Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

TÀI LIỆU xã hội học BIẾN đổi xã hội, PHÂN TẦNG xã hội và XU HƯỚNG BIẾN đổi xã hội ở VIỆT NAM TRONG THỜI kỳ mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.93 KB, 35 trang )

BIẾN ĐỔI XÃ HỘI VÀ XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ MỚI
Biến đổi xã hội ( Social change) là một quá trình qua đó những khuôn
mẫu của các hành vi xã hội, các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội và các hệ
thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian.
* Khái niệm
Cũng giống như tự nhiên, mọi xã hội không ngừng biến đổi. Sự ổn định
của xã hội chỉ là sự ổn định của bề ngoài, còn thực tế nó không ngừng thay
đổi bên trong bản thân nó. Bất cứ xã hội nào và bất cứ nền văn hóa nào, cho
dù nó có bảo thủ và cổ truyền đến đâu chăng nữa cũng luôn biến đổi; sự biến
đổi trong xã hội hiện đại ngày càng rõ hơn, nhanh hơn, và điều này cho thấy
rõ hơn là sự biến đổi đó không còn là điều mới mẻ, nó đã trở thành chuyện
thường ngày. Mọi cái đều biến đổi và xã hội cũng giống như các hiện thực
khác, không ngừng vận động và thay đổi. Tất cả các xã hội đều ở trong một
thực trạng đứng yên trong sự vận động liên tục. Có nhiều cách quan niệm về
sự biến đổi xã hội, như:
- Phạm vi rộng: biến đổi xã hội là một sự thay đổi so sánh với một tình
trạng xã hội hoặc một nếp sống có trước;
- Phạm vi hẹp: biến đổi xã hội là sự biến đổi về cấu trúc xã hội hay tổ
chức xã hội của xã hội đó, mà sự biến đổi này ảnh hưởng sâu sắc đến phần
lớn các thành viên của một xã hội;
- Riêng những biến đổi chỉ tác động đến một số ít cá nhân, thì ít được
các nhà xã hội học quan tâm và chú ý.
Auguste Comte đưa ra thuật ngữ xã hội học đã tin tưởng rằng khi các
nhà xã hội học xác định những nguồn gốc của sự biến đổi xã hội, thì họ có thể


2
giúp chương trình cho một tương lai tốt hơn. Auguste Comte cho rằng, biến
đổi xã hội là:
1. Chắc chắn xảy ra;


2. Sẽ theo một con đường phát triển;
3. Những tiến bộ đương nhiên hướng tới một xã hội tốt hơn.
Auguste Comte tin tưởng rằng, thông qua biến đổi xã hội, nhân loại
chuyển từ người nguyên thủy dốt nát đến con người được giáo dục, và những
cái mà chúng ta được học hoặc được phát triển tiến về con đường tách khỏi sự
sắp đặt của Thượng đế vì sự tiến bộ của nhân loại.
* Cấp độ biến đổi xã hội
- Biến đổi vĩ mô;
- Biến đổi vi mô.
* Đặc điểm của biến đổi xã hội
- Biến đổi xã hội là hiện tượng phổ biến, nhưng nó diễn ra không giống
nhau giữa các xã hội;
- Biến đổi xã hội khác biệt về thời gian và hậu quả;
- Biến đổi xã hội vừa có tính kế hoạch, vừa có tính phi kế hoạch.
* Các khái niệm liên quan
Có nhiều cách hiểu biết khác nhau về sự biến đổi xã hội; một phần do
quan điểm học thuật, cách tiếp cận vấn đề khác nhau, một phần bởi khái niệm
biến đổi xã hội có liên quan gần gũi với một vài khái niệm gần kề nó. Cho
nên, cần phải hiểu rõ hơn một số khái niệm liên quan đến biến đổi xã hội.
- Biến cố xã hội: các nhà xã hội học thường phân biệt khái niệm biến cố
xã hội với biến đổi xã hội. Một biến cố xã hội hay một sự kiện xã hội như một
cuộc bầu cử, biểu tình, đình công,... có thể đem lại sự thay đổi và cũng có thể
không đem lại một sự thay đổi nào. Chính vì vậy, một số nhà xã hội học đưa
ra sự phân biệt giữa sự thay đổi về sự bình quân và sự thay đổi có tính kết


3
cấu. Thay đổi về sự bình quân là việc đi đến một sự bình quân mới sau những
xáo trộn, những biến cố; nhưng các đặc trưng của hệ thống xã hội vẫn không
thay đổi, chính xác hơn chỉ một bộ phận của tổng thể xã hội biến đổi, nhưng

cơ cấu của xã hội vẫn không bị ảnh hưởng - Thực chất, sự thay đổi bình quân
không liên quan đến sự biến đổi xã hội;
- Tiến bộ xã hội: là một sự vận động có ý thức trong một chiều hướng
được tán thành và đáng mong đợi. Như vậy, tiến bộ liên quan đến giá trị - đây
là sự khác biệt giữa sự tiến bộ và sự biến đổi xã hội. Thuật ngữ "tiến bộ" là
một phán quyết giá trị chứ không phải là một lời tường thuật về một sự kiện.
Ngược lại thuật ngữ "biến đổi" là một thuật ngữ không chỉ định hướng giá trị
mà thể hiện một sự mô phỏng của một nền văn hóa hay cấu trúc xã hội hiện
hữu;
- Tiến hóa: thuyết tiến hóa ban đầu do Charles Darwin (1809–1882)
đưa ra trong lĩnh vực sinh học, như một học thuyết về sự phát triển của tự
nhiên - học thuyết này ảnh hưởng rất lớn đến nhiều nhà xã hội học nổi tiếng:
Lewis Henry Morgan (1818-1881), Herbert Spencer (1820-1903). Morgan
cho rằng, con người tiến hóa qua ba trạng thái: hoang dã, man dã và văn
minh. Spencer xây dựng lý thuyết thống nhất về sự tiến hóa: chuyển từ cái
thuần nhất đơn giản sang cái không thuần nhất phức tạp, thông qua phân hóa
để đạt tới sự thống nhất. Trong xã hội học, phân biệt hai hình thức biến đổi
lớn - tiến hóa và cách mạng; hai hình thức này phụ thuộc vào những yếu tố
bên trong và bên ngoài. Thoạt nhìn, chúng tự phân biệt với nhau bằng tính
chất chậm chạp hay nhanh chóng của sự biến đổi diễn ra trong xã hội ở những
thời điểm nhất định. Những biến đổi bên trong, ở bất kỳ lĩnh vực nào, cũng
kéo theo một sự tiến hóa và sự tiến hóa này đôi khi diễn ra nhanh chóng trên
phương diện vật chất, nhưng chậm hơn ở phương diện tinh thần. Sự tiến hóa
gần đây nhất và gần gũi với cách mạng là sự tiến hóa được biết đến với cái tên


