Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và một số biện pháp kĩ thuật để nâng cao năng suất, chất lượng của một số giống Hoa Lily nhập nội tại Vĩnh Phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (525.81 KB, 106 trang )

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1

Tính cấp thiết của đề tài
Hoa là một sản phẩm đặc biệt của cây trồng, nói đến hoa là nói đến vẻ

đẹp của thiên nhiên được cây cỏ chắt lọc ban tặng cho con người. Hoa trong
cuộc sống của con người chiếm một vị trí thẩm mỹ quan trọng. Hoa là tượng
trưng của cái đẹp, là nguồn cảm hứng ngọt ngào của cuộc sống.
Trong thú chơi hoa cây cảnh cũng có rất nhiều loài, nhiều cây được
người chơi ưa chuộng, trong số đó không thể không kể đến hoa Lily, một loài
hoa vừa hương vừa sắc. Lily là loài hoa cao cấp có vẻ đẹp sang trọng, độ bền
cao, hương thơm ngọt ngào, phong phú về màu sắc; không chỉ để trang trí mà
còn được sử dụng điều chế nước hoa, mỹ phẩm, kem chống lão hóa…
Trên thế giới cũng như Việt nam nhu cầu tiêu dùng hoa lily ngày càng
cao, nên đang thu hút rất nhiều nhà đầu tư cả trong và ngoài nước, chính vì
thế việc trồng và kinh doanh hoa lily rất có triển vọng phát triển. Tuy nhiên,
việc sản xuất củ giống lily cũng như lựa chọn giống phù hợp để phục vụ sản
xuất vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu. Các giống lily đang trồng ở Việt Nam
chủ yếu được nhập từ Hà Lan, Đài Loan hoặc Trung Quốc. Giá thành củ
giống lily nhập nội rất cao trong khi đó các nghiên cứu về điều kiện ngoại
cảnh tác động đến sinh trưởng phát triển và chất lượng hoa của lily còn hạn
chế, dẫn đến thực trạng là một số giống đưa vào trồng cho chất lượng hoa
kém, thu nhập của người trồng hoa thấp, có khi dẫn đến sự thất bại.
Bên cạnh đó, sản xuất hoa lily khác với sản xuất các loại hoa khác, vì
đầu tư lớn và có tính thời vụ cao nên cần phải dựa vào nhu cầu của thị trường
để xác định thời vụ trồng, sau đó xác định quy mô và phương thức sản xuất.

1



Ngoài yếu tố chính là chất lượng hoa thì giá thành sản xuất được đặc biệt
quan tâm. Chỉ có hạ giá thành sản phẩm mới tăng được sức cạnh tranh, nâng
cao hiệu quả kinh tế, nhanh thu hồi vốn và tái đầu tư mở rộng. Muốn hạ giá
thành sản xuất lily cần phải lựa chọn giống tốt, sử dụng phân bón và các chất
điều tiết sinh trưởng hợp lý, tính toán thời vụ trồng cho lily nở đúng vào các
dịp lễ tết và tác động các biện pháp kỹ thuật để nâng cao tỷ lệ hoa, chất lượng
hoa và giảm hao hụt.
Để giải quyết những vấn đề trên, đồng thời có cơ sở khoa học chắc
chắn phát triển loại hoa này, chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài:
"Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng và một số biện pháp kĩ thuật để
nâng cao năng suất, chất lượng của một số giống Hoa Lily nhập nội tại
Vĩnh Phúc."
1.2

Mục đích, yêu cầu

1.2.1 Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu lựa chọn được giống hoa lily phù hợp với điều
kiện khí hậu thời tiết và thổ nhưỡng tỉnh Vĩnh Phúc và một số biện pháp kỹ
thuật ảnh hưởng đến sinh trưởng phát triển và chất lượng của giống hoa lily,
từ đó đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm tăng hiệu quả kinh tế của việc sản
xuất hoa lily tại Vĩnh Phúc và miền Bắc Việt Nam.
Hình thành vùng chuyên canh hoa chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu
trong nước và xuất khẩu, góp phần chuyển đổi cơ cấu cây trồng, xóa đói giảm
nghèo tiến tới làm giầu trên cơ sở sản xuất ổn định, bền vững ở Vĩnh Phúc nói
riêng và các tỉnh miền Bắc nói chung.
1.2.2 Yêu cầu
+ Nghiên cứu sự sinh trưởng phát triển, năng suất chất lượng và khả


2


năng chống chịu của một số giống hoa lily nhập nội tại Vĩnh Phúc.
+ Nghiên cứu xác định liều lượng và phương pháp bón phân hóa học,
phân bón lá đến năng suất chất lượng hoa.
+ Nghiên cứu xác định liều lượng và phương pháp sử dụng chất điều
tiết sinh trưởng (GA3) đến năng suất, chất lượng hoa.
1.3

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học
+ Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở để xây dựng quy trình kỹ

thuật sản xuất hoa lily ở tỉnh Vĩnh Phúc và một số địa phương khác có điều
kiện sinh thái khí hậu tương tự .
+ Kết quả nghiên cứu là tài liệu tham khảo trong nghiên cứu hoa nói
chung và hoa lily nói riêng trong công tác nghiên cứu nhập nội giống và xây
dựng một hệ thống kỹ thuật canh tác trồng hoa lily nhằm nâng cao năng suất
và chất lượng hoa thương mại tiêu dùng trong nước và xuất khẩu .
- Ý nghĩa thực tiễn
+ Kết quả đề tài góp phần giải quyết yêu cầu thực tế sản xuất của các
hộ nông dân, các doanh nghiệp trồng hoa đó là có giống hoa chất lượng cao
phù hợp với điều kiện sinh thái, phù hợp thị hiếu của người tiêu dùng. Các
biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao giá trị hàng hoá của hoa.
+ Những kết quả này sẽ giúp các nhà nghiên cứu và cán bộ kỹ thuật đề
ra biện pháp canh tác phù hợp cho từng loại giống hoa góp phần vào sự phát
triển sản xuất hoa lily nói riêng và ngành sản xuất hoa ở Việt Nam nói chung.
+ Những kết quả thu được từ đề tài sẽ từng bước đáp ứng được tiêu
chuẩn hoa chất lượng cao của thị trường trong nước và xuất khẩu tăng thu

nhập cao cho người sản xuất hoa.
+ Góp phần phát triển nghề trồng hoa Lily thương mại ở miền Bắc Việt Nam.

