Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Quản lý nhà nước đối với báo chí ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.45 KB, 70 trang )

1

1

MỞ ĐẦU

Từ khi ra đời đến nay, đặc biệt là từ sau những năm đổi mới, cùng với
các ngành, lĩnh vực khác, nền báo chí cách mạng Việt Nam đã không ngừng
phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng. Báo chí luôn bám sát đời
sống xã hội, cung cấp những thông tin đa dạng, sâu sắc; tuyên truyền các chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước hiệu quả. Vai trò của báo chí ngày
càng nâng cao trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong quá trình đấu tranh
chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Ngày 17-10-1997, Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 22-CT/TW về
việc tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí,
xuất bản, sau đó kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X thông qua Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Báo chí ngày 12-6-1999. Những điều đó cho thấy
sự cố gắng của Nhà nước trong quá trình quản lý hoạt động báo chí nhằm để
báo chí phát triển hiệu quả phù hợp với điều kiện, tình hình mới.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó, trong quá trình hoạt động
của mình - báo chí cũng đã bộc lộ không ít bất cập. Đó chính là báo chí phát
triển tràn lan, xuất hiện xu hướng thương mại hóa, xa rời tôn chỉ mục đích,
đối tượng phục vụ; làm lộ bí mật, an ninh quốc gia; nhiều tờ báo chạy theo thị
hiếu tầm thường, đăng bài ảnh dung tục, thiếu văn hóa, đi ngược lại thuần
phong mỹ tục... Trong khi đó, dưới góc độ Nhà nước thì các công cụ quản lý
về báo chí mà chủ yếu là pháp luật chưa hoàn thiện, không phù hợp với thực
tiễn phát triển sinh động trong lĩnh vực báo chí thời gian gần đây.
Những thực tiễn đó đã đặt ra nhu cầu cần phải có những giải pháp hữu
hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước cả về phương diện pháp lý lẫn
thực tiễn. Chính vì vậy, tác giả đã tiến hành chọn đề tài “Quản lý Nhà nước
đối với báo chí ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu làm


1


2

2

khóa luận kết thúc đợt học tập lớp Hoàn chỉnh Cao cấp lý luận chính trị Hành chính năm học 2013 của mình.

2


3

3

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI BÁO CHÍ

1.1. Khái niệm, đặc điểm của báo chí
1.1.1. Khái niệm báo chí
Trong thời đại chúng ta, báo chí là một hiện tượng đặc biệt phổ biến,
tác động từng ngày, từng giờ vào xã hội, quan hệ tới từng địa phương, từng tổ
chức, từng thành viên của xã hội. Không có một đảng chính trị, một tổ chức,
lực lượng kinh tế - xã hội nào không sử dụng báo chí như một phương tiện
thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của mình...
Chính tầm quan trọng như vậy nên, việc nhận thức rõ vai trò, sức mạnh
to lớn của báo chí là một vấn đề bức thiết trong mọi thời đại, mọi hình thái
Nhà nước. Nó có ý nghĩa rất lớn góp phần vào việc điều hoà các mối quan hệ

xã hội theo định hướng chung của Nhà nước, tạo ra một môi trường ổn định
để phát triển kinh tế, xã hội. Chính vì thế, trong quá khứ cũng như hiện tại có
nhiều học giả nghiên cứu và đưa ra những khái niệm khác nhau về báo chí
dưới những góc độ khác nhau.
Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa báo chí
truyền thông là “quá trình truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức năng”. 1
Trong Từ điển xã hội học do G. Endruweit và G. Trommsdorff chủ
biên, định nghĩa báo chí truyền thông là “sự tạo ra mối liên hệ giữa hai đối
tượng có thể mang bản chất sự sống hay không”. 2
1 Hoàng Phê chủ biên (2000), Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, tr. 1053
2 G.Endruweit và G.Trommsdorff chủ biên (2002), Từ điển xã hội học dịch từ tiếng Đức, Nhà Xuất bản Thế
giới, tr. 517

3


4

4

Tác giả Trần Hữu Quang trong cuốn Xã hội học truyền thông đại chúng
thì khẳng định: “Báo chí truyền thông là một quá trình truyền đạt, tiếp nhận
và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con
người”. Theo đó, tác giả này định nghĩa, “truyền thông đại chúng là quá
trình truyền đạt thông tin một cách rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng như phát thanh, truyền hình”. 3
Nhìn chung, mỗi tác giả đều có những cách định nghĩa riêng mình về
báo chí, tuy nhiên qua những quan niệm ở trên cũng thấy có những điểm
chung. Đó là đều xem báo chí như một phương tiện diễn đạt, chia sẻ thông tin
giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội với các phương thức khác nhau.

1.1.2. Đặc điểm của báo chí
1.1.2.1. Báo chí - hoạt động thông tin đại chúng
Thông tin đại chúng là bản chất của hoạt động báo chí, bản chất này
quy định tính chất của sản phẩm báo chí và phương thức hoạt động của người
làm báo. Đây là một đặc điểm cơ bản và đặc thù của báo chí. Xuyên suốt quá
trình hình thành và phát triển của báo chí, tính chất quần chúng luôn có một vị
trí rất quan trọng và là yếu tố chủ yếu để báo chí tồn tại.
Nguyên nhân của sự xuất hiện báo chí cũng từ những nhu cầu có thực
của một bộ phận quần chúng trong xã hội. Từ nhu cầu tìm hiểu và truyền tải
thông tin cũng như mong muốn thông báo đến cộng đồng xã hội những sự
kiện về quân sự, lễ hội văn hóa xảy ra, báo chí xuất hiện và mang lại các giá
trị to lớn về mặt tinh thần cho con người. Bởi những biểu hiện tích cực ngay
từ buổi sơ khai nên báo chí ngày càng gắn chặt với quần chúng khó thể tách
rời. Báo chí cần đến quần chúng để làm cơ sở tồn tại của mình. Ngược lại,
quần chúng cần đến báo chí như một món ăn tinh thần, nhịp cầu chia sẻ thông
tin và các chỉ dẫn có tính định hướng trong cuộc sống. Trong giai đoạn hiện
3 Trần Hữu Quang (2006), Xã hội học truyền thông đại chúng, Nhà Xuất bản Trẻ, tr. 3

4


5

5

nay, khi mà công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ và trở nên thông dụng thì
tính quần chúng của báo chí được biểu hiện rất rõ. Các thông tin mà báo chí
cung cấp hàng ngày có sức lan tỏa, huy động và hiệu triệu to lớn, tác động
trực tiếp và có hiệu quả đến các mối quan hệ xã hội và thực tiễn điều hành,
quản lý xã hội của Nhà nước.

