Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Nội dung và ý nghĩa tư tưởng hồ chí minh được hình thành và phát triển TIỂU LUẬN CAO HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.18 KB, 23 trang )

ĐỀ TÀI: Nội dung và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh được hình
thành và phát triển (thời kì 1945- 1954)
A.

PHẦN MỞ ĐẦU:

I.

Tính cấp thiết của đề tài:

I.

Mục đích nghiên cứu đề tài:

-

Nghiên cứu đề tài nhằm mục đích:

Xác định nội dung tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh trước 1945. Trên
cở sở đó đề tài tập trung làm rõ sự hình thành, phát triển về nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh trong giai đoạn (1945-1954) và những đóng góp của nội dung tư
tưởng vào sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Đồng thời, qua việc nghiên cứu đề tài rút ra ý nghĩa của nội dung tư
tưởng đối với dân tộc - thời đại; Vận dụng những nội dung tư tưởng Hồ Chí
Minh vào công cuộc đổi mới của Đảng ta hiện nay.
II.

Nội dung nghiên cứu:

- Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh qua một số tác phẩm tiêu biểu.
- Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoàn 1945 – 1954.


- Nêu rõ ý nghĩa của Tư tưởng trong giai đoạn này đối với dân tộc thời đại
III.

Phương pháp nghiên cứu:

Vận dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp mang tính chất liên ngành
trong đó chủ yếu là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Kết hợp các
phương pháp khác như: Phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp phân
tích tổng hợp, đối chiếu…
IV.

Lịch sử vấn đề nghiên cứu:


Quá trình hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn
1945 – 1954 đã được nhiều tập thể khoa học, nhiều tác giả nghiên cứu ở các
góc độ khác nhau và lần lượt được công bố trên các loại sách báo, tạp chí…
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước có nhiều công trình nghiên
cứu đó là:
Các nhà khoa học cũng có nhiều công trình nghiên cứu đó là:
Nhìn chung, các công trình, bài viết trên đều đã khẳng định giá trị to
lớn của Tư tưởng Hồ chí Minh giai đoạn 1945 - 1954. Một số công trình khác
cũng đã đề cập đến từng tư tưởng cụ thể song chua có công trình nào nghiên
cứu một cách toàn diện, sâu sắc về sự hình thành và phát triển Tư tưởng Hồ
Chí Minh giai đoạn 1945 - 1954. Vì vậy, đây là đề tài nghiên cứu một cách cơ
bản, toàn diện và có hệ thống về vấn đề này.


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I:

MỘT SÔ TƯ TƯỞNG CƠ BẢN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRƯỚC 1945
I.Tư tưởng Hồ Chí Minh trong tác phẩm bản án chế dộ thực dân
pháp
1.

Hoàn cảnh lịch sử

1.1

Hoàn cảnh trong nước

Vào những năm 20 của thế kỉ XX, Việt Nam là một nước thuộc địa nửa
phong kiến, chịu sự cai trị của chế độ thực dân Pháp và triều đình phong kiến
nhà Nguyễn; là một chế độ phản động kìm hảm sự phát triển của đất nước, đi
ngược lại quy luật khách quan, nguyện vọng của dân tộc.
Các phong trào đấu tranh nhằm giải quyết yêu cầu khách quan ấy.
nhưng do nhận thức và thực hiện không đúng yêu cầu khách quan, đã dẫn đến
thất bại ( Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh…) cho nên vấn đề lớn đặt ra lúc
này đó chính là con đường giải phóng dân tộc.
1.2

Hoàn cảnh thế giới

Lúc này, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc. Thực
hiện chế độ cai trị trên toàn thế giới( 70% dân số thế giới là người thuộc địa),
dẫn đến mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc bùng
nổ gay gắt, phong trào giải phóng dân tộc lên cao.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và sự ra đời của
Quốc tế cộng sản (1919) đã mở đầu cho thời đại mới của xã hội loài người,

thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
2 Nội dung tác phẩm
Tác phẩm “ Bản án chế độ thực dân Pháp” là một trong những tác phẩm
đầu tay của chủ tịch Hồ Chí Minh, được tập hợp những bài viết từ năm 1921-


1924, đăng trên báo “người cùng khổ”, “nhân đạo” và “đời sống công nhân”..
đồng thời lấy những tài liệu công khai ở Pháp lúc bấy giờ. Năm 1925, tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản và giới thiệu trên báo
“người cùng khổ” với 12 chương và phần phụ lục gửi Thanh niên Việt Nam.
2.1 Quan điểm Hồ Chí Minh với chế độ thực dân Pháp
*

Vạch trần bản chất của chế độ thực dân:

+

Thủ đoạn lừa bịp của chế độ thực dân ở các nước thuộc địa và ngay

cả những người chính quốc
-

Khai hoá văn minh

-

Tự do, bình đẳng, bác ái

-


Truyền bá chủ nghĩa Xô Vanh(nước lớn), chủ nghĩa chủng tộc

-

Bưng bít tội ác của chế độ thực dân ở thuộc địa, làm cho nhân

dân ở chính quốc hiểu sai, hiểu xấu về thuộc địa.
*

Vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân

+

Các loại tội ác

-

Về kinh tế: thực hiện khai thác, vơ vét tài nguyên đến cạn kiệt;

chiếm ruộng đất của nông dân; bóc lột sức lao động; đặt ra nhiều thứ thuế vô
lý.
-