3


2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1

Tình hình sản xuất hoa ở Việt Nam
Nghề sản xuất hoa, cây cảnh ở Việt Nam có từ lâu đời, nhưng chỉ được

coi là một ngành kinh tế và có giá trị hàng hoá từ những năm 1980. Cũng
giống như trên thế giới, ngành kinh tế này có tốc độ phát triển khá nhanh.
Bảng 2.1: Tốc độ phát triển của ngành sản xuất hoa,
cây cảnh
giai đoạn 2000-2008
Chỉ tiêu
Tổng diện tích (ha)
Giá trị sản lượng (Tr.đ)

Năm

Năm

Năm

Năm


Năm

2000

2002

2004

2006

2008

7.820

9.654
1.061.94

13.240
1.522.60

14.120
1.694.40

423.800 563.040

0

0

0


6.520

Giá trị thu nhập TB
(Tr.đ/ha/năm)
Mức tăng diện tích so

65

72

110

115

120

với 2000 (lần)

1

1.20

1.48

2.03

2.16

(Số liệu thống kê và điều tra tổng hợp của Viện Nghiên cứu Rau quả năm 2009)


So với năm 2000, diện tích hoa, cây cảnh năm 2008 đã tăng 2.16 lần,
giá trị sản lượng tăng 4 lần (đạt 1.694 tỷ đồng, trong đó xuất khẩu xấp xỉ 10
triệu USD) Mức tăng giá trị thu nhập/ha là 153% (đã có nhiều mô hình đạt
600 triệu đến 2,5 tỷ đồng/ha/năm). Tốc độ tăng trưởng này là rất cao so với
các ngành nông nghiệp khác.
Theo số liệu điều tra, hiện cả nước có khoảng 14.500ha hoa, cây cảnh,
trong đó các tỉnh miền Bắc có 7.300 ha, miền Nam có  7.200 ha, thu nhập

4


bình quân trồng hoa trên cả nước là 120 triệu đồng/ha/năm. Những nơi có
diện tích hoa tập trung và trồng với quy mô lớn: Tây Tựu, Mê Linh (Hà Nội),
Đà Lạt (Lâm Đồng), thu nhập trồng hoa từ 220-280 triệu đồng/năm (số này
chiếm 20% tổng diện tích trồng hoa). Đặc biệt có một số mô hình (quy mô 210 ha) thu nhập đạt tới 500 – 700 triệu đồng/ha/năm. Còn ở những nơi trồng
theo kiểu quảng canh, thu nhập chỉ đạt 50- 70 triệu đồng/ha/năm. Như vậy,
phải nói rằng thu nhập từ trồng hoa luôn cao hơn so với trồng lúa từ 9 - 10 lần
và hầu hết ở địa phương nào có diện tích trồng hoa nhiều, ở đó đời sống của
nhân dân được cải thiện rõ rệt, nhiều hộ trở nên giàu có (thu nhập 90-150
triệu đồng/hộ/năm).
Nhu cầu thị trường hoa, cây cảnh của Việt Nam trong giai đoạn 1995 –
2005 trung bình tăng 11%/năm. Mức độ tiêu dùng hoa trung bình của người
dân đô thị năm 1995 là 25.000đ/người/năm, đến năm 2005 tăng lên
52.000đ/người/năm. Ở nông thôn, mức độ tiêu dùng tương ứng chỉ bằng 20%
so với đô thị.
Sự tăng trưởng của ngành sản xuất hoa, cây cảnh luôn ổn định và theo
cấp số cộng trong suốt 12 năm qua.
Theo tính toán của các chuyên gia, có được kết quả trên là do sự đóng
góp của nhân tố xã hội (do thu nhập ngày càng cao, đời sống người dân ngày

càng cải thiện), chiếm 35%; sự đầu tư của Nhà nước về cơ sở hạ tầng và cơ
chế chính sách chiếm 15%; sự nỗ lực của người dân 20% và do kết quả đóng góp
của khoa học 30%.
Phải nói rằng, Việt Nam rất có tiềm năng cho việc sản xuất xuất khẩu
hoa, nhưng kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng bởi bộ giống hoa
có chất lượng cao chưa nhiều, kỹ thuật sản xuất hoa chưa cao và công tác
chuyển giao TBKT về hoa chưa được quan tâm đúng mức.

5


2.1.1 Cơ cấu chủng loại hoa, cây cảnh ở Việt Nam
Trước năm 1995, Việt Nam chủ yếu sử dụng những loại hoa, cây cảnh
truyền thống, thông dụng như quất, đào, mai, hồng, cúc, layơn, huệ, thược
dược. Những năm gần đây, một số chủng loại hoa cây cảnh mới, cao cấp đã
dần dần được chú trọng và đang có xu hướng tăng dần về số lượng và giá trị.
Bảng 2.2: Cơ cấu số lượng, chủng loại hoa ở Việt Nam
qua các năm
Đơn vị tính: %
Chủng loại
I. Cây cảnh
1. Đào
2. Quất
3. Mai
4. Cây cảnh khác
II. Cây hoa
1. Hồng
2. Cúc
3. Layơn
4. Thược dược

5. Huệ
6. Đồng tiền
7. Lily
8. Cẩm chướng
9. Lan
10. Hoa khác

Năm 1995
100
25
32
24
19
100
25
24
15
6
11
5
2
3
2
7

Năm 2000
100
24
32
23

21
100
24
23
14
4
11
7
3
3
3
8

6

Năm 2008
100
22
30
22
26
100
21
20
14
2
9
9
6
3

5
11


Kết quả điều tra cho thấy: các loại hoa và cây cảnh truyền thống có xu
hướng ổn định về diện tích (tức là giảm dần về cơ cấu) để thay vào đó là các
chủng loại hoa, cây cảnh mới, có giá trị cao hơn (trà, hải đường, đỗ quyên,
lily, lan, tình nhân thảo, salem, bay bi...)
Có sự thay đổi trên là do nhu cầu của người tiêu dùng luôn luôn hướng
đến những chủng loại cây cảnh, cây hoa mới lạ, có chất lượng cao (màu sắc
đẹp, độ bền lâu, có hương thơm…); do sự hội nhập với bên ngoài: càng ngày
càng có nhiều chủng loại hoa, cây cảnh mới được du nhập vào Việt Nam bằng
nhiều con đường khác nhau; và do có đóng góp rất lớn của các cơ quan khoa
học trong việc lai tạo, thu thập, tuyển chọn các giống hoa mới. Các nhà đầu tư
trồng hoa cần nắm bắt những thông tin và tính toán để cân đối giữa cung và
cầu trong quá trình sản xuất.
2.1.2 Những vùng sản xuất hoa cây cảnh chính ở Việt Nam
Trước những năm 1990, các vùng trồng hoa cây cảnh chủ yếu tập trung
ở Tây Tựu - Từ Liêm (hoa hồng, hoa cúc), Mê Linh – Hà Nội (hoa hồng), Nhật
Tân (hoa đào), Đằng Hải - Hải Phòng (layơn), Sapa (hoa hồng), Hoành Bồ Quảng Ninh (layơn, cúc), Văn Giang – Hưng Yên (quất cảnh), Đà Lạt (các loại
hoa ôn đới), Sa đéc (hoa chậu), Ngoại thành TP Hồ Chí Minh (cúc, hoa chậu),
Tuy Hoà - Phú Yên (layơn, cúc chậu)... Những năm gần đây, sản xuất hoa cây
cảnh đã được mở rộng ra hầu khắp các tỉnh thành trong cả nước, một số vùng
tuy mới đưa vào trồng nhưng rất có tiềm năng phát triển như: Bắc Ninh, Mộc
Chau, Mường La (Sơn La), An Dương (Hải Phòng), Nam Định, Thái Bình,
Yên Bái, Hà Nam, Hà Tây, Đức Trọng (Đà Lạt), Cần Thơ, Vĩnh Long... Hầu
hết ở những vùng mới này có quy mô không lớn (từ 10-30ha), được đầu tư các
loại hoa mới và quy trình kỹ thuật tiên tiến nên năng suất và thu nhập/đơn vị
diện tích cao hơn những vùng truyền thống từ 2 – 3 lần