Chính vì lẽ đó mà, ngay từ khi xây dựng Luật Báo chí đầu tiên, Nhà
nước ta đã thống nhất xác định: “Báo chí ở nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống xã
hội; là cơ quan ngôn luận của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội (dưới đây gọi chung là tổ chức); là diễn đàn của nhân dân”. 4
1.1.2.2. Báo chí - hoạt động chính trị xã hội
Khi mới hình thành, với hình thức sơ khai thì tính chính trị của báo chí
không được biểu hiện một cách rõ nét, hay nói cách khác, vấn đề chính trị
trong báo chí không được con người đề cập đến. Theo sự phát triển của xã hội
và khi báo chí ngày càng phát huy vai trò trong việc hiệu triệu quần chúng, sự
đối kháng về quyền lợi giữa các giai cấp khác nhau, giữa các quốc gia dân
tộc, các vùng miền lãnh thổ với nhau ngày càng cao thì tính chính trị của báo
chí bộc lộ mạnh mẽ bằng quyền lực và các chiêu bài được toan tính kỹ càng.
Các lực lượng lãnh đạo tìm cách biến báo chí thành một công cụ để điều hành
xã hội, bóc lột các tầng lớp nhân dân lao động, ru ngủ ý thức phản kháng
trong con người. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà báo chí được coi là
“quyền lực thứ tư”. Với phạm vi rộng, sức tác động tới công chúng lớn của
báo chí, nhiều nhà nước không thể bỏ qua công cụ hữu hiệu này để tác động
đến đời sống chính trị của người dân.
Trong giai đoạn hiện nay, do phạm vi ảnh hưởng và sức mạnh tác động
to lớn của mình, các tập đoàn báo chí trên thế giới đã trở thành một thế lực
4 Điều 1, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999

5


6

6


hay một thứ quyền lực toàn cầu. Nó tác động vào dư luận xã hội một cách tự
nhiên, vạch ra hướng đi cho nhận thức, thúc đẩy việc hình thành thái độ, quan
điểm chính trị - xã hội. Bằng cách ấy, báo chí đã tạo ra các điều kiện thuận lợi
hoặc bất lợi cho những hành động chính trị cụ thể nào đó. Muốn vận động
quần chúng cho một chính sách hay một quan điểm chính trị thì phải thông
qua báo chí, bởi chỉ qua báo chí mới đến được quảng đại quần chúng. Cho
nên các hoạt động chính trị nào không được báo chí, truyền thông loan tải
xem như không đáng quan trọng hay thậm chí không hiện hữu. Chính vì lẽ đó
mà các quốc gia trên thế giới đang dần có xu hướng tập trung nguồn lực vào
báo chí.
1.1.2.3. Báo chí là hoạt động mang tính kinh tế - dịch vụ
Nguồn lợi mà các tập đoàn báo chí mang lại thông qua hai dạng thức
chủ yếu: trực tiếp và gián tiếp. Nguồn lực trực tiếp thu được qua việc bán các
sản phẩm hàng hoá, dịch vụ báo chí và hoạt động quảng cáo. Ở các nước công
nghiệp phát triển, nguồn thu từ quảng cáo ngày càng lớn, chiếm phần chủ yếu
tổng doanh thu của các tờ báo, các đài phát thanh truyền hình, còn những tờ
báo phát không, có nghĩa là các hợp đồng quảng cáo trở thành nguồn thu duy
nhất. Nguồn lợi gián tiếp mà các tập đoàn báo chí, truyền thông thu được qua
việc tạo ra những ảnh hưởng chính trị, làm thay đổi các chính sách của nhà
nước, hình thành những điều kiện đầu tư thuận lợi, những đơn đặt hàng béo
bở. Về sâu xa thì đây mới là nguồn lợi to lớn hơn mà các tập đoàn báo chí
muốn hướng đến. Và là lý do quan trọng nhất để dẫn tới sự liên kết báo chí
với giới công nghiệp, tài chính, dịch vụ để hình thành những tập đoàn độc
quyền khổng lồ.
Tại các nước phương Tây, tập đoàn tư bản thông qua báo chí để quảng
bá, quảng cáo, giữ gìn, đánh bóng thương hiệu của mình, dùng báo chí làm
cầu nối giữa sản phẩm của mình với công chúng. Hơn nữa, báo chí lại là

6



7

7

ngành kinh doanh hái ra tiền. Vì thế mà từ khi khai sinh, mục đích thương mại
của báo in đã rất rõ ràng. Ngày nay, khi internet phát triển, các báo mạng xuất
hiện cũng là môi trường tốt để báo chí thu lợi nhuận bằng nhiều cách thức
khác nhau. Và dần dần, đời sống kinh tế bắt đầu chi phối sâu sắc đến các hoạt
động của báo chí.
1.1.3. Vai trò, chức năng của báo chí trong đời sống xã hội
Là một loại hình hoạt động mang tính chính trị xã hội, ra đời do nhu
cầu khách quan của xã hội và phát triển đến một trình độ nhất định, báo chí
giữ một vai trò hết sức quan trọng. Bản thân sự ra đời, tồn tại và phát triển
của báo chí đã khẳng định một cách khách quan giá trị và ý nghĩa của nó
trong đời sống xã hội. Báo chí thể hiện vai trò trong đời sống xã hội như sau:
1.1.3.1. Báo chí định hướng tư tưởng, dư luận xã hội
Trên mặt trận tư tưởng, báo chí giữ vai trò liên kết những thành viên
riêng lẻ của xã hội thành một khối thống nhất dựa vào một lập trường chính
trị chung, thái độ tích cực để xây dựng và cải tạo xã hội. Một khi nhận thức
được tính ưu việt của chế độ xã hội, mục đích, hành động và kết quả phù hợp
với lợi ích của mình, người dân sẽ tự nguyện thực hiện các nhiệm vụ của
mình trên những điều kiện cụ thể.
Ngoài ra, với khả năng tác động mang tính rộng lớn, toàn diện, nhanh
chóng và mạnh mẽ vào xã hội, hoạt động của báo chí có vai trò hết sức to lớn
trong công tác tư tưởng. Báo chí trong quá khứ cũng như hiện tại được xem
như cầu nối việc giáo dục lý tưởng, chính trị, xây dựng nếp sống lành mạnh
gắn liền với việc phát huy những giá trị tinh thần to lớn của nhân loại. Lịch sử
cũng chỉ ra rằng, bất cứ chế độ nào trên thế giới cũng sử dụng và khai thác
triệt để các phương tiện truyền thông đại chúng nhằm phục vụ, củng cố và

