng bảo an mới có tính cưỡng chế thực hiện. Các
nghị quyết tại các cơ quan chính khác của Liên hợp quốc như Đại hội đồng,
Hội đồng kinh tế- xã hội, Hội đồng quản thác và Tòa án quốc tế chỉ có tính
khuyến nghị, đạo lý và tạo sức ép dư luận. Để bảo đảm lợi ích và thu hút sự
tham gia của các cường quốc, Hội đồng bảo an Liên hợp quốc là cơ quan duy
nhất dành cho 5 cường quốc quyền phủ quyết (veto) khi thông qua các nghị
quyết, quyết định của Hội đồng. Quyền hạn của Hội đồng bảo an tập trung
vào hai lĩnh vực hoạt động chính là giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế
và tiến hành các biện pháp cưỡng chế. So với Hội quốc liên, Liên hợp quốc
chứng tỏ hơn tính chất toàn cầu (thành phần gồm hầu hết các quốc gia độc lập
trên mọi châu lục) và đặc biệt là tính toàn diện của nó: chương trình nghị sự
không bó hẹp vào vấn đề duy trì hòa bình, an ninh mà bao gồm cả việc thúc
7


đẩy hợp tác vì phát triển kinh tế- xã hội của cộng đồng các dân tộc. Bản thân
hệ thống Liên hợp quốc bao gồm hàng loạt các cơ quan, chương trình, quỹ, tổ
chức chuyên môn tập trung vào mọi lĩnh vực của đời sống các quốc gia và

quan hệ quốc tế như lĩnh vực chính trị- quốc phòng, tiền tệ, kinh tế, văn hóa,
khoa học- kỹ thuật, công nghệ…
2.2. Vai trò của Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế hiện đại- khả
năng tiến tới một siêu quyền lưc
2.2.1. vai trò của Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế hiện đại
Trước hết, sứ mệnh cao cả của Liên hợp quốc được ghi rõ trong những
dòng đầu tiên của Hiến chương Liên hợp quốc là sự phản ánh nguyện vọng
cháy bỏng của các dân tộc mới trãi qua những mất mát, thương đau chưa từng
có trong chiến tranh thế giới thứ hai- đó là ngăn ngừa một cuộc chiến tranh
thế giới mới. Nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của một cơ sở toàn diện cho
hòa bình, các quốc gia thành viên đề ra mục đích hàng đầu của Liên hợp quốc
là duy trì hòa bình và an ninh thế giới, đồng thời xác định những mục đích
quan trọng khác cho các hoạt động của Liên hợp quốc là tăng cường quan hệ
hữu nghị giữa các dân tộc, thúc đẩy hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế
về kinh tế, văn hóa, xã hộ, nhân đạo và bảo đảm quyền con người. Các quốc
gia cũng trao cho Liên hợp quốc vai trò là trung tâm điều hòa các hành động
của các dân tộc hướng theo những mục đích đó.
Để tạo điều kiện về tổ chức, thể chế cho Liên hợp quốc đảm nhiệm được
vai trò của mình, các quốc gia đã quy định trong hiến chương những nguyên
tắc cho quan hệ giữa các quốc gia và hoạt động của Liên hợp quốc mà sau này
trở thành những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế.
Cùng với đó là bộ máy gồm sáu cơ quan chính chịu trách nhiệm về các
lĩnh vực hoạt động khác nhau. Trong đó, Hội đồng bảo an được trao trách
nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình, an ninh quốc tế và được các quốc
gia ủy quyền đưa ra các biện pháp, kể cả các biện pháp cưỡng chế nhằm giải
quyết hòa bình các tranh chấp, chống lại các đe dọa xâm lược, phá họa hòa
bình.
8