7


2.1.3 Điều kiện sinh thái một số vùng trồng hoa cây cảnh
chính ở Việt Nam
Theo Trần An Phong [13], thì tiềm năng của các vùng sinh thái ở Việt Nam
như sau:
2.1.3.1. Vùng đồng bằng sông Hồng
Vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng là một vùng có nền văn minh
nông nghiệp xa xưa nhất trong vùng Đông Nam á, bao gồm các tỉnh: Hà Nội,
Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình là vùng có diện tích
trồng hoa lớn. Độ cao so với mặt biển 1- 10 m, đôi khi có xuất hiện các đồi
núi cao ở giữa đồng bằng, cao nhất là Tam đảo 900 m. Tổng diện tích tự nhiên
1,25 triệu ha, trong đó có khoảng 820000 ha đất nông nghiệp và hơn 70000 ha
đất bỏ hoang. Tổng số giờ nắng là 1600 - 1800 giờ/năm. Lượng mưa trung
bình 1660- 2200 mm/năm. Nhiệt độ trung bình 22- 25 0C, trung bình có từ 6085 ngày có nhiệt độ xuống dưới 150C.
Đất bao gồm rất nhiều loại đất khác nhau: đất phù sa châu thổ sông
Hồng, sông Thái Bình, sông Thương, sông Đuống… Đất feralite đỏ vàng, các
loại đất phiến thạch sét, đất phù sa cổ, đất bạc màu… Tổng diện tích đất trồng
hoa vùng đồng bằng sông Hồng khoảng gần 2000 ha, chủ yếu được trồng
trên các đất phù sa cổ, thành phần dinh dưỡng tốt, pH đất từ 6,5- 7. Nông đân
có kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp và nghề trồng hoa, gần cảng sân bay,
gần các cửa khẩu, có mạng lưới giao thông thuận tiện để vận chuyển và tiêu
thụ hoa. Thị trường nội địa tiêu thụ tốt, Hà Nội là trung tâm kinh tế chính trị
của cả nước với hơn 3 triệu dân, 8 triệu lượt khách du lịch quốc tế 1 năm,
lượng tiêu thụ hoa cắt khoảng 300000- 400000 cành/ ngày.
2.1.3.2. Thành phố Hồ Chí Minh
Là vùng trung tâm của các tỉnh Nam bộ và Nam Trung bộ, tiếp giáp với

8



các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Tây Ninh, miền Đông Nam bộ, cảng
Vũng Tàu và cảng Sài Gòn. Đây là vùng có tiềm năng phát triển các giống
hoa nhiệt đới. Độ cao 5- 11m so với mực nước biển. Tổng diện tích tự nhiên
của vùng đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Nam bộ là 2,34 triệu ha,
trong đó có khoảng 707000ha đất nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình năm là
25- 260C, nhiệt độ tối cao là 37,8 0C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối là 12 0C. Tổng
số giờ nắng 2000giờ/ năm. Lượng mưa trung bình hàng năm 1400- 1600 mm.
Có hai loại đất chính: đất đỏ xám và đất đỏ bazan. Độ dầy tầng canh tác
tốt và giàu chất dinh dưỡng, thích hợp trồng các cây công nghiệp, cây ăn quả
và các loại hoa nhiệt đới như phong lan, hồng môn và các loại khác.
2.1.3.3. Cao nguyên Đà Lạt
Là một trung tâm du lịch nghỉ ngơi tốt nhất của Việt Nam, thuộc cao
nguyên miền Trung, có truyền thống lâu đời và có kinh nghiệm trong viiệc
trồng và phát triển trồng hoa ôn đới cũng như nghệ thuật kiến trúc phong
cảnh. Đà Lạt nằm ở 57057|' vĩ độ Bắc bán cầu, 108026|' kinh độ Đông. Độ cao
so với mặt biển 1500 m. Nhiệt độ trung bình năm 18- 22 0C và ít có thay đổi
theo gió mùa. Lượng mưa trung bình năm 1700 mm.
Đất đai ở Đà Lạt là loại đất đỏ bazan có thành phần dinh dưỡng tốt,
thích hợp cho việc trồng các loại hoa, cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày,
nhất là cao su và cà phê. Khí hậu ở Đà Lạt cũng thích hợp cho việc trồng các
loại hoa phong lan và địa lan. Thành phần và chủng loại hoa cây cảnh cũng rất
phong phú, tuy nhiên kỹ thuật và kinh nghiệm trong lĩnh vực này còn ít so với
các nước trên thế giới và khu vực.
Tổng diện tích trồng hoa của Đà Lạt khoảng 400 ha gồm các loại: cúc,
hồng, lily, cẩm chướng thơm, đồng tiền, địa lan…phần lớn các chủ trang trại
có thu nhập khá đều đầu tư kỹ thuật trồng hoa trong nhà có mái che. Hiện nay

9



hoa của Đà Lạt được tiêu thụ chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và
nhiều tỉnh khác. Hoa của Đà Lạt có chất lượng tốt so với cả nước. Một số liên
doanh với nước ngoài đã có hoa xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản, Đài
Loan, Malaysia, Philippin, Campuchia. Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu từ
liên doanh Đà Lạt với Hasfarm.
2.1.3.4. Cao nguyên vùng núi phía Bắc
Khu vực này gồm 2 vùng cao nguyên rất thích hợp để trồng hoa các
loại cung cấp cho thị trường Hà Nội, các tỉnh lân cận và một phần nhỏ xuất
khẩu sang Trung Quốc theo đường tiểu ngạch.
Cao nguyên Sapa (tỉnh Lào Cai)
Nằm ở 103049|' kinh độ Đông, 22021|' vĩ độ Bắc, đỉnh cao nhất so với
mặt nước biển 1640 m (Phanxipăng).Tổng lượng mưa trung bình hàng năm
2780 mm. Nhiệt độ trung bình năm 15,7 0C, nhiệt độ thấp nhất 8,8- 90C. Trong
tháng 1 và 2 hàng năm có một số ngày nhiệt độ xuống thấp - 5 0C. Đất feralit
vàng đỏ, gồm các đất dốc tụ, đất rừng mới khai phá, đất phù xa ven sông, ven
suối. ở đây có thể trồng các loại hoa ôn đới như hồng, layơn, cẩm chướng và
địa lan…có chất lượng cao để xuất khẩu nhưng phải đầu tư khoa học công
nghệ (KHCN) mới như trồng cây trong nhà có mái che và một hệ thống cung
cấp dinh dưỡng hoàn toàn tiến bộ. Đây là vùng mới bắt đầu hình thành và có
tiềm năng phát triển hoa lớn ở nước ta.
Cao nguyên Mộc Châu (tỉnh Sơn La)
Nằm ở 105020| kinh độ Đông, 20049| vĩ độ Bắc, độ cao 900 - 1000 m,
lượng mưa trung bình 1600mm, nhiệt độ trung bình năm 19 - 21 0C, nhiệt độ
tối cao 240C trong tháng sáu, nhiệt độ trung bình tối thấp 12,5 0C và xuống tới
O0C trong tháng 1, tháng 1 là tháng lạnh nhất trong năm ở Mộc Châu. Loại
đất chính ở đây là đất feralit, có tầng canh tác dầy, có thể trồng được các loại