duy trì chế độ đó. Trong xã hội hiện đại, người nào nắm được các phương tiện
thông tin đại chúng có thể “điều khiển” mọi người theo ý muốn, có nghĩa là
7


8

8

dùng báo chí để hàng ngày phát đi những thông điệp chính trị nhằm giáo dục
ý thức, tư tưởng, định hướng dư luận và thuyết phục quần chúng làm theo ý
muốn của mình.
Ở nước ta, báo chí chính là phương tiện dùng để “tuyên truyền, phổ
biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất nước theo tôn chỉ, mục đích
của cơ quan báo chí; góp phần ổn định chính trị, nâng cao dân trí, đáp ứng
nhu cầu văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa” 5. Đồng thời báo chí còn có vai trò “phản ánh và hướng dẫn dư luận xã
hội, làm diễn đàn thực hiện quyền tự do ngôn luận của nhân dân” 6. Chính vì
lẽ đó, báo chí là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng - hướng dẫn dư
luận của Đảng, là công cụ tham gia quản lý xã hội; công cụ giám sát cán bộ,
đảng viên về đạo đức lối sống, giữ vai trò phản biện xã hội, đấu tranh chống
các luận điệu sai trái, có chủ đích của các thế lực thù địch, góp phần giữ vững
an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội nhiều năm qua. Báo chí là công cụ,
là vũ khí quan trọng trên mặt trận tư tưởng và định hướng dư luận. Đây là một
nội dung đặc biệt được lưu tâm của các chính đảng, các hệ thống xã hội cũng
như các giai cấp nắm quyền lãnh đạo trong xã hội.
1.1.3.2. Báo chí quản lý, giám sát xã hội

Quản lý xã hội được hiểu là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý
vào khách thể quản lý nhằm bảo đảm cho nó hoạt động, phát triển có hiệu
quả, đạt mục đích đã đề ra.

5 Khoản 2, Điều 6, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999
6 Khoản 3, Điều 6, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999

8


9

9

Vai trò tham gia quản lý xã hội của báo chí trước hết bảo đảm dòng
thông tin hai chiều giữa chủ thể quản lý và khách thể quản lý, bảo đảm cho
các quyết địn quản lý được thông suốt và thực thi trong thực tế. Chiều thông
tin thứ nhất, báo chí truyền bá các chủ trương, chính sách và quyết định quản
lý - lãnh đạo, làm cho các quyết tâm chính trị của lãnh đạo và nhà quản lý
thành quyết tâm của toàn dân... Chiều thứ hai, là thông tin đúng đắn, khách
quan nhất có thể về những gì đang diễn ra trước và sau chủ trương lãnh đạo,
quyết định quản lý ban hành. Muốn có quyết sách, chủ trương đúng, người
lãnh đạo phải nắm được tình hình, bản chất các vấn đề đang diễn ra. Một
trong những kênh thông tin quan trọng và khách quan nhất, kịp thời và phong
phú nhất là báo chí. Báo chí khômg chỉ là cơ quan ngôn luận của Đảng và
Nhà nước, mà còn là tiếng nói, diễn đàn, tai mắt của nhân dân.
Giám sát có thể hiểu là theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những
điều quy định không. Yêu cầu của hoạt động này đối với báo chí là phát hiện
kịp thời các sai lầm, khuyết điểm, những vấn đề khó khăn ách tắc trong việc
chỉ đạo thực hiện và thực hiện các quyết định quản lý. Kết quả hoạt động

giám sát kiểm tra của báo chí là nguồn thông tin quan trọng giúp các cơ quan
Đảng và Nhà nước kịp thời có quyết định, biện pháp tích cực, điều chỉnh hoạt
động của các cơ quan, tổ chức cấp dưới. Mặt khác, nguồn thông tin đó trực
tiếp tác động tới các cơ quan, tổ chức có khuyết điểm, giúp họ nhận thức
được thiếu sót để tự điều chỉnh hoặc trong trường hợp khác sẽ tạo nên áp lực
xã hội buộc họ phải tự sửa chữa. Như vậy, giám sát có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc bảo đảm cho hoạt động được thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu
quả tốt nhất trong điều kiện có thể, theo mục tiêu, chương trình, kế hoạch đã
đề ra.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên trong văn kiện chính thức của mình, trong
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi
nhận, khẳng định báo chí và truyền thông đại chúng là một trong bốn hệ
9


10

10

thống giám sát xã hội. Đây là bước phát triển quan trọng về lý luận, nhận thức
của Đảng về vai trò xã hội của báo chí và truyền thông đại chúng.
1.1.3.3. Báo chí góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường như hiện hay, những
thông tin chính xác, kịp thời của báo chí là sức mạnh tạo nên thắng lợi cạnh
tranh. Không một phương tiện truyền thông nào giữ vai trò quan trọng như
báo chí trong việc cung cấp những thông tin có giá trị đó về lĩnh vực kinh tế
cần thiết như: thông tin thị trường, hàng hóa (bao gồm thông tin giá cả, sức
tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến đổi thị hiếu tiêu dùng)…; thông tin thị
trường tài chính (tiền tệ, vốn, giá cả, cổ phiếu, sự vận động của các dòng tài
chính), thị trường lao động, vật tư, thiết bị, đặc biệt là thị trường công nghệ