Vai trò quan trọng của Liên hợp quốc cũng thể hiện qua thực tiễn hoạt
động trong 68 năm qua, tác động tích cực, to lớn đến đời sống mọi mặt của
quốc tế và từng dân tộc. Tuy tổ chức này đã phải trãi qua nhiều khó khăn và
chịu một số hạn chế. Từ con số 51 quốc gia thành viên năm 1951, đến nay,
Liên hợp quốc đã có tới 192 quốc gia thành viên và trở thành một hệ thống
toàn diện nhất thế giới. Nói đến số lượng thành viên đông đảo như hiện nay
của Liên hợp quốc, chúng ta có thể kể đến thành công của Liên hợp quốc
trong việc thúc đẩy quá trình phi thực dân hóa, góp phần đưa các vùng lãnh
thổ không tự quản gồm tới 750 triệu người trở thành 80 quốc gia độc lập.
Duy trì hòa bình và an ninh quốc tế
Đóng góp lớn nhất của Liên hợp quốc là góp phần ngăn ngừa không để
xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới mới trong vòng mấy chục năm qua. Một
số cuộc khủng hoảng quốc tế đã được giải quyết với sự trung gian hòa giải
của Liên hợp quốc. Theo thống kê của Liên hợp quốc, tổ chức này đã hỗ trợ
các cuộc thương lượng đưa đến giải pháp hòa bình cho hơn 170 cuộc xung
đột ở các khu vực.
Theo yêu cầu của các bên xung đột, Liên hợp quốc đã triển khai 60 hoạt
động gìn giữ hòa bình nhằm góp phần tạo môi trường thuận lợi cho các bên đi
đến các thỏa thuận chấm dứt xung đột và thực hiện các thỏa thuận đó. Liên
hợp quốc đã xây dựng và soạn thảo 15 công ước quốc tế về giải trừ quân bị,
đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình và ổn định thế giới. Vì những
hoạt động kể trên, lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc đã được trao
tặng giải thưởng Noben về hòa bình vào năm 1988, sau đó tổ chức Liên hợp
quốc và Tổng Thư ký Kofi Annan được tặng giải thưởng này vào năm 2001.
Phát triển kinh tế- xã hội
Trong lĩnh vực phát triển, việc tạo môi trường kinh tế, thương mại, tài
chính quốc tế bình đẳng và quan tâm thích đáng đến lợi ích của các nước đang
phát triển là ưu tiên trong hoạt động của Liên hợp quốc, trong đó có việc
nhằm thúc đẩy vòng đàm phán Doha hiện nay về thương mại vì phát triển. Từ
năm 1960, Đại hội đồng Liên hợp quốc đề ra các chiến lược phát triển cho

9


từng thập kỷ nhằm huy động hợp tác quốc tế cho các mục tiêu phát triển
chung, nhất là ở các nước đang phát triển; bên cạnh đó, các tổ chức Liên hợp
quốc đã có sự hỗ trợ trực tiếp về vốn, tri thức cho sự nỗ lực phát triển của
kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và y tế của các nước này. Tại diễn đàn này,
các quốc gia đã ký kết hơn 500 điều ước quốc tế đa phương quan trọng trong
nhiều lĩnh vực của giao lưu quốc tế. Trong đó có Công ước về Luật biển (năm
1982), đưa ra khuyến nghị định hướng cho các chủ đề của luật pháp quốc tế
và xây dựng chuẩn mực cho các lĩnh vực chuyên môn khác nhau.
Bảo đảm, thúc đẩy quyền con người
Trong lĩnh vực bảo đảm, thúc đẩy quyền con người, các quốc gia thành
viên đã xây dựng các văn kiện cơ bản nhất trong lĩnh vực nhân quyền là
Tuyên ngôn nhân quyền, công ước về kinh tế, xã hội, văn hóa, và công ước về
quyền dân sự và chính trị làm cơ sở cho hơn 80 công ước, tuyên bố được
thông qua sau này về các vấn đề khác nhau về quyền con người.
2.2.2. Khả năng tiến tới một siêu quyền lực
Hiện nay, thế giới đã bước sang kỷ nguyên văn minh, mọi quan hệ quốc
tế đều được thiết lập, giải quyết theo cách thức hòa bình, hữu nghị, hợp tác và
cùng phát triển. Do đó, với vai trò là ngôi nhà chung của gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ, Liên hợp quốc đang có một vai trò rất lớn, được đánh giá có
khả năng tiến tới một siêu quyền lực.
Tại hội nghị cấp cao thế giới năm 2005, các nhà lãnh đạo các quốc gia đã
nhất trí về ý nghĩa sống còn của việc xây dựng một hệ thống đa phương hữu
hiệu, lấy Liên hợp quốc làm trung tâm nằm đối phó với những thách thức đa
dạng, toàn cầu như hiện nay.
Trước hết, siêu quyền lực của Liên hợp quốc được thể hiện ở việc duy trì
hòa bình và an ninh thế giới. Hiện nay, trong quan hệ quốc tế, không còn thời
mà nước lớn có thể dùng vũ lực để đánh nước nhỏ bất cứ khi nào họ muốn.