10



hoa nhiệt đới, ôn đới và á nhiệt đới. Đương nhiên cũng cần phải xây dựng
được hệ thống nhà trồng cây có mái che với hệ thống kiểm soát tự động các
điều kiện sinh thái cơ bản, nhiệt độ, ẩm độ , ánh sáng và hệ thống không khí.
Các loại hoa chất lượng cao có thể phát triển ở Mộc Châu là hoa hồng, hoa
cúc, layơn, cẩm chướng thơm, hồng môn (Anthurium), hoa loa kèn, nhất là
các loại hoa phong lan và địa lan, thời tiết và khí hậu cho phép sản xuất các
loại ôn đới có chất lượng cao quanh năm.
2.2

Giới thiệu chung về cây hoa lily

2.2.1 Nguồn gốc, vị trí và phân loại thực vật
Trong hệ thống phân loại thực vật cây Lily có tên khoa học là Oriental
Hybrid lily, Beattie and White [28]. Theo Võ Văn Chi 3, lily thuộc nhóm
một lá mầm (Monocotylendones), phân lớp hành (Lilidea), bộ hành (Liliales),
họ hành (Liliaceae), chi Lilium.
Theo Đặng Văn Đông 5, lily (Limo Spp) là tên gọi chung tất cả các
cây thuộc loài Lilium, họ Liliaceae, bộ phụ của thực vật một lá mầm. Đặc
trưng của loài này là thân ngầm dưới đất có rất nhiều vảy bao bọc lại người ta
gọi đó là loại hoa bách hợp. Hoa lily thuộc chi lilium có tới hơn 100 loài, ở
Châu Á có khoảng 50- 60 loài (Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt
Nam…), Bắc Mỹ có tới 24 loài (Mỹ, Canada, Argentia), Châu Âu có 12 loài
(Hà Lan, Ý, Pháp). Theo kết quả điều tra, ở Trung Quốc có khoảng 460 giống,
280 biến chủng (chiếm 1/2 tổng số giống hoa lily trên thế giới), trong đó có
136 giống, 52 giống biến chủng do Trung Quốc tạo ra. Nhật Bản có 145 giống
trong đó có 19 giống là đặc trưng của Nhật. Hàn Quốc có 110 giống trong đó
có 30 giống mang đặc trưng của nước này. Hà Lan có khoảng 320 giống,
trong đó 80% là các giống do chính Hà Lan tạo ra.

2.1.2 Một số giống lily đang trồng phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam

11


Trên thế giới có 4 nhóm lily trồng lấy hoa cắt cành là nhóm lai Á châu
(Asiatic hybrids), lai Phương Đông (Oriengal hybrids), lailily thơm
(Longiflorum hybrids) và các loại hoa khác (Misce lancous).
Nhóm lai Á Châu gồm các giống hoa màu trắng như Alaska, Lavonna,
Lucyda, Nivera…Các giống có hoa màu vàng là London, Madras, Pollanna,
Rebeca, Romano… Các giống có hoa màu đỏ như Watesllo, Latoya, Nassa…
Các giống có hoa màu phấn hồng là Avanti, Azurra, loại hoa nhiều màu như
Italia, SansPareil…
Nhóm lai Phương Đông gồm các giống hoa màu trắng như AlhaBra,
Amanda, JandeGeff… Các giống có hoa màu đỏ như Acapullo, Kinproop,
Atlantic oceau, Beliedice, Loure… loại hoa nhiều màu như Areua, Aubade,
Cordola, StarGazer…
Nhóm lai lily thơm gồm có các giống Avila, Showgecu, White Eurgie,
Miami, Starghter, Berlin…
Các loại hình khác như Eveningstar (màu vàng đỏ có đốm đỏ tím) và
RoyalDream (màu trắng) là con lai giữa lily thơm và lily Á Châu.
Việt Nam có các giống lily đang được ưa chuộng là Siberia hoa màu
trắng, Sorbonne hoa màu hồng nhạt, Acapulco hoa màu hồng sẫm, Tiber hoa
màu nâu hồng…
2.1.3 Đặc điểm thực vật học của cây hoa lily
Lily là cây thân thảo lâu năm, thân thường mọc đơn, phần dưới mặt đất
gồm thân vẩy, rễ. phần trên mặt đất gồm lá, thân, mầm hạt (một số không có
mầm hạt).
2.1.3.1. Thân vẩy: là phần phình to của thân tạo thành, trên đĩa thân vẩy có
vài chục vẩy hợp lại, vẩy có hình cầu dẹt, hình trứng, hình elip… Thân vẩy

không có vỏ bao bọc, màu sắc thân vẩy thay đổi theo loài và các giống khác
nhau: màu trắng, màu vàng, màu đỏ cam, màu đỏ tím, màu hồng…Kích thước
của thân vẩy cũng tuỳ thuộc vào các loài, giống khác nhau. Loại nhỏ chu vi 6

12


cm, loại to chu vi 24- 25 cm, loại đặc biệt chu vi 34- 35 cm.
Độ lớn của thân vẩy tương quan chặt chẽ với số nụ hoa. Ví dụ: giống
lily thơm chu vi thân vẩy 9- 11 cm có 1- 2 nụ, chu vi thân vẩy là 12- 14 cm có
2- 4 nụ, chu vi thân vẩy là 14- 16 cm có trên 4 nụ.
Vẩy có hình elip, hình kim xoè ra, có đốt hoặc không có đốt. Mầm vẩy
to ở ngoài, nhỏ ở trong, là nơi dự trữ nước và dinh dưỡng của thân vẩy, trong
đó nước chiếm 70%, chất bột 23%, một lượng nhỏ prôtein, chất khoáng, chất
béo. Số lượng vẩy cũng tỉ lệ thuận với số lá và số hoa, số vẩy càng nhiều thì
số lá và số hoa càng nhiều. Nếu bóc bỏ lớp vẩy ngoài thì tốc độ nẩy mầm của
củ nhanh hơn, nhưng tốc độ hình thành của các cơ quan sinh sản giảm, hoa ra
muộn hơn.
2.1.3.2. Rễ: gồm hai phần là rễ thân và rễ gốc. Rễ thân (rễ trên) do phần thân
dưới đất sinh ra, có nhiệm vụ nâng đỡ thân, hút nước và dinh dưỡng, tuổi thọ
của rễ này là 1 năm. Rễ gốc (rễ dưới) sinh ra từ gốc thân vẩy, có nhiều nhánh,
sinh trưởng khoẻ, là cơ quan chủ yếu hút nước và dinh dưỡng của lily, tuổi
thọ cuả rễ này có thể tới 2 năm.
2.1.3.3. Lá: lá lily mọc rải rác thành vòng thưa hình kim, xoè hoặc hình thuôn
xung quanh thân. Lá luôn luôn có hình mũi mác hay hình vạch, ít khi rộng
đầu lá hơi nhọn, không có cuống hoặc cuống ngắn. Lá to hay nhỏ tuỳ thuộc
vào giống, điều kiện trồng trọt và thời gian xử lí. Trên lá có từ 1- 7 gân, gân
giữa rõ ràng hơn, lá mềm có màu xanh bóng.
2.1.3.4. Củ con và mầm hạt: đại bộ phận lily có nhiều củ con ở gần thân rễ,
chu vi mỗi củ từ 0.5- 3 cm, số lượng củ con tuỳ thuộc vào giống và điều kiện

trồng trọt.
2.1.3.5. Hoa: hoa lily có thể mọc riêng lẻ hay từng cụm gồm nhiều hoa, hoa
chúc xuống, vươn ngang hoặc hướng lên, bao hoa hình lá có 6 mảnh dạng
cánh, nhị đủ 6 cái, bầu hình trụ, đầu nhuỵ hình đầu, chia 3 thuỳ, tử phòng ở