4
"phát triển" - đây là khái niệm được nhiều nhà xã hội học quan tâm và trở
thành một khái niệm thịnh hành nhất vào nửa sau của thế kỷ 20. Các nhà xã
hội học cho rằng, phát triển là một quá trình trong đó toàn thể loài người áp

dụng những công cụ hiện đại của khoa học và công nghệ vào những mục tiêu
của mình, qua những thời kỳ khác nhau và có tính không thể đảo ngược của
quá trình đó.
* Cách tiếp cận xã hội học về sự biến đổi xã hội
Các nhà xã hội học khi xem xét đến sự phát triển của xã hội, đã đưa ra
một số lý thuyết để giải thích tại sao biến đổi xã hội lại xảy ra và dự đoán
những biến đổi sẽ diễn ra trong tương lai. Một số cách tiếp cận chủ yếu về
biến đổi xã hội thường được xem xét đến là:
* Cách tiếp cận theo chu kỳ
Đối với lịch sử loài người, sự hiểu biết về chu kỳ của những biến đổi xã
hội đã ăn sâu vào ý nghĩ của con người, chu kỳ của tự nhiên, mặt trời mọc và
lặn, quy luật bốn mùa thay đổi của một năm và sự lặp lại của tự nhiên, đã ảnh
hưởng mạnh mẽ đến những khái niệm, nhận thức của con người về sự biến
đổi xã hội. Nhân loại hiểu rằng, lịch sử được lặp lại mãi trong những chu kỳ
không bao giờ kết thúc. Các nhà khoa học và sử học trước đây nhìn chung đều
phản đối những tư tưởng này, mặc dù họ cho rằng các xã hội có những chu kỳ
sống của nó, và mỗi xã hội được sinh ra trưởng thành, rồi sau đó biến mất.
Một số nhà lý thuyết, như nhà sử học Anh Arnold Toynbee (1852-1883) lại có
quan điểm tương tự, nhưng ông phản đối "sự không thể tránh được" của sự
suy tàn và cho rằng "những nỗ lực được tạo nên bởi con người có thể cho
phép văn minh hóa đối với sự sống". Nhà xã hội học Pitirim Sorokin (18891968) đưa ra lý thuyết chu kỳ về sự biến đổi với một bước tiến xa hơn, và cho
rằng sự văn minh hóa được dao động trong ba kiểu của "những trạng thái tâm
lý" hoặc rộng hơn - kiểu hệ tư tưởng, kiểu cảm giác và kiểu lý tưởng - trong


5
tất cả các hệ thống văn hóa, sự biến đổi xuất hiện khi mô hình cụ thể của suy
nghĩ nắm được giới hạn logic của nó.
* Các quan điểm tiến hóa
Những mô hình kinh điển

Những mô hình kinh điển là những mô hình được mượn từ khoa học
sinh học, đã giành được vị trí ở thế kỷ 19, nhiều nhà xã hội học đã tán thành
với lý thuyết phổ biến được gọi là sự tiến hóa một chiều, sự tiến hóa theo lộ
trình dọc, chỉ tiến về phía trước chứ không lùi hoặc đi ngược về phía sau cho
rằng tất cả các hình thức sống, tất cả các xã hội đều tiến hóa từ những hình
thức đơn giản đến phức tạp, với mỗi hình thức sau xa hơn những hình thức
trước nó.
Auguste Comte (1798–1857) lập luận rằng, tất cả các xã hội không thể
tránh khỏi được sự trải qua ba giai đoạn: thần học, siêu hình và thực chứng,
và xã hội châu Âu đã ở bước cuối cùng - bước cao nhất và là bước kết thúc
của sự phát triển nhân loại.
Herbert Spencer (1820–1903) nhìn sự tồn tại của các tổ chức và các xã
hội như là sự liên quan trực tiếp với một môi trường chuyển đổi. Spencer tin
rằng các xã hội phương Tây có sự thuận lợi hơn để đến trình độ cao nhất bởi
bởi vì họ "đáp ứng tốt hơn" với những điều kiện của thế kỷ 19 hơn những xã
hội không thuộc phương Tây.
Nhà xã hội học cổ điển Émile Durkheim (1858-1917) cho rằng, những
hình thức mới của sự đoàn kết xã hội, hoặc những ý thức cụ thể, sẽ xuất hiện
để duy trì xã hội. Theo ông, có hai kiểu mô hình. Trong các xã hội giản đơn
mỗi thành viên thực hiện các nhiệm vụ giống nhau, có thể thay thế lẫn nhau
và chia sẻ những giá trị, niềm tin giống nhau. Tính gắn kết hay sự đoàn kết cơ
học phù hợp với xã hội hòa nhập. Trải qua thế kỷ 19, rõ ràng rằng sự công
nghiệp hóa, sự tăng trưởng dân số và cạnh tranh đang phá hủy những hình


6
thức truyền thống của sự đoàn kết xã hội. Để tiến tới một hình thức cao hơn:
sự đoàn kết hữu cơ, trong đó sự phân công lao động tạo ra những người có cá
tính khác nhau, thực hiện những nhiệm vụ riêng biệt, với những vai trò đặc
biệt. Sự cố kết xã hội bên trong là kết quả của sự bổ xung lẫn nhau giữa các

chức năng và một kiểu giá trị mới xung quanh khái niệm nhân cách con
người. Durkheim đưa ra khái niệm "sự rối loạn" để nói lên sự bất lực của xã
hội trong việc hội nhập các cá nhân và sự suy yếu về ý thức tập thể.
Những quan điểm tiến hóa mới
Thế kỷ 20, những mô hình ở thế kỷ trước đã mô tả biến đổi xã hội như
là sự tiếp tục và không thể thay đổi được thay thế bằng sự sành điệu và tế nhị
hơn. Những lý thuyết tiến hóa mới, hiểu biết về các xã hội khác nhau tùy
thuộc vào mức độ phức tạp của xã hội và qua thời gian một khuynh hướng
chung đi tới sự khác biệt xã hội (kinh tế, gia đình, tôn giáo, chính trị,...) trở
thành sự phân chia và khác biệt giữa cái này và cái kia.
Không giống như các nhà nghiên cứu lý thuyết tiến hóa ở thế kỷ 19,
các nhà lý thuyết tiến hóa mới không mô tả một hình thức của xã hội như là
một sự tuyệt đối, cũng không khẳng định rằng, các xã hội không thể tiến hóa
tới một vài thực trạng cao hơn.
* Quan điểm xung đột
Karl Marx (1818–1883) cùng hầu hết các nhà lý thuyết xã hội ở thế kỷ
19 chịu ảnh hưởng lớn bởi thuyết tiến hóa. Karl Marx đồng ý rằng các xã hội
phải chuyển đổi để tồn tại và ông không nhấn mạnh rằng kinh tế phục vụ như
là sự thành lập cho trật tự xã hội. Được xếp vào các nhà lý thuyết theo chủ
nghĩa xung đột đối kháng, Marx đã triển khai một lý thuyết tiến hóa về sự
biến đổi xã hội. Dựa vào sự thay đổi liên tục trong kỹ thuật mà các xã hội tiến
từ đơn giản đến phức tạp. Ở mỗi một trạng thái, một xã hội tiềm ẩn những