(chu kỳ công nghệ, sự chuyển giao công nghệ).
Báo chí không chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần túy mà
còn có thể hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học kỹ thuật
và công nghệ mới, giới thiệu những mô hình, điển hình tiên tiến trong sản
xuất và kinh doanh. Với việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất
bại trong quản lý, kinh doanh và áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm chi phí
trong sản xuất. Ngoài ra, báo chí cũng góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế lớn
cho xã hội thông qua việc dự báo, cảnh báo những khó khăn, thách thức, tai
họa cần phải vượt qua hay né tránh; phát hiện, đề xuất với Đảng, Nhà nước
những khó khăn, bất cập, vướng mắc cần tháo gỡ. Đôi khi một bài báo tốt, có
tầm, sắc bén, kịp thời có thể cứu một doanh nhân khỏi bị oan sai, đứng trước
bờ “đổ bể”.
1.1.3.4. Báo chí làm phong phú đời sống văn hóa, tinh thần xã hội
Vai trò của báo chí trong lĩnh vực văn hóa thể hiện trên nhiều mặt. Thứ
nhất, báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn văn hóa dân tộc, nhất là ngôn ngữ,
báo chí là nơi vừa giữ gìn và sáng tạo ra nhiều từ mới, thuật ngữ mới cả trong
10


11

11

cách viết và cách thể hiện, trong việc chuẩn ngôn ngữ nói và viết. Thứ hai,
báo chí đăng tải các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học, âm nhạc và các
lĩnh vực khác. Thứ ba, qua các phương tiện thông tin đại chúng, công chúng
có thể tiếp nhận nhiều tri thức văn hóa đa dạng, phong phú của các dân tộc
khác để làm giàu cho văn hóa dân tộc mình. Thứ tư, báo chí góp phần nâng
cao văn hóa, giải trí, làm cho mọi người ngày càng hiểu nhau, xích lại gần
nhau hơn, chia sẻ tâm tư, tình cảm, cùng học tập và tiến bộ trong cuộc sống.

Xã hội càng phát triển, trình độ dân trí ngày càng cao, sự hình thành
nhân cách, lối sống của con người chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố tự nhiên
và xã hội, trong đó, có báo chí. Do vậy, trong giai đoạn mới, để thực hiện tốt
vai trò của mình, các phương tiện thông tin báo chí ở nước ta phải thực hiện
tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh chống các tệ nạn xã hội; tăng cường truyền bá
văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại; xây dựng nền đạo đức mới trên
nền tảng đạo lý dân tộc; vun đắp, hoàn thiện hình mẫu con người Việt Nam
hiện đại, kế thừa nét đẹp truyền thống của cha ông; nâng tầm trí tuệ, tri thức
khoa học, công nghệ của mỗi công dân. Muốn vậy, báo chí và người làm báo
cần nâng cao nhận thức chính trị, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công dân,
đồng thời nhanh chóng đổi mới nhiệm vụ để thông tin không chỉ đúng mà còn
hay, sinh động, hấp dẫn cho công chúng.
1.2. Quản lý Nhà nước đối với báo chí
1.2.1. Khái niệm và các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí
1.2.1.1. Khái niệm quản lý Nhà nước đối với báo chí
Báo chí là phương tiện thông tin đại chúng thiết yếu đối với đời sống
xã hội, là cơ quan ngôn luận của các tổ chức Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ
chức xã hội, là diễn đàn của nhân dân lao động. Báo chí không chỉ làm nhiệm
vụ thông tin mà còn thực hiện công tác tuyên truyền làm cho các hoạt động xã

11


12

12

hội phát triển theo định hướng của nhà cầm quyền và bình ổn xã hội. Như vậy
báo chí cũng là hình thức hoạt động cần sự quản lý của Nhà nước.
Quản lý là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học. Theo cách

hiểu chung nhất thì quản lý là điều khiển, chỉ đạo một hệ thống hay quá trình
ấy vận động theo ý muốn của người quản lý nhằm đạt được những mục đích
đã định trước.
Quản lý Nhà nước thể hiện ở những góc độ sau:
- Quản lý là sự tác động có mục đích của chủ thể quản lý đến các đối tượng
quản lý.
- Quản lý xuất hiện ở bất kỳ nơi nào, lúc nào nếu ở nơi đó và lúc đó có hoạt
động chung của con người.
- Mục đích, nhiệm vụ của quản lý là điều khiển, chỉ đạo hoạt động chung của
con người, phối hợp các hoạt động riêng lẻ của từng cá nhân tạo thành một
hành động thống nhất của tập thể để hướng đến mục tiêu đã định trước.
- Quản lý được thực hiện bằng tổ chức và quyền uy nhằm đảm bảo sự phục
tùng và tạo sự thống nhất trong quản lý.
Nói đến quản lý Nhà nước đối với báo chí là nói đến những hoạt động
của bộ máy Nhà nước nhằm đảm bảo cho hoạt động báo chí được ổn định và
phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội. Với vai trò là thiết chế trung
tâm trong hệ thống chính trị, Nhà nước đại diện cho nhân dân, đảm bảo cho
công dân được thực hiện các quyền cơ bản của mình, trong đó có quyền về tự
do ngôn luận, tự do báo chí. Nhà nuớc có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo
báo chí phát triển, đáp ứng các nhu cầu về thông tin của nhân dân, đóng góp
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay,
Nhà nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đấu tranh chống các thế
lực thù địch lợi dụng chính sách tự do ngôn luận, tự do báo chí để đưa ra các
luận điệu sai trái, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” gây mất an ninh
chính trị và trật tự trong nước.
12