Luật quốc tế hiện nay đã có nhiều văn bản quy định về việc cấm dùng vũ lực
và đe dọa dùng vũ lực. Khi có các mối đe dọa, phá hoại hòa bình hoặc hành
động xâm lược thì Liên hợp quốc có quyền can thiệp để loại bỏ mối đe dọa
10


này. Theo điều 24 của Hiến chương Liên hợp quốc, các nước thành viên Liên
hợp quốc trao cho Hội đồng bảo an trách nhiệm chính trong việc giữ gìn hòa
bình và an ninh thế giới. Theo đó, Hội đồng bảo an có thể áp dụng các biện
pháp nhằm giải quyết hòa bình các tranh chấp, xung đột và khi cần thiết có
thể sử dụng các biện pháp, kể cả cưỡng chế vũ lực, nhằm loại trừ các mối đe
dọa, phá hoại hòa bình hoặc các hành động xâm lược.
Thứ hai là đối với các vấn đề kinh tế- xã hội: Liên hợp quốc đã thực hiện
hợp tác quốc tế trong việc giải quyết những vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội,
văn hóa hoặc nhân đạo, thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng nhân quyền và
những quyền tự do căn bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc,
nam nữ, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Cụ thể, Liên hợp quốc sẽ thúc đẩy: nâng cao
mức sống, đầy đủ việc làm, điều kiện tiến bộ và phát triển kinh tế- xã hội; giải
quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, y tế… và các vấn đề liên quan, sự
hợp tác quốc tế về văn hóa, giáo dục; tôn trọng và thực hiện quyền con người
và các tự do cơ bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, nam nữ,
ngôn ngữ hoặc tôn giáo.
Thứ ba là đối với việc giải quyết các xung đột và tranh chấp quốc tế,
nhiệm vụ trọng tâm của Liên hợp quốc là giải quyết các cuộc xung đột bằng
biện pháp hòa bình phù hợp với các nguyên tắc của công lý và luật pháp quốc
tế, trong đó có phương pháp sử dụng trọng tài và giải quyết của tòa án (theo
luật pháp).
Ngoài ra, trong vòng hơn sáu thập kỷ qua, Liên hợp quốc đã bảo trợ cho
trên 456 thỏa thuận đa phương bao gồm mọi lĩnh vực hoạt động giữa các nhà
nước và nổ lực của loài người. Liên hợp quốc cũng là tổ chức tiên phong quan

tâm tới những vấn đề toàn cầu mới hiện nay như: môi trường, khoảng không
vũ trụ, lao động di cư, buôn lậu ma túy và chủ nghĩa khủng bố.
Có thể nói, không một quốc gia, một tổ chức hoặc một liên minh nào
trên thế giới có vai trò và đủ thẩm quyền để giải quyết mọi vấn đề của các
quốc gia như Liên hợp quốc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, Liên hợp
quốc là tổ chức duy nhất có thể giải quyết mọi vấn đề từ an ninh quốc tế, kinh
11


tế, xã hội, văn hóa đến nhân quyền của các quốc gia trên thế giới. Hiện nay,
Liên hợp quốc đang thúc đẩy mạnh mẽ việc xây dựng các mối quan hệ quốc
tế công bằng, lành mạnh dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế và các nguyên tắc
của Hiến chương Liên hợp quốc. Đóng góp tích cực vào việc thu hẹp khoảng
cách phát triển, trong đó có việc thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ để toàn cầu hóa trở thành một lực lượng tích cực đối với toàn thể nhân dân
thế giới; thực hiện cải tổ toàn diện Liên hợp quốc. Hiện nay, Liên hợp quốc
đang triển khai nhiều biện pháp cụ thể theo các định hướng này để hướng tới
là một tổ chức siêu quyền lực.