13


phía trên, quả nang có 3 góc và 3 nang.
Màu sắc hoa lily rất phong phú: trắng, phấn hồng, đỏ, vàng cam, vàng, đỏ
tím, tạp sắc… rất nhiều giống hoa ở gốc cánh có chấm màu tím, hồng, đen, đỏ
thắm, đen nâu, đỏ tím… Phấn hoa có màu vàng hoặc đỏ cam, đỏ nâu, nâu tím…
2.1.3.6. Quả: quả hình trứng dài, mỗi quả có vài trăm hạt, bên trong có 3
ngăn. Hạt hình dẹt, xung quanh có cánh mỏng, hình bán cầu hoạc 3 góc,
vuông dài. Độ lớn của hạt, trọng lượng hạt, số lượng hạt tuỳ theo giống. Ví
dụ: giống L. henrgi đường kính hạt 12 mm, mỗi gam có 170- 180 hạt; giống
L. coniolor hạt nhỏ, đường kính xấp xỉ 5 mm mỗi gam có 700- 800 hạt. Trong
điều kiện khô lạnh hạt lily có thể bảo quản được 3 năm.
2.1.4 Yêu cầu sinh thái của cây hoa lily
2.1.4.1 Nhiệt độ
Lily là cây chịu rét khá, chịu nóng kém, ưa khí hậu mát ẩm, nhiệt độ
thích hợp ban ngày là 20- 250C, ban đêm là 120C.
Các giống thuộc nhóm tạp giao Phương Đông thời kỳ đầu thích hợp
với nhiệt độ ban ngày 200C ban đêm 150C, nhiệt độ đất 150C. Nhóm lily thơm
chịu nóng tốt, nhiệt độ thích hợp ban ngày 25- 28 0C, ban đêm 18- 200C. Dưới
120C cây sinh trưởng kém, hoa dễ bị mù, thời gian đầu nhiệt độ thấp có lợi
cho ra rễ và sự phân hoá hoa.
Nhiệt độ đất ảnh hưởng đến sinh trưởng của rễ, nếu nhiệt độ đất từ 17210C có lợi cho sinh trưởng của rễ, nhưng nếu nhiệt độ xuống thấp từ 12130C hoặc cao hơn 27- 280C thì rễ làm chậm lại sự phát triển của thân lá.
Nhiệt độ là nhân tố quan trọng điều tiết sự phân hoá mầm hoa và ra
hoa. Các dòng lily thơm giai đoạn từ mọc đến xuất hiện nụ nếu quang chu kì

là 16 giờ, nhiệt độ ngày 21,10C, đêm 12.80C thì lily có thể ra hoa sớm hơn và
kích thích nụ 2, nụ 3 ra nhiều hơn, do đó tăng số lượng nụ của cây. Nhiệt độ
đêm 7,20C thì kích thích hình thành nụ 2, nhiệt độ đêm 15,5 0C thì kích thích

14


hình thành nụ 3. Còn ở giai đoạn phân hoá đến khi ra nụ nếu quang chu kì là
12 giờ, nhiệt độ ngày 18,30C, đêm 15,60C có lợi cho hoa ra sớm hơn và tỉ lệ
rụng nụ thứ 3 thấp nhất.
2.1.4.2 Ánh sáng
Lily là cây ưa cường độ ánh sáng ở mức trung bình, nếu trồng ở vụ hè thu
cần phải che bớt ánh sáng, tạo ra cường độ ánh sáng thích hợp từ 12000- 15000
lux, nhất là vào thời kỳ cây cao 20- 30 cm. Ngược lại trồng trong nhà lưới vào
mùa đông ánh sáng yếu, nhị đực sẽ sản sinh ra ethylen dẫn đến nụ bị rụng.
Lily là cây ngày dài, chiếu sáng ngày dài hay ngày ngắn không những
ảnh hưởng đến phân hoá hoa mà còn ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát dục
của hoa. Boontpes (1973) phát hiện trong quá trình hoạt hoá mỗi ngày tăng
thêm 8 giờ chiếu sáng có thể hoa ra sớm 5 tuần. Xử lí ngày dài sẽ tăng tốc độ
sinh trưởng và số lượng hoa. Miller (1984) cho rằng ngày ngắn làm tăng chiều
cao cây, cuống hoa và đốt cũng dài thêm tuy nhiên số hoa trên cành giảm.
Đồng thời ông cũng nhận thấy rằng khi cường độ chiếu sáng tăng đến một
mức độ thích hợp thì tỉ lệ hoa bị bại dục cũng giảm đi rõ rệt.
2.1.4.3 Nước
Đất quá khô hoặc quá nhiều nước đều ảnh hưởng đến sinh trưởng phát
dục của lily. Thời kì đầu cây cần nhiều nước, thời kì ra hoa nhu cầu nước
giảm bớt vì nước nhiều củ dễ bị thối, rụng nụ. Độ ẩm thích hợp nhất là 8085%. Nếu độ ẩm biến động lớn sẽ dẫn đến thối củ.
2.1.4.4 Đất
Lily có thể trồng ở mọi loại đất, nhưng tốt nhất là đất có nhiều mùn, đất
thịt nhẹ. Lily là loại cây có rễ ăn nông vì vậy đất thoát nước rất quan trọng..

Lily rất mẫn cảm với muối, đất nhiều muối cây không hút được nước ảnh
hưởng đến sinh trưởng , phân hoá hoa và ra hoa. Hàm lượng muối trong đất

15


không quá15 mg/cm2, chất oxy hoá không cao quá 1,5 mmol/lít. Đất quá
chua cây hút ion sắt, nhôm, magiê, lân không đủ sẽ dẫn tới thiếu các sắc tố.
Các giống thuộc nhóm tạp giao Á Châu yêu cầu pH từ 6- 7, giống thuộc nhóm
Phương Đông yêu cầu pH 5,5- 6,5.
2.1.4.5 Dinh dưỡng
Lily yêu cầu mức độ phân bón ít nhất trong 3 tuần đầu sau trồng, 3 tuần
tiếp theo lily cần bổ sung nhiều phân bón ở cả đất giàu và nghèo dinh dưỡng,
tỉ lệ 1kg nitrat/100m2, Boontjes [29].
Theo Hoàng Ngọc Thuận [20], Các yếu tố N, P, K, vi lượng, có ý nghĩa
quan trọng đối với sinh trưởng phát triển, năng suất, phẩm chất của hoa lily.
Bón N, P, K, đầy đủ với tỷ lệ thích hợp có tác dụng tốt cho cây hoa sinh
trưởng phát triển cân đối để đạt năng suất hoa cao và phẩm chất hoa tốt.
Theo Nguyễn Như Hà [6], N (đạm) có tác dụng thúc đẩy quá trình sinh
trưởng của cây hoa. Thiếu N cây yếu ớt, lá vàng, sinh trưởng còi cọc, hoa bé,
xấu. Thừa N cây sinh trưởng mạnh, thân cây yếu, vống, mềm, dễ bị lốp đổ,
hoa phát triển kém và sâu bệnh phát triển phá hoại hoa nặng. Loại đạm dùng
bón thích hợp cho hoa là urê có công thức là CO(NH2)2 tỷ lệ đạm 46%.
P (lân): có tác dụng làm bộ dễ cây hoa phát triển. P có tác dụng trong
quá trình tạo thành và vận chuyển hợp chất hữu cơ trong cây hoa. Thiếu P cây
hoa sinh trưởng chậm, cây yếu, ra hoa muộn. Có đủ P cây hoa ra búp, ra hoa
sớm hơn. Loại lân sử dụng bón thích hợp cho hoa là super lân có 16,5% P 2O5
trong super lân còn có chứa một số nguyên tố khác: S, Mo, Bo, Zn, Fe.
K (kali): có tác dụng trong việc vận chuyển và tích luỹ chất hữu cơ
trong cây hoa. Kali còn có tác dụng làm tăng tính chống chịu của cây hoa,