13


13

Qua việc khái quát trên chúng ta có thể hiểu quản lý Nhà nước đối với
báo chí là tổng thể những hoạt động của bộ máy Nhà nước trên cơ sở những
quy định của pháp luật đảm bảo cho báo chí thực hiện được nhiệm vụ thông
tin của mình và chịu sự điều chỉnh thống nhất của pháp luật.
Nói cách khác“Quản lý Nhà nước trong lĩnh vực báo chí là dạng quản
lý công vụ quốc gia của bộ máy Nhà nước - là công việc của bộ máy hành
pháp. Nó là sự tác động có tổ chức và được điều chỉnh bằng pháp luật, trên
cơ sở quyền lực Nhà nước đối với các quá trình xã hội và hoạt động báo chí
do các cơ quan có thẩm quyền trong hệ thống hành pháp từ Trung ương đến
cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển
các mối quan hệ xã hội, thỏa mãn nhu cầu tự do báo chí của công dân”. 7
Qua đó có thể thấy, quản lý Nhà nước về báo chí phải gồm những yếu
tố sau:
- Chủ thể của hoạt động quản lý: Nhà nước mà chủ yếu đó là các cơ quan Nhà
nước trong bộ máy Nhà nước hay các cá nhân quản lý chuyên ngành về hoạt
động báo chí được Nhà nước trao quyền về quản lý Nhà nước đối với báo chí.
- Khách thể của việc quản lý: Đó là trật tự quản lý trong quá trình truyền đạt,
tiếp nhận và trao đổi thông tin nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người
với con người.
- Đối tượng của hoạt động quản lý: Tất cả những tổ chức, cá nhân v.v... thực
hiện những hoạt động liên quan đến báo chí.
- Mục đích của hoạt động quản lý: Phát huy mọi nguồn lực tạo ra một
cơ chế hợp lý cho hoạt động báo chí và đảm bảo quyền tự do báo chí, tự do
ngôn luận trên báo chí của công dân.
1.2.1.2. Các nguyên tắc quản lý Nhà nước đối với báo chí

7 Đinh Văn Mậu và Phạm Hồng Thái (2005), Luật Hành chính Việt Nam, NXB Tổng Hợp TP.HCM, tr.19


13


14

14

* Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận của công
dân
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, đã
được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001
của Quốc hội khóa X (sau đây gọi là Hiến pháp năm 1992) quy định công dân
có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin 8. Quy định
này đã được cụ thể hoá bằng Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999. Cụ thể
Điều 2, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 quy định: “Nhà nước tạo
điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do
ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Và
Điều 4 luật này cụ thể hóa như các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận như
sau: “Được thông tin qua báo chí về mọi mặt của tình hình đất nước và thế
giới; tiếp xúc, cung cấp thông tin cho cơ quan báo chí và nhà báo; gửi tin,
bài, ảnh và tác phẩm khác cho báo chí mà không chịu sự kiểm duyệt của tổ
chức, cá nhân nào và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung thông tin;
phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; tham gia ý kiến xây dựng
và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với
các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và thành viên của
các tổ chức đó”.
Như vậy, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí có nội dung
rõ ràng, cụ thể và được công bố một cách hệ thống. Thông qua báo chí, công
dân có quyền nhận tin, đưa tin, quyền bày tỏ quan điểm của mình về những

vấn đề đã và đang xảy ra trong đời sống xã hội. Công dân cũng có quyền
tham gia ý kiến với Đảng và Nhà nước về các chủ trương, chính sách lớn,
nhỏ. Tất cả điều này như là một biểu hiện khuôn mẫu cho một xã hội dân chủ,
8 Điều 69, Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992

14


15

15

xuất phát từ lợi thế của báo chí, vai trò của báo chí trong việc định hướng dư
luận xã hội.
Để đảm bảo nguyên tắc này, Nhà nước cần phải luôn tạo ra những cơ
chế pháp lý phù hợp với các loại hình hoạt động báo chí nhằm phục vụ tốt
nhất nhu cầu của đông đảo quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, Nhà nước
cũng cần đề ra một phương thức hướng các hoạt động báo chí tuân thủ pháp
luật, nhằm tạo điều kiện tốt để các cơ quan chức năng Nhà nước thuận lợi hơn
trong việc quản lý.
* Nguyên tắc đảm bảo quyền thụ hưởng thành quả hoạt động báo chí
một cách bình đẳng của tất cả công dân
Bằng hoạt động của mình, báo chí đã góp phần đáng kể vào việc ổn
định chính trị, phát triển kinh tế và định hướng dư luận xã hội một cách tích
cực. Ở nước ta, pháp luật trong quản lý Nhà nước đối với báo chí là công cụ
khá quan trọng nhằm bảo tồn, phát triển nền văn hóa dân tộc hiện đại, nhân
văn; tiếp thu tinh hoa văn hóa và tiến bộ về khoa học, công nghệ của nhân
loại, đảm bảo cho quá trình hội nhập môi trường thông tin, báo chí toàn cầu
được nhanh chóng và thành công. Với điều kiện đó, hoạt động báo chí ngày
nay có những tiến bộ rõ rệt và đáp ứng khá tốt nhu cầu thông tin của mọi

người dân quan tâm. Tất cả thành quả này của báo chí cần được phổ cập đến
toàn thể các đối tượng thụ hưởng khác nhau trong xã hội. Đây được xem như
một nguyên tắc biểu hiện tính nhân văn sâu sắc với mục tiêu nâng cao chất
lượng dân trí. Để cụ thể hóa nguyên tắc này, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung
năm 1999 đã quy định: “Nhà nước có chính sách hỗ trợ ngân sách, tạo điều
kiện cho xuất bản, phát hành báo chí đến với nhân dân các vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội khó khăn và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, đến với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài”. 9

9 Điều 17d, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999

15


16

16

Với nguyên tắc này, Nhà nước cần có chính sách để người dân được dễ
dàng tiếp cận các ấn phẩm của các loại hình báo chí. Huy động các nguồn lực
khác nhau để bảo đảm sự hoạt động của các cơ quan báo chí với nhiều tôn chỉ
mục đích khác nhau nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu về thông tin và phát triển
dân trí của các tầng lớp khác nhau trong xã hội. Song song đó, Nhà nước cần
có chính sách đẩy mạnh sự phát triển và khả năng sẵn sàng phục vụ của các
cơ quan báo chí đối với các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và
đặc biệt khó khăn.
* Kiên quyết đấu tranh chống lợi dụng việc tôn trọng tự do báo chí, tự
do ngôn luận làm trái pháp luật
Hơn 80 năm tồn tại và phát triển, báo chí luôn có những ảnh hưởng
nhất định đến tình hình an ninh chính trị của một quốc gia và cả quốc tế bởi