12


CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HÊ GIỮA VIÊT NAM VÀ LIÊN HỢP QUỐC

Ngày 20/9/1977, Việt Nam chính thức tham gia Liên Hợp Quốc, trở
thành thành viên thứ 149 của tổ chức đa phương lớn nhất thế giới này. Sự kiện
này đã mở ra một thời kỳ mới cho ngoại giao đa phương Việt Nam với những
đóng góp quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, góp phần nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế mà đỉnh
cao là việc Việt Nam hoàn thành xuất sắc vai trò Ủy viên không thường trực

Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
Ngay từ những ngày đầu lập nước, ngoại giao đa phương đã được Đảng
và Nhà nước quan tâm, coi trọng như một mũi tiến công sắc bén trên mặt trận
tổng hợp đấu tranh vì độc lập dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi nhiều
thư, điện cho Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc, các đại diện của Mỹ, Liên
Xô cũ, Trung Quốc, Anh… “yêu cầu các ngài công nhận nền độc lập ấy và
nhận chúng tôi vào Hội đồng Liên hợp quốc.”
Mặc dù các yếu tố chính trị và lịch sử chưa cho phép Việt Nam có thể
sớm gia nhập Liên hợp quốc, cuộc đấu tranh chính nghĩa và anh hùng của
nhân dân Việt Nam vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước và những đóng
góp to lớn của Việt Nam đối với phong trào hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã
hội trên thế giới đã tạo cho Việt Nam sự ủng hộ to lớn và rộng rãi trên toàn
thế giới. Chính vì lẽ đó, chỉ hai năm sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đã
nhanh chóng được các nước trên thế giới công nhận và kết nạp vào Liên hợp
quốc, tổ chức có sứ mệnh duy trì hòa bình và an ninh trên thế giới này.
Trải qua 36 năm, quan hệ Việt Nam và Liên hợp quốc đã có những bước
phát triển vượt bậc trên tất cả phương diện từ văn hóa, giáo dục-xã hội, kinh
tế-thương mại cho đến an ninh-chính trị và trên nhiều cấp độ từ phối hợp thực
hiện các chương trình quốc gia, khu vực cho đến việc tham gia chia sẻ trách
nhiệm, hợp tác giải quyết các vấn đề toàn cầu. Trong bức tranh tổng thể về
quan hệ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc hơn ba thập kỷ qua, nổi lên những
nét chính sau:
13


3.1. Liên hợp quốc, diễn đàn đa phương quan trọng để triển khai
thành công đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam.
Trong suốt quá trình tham gia Liên hợp quốc, Việt Nam luôn tiến hành chính
sách đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ quốc tế; bạn bè thấy ở Việt Nam một người bạn, đối tác tin cậy, có

trách nhiệm với cộng đồng quốc tế.
Trong những năm 80 của thế kỷ trước, khi đất nước còn khó khăn sau
chiến tranh, bằng việc vận dụng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh về
“thêm bạn, bớt thù” và đường lối đối ngoại của Đảng “mở rộng sự hợp tác và
tranh thủ sự ủng hộ quốc tế,” quan hệ với Liên hợp quốc đã giúp phá thế bao
vây, cấm vận, góp phần củng cố môi trường hòa bình, an ninh; đồng thời
tranh thủ các nguồn lực đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội.
Bước sang giai đoạn hội nhập quốc tế từ những năm 1990 đến nay, trên
cơ sở chủ trương của Đảng về "đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ,” “sẵn
sàng là bạn,” “đối tác tin cậy,” “thành viên có trách nhiệm,” và “chủ động,
tích cực hội nhập quốc tế,” Việt Nam đã tích cực, chủ động tham gia các công
việc tại Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế quốc tế, đấu tranh bảo vệ các
lợi ích thiết thân của ta, nhất là trên các vấn đề an ninh, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ; đồng thời tích cực phối hợp với các nước bạn bè vận động, đấu tranh
vì hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển, đề cao các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc, trong đó có nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giải quyết hòa bình các tranh
chấp.
Tại các cơ chế quan trọng của Liên hợp quốc như Đại hội đồng, Hội
đồng Kinh tế-Xã hội (ECOSOC), Việt Nam đóng góp tích cực vào việc xây
dựng các mối quan hệ quốc tế công bằng, lành mạnh hơn, đảm bảo lợi ích
chính đáng của tất cả các thành viên, nhất là các nước đang phát triển.
Lãnh đạo cấp cao của Việt Nam đã tham dự và có nhiều ý kiến đóng góp quan
trọng về phương hướng, ưu tiên của Liên hợp quốc tại các diễn đàn của Liên
hợp quốc, đặc biệt là tại các Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ (năm 2000),
14


Hội nghị Thượng đỉnh kỷ niệm 65 năm ngày thành lập Liên hợp quốc (năm
2010), Hội nghị Liên hợp quốc về Phát triển bền vững (2012).