biểu hiện của cây hoa thiếu K là lá bị xoăn, đốm nâu phát triển, cây phát triển
chậm. Loại kali sử dụng bón thích hợp cho hoa là kalisunphat (K 2SO4) có
chứa 45%- 48% K2O. Đây là loại phân quí có thể bón cho mọi loại cây, mọi

16


loại đất, đặc biệt tốt đối với những cây cần nhiều kali nhưng mẫn cảm với
Clo. Còn phân kaliclorua (KCl) có chứa 58%- 64% K 2O, dùng bón lót hay
bón thúc, có thể hoà tan rồi tưới nhưng không dùng đối với những cây mẫn
cảm với Clo.
Bo (Bo): có tác dụng đến sinh trưởng của cây hoa. Khi thiếu Bo, lá non
bị xoăn, những lá khác bị vàng hoặc bị nâu bên mép lá.
Ca (Canxi): tham gia vào quá trình trao đổi chất trong cây hoa. Ca có tác
dụng ảnh hưởng đến sự phát triển của bộ rễ. Thiếu Ca cây hoa bị vàng lá. Lá có
nhiều vết thối, thiếu Ca ảnh hưởng đến quá trình hút nước của cây, cây hoa còi
cọc, năng suất hoa bị giảm. Ca làm tăng sự nở hoa và tăng độ bền của hoa.
Cu (đồng): thiếu Cu lá hoa dài, vàng, mềm, cây sinh trưởng chậm.
Mg (magiê): thiếu Mg lá già bị đốm vàng lan rộng ra toàn bộ diện tích
với các đốm đen trên mép lá, thiếu Mg cây hoa thường nhỏ, giòn và dễ gẫy.
Mn (mangan): thiếu Mn lá cây nhỏ, đỉnh sinh trưởng bị vàng, cây yếu
sinh trưởng giảm, năng suất hoa bị giảm.
Co (coban): có tác dụng làm tăng tính giữ nước trong hoa, làm cho hoa
bền lâu hơn.
Lily mẫn cảm với Clo, yêu cầu Clo trong đất không vượt quá1,5
mmol/lít nếu không sẽ hại rễ. Lily cũng mẫn cảm cả với Flo, nếu hàm lượng
Flo trong không khí cao quá sẽ gây cháy lá. Do đó nên bón phân có hàm
lượng Flo thấp như CaHPO4…
Theo Cao Kỳ Sơn [16], sử dụng chế phẩm bón qua lá thuận tiện cho
nhiều loại cây trồng trên nhiều vùng khác nhau, giúp cho cây vượt qua những

điều kiện bất lợi do thiên tai gây ra. Phun phân qua lá của tất cả các loại thực
vật, giúp cho cây sinh trưởng tốt có nhiều khả năng hạn chế sự phát triển của
sâu bệnh, cho năng suất cao, trong chừng mực nhất định đảm bảo được chất
lượng nông sản. Phun phân qua lá nâng cao hệ số sử dụng phân bón đạt năng
suất kinh tế tối đa, một tiến bộ kỹ thuật đã được nhiều nước trên thế giới áp

17


dụng và gần đây được áp dụng vào Việt Nam bước đầu đã có hiệu quả.
2.1.4.6 Dinh dưỡng qua lá
Bên cạnh quá trình hút chất dinh dưỡng bằng rễ là chính và chủ yếu,
cây vẫn có thể lấy một phần chất dinh dưỡng bằng lá thông qua khí khổng và
tầng cutin.
Chất dinh dưỡng đi vào lá nhiều hay ít phụ thuộc vào tốc độ thâm nhập,
vào tốc độ khô của dung dịch trên mặt lá và vào khả năng tan lại của các loại
muối khoáng trên mặt lá.
Tốc độ thấm qua của dung dịch dinh dưỡng vào lá là do thành phần của
muối, nồng độ của dung dịch, độ PH của dung dịch và tuổi lá quyết định.
Phạm vi biến đổi là rất lớn. Cùng là một nguyên tố, nhưng tốc độ thấm qua lá
sẽ không giống nhau nếu chúng ta sử dụng ở các dạng khác nhau.
Gần đây, trong sản xuất người ta áp dụng phổ biến phương pháp dinh
dưỡng ngoài rễ chủ yếu là bằng cách phun lên lá. Phương pháp này có những
ưu điểm sau:
- Tiết kiệm được phân.
- Tiết kiệm được nhiên liệu.
- Tiết kiệm được thời gian và sức lao động.
Thường nên phun vào lúc cây còn non khi màng lớp cutin chưa thật
phát triển, hoặc vào lúc cây sắp đạt cường độ cực đại của quá trình trao đổi
(Hoàng Minh Tấn, Nguyễn Quang Thạch, Trần Văn Phẩm, 2000) [25].

Hiện nay, các chế phẩm phân bón lá trên thị trường rất phong phú,
trong đó chủ yếu các loại phân bón lá là do các cơ sở trong nước sản xuất, chỉ
có một số chế phẩm phân bón lá là nhập từ nước ngoài. Loại phân bón lá do
các cơ sở trong nước sản xuất được chia thành 2 nhóm chính:
+ Nhóm có thêm các chất kích thích sinh trưởng nhằm thúc đẩy sinh
trưởng, hoặc thúc đẩy ra hoa kết trái, giảm tỷ lệ rụng quả, thúc đẩy quá trình

18


chín hoặc làm mau ra rễ.
+ Nhóm không chứa các chất kích thích sinh trưởng mà chỉ chứa các
nguyên tố khoáng vi lượng, đa lượng được phối trộn theo một tỷ lệ hợp lý
giúp cây sinh trưởng ổn định một cách tự nhiên.
Tác giả Trịnh Văn An (1995) [1] cho rằng, nếu xét về khía cạnh bền vững
và lành mạnh môi trường thì sử dụng phân vi sinh, phân sinh hoá hữu cơ vào sản
xuất nông nghiệp có ý nghĩa lớn trong sự phát triển Nông nghiệp bền vững.
Vũ Cao Thái (1996) [27] đã nhận định, bón phân qua lá là một giải
pháp chiến lược an toàn dinh dưỡng cây trồng. Cũng theo tác giả, vì diện tích
lá của cây bằng 15 - 20 lần diện tích đất do tán che phủ, do đó nhận được dinh
dưỡng bằng phun qua lá nhiều hơn. Biện pháp bón phân qua lá là biện pháp
có tính chiến lược của ngành Nông nghiệp.
Thực tế cho thấy, việc sử dụng phân bón qua lá giúp cây sinh trưởng,
phát triển tốt, tăng khả năng chống chịu sâu bệnh và điều kiện thời tiết bất
thuận. Bón phân qua lá giúp cây mau chóng phục hồi đồng thời cho hiệu quả
kinh tế trên đơn vị diện tích cao hơn bón vào đất hoặc không bón.
Việc bón phân qua lá cần tiến hành thường xuyên, nhất là giai đoạn khi
cây bắt đầu ra nụ đến nở hoa. Việc bón phân qua lá giúp cây sinh trưởng ổn
định, chắc khỏe, ít sâu bệnh, và cho năng suất cao hơn. Vì vậy, trước khi sử
dụng phân bón lá cần chọn đúng loại ứng với từng cây trồng khác nhau. Sử