7
điều kiện tự hủy diệt, và những điều kiện này cuối cùng sẽ dẫn đến sự biến
đổi và đưa xã hội vào trạng thái tiếp sau đó.
Karl Marx có cái nhìn về quá trình hiện đại hóa rất khác biệt với những
nhà tư tưởng xã hội khác, bởi lẽ Marx nhấn mạnh tầm quan trọng của mâu
thuẫn xã hội. Marx cho rằng xã hội hiện đại đồng nghĩa với xã hội tư bản, một

hệ thống kinh tế được sản sinh do đấu tranh giai cấp vào cuối thời kỳ trung
cổ. Giai cấp tư sản nắm giữ hệ thống sản xuất mới do cuộc cách mạng công
nghiệp đem lại và đã thành công trong việc thay thế giai cấp quý tộc.
Karl Marx cũng không phủ nhận rằng sự hình thành tính hiện đại có
liên quan đến sự suy tàn của cộng đồng có quy mô nhỏ, đến sự phân công lao
động gia tăng và sự xuất hiện của thế giới duy lý. Marx cho rằng, cả ba yếu tố
này đều cần thiết cho việc phát triển chủ nghĩa tư bản. Chính chủ nghĩa tư bản
đã kéo theo những người nông dân từ vùng nông thôn về các đô thị với hệ
thống thị trường không ngừng phát triển. Sự chuyên môn hóa là cơ sở cho sự
vận hành các xí nghiệp; tính duy lý thể hiện rõ trong xã hội tư bản. Marx có
một cái nhìn về quá trình hiện đại hóa khá lạc quan, và ông tin rằng mẫu
thuẫn xã hội trong xã hội tư bản sẽ đem lại một cuộc cách mạng xã hội, và rồi
theo quy luật tiến hóa, xã hội này sẽ được thay thế bằng một xã hội khác công
bằng hơn, nhân đạo hơn.
* Quan điểm hiện đại về biến đổi xã hội
> Quan điểm tổng hợp
Các nhà xã hội học ngày nay cho rằng sự tương tác phức tạp của nhiều
yếu tố - cả yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài của nhiều yếu tố - tạo nên sự
biến đổi. Mặc dù trong những hoàn cảnh xã hội và lịch sử nhất định, các yếu
tố cụ thể đôi lúc có thể ảnh hưởng nhiều hơn những yếu tố khác. Những yếu
tố được các nhà lý thuyết hiện đại quan tâm khi xem xét về biến đổi xã hội,
như sau:


8
- Môi trường vật chất;
- Công nghệ;
- Sức ép dân số;
- Giao lưu văn hóa;
- Xung đột xã hội.

> Quan điểm toàn cầu
- Lý thuyết hiện đại hóa;
- Lý thuyết hệ thống thế giới;
- Lý thuyết phụ thuộc.
* Nhân tố và điều kiện của sự biến đổi xã hội
> Nhân tố bên trong của sự biến đổi xã hội
+ Nhân tố đổi mới
- Kỹ thuật - Công nghệ mới là một yếu tố cơ bản của sự biến đổi xã hội.
Thông thường, một kỹ thuật mới xuất hiện và mất đi khi nó đã quá lạc hậu.
Nhiều phát minh kỹ thuật đã đưa đến thay đổi xã hội, văn hóa một cách rộng
rãi.
- Văn hóa mới - không chỉ có kỹ thuật, máy móc biến thế giới, mà việc
hình thành văn hóa mới cũng có thể tạo nên sự biến đổi xã hội.
- Cấu trúc xã hội mới - những hình thức của cấu trúc xã hội có thể cũng
là kết quả của sự phát minh, sáng tạo. Thông qua những tổ chức, cơ cấu xã
hội mà kỹ thuật, công nghệ mới được xuất hiện và triển khai. Khi xuất hiện
những kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nó lại tạo ra một số ngành nghề mới, và
tương ứng với nó là những cơ cấu xã hội mới, tổ chức xã hội mới. Cấu trúc xã
hội đóng vai trò chủ yếu trong sự biến đổi xã hội, và sự biến đổi trong các vai
trò và sự tạo thành những vai trò mới thường là những nguyên nhân khác
nhau của biến đổi xã hội.
+ Xung đột


9
Trong xã hội có nhiều sự thay đổi do những nguyên nhân xung đột tạo
nên, xung đột giữa các nhóm khác nhau của các xã hội - đó là những mâu
thuẫn giữa các giai cấp, chủng tộc, các nhóm dân tộc ít người, sự khác biệt về
tôn giáo. Chính vì những mâu thuẫn này đã tạo nên các phong trào đấu tranh
để giải quyết các mối mâu thuẫn, và cũng chính những phong trào này lại là

biểu hiện của sự xung đột xã hội. Các phong trào này tạo nên sự biến đổi xã
hội trên những phạm vi và ở những mức độ khác nhau.
+ Tăng trưởng dân số
Sự tăng trưởng nhanh về dân số là một động lực chính đưa đến sự biến
đổi xã hội hiện đại. Sự biến đổi căn bản về quy mô dân số có thể gây ra thay
đổi sâu sắc về văn hóa, xã hội. Lúc dân số một xã hội tăng nhiều hơn đã đặt ra
những vấn đề mới đòi hỏi những mô hình mới của tổ chức xã hội. Sự phát
triển dân số hoặc sự giảm sút dân số đều có tác động mạnh đến sự biến đổi xã
hội.
+ Tư tưởng
Tư tưởng giữ một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc kìm hãm
biến đổi xã hội. Học thuyết của Karl Marx thừa nhận vai trò quan trọng của tư
tưởng, lý luận trong việc tạo ra biến đổi xã hội. Max Weber lại càng nhấn
mạnh vai trò của hệ tư tưởng. Ông coi tư tưởng giữ vai trò động cơ trong biến
đổi xã hội, đặc biệt là nghiên cứu của ông về tương quan giữa những giá trị
luân lý của đạo Tin Lành và sự hình thành của chủ nghĩa tư bản. Max Weber
nhấn mạnh tính hợp lý trong đạo Tin Lành đã góp phần đưa đến sự biến đổi
xã hội trong nền kinh tế của các nước châu Âu vào thế kỷ 18. Talcott Parsons
(1902-1979) là nhà xã hội học người Mỹ, giáo sư Đại học Harvard từ 19271973, coi nguồn gốc của sự biến đổi xã hội học là do những biến đổi các giá
trị, những khuôn mẫu trong xã hội. Trong lý thuyết hệ thống xã hội, Parsons
coi tiểu hệ thống văn hóa là hệ thống có nhiều thông tin nhất và nó kiểm soát


10
các tiểu hệ thống khác. Các nhà xã hội học đều cho rằng, tư tưởng có thể giúp
cho xã hội giữ nguyên trạng thái hoặc có thể kích thích sự biến đổi xã hội nếu
những niềm tin và chuẩn mực xã hội không còn phù hợp với nhu cầu của xã
hội.
+ Vấn đề hiện đại
- Tính hiện đại là những khuôn mẫu, những hình thức của tổ chức xã

hội có liên quan đến vấn đề công nghiệp hóa. Ở góc độ xã hội học, tính hiện
đại và một số khái niệm để mô tả những mô hình xã hội mang những đặc
trưng của giai đoạn đi liền với cuộc cách mạng công nghiệp ở Tây Âu cuối
thể kỷ 18.
- Hiện đại hóa - theo góc độ xã hội học là sự biến đổi từ cuộc cách
mạng công nghiệp, được coi là quá trình hiện đại hóa..
* Nhân tố bên ngoài của sự biến đổi xã hội
- Sự truyền bá
- Sự biến đổi của hệ sinh thái
* Điều kiện của biến đổi xã hội
- Thời gian
- Hoàn cảnh xã hội
- Nhu cầu của xã hội
Tài liệu tham khảo
- Richard T. Schaefer (2005): Xã hội học, Nxb Thống kê, Hà Nội.
- J. Machionis (2004): Xã hội học; Nxb Thống kê, Hà Nội.