tính quần chúng của nó. Nhất là ngày nay, vấn đề tôn trọng quyền tự do báo
chí, tự do ngôn luận trên báo chí luôn được đặt ra và xem như quyền cơ bản
của con người mà các thể chế chính trị và hình thức nhà nước buộc phải tôn
trọng. Ý thức được vấn đề này, các thế lực thù địch luôn tìm cách lợi dụng
báo chí và các diễn đàn nhân dân làm cơ sở cho việc chống phá Nhà nước ta,
chống phá công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, chống phá sự nghiệp
đại đoàn kết nhân dân. Đây là những hành vi vô cùng nguy hiểm làm thiệt hại
đến lợi ích cả một quốc gia dân tộc. Cho nên, Nhà nước ta luôn luôn đề ra
kim chỉ nam cho hoạt động của mình trước tình hình lợi dụng đó là kiên quyết
đấu tranh và đấu tranh đến cùng để chống lại các hành vi đầy mưu đồ này. Vì
vậy, trên cơ sở cụ thể hóa Hiến pháp 1992, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm
1999 một mặt khẳng định sự tôn trọng quyền tự do báo chí của công dân, mặt
khác đã tạo ra hành lang pháp lý ngăn chặn triệt để những âm mưu này khi
quy định: “Báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được
Nhà nước bảo hộ; không một tổ chức, cá nhân nào được hạn chế, cản trở báo
chí, nhà báo hoạt động. Không ai được lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền
tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, tập thể và
16


17

17

công dân”.

10

Đây được xem như quan điểm chung nhất nhằm nghiêm cấm


việc lợi dụng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí để phá hoại
hoà bình, độc lập, thống nhất đất nước, kích động bạo lực và tuyên truyền
chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ
nhân dân, chia rẽ các dân tộc; gây rối trật tự công cộng, xâm phạm đến tính
mạng, sức khỏe, danh dự, cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân,
hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật. Mọi
hành vi vi phạm đều được xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Để bảo đảm nguyên tắc này, Nhà nước kiên quyết loại trừ những hành
vi, hoạt động báo chí phương hại đến độc lập dân tộc và an ninh trật tự xã hội,
vi phạm thuần phong mỹ tục. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng luôn đề ra nhiều
phương pháp để hướng hoạt động báo chí đi đúng quy định của pháp luật,
đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước và xã hội.
1.2.2 Cơ sở pháp lý của quản lý Nhà nước đối với báo chí
Tính đến nay đã có hơn 40 văn bản được Nhà nước ta ban hành liên
quan đến báo chí như: Sắc lệnh 41 ngày 29-3-1946 về chế độ kiểm duyệt báo
chí; Sắc lệnh số 282 ngày 14-12-1956 về chế độ báo chí, Luật số 100/SL-L002 ngày 20-5-1957 quy định chế độ báo chí (Luật Báo chí 1957); Nghị định
số 197/TTg ngày 9-7-1957 quy định chế độ và quyền lợi của người làm báo
chuyên nghiệp và Nghị định số 298/TTg ngày 9-7-1957 quy định chi tiết thi
hành Luật Báo chí năm 1957; Nghi định số 133/HĐBT ngày 20-4-1992 của
Hội đồng Bộ trưởng quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí về các mặt; Chỉ
thị 63/CT-TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác báo chíxuất bản; Nghị định số 384/HĐBT về tăng cường công tác quản lý báo chíxuất bản; Thông tư số 131/TT-VP ngày 20-11-1990 của Bộ Văn hóa - Thông
tin hướng dẫn thi hành Nghị định 384/HĐBT và có điều chỉnh một số tiêu
chuẩn nghiệp vụ của chức danh viên chức báo chí, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ
10 Điều 4, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999

17


18


18

luật Dân sự 1995… Mặc dù các văn bản này không đồng bộ và mang tính phổ
quát, thể hiện các quan điểm khác nhau của Nhà nước ta đối với báo chí trong
từng giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng phần nào đã đặt ra một cơ sở pháp lý
để các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý
Nhà nước đối với báo chí của mình.
Ngày 28-12-1989, Quốc hội thông qua Luật Báo chí và ngày 2-1-1990,
Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Luật Báo chí nước Cộng hòa
Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thay thế Luật Báo chí năm 1957. Đến ngày 12-61999, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Báo chí và có hiệu lực đến ngày nay.
Luật Báo chí năm 1990 vừa kế thừa những nguyên tắc đúng đắn của
Luật Báo chí năm 1957, vừa bổ sung và hoàn thiện một bước luật pháp của
Nhà nước ta về báo chí. Luật Báo chí năm 1990 cũng phản ánh những thay
đổi to lớn trong đời sống kinh tế - xã hội của nước ta trong sự nghiệp đổi mới
do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo.
Cùng với đó, Chính phủ cũng ban hành Nghị định số 51/2002/NĐ-CP
ngày 26-4-2002 quy định chi tiết thi hành Luật Báo chí; Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Báo chí. Trong nghị định này, đã đi sâu vào quy định
một số điểm mới của Luật Báo chí hiện hành.
Nhìn chung, các văn bản pháp luật hiện hành này đã khắc phục được
một số nhược điểm của các văn bản trước, định hình cho chức năng quản lý
báo chí bằng các cơ sở pháp lý rất cụ thể, rõ ràng và chặt chẽ.
1.2.3. Cơ quan quản lý Nhà nước đối với báo chí
Theo quy định của Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung 1999, các cơ quan
quản lý Nhà nước về báo chí ở Trung ương và địa phương được quy định như
sau:
“1- Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về báo chí.

18



19

19

2- Bộ Văn hoá - Thông tin chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện
quản lý nhà nước về báo chí.
3- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về
báo chí theo quy định của Chính phủ.
Chính phủ quy định cụ thể trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cơ quan thuộc Chính phủ trong việc phối hợp với Bộ Văn hoá - Thông tin để
thực hiện thống nhất quản lý Nhà nước về báo chí.
4- Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện
quản lý Nhà nước về báo chí trong phạm vi địa phương theo sự phân cấp của
Chính phủ". 11
Như vậy ở Trung ương, cơ quan có chức năng quản lý Nhà nước đối
với báo chí là Chính phủ và Bộ Thông tin và Truyền thông. Chính phủ thống
nhất quản lý Nhà nước đối với báo chí trên phạm vi cả nước bằng việc ban
hành các văn bản pháp luật liên quan đến báo chí. Với cương vị là người
người đứng đầu Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sẽ thực hiện một số nhiệm
vụ quản lý của mình liên quan đến báo chí trên cơ sở đệ trình của Bộ Thông
tin và Truyền thông để kịp thời giải quyết các vấn đề quan trọng vượt quá
thẩm quyền của Bộ Thông tin và Truyền thông.
Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan của Chính phủ, thực hiện
chức năng quản lý Nhà nước về báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển phát;
viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công nghệ
thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình và cơ sở hạ tầng thông tin truyền
thông quốc gia; quản lý Nhà nước các dịch vụ công trong các ngành, lĩnh vực