Việt Nam cũng đã đón nhiều đoàn cấp cao của Liên hợp quốc vào thăm
Việt Nam, trong đó có các Tổng Thư ký Liên hợp quốc như ông Kofi Annan
(2006), ông Ban Ki-moon (2010), qua đó góp phần thắt chặt hơn nữa quan hệ
Việt Nam và Liên hợp quốc. Thông qua các hoạt động tiếp xúc cấp cao này,
Việt Nam đã thúc đẩy hợp tác song phương và quan hệ với các đối tác, cơ chế
khác như ASEAN, APEC, ASEM, Cộng đồng Pháp ngữ, Phong trào Không
liên kết (KLK).
Ghi nhận những đóng góp nhiều mặt của Việt Nam vào công việc của
Liên hợp quốc, các quốc gia thành viên đã nhiều lần tín nhiệm bầu Việt Nam
vào cơ chế lãnh đạo của Liên hợp quốc như Phó Chủ tịch Ðại hội đồng Liên
hợp quốc, Chủ tịch Ðại hội đồng Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO),
thành viên ECOSOC, Ủy ban Nhân quyền.
Nổi bật nhất là việc Việt Nam đã được bầu làm Ủy viên không thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và đã hoàn thành
xuất sắc trọng trách này, được Tổng thư ký Liên hợp quốc và các nước thành
viên đánh giá cao, qua đó góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc tế của Việt
Nam; đồng thời khẳng định đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà
nước Việt Nam.
3.2. Việt Nam là thành viên tích cực của Liên hợp quốc - luôn nỗ lực
tham gia đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào các công việc của Liên
hợp quốc.
Trên mọi cương vị và lĩnh vực hợp tác với Liên hợp quốc, Việt Nam luôn
cố gắng hoàn thành trách nhiệm thành viên, chủ động đưa ra nhiều sáng kiến
thiết thực, phấn đấu vì các mục tiêu chung của Liên hợp quốc.
Về hòa bình-an ninh, là một nước từng gánh chịu nhiều hậu quả nặng nề của
chiến tranh, Việt Nam luôn ủng hộ các mục tiêu hàng đầu của Liên hợp quốc
là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, chống chạy đua vũ trang, giải trừ quân

15



bị, ngăn ngừa và giải quyết các tranh chấp, xung đột quốc tế bằng biện pháp
hòa bình, tăng cường quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc.
Việt Nam đã trở thành thành viên của nhiều điều ước quốc tế về chống
vũ khí hủy diệt hàng loạt, chống khủng bố và hợp tác chặt chẽ với Liên hợp
quốc và các nước trong các vấn đề này. Việt Nam đã được bầu làm Chủ tịch
luân phiên Hội nghị giải trừ quân bị trong khóa họp đầu năm 2009. Hiện nay,
chúng ta cũng đang chuẩn bị để tham gia một cách có hiệu quả vào hoạt động
gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc (PKO), phù hợp với điều kiện và khả
năng của Việt Nam.
Ở khu vực, Việt Nam đã chủ động đóng góp tiếng nói về những vấn đề
liên quan đến hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực, đưa Ðông Nam Á trở
thành một khu vực hòa bình, hữu nghị, hợp tác, không có vũ khí hạt nhân và
đang hướng tới hình thành một Cộng đồng ASEAN vững mạnh.
Trên lĩnh vực hợp tác-phát triển, Việt Nam được Liên hợp quốc đánh giá
cao về việc hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ
(MDG), luôn sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm của mình trong việc thực hiện các
chương trình hành động của Liên hợp quốc về phát triển xã hội, môi trường,
an ninh lương thực, nhà ở, quyền con người, dân số, phụ nữ, trẻ em, phòng
chống HIV/AIDS. Nhằm chủ động đóng góp vào việc đổi mới hệ thống phát
triển của Liên hợp quốc, từ năm 2006 Việt Nam là một trong tám nước thực
hiện thí điểm Sáng kiến "Thống nhất hành động" và đang triển khai thành
công Sáng kiến này.
Tại các diễn đàn Liên hợp quốc, Việt Nam tích cực tham gia thảo luận để
giải quyết các vấn đề quan tâm chung về kinh tế, xã hội, văn hóa, nhân đạo và
bảo đảm quyền con người; đồng thời đóng góp vào việc cải tổ các cơ quan
Liên hợp quốc theo hướng mở rộng minh bạch, dân chủ và hiệu quả.
Trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Bảo an tháng 7/2009, Việt Nam lần
đầu tiên đưa ra sáng kiến tham vấn các thành viên Liên hợp quốc về báo cáo
công tác năm của Hội đồng Bảo an và được nhiều nước đánh giá cao. Để