11
BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI
Cơ cấu xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội là những chủ đề lớn, nhạy cảm và
mang tính "cốt lõi", "căn cốt" của xã hội học nói riêng, của các khoa học xã
hội và nhân văn nói chung. Nghiên cứu cơ cấu xã hội, biến đổi cơ cấu xã hội
để hiểu được những đặc trưng, đặc tính của xã hội, để đánh giá được trình độ
phát triển của xã hội, để chỉ ra được sự cân bằng hay những nghiêng lệch
trong xã hội. Đó cũng là "chìa khóa" để hiểu được biến đổi xã hội, từ đó cho
phép Đảng và Nhà nước cũng như các tổ chức đoàn thể xã hội đưa ra được
những dự báo xã hội; trên cơ sở đó có những cơ sở khoa học cần thiết để đề ra
các chính sách, giải pháp nhằm thúc đẩy xã hội phát triển theo hướng năng

động, tích cực, tiến bộ, đồng thời hoá giải những xu hướng thoái bộ, bất ổn
hoặc nguy cơ đổ vỡ xã hội.
Trên cơ sở phân tích lý luận và khái quát hoá thực tiễn biến đổi cơ cấu
xã hội nước ta thời kỳ đổi mới, chúng tôi xin nêu ra một số nét biến đổi chính
trong các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản ở nước ta hiện nay với hy vọng cung
cấp một nguồn tham khảo bổ ích cho việc tái cấu trúc lại cơ cấu xã hội theo
hướng phù hợp với xu hướng hội nhập, đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội
đất nước trong thời gian tới.
I. Biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp, giai tầng xã hội
Từ Đại hội Đảng VI (Đại hội đổi mới năm 1986), đặc biệt là từ những
năm 90 (thế kỷ XX) đến nay, theo các số liệu từ Tổng cục Thống kê, có thể
thấy cơ cấu xã hội giai cấp, giai tầng...xã hội ở nước ta đã có những biến đổi
đáng kể. Tỷ trọng cư dân nông nghiệp từ chỗ chiếm xấp xỉ 70% trước đây đã
giảm xuống chỉ còn 50% (năm 2007), tỷ trọng lao động công nghiệp, xây
dựng và dịch từ chỗ còn hết sức bé nhỏ trước đổi mới đều đã tăng lên mức
30% trong nền kinh tế (năm 2007). Năm 2009, ước tính lao động công nghiệp


12
khoảng trên 12,5 triệu người, lao động dịch vụ cũng ở mức tương tự khoảng
12 triệu người. Nhưng điều đáng nói là ở chỗ tỷ trọng lao động công nghiệp
(thực chất là lao động của người công nhân, giai cấp công nhân theo cách nói
truyền thống) và lao động dịch vụ sẽ còn tiếp tục tăng lên mạnh mẽ trong
những năm tới, tỷ trọng lao động nông nghiệp sẽ tiếp tục giảm. Cho đến nay,
cả nước đã có hàng trăm ngàn doanh nghiệp, 3 triệu hộ sản xuất kinh doanh
với hàng trệu doanh nhân. Lực lượng lao động trong khu vực nhà nước chỉ ở
mức 3,975 triệu người (năm 2007). Trong khi đó lao động khu vực ngoài nhà
nước (cùng năm) là 40,197 triệu người, ước tính năm 2009 có thể là 41- 42
triệu lao động, lớn gấp 10 lần lực lượng lao động khu vực nhà nước, chiếm
tuyệt đại lực lượng lao động toàn xã hội.

Xu hướng chung là, tỷ trọng lao động trong khu vực nhà nước giảm,
khu vực ngoài nhà nước liên tục tăng, lao động nông nghiệp giảm, lao động
công nghiệp, dịch vụ tăng. Đáng chú ý là sự tăng nhanh số lượng các doanh
nghiệp, theo đó là tăng số lượng các doanh nhân... Theo đà phát triển như
hiện nay, mục tiêu 500.000 doanh nghiệp với cả triệu doanh nhân vào năm
2010- 2011 như mục tiêu Đại hội Đảng X đặt ra chắc chắn là sẽ không chỉ đạt
tới mà có thể còn vượt xa hơn.
Sự lớn mạnh không ngừng của tầng lớp doanh nhân cũng như sự đa
dạng, phong phú của nó (nguồn gốc xuất thân, tuổi tác, các đặc trưng theo
giới, trình độ học vấn, quy mô, loại hình, vốn đầu tư hoạt động, liên kết tổ
chức, vùng miền sản xuất đầu tư, kinh doanh...) sẽ tạo ra một cục diện mới
cho nền kinh tế cũng như đặt ra những yêu cầu bức bách hơn đối với những
thay đổi trong chính sách, thể chế pháp luật cho phù hợp. Sự lớn mạnh này
diễn ra không chỉ ở các địa bàn đô thị, trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch
vụ tài chính, kỹ thuật, công nghệ cao mà cả ở các địa bàn nông thôn, rừng núi,
biên cương, hải đảo, cả các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, cả


13
những nơi chưa đòi hỏi nhiều đến công nghệ cao, kỹ thuật cao, nguồn nhân
lực chất lượng cao. Một số tác giả của các bài báo gọi họ là "tầng lớp trung
lưu” và họ nhận định rằng: Sự lớn mạnh của tầng lớp này sẽ góp phần thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp của đất nước; tạo ra
được nhiều việc làm, hạn chế thất nghiệp góp phần ổn định xã hội, giảm thiểu
những căng thẳng xã hội, nhất là áp lực về việc làm; thúc đẩy cải cách kinh tế,
đổi mới thể chế, thủ tục hành chính, hoàn thiện các chính sách, thúc đẩy sự
liên kết 4 nhà: nhà nông, nhà nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học; đóng
góp to lớn vào nguồn thu ngân sách nhà nước thông qua việc nộp thuế cũng
như nhiều hoạt động phúc lợi xã hội, cứu trợ xã hội, từ thiện xã hội... Phải
thấy rằng, tầng lớp doanh nhân đang trở thành một lực lượng chủ công, đội

quân xung kích trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội nước ta.
Đội quân này cùng với những người lao động ưu tú khác đang “nổi
lên", trội vượt lên từ khắp các giai cấp, tầng lớp xã hội hợp thành một tầng
lớp xã hội "ưu trội"- tầng lớp bao gồm những phần tử năng động nhất, tài hoa,
xuất sắc nhất. Họ trở thành những mạnh thường quân, những đầu tàu thật sự
sung mãn, khoẻ mạnh, đi tiên phong trong tất cả các hoạt động xã hội. Họ sẽ
là người lôI kéo, dẫn dắt mỗi nhóm xã hội cũng như toàn xã hội đi lên.
Sự hình thành tầng lớp xã hội "ưu trội" gắn chặt với quá trình hình
thành cấu trúc phân tầng xã hội hợp thức. Tầng lớp ưu tú này cần phải được
Đảng, Nhà nước và các đoàn thể xã hội nhìn nhận một cách đúng đắn, đánh
giá đúng tài năng, công lao và những giá trị đóng góp của họ, tôn vinh họ,
vinh danh họ. Đồng thời, cần phải chú ý theo dõi, thu hút, đào tạo, sắp xếp, bổ
nhiệm họ vào các vị trí then chốt trong bộ máy của Đảng và Nhà nước. Nếu
họ là doanh nhân, nhà khoa học, chúng ta cần có các chính sách an toàn,
thông thoáng, tạo điều kiện để họ có thể phát huy cao nhất năng lực kinh
doanh và sáng tạo của mình. Cần phải tạo ra cho họ những hành lang, môi