dụng đúng lúc, đúng cách (khi phun phân cần tránh, lúc trời nắng, trước hoặc
sau khi mưa), nên phun vào những ngày râm mát hoặc buổi chiều hết nắng
(Nguyễn Văn Uyển, 1995) [34].
Trong những năm gần đây, nhiều nước trên thế giới như Mỹ, Nhật,
Anh, Úc, Thái Lan… đã sản xuất và sử dụng nhiều chế phẩm phân bón qua lá
có tác dụng làm tăng năng suất và phẩm chất nông sản, tăng chất lượng hoa,
không làm ô nhiễm môi trường, … một số chế phẩm phân bón qua lá đã được

19


khảo nghiệm và cho phép sử dụng trong sản xuất ở Việt Nam:
Bảng 2.3. Một số chế phẩm bón qua lá được khảo
nghiệm ở Việt Nam
Nguồn gốc
Việt Nam

Chế phẩm bón qua lá
Phân bón lá Thiên nông, KPT Hoa trái Thiên nông, KPT lá hạt
GA-3 Thiên nông, Vinipik, CSF 002, KOMIX (201,301,Super
Zink, VF, VG, CF, FL, FT), Plower, SF900, Fofer 909, HVT 884N,
HQ801, 201, Aninomix, Saigon Golden Harvest, Tipomic 301,
Bioco (PSC 501), NVK, VCC, Saigon HQ, Sai gon VA, HVP-501,
301, 401, Bioted 601, 602, Phân bón lá sông Gianh 101, 201, 301,

Anh
Mỹ

Supermix, QS…
Multipholate, Micropholate, Phabela…

Root 2, Ion Root 2, Agriplex for X (0-4-4), 1-2-3 premix (0-1,4-2),
Spray - N - Grow 15-30-15, Miracle-Gro 15-30-15, 18-18-21,
Miracid 30-10-10, Green 15-15-15 (Miracle - Gro), Agrostim,

Ấn §é
Nhật
Thái Lan

Nutraphos, Solu-Spray…
Multiplex
Calplus, Orgamin, Sampi, Yogen 2,4…
Palangmai 15-30-15 (Maruay 15-30-15, Unifos 15-30-15),
Palangmai 20-20-20, Raja 15-30-15, Raja 20-20-20, Pantip (Sedhi,
Biosa), Raja 15-15-15, Raja white, Raja black, Cheer Blue + Red
(Mikaza, Past Food, Best, Cheer Red), Instar (Neusan, Neu from),
Mayfolan, Agriconik, Neugol (Neugrow, Palmgrow, Bio-top,
Wondergrow, Superhumic), Namdum (Kaimuk Dum, Maruay),

Đức
Đài Loan
Hồng Kông
Trung Quốc

Omaza, Bonus, Raja in see thong 15-30-15, 20-20-20.
Sridiamin 30Â (Diamin N9-B), Bayfolan…
Tân nông Diệp lục tố, Link, Chlorophyllin
Cromix (Phún Phong thu)
PenshiBao, Diệp lục tố, Diệp diện bảo, Đặc đa thu, Khoái phong
thu, Thiên uy…


(Cao Kỳ Sơn, Nguyễn Chí Bảo, Bùi Đình Dinh,1998)[23]

20


2.2.2 Tình hình sản xuất và nghiên cứu hoa lily ở Việt Nam
Theo Overakker and Sibma, diện tích trồng hoa ở các địa phương của
Việt Nam năm 2000 là Hà Nội 1000 ha, Hải Phòng 400 ha, Thành phố Hồ Chí
Minh 800 ha, Đà Lạt 200 ha, Nam Định 390 ha, Vĩnh Phúc 300 ha, Quảng
Ninh 70 ha, Hải Dương 60 ha, các tỉnh khác 280 ha [25]. Trong đó, lily mới
được trồng để kinh doanh ở một số tỉnh, thành phố có nghề trồng hoa phát
triển là Đà Lạt, TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Sapa... tuy nhiên so với các chủng
loại khác thì loại hoa này chiếm tỷ lệ còn khá nhỏ.
Đà Lạt là nơi hiện đang có diện tích trồng lily nhiều nhất so với các địa
phương khác trên cả nước (chiếm khoảng 8% trong tổng diện tích trồng hoa),
còn Hà Nội, SaPa, Hải Phòng, Sơn La, Yên Bái, Bắc Ninh, Quảng Ninh… chỉ
mới được trồng 2 - 3 năm gần đây với diện tích còn rất nhỏ và mang tính chất
thử nghiệm. Tình hình phát triển hoa lily ở Đà Lạt khá thuận lợi, một phần do
thiên nhiên ưu đãi cho sự phát triển của đa số các loài hoa nói chung và cho
hoa lily nói riêng, một phần do công tác đầu tư liên doanh liên kết với nước
ngoài. Tỉnh Lâm Đồng đã cho phép Công ty TNHH Agrivina - Dalat Hasfarm
đầu tư 100% vốn vào thành phố Đà Lạt từ năm 1994 để phát triển các giống
hoa có chất lượng cao bằng các công nghệ tiên tiến trong nông nghiệp. Trong
số 20 ha trồng hoa của công ty, hoa lily đã được trồng với diện tích khoảng 4
ha, mỗi năm sản xuất 2 vụ, thu được khoảng 3 triệu bông phục vụ cho nội tiêu
và xuất khẩu. Tuy nhiên, Công ty Hasrfam độc quyền và không chuyển giao
kỹ thuật trồng trọt về hoa lily cho bất cứ một cơ sở nào trong nước, họ muốn
chiếm lĩnh toàn bộ thị trường trong nước và xuất khẩu. Đứng thứ 2 là Công ty
TNHH Trang trại LANGBIANG, mỗi năm công ty này nhập từ 150 – 200 ngàn
củ giống lily từ Hà Lan về trồng để thu hoa cắt cành [4].