đóng góp nhiều hơn nữa vào các công việc chung, Việt Nam đang tích cực
vận động ứng cử vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, ECOSOC
(2016-2018) và Hội đồng Bảo an (2020-2021).
16


Là một thành viên có trách nhiệm, Việt Nam đã nghiêm túc tuân thủ và
thực hiện các nghĩa vụ thành viên của các điều ước quốc tế, trong đó có việc
hoàn thành Báo cáo quốc gia thực hiện các Công ước Liên hợp quốc mà Việt
Nam là thành viên và các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Với chủ trương
coi trọng hợp tác, đối thoại với các nước, các cơ chế trong và ngoài Liên hợp
quốc về các vấn đề cùng quan tâm, Việt Nam đã đón nhiều đoàn chuyên gia,
đại diện đặc biệt của Liên hợp quốc như các đoàn Báo cáo viên đặc biệt về
các vấn đề thiểu số, đói nghèo, y tế (2010-2011), đoàn chuyên gia Ủy ban
1737 của Hội đồng Bảo an (2012).
3.3. Liên hợp quốc đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng và
phát triển tại Việt Nam.
Có thể nói các tổ chức Liên hợp quốc luôn đồng hành với các kế hoạch,
chương trình phát triển quốc gia của Việt Nam. Trong những năm đất nước
Việt Nam bị bao vây, cấm vận, nguồn viện trợ của Liên hợp quốc đã góp phần
đáp ứng những yêu cầu thiết yếu của Việt Nam, khắc phục những khó khăn
kinh tế-xã hội sau chiến tranh, nhất là về giáo dục, y tế, chăm sóc, bảo vệ bà
mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình.
Trong khoảng 15 năm gần đây, hệ thống phát triển của Liên hợp quốc
tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trên nhiều lĩnh vực quan trọng trong thời kỳ đổi mới,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa như đảm bảo phát triển bền vững và tăng
cường khả năng hội nhập quốc tế của Việt Nam, giúp nâng cao năng lực, thể
chế luật pháp, cải cách hành chính, xóa đói giảm nghèo cũng như đối phó với
nhiều vấn đề xã hội phức tạp như phòng chống ma túy, HIV/AIDS, dịch bệnh,
thiên tai.

Quan hệ giữa Việt Nam với các tổ chức trong hệ thống Liên hợp quốc
tiếp tục được củng cố, với nhiều dự án, chương trình cụ thể trên nhiều lĩnh
vực phù hợp với yêu cầu của Việt Nam hiện nay như tư vấn chính sách kinh tế
(UNDP), an ninh lương thực (FAO, IFAD), bảo vệ sức khỏe (WHO,
UNAIDS), môi trường và biến đổi khí hậu (UNDP, UNEP).
Hàng năm các tổ chức Liên hợp quốc vẫn dành cho Việt Nam hàng chục
triệu USD viện trợ. Nguồn vốn, tri thức, kinh nghiệm từ hệ thống Liên hợp
quốc là một trong những nguồn ngoại lực quan trọng góp phần vào những
17