14
trường rộng rãi, những ưu đãi về thuế, vốn, những tư vấn và hỗ trợ pháp lý và
những chế tài bảo vệ họ khi lợi ích của họ bị đe dọa, xâm hại.
Thiết nghĩ, Đảng và Nhà nước Việt Nam nên sớm chỉ đạo cho các nhà
khoa học, các nhà lý luận nghiên cứu thật sự sâu sắc thấu đáo, từ đó tiến hành
tổng kết, đánh giá và rút ra những nhận định thật sự khách quan, toàn diện,
khoa học về tầng lớp xã hội này. Chúng tôi tin tưởng rằng, những đánh giá
chính thức, đúng đắn và kịp thời của Đảng và Nhà nước ta sẽ có ý nghĩa thực
sự quan trọng trong việc giải toả, tháo gỡ những băn khoăn, xao động của
không ít cán bộ, đảng viên hiện nay đối với họ.
Song hành với sự hình thành nhóm xã hội "vượt trội", tầng lớp xã hội
"ưu trội" là sự xuất hiện một cách tất yếu, không tránh khỏi các nhóm xã hội

"yếu thế", tầng lớp xã hội "yếu thế”. Những nhóm xã hội này được hình thành
từ khắp các giai cấp, tầng lớp, tổ chức, nghề nghiệp như công nhân, nông dân,
tri thức, công chức, thợ thủ công, tiểu thương, tiểu chủ... Đó là những người
không có nghề nghiệp ổn định, học vấn, tay nghề thấp, không có tay nghề
hoặc có nghề rồi song chưa kiếm được việc làm... Đó là những người sống
trong các gia đình đông con, ít nhân lực lao động, đông nhân khẩu phụ thuộc,
sức khoẻ yếu, hay ốm đau, hoặc gia đình có nhiều người đau bệnh, tàn tật, gặp
nhiều rủi ro, thiên tai, địch họa... Đó là những người sống ở vùng sâu, vùng
xa, đất đai cằn cỗi, thời tiết khắc nghiệt, đia hình chia cắt, giao thông đi lại
khó khăn, cơ sở hạ tầng thấp kém, phong tục làm ăn lạc hậu... Họ có thể là
những người dân ở diện "giải toả" đất đai, nhà ở..., sang môi trường sống mới
họ chưa được đào tạo nghề nghiệp, chưa được chuẩn bị về mặt tâm lý để thích
nghi và hội nhập với nơi ở mới.
Họ có thể là những doanh nhân, những tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ
công làm ăn thua lỗ, tụt hậu về mặt kỹ thuật, công nghệ, không theo kịp hoặc
không đủ năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Họ cũng có thể là


15
những người thuộc diện chính sách xã hội như thương binh, gia đình liệt sĩ,
những người có công với cách mạng..., nay thiếu sức khoẻ, học vấn, chuyên
môn nghề nghiệp...
Những người thuộc các nhóm xã hội, tầng lớp xã hội "yếu thế” này khá
đông đảo và đang là một hiện tượng xã hội nhức nhối, là nỗi băn khoăn, lo
lắng và mối quan ngại cho nhiều nhà lãnh đạo, quản lý ở các tổ chức, địa
phương cũng như Đảng Nhà nước và các tổ chức xã hội.
II. Biến đổi cơ cấu xã hội dân số ở Việt Nam
Sự biến đổi cơ cấu dân số ở nước ta trong vài thập kỷ qua biểu hiện rõ
nhất và đáng chú ý nhất là trong cơ cấu tuổi, cùng với đó là những biến đổi
nhẹ trong cơ cấu giới tính, sau nữa và gắn với nó là sự biến đổi trong mức

sinh, mức tử.
Do thành quả của công tác dân số và KHHGĐ trên phạm vi toàn xã hội,
đặc biệt rõ nét là từ sau Nghị quyết Trung ương 4 khoá VII (năm 1993), mức
sinh giảm liên tục, mức tử cũng giảm, đời sống nhân dân không ngừng được
cải thiện, tuổi thọ bình quân của người dân tăng đáng kể... đã dẫn đến sự thay
đổi lớn trong cơ cấu tuổi của dân số nước ta. Tỷ trọng dân số phụ thuộc (bao
gồm nhóm dân số dưới 15 tuổi, cộng với số người trên 60 tuổi) từ 49,6% dân
số (năm 1979) giảm xuống 35% dân số (năm 200 7). Tỷ trọng dân số trong độ
tuổi lao động (bao gồm những người từ 15 đến dưới 60 tuổi) tăng nhanh từ
50,4% (năm 1979) lên 65% (năm 2007) (l).
Những thay đổi về cơ cấu tuổi trên đây chứng tỏ Việt Nam không còn
là một quốc gia dân số trẻ mà đang bước vào giai đoạn "dư lợi dân số” (các
nhà nhân khẩu học gọi dó là thời kỳ dân số vàng). "Dư lợi nhân khẩu” hay
"lợi tức nhân khẩu” là giai đoạn tỷ trọng trẻ em dưới 15 tuổi ít hơn 30% và tỷ
trọng người cao tuổi từ 65 tuổi trở lên ít hơn 15%. Năm 2007, trẻ em dưới 15
tuổi ở nước ta là 25,5%, người cao tuổi trên 65 tuổi là 7,2%. Cơ cấu dân số


16
vàng hay còn gọi là dư lợi dân số là khái niệm dùng để chỉ một dân số có
người lao động (từ 15-59 tuổi) đạt tỷ lệ cao nhất, và nhóm dân số phụ thuộc ở
mức thấp nhất (những người có độ tuổi từ 0 đến 14 tuổi và từ 60 tuổi trở lên)
(l, 2).
Sự phát triển của mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
đáng kể nhất và trực tiếp nhất là nguồn lực con người (nguồn lực lao động,
bao gồm cả số lượng lao động và chất lượng lao động). Nguồn lực lao động
lại được xem xét trong mối quan hệ với nhóm dân số phụ thuộc (chưa lao
động hoặc thôi lao động). Tỷ số phụ thuộc là một trong các chỉ tiêu đánh giá
chất lượng dân số, cho biết gánh nặng của dân số trong độ tuổi có khả năng
lao động đối với nhóm dân số ngoài độ tuổi lao động. Tỷ lệ dân số phụ thuộc

ở nước ta chưa bao giờ đạt ở mức thấp 54% (như năm 2007),- thấp hơn nhiều
so với 98 % (năm 1979) và đây là khởi đầu của một thời kỳ "dư lợi dân số”,
"cơ cấu dân số vàng" (l, 2).
Cơ cấu dân số này đã và đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh
tế xã hội nước ta. Đó có thể sẽ là cơ hội để chúng ta cất cánh tăng khoảng 1/3
mức tăng trưởng kinh tế hàng năm và kéo dài khoảng 30 năm như những con
hổ châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc) mấy thập kỷ trước đây nhờ
nguồn lao động dồi dào, đông đảo, lại "mang vác” nhóm dân số phụ thuộc ít
nhất.
Một số nhà khoa học cho rằng, thời kỳ vận hội do dư lợi dân số ở Việt
Nam mang lại sẽ kéo dài khoảng 30 năm: từ năm 2010 đến năm 2040. Với
vận hội này, nếu Chính phủ có chính sách tốt trên cả 3 lĩnh vực: giáo đức đào tạo, kinh tế - xã hội và quản lý thì ước mơ hoá rồng của nước ta không
còn chỉ là mong muốn mà có thể sẽ trở thành hiện thực. Chính sách giáo dục,
đào tạo tốt nhằm sớm đưa nhóm dân số trẻ nước ta trở thành một lực lượng
lao động có trình độ học vấn, tay nghề cao, chuyên môn giỏi, năng động thị