11 Điều 17a, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999

19


20

20

thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ. Riêng đối với báo chí, Bộ Thông tin
và Truyền thông có các trách nhiệm và quyền hạn:
+ Hướng dẫn, chỉ đạo, tổ chức thực hiện quy hoạch mạng lưới báo chí
trong cả nước, văn phòng đại diện cơ quan thường trú ở nước ngoài của các
cơ quan báo chí Việt Nam đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
+ Quản lý các loại hình báo chí trong cả nước bao gồm báo in, báo nói,
báo hình, báo điện tử, thông tấn và thông tin trên mạng;
+ Chủ trì giao ban báo chí, quản lý thông tin của báo chí theo quy định
của pháp luật về báo chí;
+ Thực hiện chế độ phát ngôn cung cấp thông tin cho báo chí theo phân
cấp và ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ;
+ Ban hành quy chế tổ chức hội thi về báo chí;
+ Quy định về báo lưu chiểu, quản lý kho lưu chiểu báo chí quốc gia;
+ Cấp, gia hạn, tạm đình chỉ, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động báo
chí; giấy phép xuất bản đặc san, số phụ, phụ trương, chương trình đặc biệt,
chương trình phụ; thẻ nhà báo; cấp phép cho báo chí xuất bản ở nước ngoài
phát hành tại Việt Nam;
+ Quy định về việc hoạt động của báo chí và nhà báo trong cả nước,
phối hợp với các cơ quan có liên quan quản lý hoạt động của báo chí Việt
Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí của người nước ngoài, tổ

chức nước ngoài tại Việt Nam;
+ Thỏa thuận về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm Tổng Biên tập, Phó Tổng
Biên tập, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc, Giám đốc, Phó Giám đốc các
cơ quan báo chí;
+ Quy định tiêu chuẩn, chuyên môn, nghiệp vụ người đứng đầu cơ
quan báo chí.
Ở địa phương, trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với báo chí thuộc về
Uỷ ban Nhân dân (UBND) các cấp tỉnh theo sự phân cấp của Chính phủ. Đây
là các cơ quan Nhà nước có sự can thiệp một cách trực tiếp, sâu sắc nhất đối
với việc quản lý Nhà nước đối với báo chí thông qua các Sở Thông tin Truyền thông và các bộ phận trực thuộc. Sở Thông tin - Truyền thông là cơ

20


21

21

quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau
đây gọi chung là UBND cấp tỉnh) có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp
tỉnh thực hiện quản lý Nhà nước về: báo chí; xuất bản; bưu chính và chuyển
phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến điện; công
nghệ thông tin, điện tử, phát thanh và truyền hình; cơ sở hạ tầng thông tin
truyền thông; quảng cáo trên báo chí, mạng thông tin máy tính và xuất bản
phẩm (sau đây gọi tắt là thông tin và truyền thông); các dịch vụ công thuộc
phạm vi quản lý của Sở; thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự phân
cấp, ủy quyền của UBND cấp tỉnh và theo quy định của pháp luật.
Đối với báo chí, Sở Thông tin - Truyền thông có nhiệm vụ và quyền
hạn:
+ Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về hoạt

động báo chí trên địa bàn.
+ Tổ chức kiểm tra báo chí lưu chiểu và quản lý báo chí lưu chiểu của
địa phương.
+ Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động bản tin cho các cơ quan, tổ chức
trên địa bàn.
+ Trả lời về đề nghị tổ chức họp báo đối với các cơ quan, tổ chức của
địa phương.
+ Tiếp nhận, thẩm định hồ sơ và đề nghị các cấp có thẩm quyền cấp thẻ
nhà báo, cấp phép hoạt động báo chí, giấy phép xuất bản các ấn phẩm báo chí,
ấn phẩm thông tin khác theo quy định của pháp luật cho các cơ quan báo chí
và các cơ quan, tổ chức khác của địa phương.
+ Xem xét cho phép các cơ quan báo chí của địa phương khác đặt văn
phòng đại diện, văn phòng liên lạc, cơ quan thường trú trên địa bàn của địa
phương mình;
+ Tổ chức triển khai thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp phát
thanh, truyền hình của địa phương sau khi được phê duyệt;
+ Quản lý việc sử dụng thiết bị thu tín hiệu phát thanh truyền hình trực
tiếp từ vệ tinh cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân trên địa bàn địa phương theo
quy định của pháp luật.
21


22

22

Ngoài ra, trong quản lý Nhà nước đối với báo chí còn có sự tham gia
của các cơ quan liên quan khác. Tuy nhiên, ở đây Luật Báo chí hiện hành và
Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26-4-2002 quy định chi tiết thi hành Luật
Báo chí; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Báo chí vẫn chưa đề cập

một cách rõ ràng, cụ thể.
1.2.4. Nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí
Trên cơ sở quy định của pháp luật, để đảm bảo cho hoạt động báo chí
được diễn ra thông suốt, đáp ứng nhu cầu về thông tin của quần chúng nhân
dân, Nhà nước luôn xây dựng nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí trên
cơ sở phù hợp với thẩm quyền pháp lý của từng chủ thể quản lý nhất định
theo các điều kiện lịch sử trong từng giai đoạn. Các nội dung quản lý Nhà
nước đối với báo chí cũng được xác định và xây dựng nhằm mục tiêu một mặt
quá trình thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về báo chí
một cách nhanh chóng, chính xác, mặt khác chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn
của thế lực thù địch lợi dụng tự do ngôn luận, tự do báo chí để chống phá ta.
Các nội dung quản lý Nhà nước đối với báo chí đề cập ở đây xuất phát
từ các quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước ta gồm Luật Báo chí sửa
đổi, bổ sung năm 1999 và Nghị định 51/2002/NĐ-CP ngày 26-4-2002. Theo
đó, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999 quy định các nội dung quản lý
Nhà nước đối với báo chí bao gồm:
1- Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển sự nghiệp báo chí;
2- Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về
báo chí; xây dựng chế độ, chính sách về báo chí;
3- Tổ chức thông tin cho báo chí; quản lý thông tin của báo chí;