thành tựu phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam, đặc biệt là việc thực hiện
các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) do Liên hợp quốc đề ra.
Đầu năm nay, Việt Nam và Liên hợp quốc cũng đã ký Kế hoạch hợp tác
chung giai đoạn 2012-2016 với ba lĩnh vực trọng tâm là tăng trưởng bền
vững, tăng cường tiếp cận các dịch vụ thiết yếu có chất lượng, bảo trợ xã hội
và thúc đẩy quản trị công nhằm hỗ trợ Việt Nam thực hiện hiệu quả Chiến
lược Phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2020 và Kế hoạch Phát triển
kinh tế-xã hội giai đoạn 2011-2015. Điều này thể hiện cam kết hợp tác chặt
chẽ giữa Việt Nam và Liên hợp quốc.
Trên tinh thần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế mà Đại hội Đảng XI
đã đề ra và với vị thế có được từ những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới
và kinh nghiệm 35 năm hợp tác với Liên hợp quốc, trong những năm tới Việt
Nam sẽ tiếp tục tăng cường hoạt động ngoại giao đa phương và hợp tác với
Liên hợp quốc để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, góp phần giữ vững
môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế
của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.


ì

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Bình Minh gặp Tổng Thư ký Liên
hợp quốc ban Ki-moon (năm 2012).

18


KẾT LUẬN
Tổ chức Liên hợp quốc ra đời thực sự có ý nghĩa to lớn trong đời sóng
chính trị quốc tế trong gần 70 năm qua. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu
sự xuất hiện của các hoạt động ngoại giao đa phương hiện đại, một bước
ngoặt quyết định trong lịch sử phát triển của nền ngoại giao đa phương nói
chung.
Những bất trắc hiện nay trong tình hình kinh tế, tài chính thế giới và
những thách thức gay go toàn cầu như biến đổi khí hậu, tình trạng thiếu năng
lượng, lương thực đòi hỏi chúng ta cùng tăng cường hiệu quả trong hợp tác
quốc tế. Cộng đồng quốc tế mong muốn các nước phát triển có các biện pháp
ổn định kinh tế, tài chính vĩ mô, đồng thời thực hiện những cam kết quốc tế
về cải thiện quan hệ kinh tế quốc tế, hệ thống thương mại và tài chính, giãm
nợ, chuyển giao khoa học, công nghệ. Để việc hợp tác đó thực sự hiệu quả
cần tính đến điều kiện đặc thù, các quan tâm và lợi ích chính đáng giữa các
quốc gia.
Trong tình hình quốc tế phức tạp hiện nay, Liên hợp quốc càng cần
thể hiện vai trò của mình trong việc ngăn ngừa chiến tranh và thúc đẩy hợp
tác quốc tế ứng phó với những thách thức đang được đặt ra. Để có thể thực
hiện vai trò này, càng cần cùng nhau thúc đẩy, cải tổ Liên hợp quốc một
cách dân chủ, toàn diện, nhằm mục tiêu tăng cường vai trò và khả năng của
Liên hợp quốc.


19


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................0
CHƯƠNG 1:....................................................................................................2
MỘT SỐ THÔNG TIN CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC LIÊN HỢP QUỐC.......2
1.1. Sự hình thành của tổ chức Liên hợp quốc...........................................2
1.2. Mục đích và nguyên tắc hoạt động của tổ chức Liên hợp quốc.........3
1.3. Các cơ quan chủ yếu của Liên hợp quốc.............................................4
1.4. Ngôn ngữ chính của Liên hợp quốc......................................................6
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA LIÊN HỢP QUỐC TRONG QUAN HÊ
QUỐC TẾ HIÊN ĐẠI.....................................................................................7
2.1. Hai đặc điểm cơ bản của tổ chức Liên hợp quốc...................................7
2.2. Vai trò của Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế hiện đại- khả năng
tiến tới một siêu quyền lưc..............................................................................8
CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HÊ GIỮA VIÊT NAM VÀ LIÊN HỢP
QUỐC............................................................................................................13
3.1. Liên hợp quốc, diễn đàn đa phương quan trọng để triển khai thành
công đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam. ....................14
3.2. Việt Nam là thành viên tích cực của Liên hợp quốc - luôn nỗ lực
tham gia đóng góp tích cực, có trách nhiệm vào các công việc của Liên
hợp quốc.........................................................................................................15
3.3. Liên hợp quốc đóng góp tích cực vào quá trình xây dựng và phát
triển tại Việt Nam..........................................................................................17
KẾT LUẬN....................................................................................................19

20




×