17
trường, lao động có năng suất cao. Chính sách kinh tế và chính sách xã hội tốt
để khuyến khích các doanh nghiệp mở mang đầu tư và tạo ra nhiều việc làm;
tạo môi trường thông thoáng, linh hoạt để lực lượng lao động trẻ tìm được
việc làm, cơ động, linh hoạt trong thị trường việc làm. Chính sách quản lý vĩ
mô và vi mô tốt nhằm tăng cường pháp luật, đổi mới thể chế, tăng hiệu lực
quản lý, giảm thiểu sự phiền hà, tham nhũng, kết hợp tốt giữa các nhà (nhà
nước, nhà doanh nghiệp, nhà khoa học), kết hợp tốt giữa các chủ doanh
nghiệp với chính quyền sở tại và người lao động...
Nhưng "cơ cấu dân số vàng" của chúng ta cũng có thể sẽ là một thách
thức lớn, nếu chúng ta không làm tốt ba vấn đề nói trên. Bởi lực lượng lao
động đạt mức tối đa (ước tính mỗi năm tăng thêm khoảng 1,6 triệu lao động),
song Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội không tạo đủ việc làm cho người

lao động hoặc chỉ tạo ra những việc làm nhàm chán, thu nhập thấp, điều kiện
làm việc yếu kém, tham nhũng tràn lan... thì nguy cơ khủng hoảng, đổ vỡ, rối
loạn xã hội sẽ là điều bất khả kháng.
III. Biến đổi cơ cấu xã hội lãnh thổ và các phân hệ cơ cấu xã hội cơ
bản khác
Cùng với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mạng lưới đô thị
quốc gia đã được mở rộng, từ 629 đô thị chiếm 20,7% (năm 1999) tăng lên
754 đô thị chiếm xấp xỉ 30% (năm 2009). Đô thị loại một tăng thêm 5 đô thị,
trong khi đó đô thị loại năm tăng thêm 99 đô thị. Kéo theo đó là sự gia tăng
liên tục quy mô dân số đô thị, từ 14,9 triệu người (năm 1998) lên 23,9 triệu
người chiếm 20,7% dân số cả nước (năm 2005), ước tính khoảng 25-26 triệu
người chiếm khoảng 29% dân số cả nước (năm 2009). Tăng trưởng kinh tế
trung bình ở khu vực đô thị đạt từ 12 - 15%, cao gấp 1,5 - 2 lần so với mặt
bằng chung của cả nước (năm 2007), và đạt khoảng 8-10% (năm 2009). Hiện
nay, nguồn thu đô thị chiếm tỷ lệ 70% trong cơ cấu GDP cả nước. Sự phát


18
triển kinh tế đô thị đã và đang tạo ra hàng triệu việc làm cho người lao động,
góp phần quan trọng trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của xã hội.
Ngoài 3 vùng kinh tế trọng điểm, hàng chục khu kinh tế với hàng trăm
các đô thị lớn, nhỏ mọc lên và được mở rộng, kéo theo là sự phát triển cơ sở
hạ tầng nhà xưởng, khu công nghiệp... đã làm cho cơ cấu lãnh thổ nước ta có
sự thay đổi khá mạnh mẽ. Cư dân nông thôn giảm, cư dân đô thị, lối sống đô
thị tăng. Đây là thời kỳ đô thị hoá mạnh mẽ nhất ở nước ta. Nó sẽ còn mang
lại nhiều thay đổi căn bản (cả những cơ hội, cũng như thách thức) cho con
người Việt Nam, xã hội Việt Nam. Nó sẽ là dấu hiệu tốt, triển vọng tốt nếu
quá trình đô thị hoá dược gắn kết chặt chẽ với quá trình CNH, HĐH, phản ánh
tính tất yếu kinh tế - chính trị, xã hội và được quy hoạch, điều hành, quản lý
một cách bài bản, khoa học, không "nhảy cóc". Nếu không, nó sẽ là nguy cơ

của những vấn nạn về ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông, tệ nạn xã hội,
tình trạng thiếu việc làm, thiếu điện, thiếu nước, lai căng văn hoá và những
vấn đề bức xúc đáng cảnh báo khác... Biến đổi cơ cấu xã hội lãnh thổ là một
trong những chỉ báo hết sức quan trọng để có thể xem xét và dự báo bao giờ
Việt Nam sẽ trở thành con rồng, con hổ của khu vực. Đó cũng là chỉ báo đánh
giá trình độ văn minh mà chúng ta sẽ đạt được ở mức độ nào sau nhiều năm
tìm tòi, đổi mới. Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội, chúng ta cũng cần
phải xem xét những biến đổi trong cơ cấu xã hội tôn giáo ở nước ta - một
quốc gia đa tôn giáo (với 6 tôn giáo lớn: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành
giáo, Hồi giáo, Hòa Hảo giáo, Cao Đài giáo) trong thời kỳ mở cửa đang có rất
nhiều sự biến đổi. Từ năm 2007 đến nay, đã có thêm nhiều tôn giáo với hàng
chục các tổ chức tôn giáo "nhánh phái tôn giáo" khác nhau được Nhà nước
chính thức thừa nhận và đi vào hoạt động. Chính trong bối cảnh này, Đảng và
Nhà nước ta cần chăm chú theo dõi và có những chính sách thông minh, trí
tuệ nhằm hoá giải được những mâu thuẫn, xung đột, tăng tính đồng thuận xã


19
hội, xây dựng vững chắc khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp hài hoà giữa
đời và đạo, đạo pháp và CNXH.
Song hành với sự biến đổi cơ cấu xã hội tôn giáo là sự biến đổi không
kém phần quan trọng trong cơ cấu xã hội dân tộc. Một quốc gia 54 dân tộc
phải đối mặt với rất nhiều thách thức của đổi mới, mở cửa, hội nhập khu vực,
quốc tế. Các lực lượng thù địch luôn tìm mọi cách "chọc" vào những điểm
yếu, những sơ hở trong các chính sách và sự vận hành chính sách dân tộc, tôn
giáo ở nước ta để kích động chủ nghĩa dân tộc cực đoan, gây chia rẽ, mất
đoàn kết làm yếu đi sức mạnh của quốc gia, dân tộc chúng ta. Trước bối cảnh
hiện nay, việc nắm chắc các quan điểm về đoàn kết dân tộc của Đảng, những
chỉ đạo sâu sắc và chân thực trong các Di huấn tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tập hợp một cách thông minh, khoa học, nhất quán, trung thực các dân

tộc xung quanh ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng dưới ánh sáng
của đổi mới - đó là những điều kiện tiên quyết và con đường duy nhất đúng
đắn đưa đất nước đi đến xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, một xã hội
tươi đẹp, nhân văn, "nhân đạo hoàn bị” mà chúng ta quyết tâm hướng tới.
* Tài liệu trích dẫn
1 Tổng cục Thống kê. Tổng điều tra dân số và nhà ở 1979, 1989, 1999
và Điều tra biến động dân số – Kế hoạch hoá gia đình 2007.
2. UNDP. Human Developrtlent Report 1998 - 2008. .
3 . Tạp chí Xây dựng, số 11/2009.
Nguyễn Đình Tấn – - Thông tin Khoa học xã hội, số 3/2010, tr. 3