22


23

23

4- Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ, đạo đức

nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ báo chí;
5- Tổ chức, quản lý hoạt động khoa học, công nghệ trong lĩnh vực báo
chí;
6- Cấp, thu hồi giấy phép hoạt động báo chí, thẻ nhà báo;
7- Quản lý hợp tác quốc tế về báo chí, quản lý hoạt động của báo chí
Việt Nam liên quan đến nước ngoài và hoạt động báo chí nước ngoài tại Việt
Nam;
8- Kiểm tra báo chí lưu chiểu; quản lý kho lưu chiểu báo chí;
9- Tổ chức, chỉ đạo công tác khen thưởng trong hoạt động báo chí;
10- Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chế độ, chính sách,
quy hoạch, kế hoạch phát triển báo chí và việc chấp hành pháp luật về báo
chí; thi hành các biện pháp ngăn chặn hoạt động báo chí trái pháp luật; giải
quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm trong hoạt động báo chí". 12
Tóm lại, quản lý Nhà nước đối với báo chí nhằm bảo đảm cho hoạt
động báo chí diễn ra trong khuôn khổ của pháp luật vì lợi ích chung cho toàn
xã hội. Nội dung quản lý nói trên mang tính phổ quát ở mỗi nơi, song tuỳ thời
gian mà nội dung nào là trọng tâm, trọng điểm và cần có kế hoạch để áp dụng
biện pháp quản lý thích hợp. Từng nội dung quản lý nói trên được phân cấp
hợp lý để vừa làm rõ trách nhiệm của các chủ thể quản lý vừa tránh buông
lỏng quản lý; vừa khắc phục tình trạng quan liêu, đùn đẩy, gây phiền hà cho
các đối tượng quản lý vừa tạo được hoạt động thông suốt, đồng bộ của các cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan đến lĩnh vực này.
12 Điều 17a, Luật Báo chí sửa đổi, bổ sung năm 1999

23


24

24


1.2.5. Ý nghĩa của việc quản lý Nhà nước đối với báo chí
Quản lý Nhà nước đối với báo chí là một chức năng cần thiết của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Nó đáp ứng nguyện vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân trong xã hội. Bới lẽ vấn đề tự do báo chí và tự do ngôn luận
trên báo chí là một nhu cầu có thực của xã hội, nó đánh giá tiêu chuẩn phát
triển về các quyền tự nhiên mang tính nhân bản trong toàn xã hội. Nhu cầu về
tự do báo chí, ngôn luận sẽ vẫn còn tiếp tục tiếp diễn và có ảnh hưởng rất lớn
đến tình hình trị an, trật tự xã hội của đất nước. Bên cạnh dó, trên bình diện
quốc tế, các thông tin mà báo chí cung cấp cũng như các hoạt động liên quan
đến báo chí cũng có những ảnh hưởng nhất định đến vấn đề an ninh chính trị
của toàn cầu.
Với thực trạng như thế, quản lý Nhà nước đối với báo chí sẽ có các ý
nghĩa to lớn khi vừa đảm bảo được trật tự an ninh, an toàn xã hội vừa đảm
đảm bảo tôn trọng quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận trên báo chí của công
dân. Ngoài ra trước tình hình xuyên tạc của các thế lực thù địch, quản lý Nhà
nước đối với báo chí sẽ làm cho báo chí hoạt động và phát triển theo đúng chủ
trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đấu tranh tích cực, làm thất bại
các âm mưu sử dụng diễn đàn của nhân dân cho chiến lược diễn biến hòa bình
trên phương diện thông tin đại chúng và văn hóa xã hội.

24


25

25

Chương 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

ĐỐI VỚI BÁO CHÍ Ở VIỆT NAM

2.1. Khái quát về tình hình báo chí Việt Nam hiện nay
Kể từ khi ra đời tờ báo cách mạng Việt Nam đầu tiên - tờ báo Thanh
Niên, đến nay, báo chí Việt Nam đã có hơn 80 năm tồn tại và phát triển. Nhận
thức được tầm quan trọng của báo chí, các cơ quan quản lý Nhà nước đã có
nhiều chính sách cụ thể, thiết thực chính vì vậy báo chí Việt Nam ngày càng
phát triển mạnh mẽ. Đến nay, ở Việt Nam có 4 loại hình báo chí: báo in, báo
nói, báo hình, báo mạng điện tử; số lượng cũng như chất lượng các loại hình
báo chí luôn được quan tâm..
Về báo in, tính đến 8 năm 2013, cả nước có 812 tờ báo in với 1.084 ấn
phẩm. Trong đó, có 197 cơ quan báo in (84 báo Trung ương, các bộ, ban,
ngành, đoàn thể; 113 báo địa phương); 615 tạp chí (488 tạp chí Trung ương,
ngành, đoàn thể Trung ương và 127 tạp chí, địa phương) và một hãng thông
tấn quốc gia, với 813 ấn phẩm. Cơ sở vật chất của các cơ quan báo chí nhìn
chung đã có sự cải thiện đáng kể. Kỹ thuật làm báo hiện đại hơn trước với
quy trình làm báo khép kín, một số báo tổ chức in cùng lúc ở nhiều nơi, giảm
phí vận chuyển, nhanh chóng đưa báo đến với bạn đọc. Hình thức in ấn, kỹ
thuật trình bày của nhiều báo đã mang tính chuyên nghiệp. Số lượng phát
hành báo chí có sự phát triển đáng kể. Một số báo địa phương không chỉ phát
hành trong địa bàn mình mà rộng khắp cả nước (Tuổi Trẻ, Công An TP.HCM,
Người Lao Động, Sài Gòn Tiếp Thị,…), một số báo đã phát hành cả ở nước
ngoài (Vietnam News, Le Courrier du Vietnam, Thanh Niên, Tuổi Trẻ...).
Nhiều báo không chỉ phát hành liên tục 7 ngày trong tuần mà còn có thêm ấn

25


×