21


Bảng 2.4. Diện tích sản xuất hoa lily ở miền Bắc Việt Nam
qua một số năm
ĐVT: m2
Năm
Địa phương
Sơn La

2003

2004

2005

2006

3.000

5.000

15.000

30.000

Lào Cai

11.000


13.000

15.000

20.000

Yên Bái

-

3.000

15.000

15.000

Quảng Ninh

5.000

11.000

14.000

15.000

Hà Nội

4.000


6.000

7.000

8.000

Bắc Ninh

2.000

3.000

6.000

7.000

Hà Nam

-

-

2.000

3.000

Hưng Yên

-


-

Thái Nguyên

-

-

-

1.000

25.000

41.000

74.000

104.000

Tổng cộng

5.000

Nguồn: Đặng Văn Đông, 2007 [7]

Như vậy, từ năm 2003 miền Bắc Việt Nam đã tiến hành sản xuất hoa lily
cắt cành nhưng với quy mô còn nhỏ và đang trong giai đoạn trồng thử nghiệm và
thăm dò là chính, tổng diện tích trồng hoa lily năm 2003 mới chỉ đạt 2,5 ha và

tập trung nhiều nhất ở vùng núi phía Bắc. Bước sang 2004, nhu cầu tiêu thụ hoa
lily ở nước ta ngày một tăng, nên diện tích sản xuất hoa lily đã vượt hơn hẳn so
với năm trước, diện tích là 4,1 ha và mở rộng xuống vùng đồng bằng. Đặc biệt
trong các năm 2005 – 2006, diện tích sản xuất hoa lily đã tăng vượt bậc, từ 7,4
đến 10,4 ha và hầu như các tỉnh miền Bắc tỉnh nào cũng đều trồng hoa lily với
một diện tích nhất định. Bên cạnh đó, việc nhập giống từ các nước (Trung Quốc,
Đài Loan, Hà Lan...) cũng trở nên dễ dàng hơn nên thu hút nhiều doanh nghiệp
tư nhân và các địa phương quan tâm đầu tư.

22


Hiện nay, các giống hoa lily được ưa thích và trồng phổ biến ở Việt
Nam nói chung và miền Bắc nói riêng hầu hết được nhập trực tiếp từ Hà Lan,
Đài Loan hoặc nhập qua Trung Quốc. Trong đó ở miền Bắc Việt Nam, giống
hoa lily Sorbonne (là giống được chúng tôi chọn là đối tượng nghiên cứu
trong đề tài này) có diện tích trồng chiếm khoảng 85% diện tích trồng hoa lily
của toàn vùng. Các nghiên cứu về chọn tạo giống và kỹ thuật canh tác đối với
lily chỉ mới được thực hiện ở mức độ sơ khai, các kết quả nghiên cứu vẫn
đang trong giai đoạn thử nghiệm và áp dụng ở quy mô còn nhỏ.
Ở Việt Nam, việc nhân giống bằng phương pháp tạo củ invitro đã được
thực hiện thành công trên hoa loa kèn [8], [9], [10]. Bên cạnh đó các tác giả
Hà Thị Thuý, Đỗ Năng Vịnh... [16] cũng đã nghiên cứu đến khả năng tạo củ
của lily bằng cách tạo củ sơ cấp trong ống nghiệm, tạo củ trực tiếp từ nách lá
nhờ sử dụng chất điều hoà sinh trưởng, tuy nhiên những kết quả này còn đang
tiếp tục nghiên cứu, chưa được áp dụng nhiều vào thực tiễn sản xuất.
Năm 1998, Nguyễn Quang Thạch, Nguyễn Thị Phương Thảo [14] đã
tiến hành nhân giống hoa lily bằng phương pháp invitro và trồng cây con
được nhân giống bằng phương pháp invitro trên các giá thể khác nhau. Các
tác giả đã kết luận, loại giá thể khác nhau có ảnh hưởng quyết định đến tỷ lệ

sống khi đưa cây con ra từ ống nghiệm. Sử dụng giá thể là trấu hun kết hợp
với phun dinh dưỡng và EM ở các công thức: trấu hun + phun dinh dưỡng,
trấu hun + phun dinh dưỡng + EM, trấu hun + phun EM, tỏ ra thích hợp hơn
các giá thể còn lại. Chất lượng cây cũng đạt cao nhất ở các công thức này.
Dương Tấn Nhựt [30] đứng đầu nhóm các nhà khoa học của Phân viện
Công nghệ sinh học Đà Lạt thuộc Viện Khoa học và công nghệ Việt Nam
cùng với Trường Đại học Khoa học tự nhiên, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí
Minh vừa nhân giống thành công cây hoa lily bằng kỹ thuật nuôi cấy
bioreactor. Theo kỹ thuật này, tế bào mô của củ hoa lily sẽ được nuôi cấy

23


trong bình thủy tinh, được thiết kế chuyên biệt và đặt trên máy lắc. Sau ba
tháng nuôi cấy, tế bào mô sẽ ra rễ và tạo củ. Tiếp đó củ sẽ được nuôi cấy bằng
kỹ thuật bioreactor. Từ một củ con ban đầu, sau ba tháng nuôi cấy có thể tạo
ra 3-4 củ mới. Với bình nuôi cấy loại bioreactor có thể tích 20 lít, chỉ sau 1 - 2
tháng là có thể tạo ra 10.000 cây giống hoa lily. Kết quả thử nghiệm của các
nhà khoa học này cũng đã chỉ ra: cây con nuôi cấy bằng bioreactor có khả
năng sống sót và sinh trưởng trong môi trường tự nhiên lên đến 95%, nhờ đó
loài hoa lily có được nguồn cây giống ổn định, chất lượng cây đồng đều với
giá thành hạ. Thành công này của các nhà khoa học tuy chưa áp dụng vào
thực tế sản xuất nhưng đó là một tín hiệu vui đến với những người trồng hoa.
Nguyễn Quang Thạch [13] đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của thời gian
chiếu sáng và GA3 đến chiều cao cây và số bông trên cây. Kết quả cho thấy
khi kéo dài thời gian chiếu sáng và phun GA 3 nhiều lần lên cây hoa loa kèn
trái vụ, có thể làm tăng chiều cao cây và tăng số bông trên cây.
Các tác giả Đặng Văn Đông, Nguyễn Văn Tỉnh [5], [6] đã tiến hành
nhập tập đoàn 23 giống hoa lily của Hà Lan vào trồng thử nghiệm ở miền Bắc
Việt Nam từ năm 2002 – 2006. Kết quả đã chọn lọc được 2 giống là giống

Sorbonne và Acapulco có khả năng sinh trưởng, phát triển tốt, 2 giống này đã
được Hội đồng khoa học Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công nhận
giống tạm thời tháng 5/2006 và cho phép sản xuất thử ở các tỉnh miền Bắc
Việt Nam.
Trần Duy Quý [11], [12] khi trồng khảo nghiệm 10 giống lily thơm và
10 giống lily không thơm nhập nội từ Hà Lan cho rằng có 2 giống lily thơm là
Barbados, Almoata và 4 giống lily không thơm là Amazone, Avelino,
Brunello, Gironde khá phù hợp với điều kiện Đà Lạt - Lâm Đồng.
Đào Thanh Vân [17] đã nghiên cứu đặc điểm của một số giống hoa lily
tại Mẫu Sơn- Lạng Sơn. Kết quả cho thấy 3 giống StarFighter, Tiber và

24


Siberia có khả năng sinh trưởng, phát triển khá trên đất Mẫu Sơn.
Đinh Ngọc Cầm [1] đã khảo nghiệm 3 giống hoa lily thơm vụ thu đông
2003- 2004 tại Sapa. Kết quả cho thấy giống Siberia, Sorbone, Tiber đều thể
hiện được các đặc điểm của giống gốc, khả năng chống chịu tốt với điều kiện
khí hậu của Sapa.
Nhìn chung các nghiên cứu về lily ở Việt Nam mới tập trung vào các
nội dung khảo nghiệm tính thích ứng, nhân nhanh giống trong ống nghiệm,
còn các nội dung về biện pháp kỹ thuật canh tác hầu như chưa được nghiên
cứu.

25


×