20
XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI CƠ CẤU XÃ HỘI VIỆT NAM
Ngày 22 tháng 6 năm 2010, Ban chủ nhiệm Chương trình “Nghiên cứu
khoa học lý luận - chính trị giai đoạn 2006-2010” (mã số KX.04/06-10) đã tổ
chức nghiệm thu cấp nhà nước Đề tài “Xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội Việt
Nam” (mã số KX.04.14/06-10), do GS, TS. Tạ Ngọc Tấn làm chủ nhiệm.
Có thể nói, sau gần 25 năm thực hiện đổi mới dưới sự lãnh đạo sáng
suốt của Đảng, cùng với những thành tựu to lớn về kinh tế – xã hội, xã hội
Việt Nam cũng đã diễn ra một quá trình biến đổi toàn diện vô cùng lớn lao cả
ở tầm vĩ mô và vi mô, cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… Tuy nhiên,
cùng với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, những biến đổi mạnh
mẽ của xã hội thời gian qua cũng đang đặt ra nhiều vấn đề, thách thức gay
gắt. Đó là, sự mất cân đối về cơ cấu của nền kinh tế, cơ cấu giai cấp, cơ cấu
dân cư, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu dân tộc, tôn giáo…; sự phân hoá giữa
thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa giàu và nghèo trong
phát triển; sự bất bình đẳng giữa các tầng lớp, các giới, các nhóm xã hội…;
đặc biệt, sự phân hoá giàu nghèo, sự phân tầng xã hội ngày càng trở nên gay
gắt. Bên cạnh đó là sự xuất hiện những vấn đề mới như: dân số tăng, việc làm

và di cư tự do; sự tăng nhanh của giai cấp công nhân và sự giảm sút nguồn lực
lao động ở nông thôn; các tệ nạn xã hội; sự bất bình đẳng giới và nguy cơ
khủng hoảng gia đình; sự thay đổi chuẩn mực đạo đức và lối sống ở lớp trẻ…
Những thành tựu của công cuộc đổi mới cũng như những vấn đề bức
xúc đang đặt ra hiện nay thực chất vừa là kết quả của sự biến đổi cơ cấu xã
hội; đồng thời, vừa là tác nhân thúc đẩy sự biến đổi mạnh mẽ hơn nữa cơ cấu
xã hội. Cơ cấu xã hội là một nhân tố luôn luôn biến đổi. Đó là do, trong quá
trình vận động và phát triển của các xã hội, những biến đổi ở mọi lĩnh vực của
đời sống kinh tế - xã hội đều tác động mạnh mẽ, thúc đẩy sự biến đổi của cơ


21
cấu xã hội và đến lượt nó, sự biến đổi cơ cấu xã hội lại tác động đến mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội.
Đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đế biến đổi cơ cấu xã hội Việt
Nam, tuy nhiên, do xuất phát từ góc nhìn của chuyên môn hẹp, các cách tiếp
cận và phương pháp không thống nhất, thời gian nghiên cứu lại không liên
tục, nên mặc dù các nghiên cứu về biến đổi cơ cấu xã hội ở từng khía cạnh thì
nhiều, song bức tranh tổng thể biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam đến nay vẫn
còn bỏ trống. Khắc phục nhược điểm này, Đề tài khoa học “Xu hướng biến
đổi cơ cấu xã hội Việt Nam” do GS, TS. Tạ Ngọc Tấn làm chủ nhiệm đã khá
thành công trong việc tạo ra một bức tranh tổng thể về biến đổi cơ cấu xã hội
Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, thể hiện trên 5 lát cắt quan trọng nhất, đó
là cơ cấu xã hội - giai cấp, cơ cấu xã hội - nghề nghiệp, cơ cấu xã hội - dân số,
cơ cấu xã hội - dân tộc và cơ cấu xã hội - tôn giáo.
Trên cơ sở phân tích các nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi cơ cấu
xã hội ở Việt Nam trong 25 năm đổi mới, Đề tài đã làm nổi bật sự biến đổi
mạnh mẽ của cơ cấu xã hội Việt Nam trong 25 năm đổi mới.
Đối với cơ cấu xã hội - giai cấp: Từ cơ cấu “hai giai, một tầng” ở giai
đoạn bao cấp, sang giai đoạn đổi mới cơ cấu này còn được bổ sung thêm

nhiều tầng lớp và nhóm xã hội mới: đó là đội ngũ các nhà doanh nghiệp,
những tiểu thương, tiểu chủ (kể cả các chủ trang trại lớn), những người lao
động làm thuê, những người Việt Nam lao động ở nước ngoài, v.v... Ngoài sự
xuất hiện thêm nhiều giai tầng mới thì ngay trong các giai cấp, tầng lớp cơ
bản như công nhân, nông dân, trí thức cũng có sự phân hóa và biến đổi mạnh
mẽ.
Cơ cấu xã hội - nghề nghiệp: Nếu xem xét cơ cấu nghề nghiệp theo
nhóm ngành kinh tế, thì sự biến đổi cơ cấu đó trong giai đoạn đang có sự
chuyển dịch tích cực từ nông, lâm, ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ,


22
từ các ngành có năng suất thấp sang ngành có năng suất cao hơn. Còn xem xét
cơ cấu nghề nghiệp theo thành phần kinh tế thì tỷ lệ lao động thuộc kinh tế
nhà nước giảm xuống, trong khi tỷ lệ lao động ngoài nhà nước và khu vực đầu
tư nước ngoài tăng lên; theo khu vực thì tỷ lệ lao động ở thành thị tăng lên,
trong khi lao động ở nông thôn giảm xuống, v.v...
Cơ cấu xã hội - dân số: Đáng chú ý là tỷ lệ trẻ em trong các nhóm tuổi
(từ 0 đến 14 tuổi) giảm mạnh, trong khi các nhóm tuổi từ 25 đến 49 và 65 trở
lên đang tăng lên khá rõ ràng - điều góp phần vào sự chuyển đổi từ tỷ số phụ
thuộc sang “cơ cấu dân số vàng”. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, cơ cấu dân số
theo giới tính thì dần cân bằng nhưng tình trạng mất cân bằng giới tính ở trẻ
sơ sinh tăng lên; tỷ lệ dân số đô thị thấp nhưng đang tăng lên, báo hiệu tích tụ
dân số vào đô thị ngày càng mạnh, v.v...
Cơ cấu xã hội - dân tộc: Trong bối cảnh của công cuộc đổi mới, thành
phần tộc người có xu hướng tăng lên (có thể vượt qua con số 54 dân tộc - do ý
thức tộc người tăng lên, do chính sách ưu đãi của Nhà nước...), sự phân bố về
địa lý giữa các dân tộc thay đổi mạnh (do di dân tự do từ Bắc và Nam, do phát
triển các khu công nghiệp...), đặc biệt là sự biến đổi cơ cấu dân số giữa các
tộc người (tỷ lệ sinh ở các dân tộc thiểu số miền núi cao hơn ở người Kinh và

ở đồng bằng).
Cơ cấu xã hội - tôn giáo: Ngoài các tôn giáo chính là Phật giáo, Thiên
chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Cao Đài và Hoà Hảo, trong giai đoạn đổi mới
còn xuất hiện thêm nhiều tôn giáo mới (từ 50 - 60), trong đó có tôn giáo tách
ra từ Phật giáo, có tôn giáo là được phục sinh từ các lễ hội dân gian và cũng
có tôn giáo mới được du nhập từ bên ngoài vào. Đó là chưa kể trong nội bộ
các tôn giáo cũng có sự thay đổi không chỉ ở số lượng các tín đồ, mà còn ở
phương diện tổ chức và nhiều phương diện khác nữa.


23
Những biến đổi đó đã tác động cả tích cực và tiêu cực đến quá trình
phát triển đất nước, cụ thể trên các mặt: kinh tế, văn hóa, chính trị và xã hội.
Ở chiều tích cực: Về mặt kinh tế: sự biến đổi cơ cấu xã hội đó đã góp
phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, qua đó góp phần nâng cao
đời sống mọi mặt của đại đa số các tầng lớp nhân dân.
Về mặt chính trị, sự biến đổi cơ cấu xã hội (như tự do hoá các ngành
nghề, nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện...) đã góp phần nâng cao địa vị
cũng như ý thức dân chủ của người dân. Như vậy, mô hình cơ cấu xã hội ở
giai đoạn mới này, về cơ bản, là có lợi cho sự ổn định xã hội và phát triển đất
nước về lâu, về dài.
Về mặt văn hóa: Việc giao lưu ngày càng gia tăng giữa các tộc người
trong nước, cũng như giữa trong nước và nước ngoài, sự phục sinh của nhiều
tín ngưỡng dân gian, sự du nhập và nảy sinh nhiều tôn giáo mới... đang làm
cho văn hóa Việt Nam ngày thêm đa dạng và phong phú - mà đa dạng và
phong phú chính là một nguyên nhân không thể thiếu để phát triển.
Ở chiều tác động tiêu cực: Sự tác động tiêu cực của biến đổi cơ cấu xã
hội ở giai đoạn này có nhiều, song có thể quy lại mấy biểu hiện cơ bản sau:
Biến đổi cơ cấu xã hội đang làm gia tăng sự bất bình đẳng của xã hội:
đó là bất bình đẳng giữa nông thôn và đô thị, giữa miền xuôi và miền núi,

giữa người có thu nhập cao và người thu nhập thấp, giữa lao động trí óc và lao
động chân tay.
Biến đổi cơ cấu xã hội đang làm gia tăng mâu thuẫn và xung đột - dù
mới ở mức độ cục bộ - song cũng đã tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn đối với sự
ổn định và phát triển của xã hội: đó là mâu thuẫn giữa chủ và thợ, giữa thế hệ
già và thế hệ trẻ, giữa chủ đầu tư và những người nông dân mất đất, là xung
đột giữa một số tổ chức tôn giáo và chính quyền địa phương, giữa các bộ phận
tộc người di dân tự do và cư dân địa phương.


24
Ngoài ra, trong cơ cấu xã hội mới xuất hiện các nhóm yếu thế và dễ bị
tổn thương, sự quá tải ở các khu công nghiệp và các thành phố lớn, sự mất
dần bản sắc ở không ít tộc người thiểu số, sự lai căng, mất gốc ở một số nhóm
người, nhất là ở thế hệ trẻ, v.v...
Rõ ràng, cả hai mặt tích cực và tiêu cực đã, đang và sẽ còn tồn tại trong
quá trình biến đổi cơ cấu xã hội ở mô hình đổi mới. Đây không chỉ là vấn đề
thực tiễn, mà còn là vấn đề lý luận, đòi hỏi phải giải quyết.
Trên cơ sở phân tích bối cảnh trong nước và thế giới giai đoạn 20112020, Ban chủ nhiệm Đề tài đã đưa ra những dự báo xu hướng biến đổi cơ cấu
ở xã hội Việt Nam. Đây là cơ sở rất quan trọng cho việc định hướng các chính
sách cho quá trình phát triển trong giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn này, xu
hướng biến đổi cơ cấu xã hội sẽ diễn ra nhanh hơn và gay gắt hơn ở cả 5 lĩnh
vực cơ bản đã được nghiên cứu.
Ban chủ nhiệm Đề tài đã đưa ra 8 nhóm giải pháp cơ bản nhằm tạo ra
sự biến đổi tích cực cơ cấu ở xã hội Việt Nam trong giai đoạn từ 2011 – 2020,
bao gồm từ việc chủ động tổ chức, quản lý quá trình vận động, biến đổi,
hướng tới hình thành một cơ cấu xã hội tối ưu, trên cơ sở chủ động quản lý
quá trình biến đổi các thành tố, các mối quan hệ của cơ cấu xã hội một cách
hợp lý, đến việc hạn chế thấp nhất những khả năng ảnh hưởng tiêu cực, phát
huy cao độ vai trò tích cực của các thành tố, các mối quan hệ của cơ cấu xã

hội đó trong đời sống xã hội.
Với những kết quả nghiên cứu đã đạt được Đề tài đã được Hội đồng
nghiệm thu cấp Nhà nước đánh giá xuất sắc. Trong phần kết luận, Chủ tịch
Hội đồng, GS, TS. Vũ Minh Giang nêu rõ: “Trên cơ sở chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo
đổi mới toàn diện đất nước, Đề tài nghiên cứu xu hướng biến đổi của xã hội
Việt Nam trong thời kỳ đổi mới do GS, TS. Tạ Ngọc Tấn làm chủ nhiệm, dựa


25
trên cách tiếp cận mới về cơ cấu xã hội đã thành công trong việc đánh giá
thực trạng, phân tích những tác động, đưa ra dự báo và đề xuất những giải
pháp nhằm thúc đẩy sự biến đổi cơ cấu xã hội Việt Nam theo xu hướng tích
cực, làm cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối và chiến lược phát
triển đất nước nhanh, bền vững trong những năm tới”./.

VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG TRONG XÃ HỘI
Công cuộc đổi mới gần 2 thập kỷ qua đã làm thay đổi căn bản diện mạo
đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
- sản phẩm của đổi mới đã phát huy hiệu quả của nó ở tốc độ tăng trưởng kinh
tế cao và ổn định cùng với việc nâng cao mức sống của hầu hết các tầng lớp
dân cư. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh ra không ít những hệ
quả xã hội mà chúng ta đang phải tập trung giải quyết. Một trong các hệ quả
như vậy là sự phân tầng xã hội (PTXH). Nghiên cứu về vấn đề này cho thấy
bức tranh tổng thể về sự PTXH cũng như các yếu tố có liên quan. Qua đó, góp
phần định hướng các mục tiêu và chiến lược giảm bất bình đẳng xã hội.
Về khái niệm PTXH, PTXH theo mức sống
PTXH là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Nó được
định nghĩa là: “sự xếp hạng (ranking) một cách ổn định các vị trí trong xã hội
xét từ góc độ quyền lực, uy tín hoặc các đặc quyền, đặc lợi không ngang
nhau”. Trong sự PTXH, có các “tầng” (stratum), mỗi tầng là một tập hợp

người (cá nhân) giống nhau về địa vị, bao gồm địa vị kinh tế (tài sản, thu
nhập), địa vị chính trị (quyền lực) hay địa vị xã hội (như uy tín), từ đó mà họ
có được những cơ hội thăng tiến, sự phong thưởng và những thứ bậc nhất
định trong xã hội. Sự PTXH thường được mô tả dưới dạng các “tháp phân
tầng” với những hình dáng khác nhau tuỳ thuộc vào đặc trưng của các loại xã


×