Về chính trị: giai cấp tư bản trực tiếp nắm quyền thống trị; thực

hiện chính sách chia để trị; đàn áp, khủng bố những phong trào yêu nước;
cấm: hội họp, đi lại, tự do báo chí.
-

Về văn hoá, giáo dục: thực hiện chính sách ngu dân, đầu độc


nhân dân ta bằng rượi cồn và thuốc phiện, chà đạp lên phong tục tập quán,
văn hoá sinh hoạt của dân tộc. Trường học mở nhỏ giọt chỉ phục vụ cho giai
cấp thống trị.
+ Nạn nhân
-

Các dân tộc thuộc địa đều chịu chung số phận như nhau


Các tầng lớp nhân dân trong trong các dân tộc thuộc địa, các thành
phần xã hội đều chung một nổi thống khổ bởi chính sách cai trị của chế dộ
thực dân
-

Nhân dân lao động ở chính quốc cũng là nạn nhân của chế độ

thực dân, sử dụng binh lính thuộc địa đi đàn áp giai cấp công nhân ở chính
quốc hoặc ngược lại.
+ Thủ phạm:
-

Là những tên toàn quyền lớn, bé đến những nhân viên nhà đoan

đều bị vạch mặt, đều là những tên gây tội ác.
-

Bộ máy hành chính phình ra ngốn nhiều ngân sách của Nhà nước

dẫn đến việc tăng cường bóc lột nhân dân lao động.

Những tội ác đủ loại, đủ cung bậc ấy với những chứng cứ rõ ràng làm
cho những người hoài nghi nhất cũng đồng tình với tác giả. Đây không chỉ là
tội ác của những tên thực dân cụ thể mà là tội ác của một chế độ xã hội, bản
chất của chế độ xã hội ấy là cơ sở tồn tại cho chế độ thực dân. Bởi vậy, tác giả
đã nhận thức vấn đề thuộc địa không chỉ là phạm vi của thuộc địa Pháp mà
tính quốc tế phổ biến.Cho nên mâu thuẫn giữa chủ nghĩa thực dân và dân tộc
thuộc địa là không thể điều hoà bởi vì lợi ích cơ bản và toàn diện là đối kháng
nhau, chỉ có thể giải quyết bằng con đường cách mạng. Chủ nghĩa thực dân
không những là kẻ thù của nhân dân thuộc địa mà còn là kẻ thù của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động chính quốc.
2.2

Quan điểm Hồ Chí Minh về con đường giải phóng khỏi ách thực

dân.
+

Nêu rõ vai trò của cách mạng thuộc địa ngang bằng với cách mạng

ở chính quốc.
+


CHƯƠNG II : SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NỘI DUNG
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH THỜI KÌ (1945-1954)
. Hoàn cảnh lịch sử
1.

Tình hình thế giới


2.Tình hình trong nước
II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG
VIỆT NAM
1.Đường lối cách mạng Việt nam sau thắng lợi của cách mạng tháng
Tám.
Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám 1945 và sự ra đời của Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mở đường cho nhân dân ta bắt tay vào xây
dựng chế độ mới.
Mặc dù ngay sau đó, kẻ thù buộc nhân dân ta phải cầm súng đứng lên
làm cuộc kháng chiến lâu dài để bảo vệ nền độc lập dân tộc vừa giành được,
Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn đề ra khẩu hiệu “vừa kháng chiến, vừa
kiến quốc” thực hiện nhiều chủ trương cải cách và xây dựng mới trên các lĩnh
vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội... nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, chuẩn bị những tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng(2-1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết “Về mục đích trước mắt, Đảng
Lao động Việt Nam đoàn kết và lãnh đạo toàn dân kháng chiến cho đến thắng
lợi hoàn toàn , tranh lại thống nhất và độc lập hoàn toàn; lãnh đạo toàn dân
thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Mục tiêu nhất quán đó cũng được khẳng định lại trong báo cáo luận
cương cách mạng Việt Nam của đồng chí Trường Chinh trình bày trước Đại
hội. Về nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam, đồng chí nêu ra 3 nhiệm
vụ:
-

Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, làm cho Việt Nam hoàn toàn

được thống nhất và độc lập(phản đế)

-

Xoá bỏ những di tích phong kiến và nữa phong kiến, làm cho

người cày có ruộng
III.TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
IV. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NHÀ NƯỚC
Đây là giai đoạn mà Hồ Chí Minh phát triển tư tưởng về Nhà nước
thông qua thực tiễn cách mạng Việt Nam
1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước pháp quyền có hiệu lực
pháp lý mạnh mẽ
-

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước có hiệu lực pháp lý

mạnh mẽ, trước hết phải là một nhà nước hợp hiến.
Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Tiếp đó ngay phiên họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam dân
chủ công hòa (3-9-1945) chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhiệm vụ: “Chúng
ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm
càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”, để có một chế
độ hợp hiến do nhân dân bầu ra. Ngày 17-9-1945, kí Sắc lệnh ấn định thể lệ


Tổng tuyển cử. Người nói: “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân
tự do lựa chọn những người có tài, có đức để gánh vác công việc nước nhà”
Ngày 20-9-1945, Người kí sắc lệnh số 34 thành lập Uỷ ban dự thảo
Hiến pháp của Nước Việt nam dân chủ cộng hoà.
Tiến hành tổng tuyển cử vào ngày 6-1-1946, ngày 2-3-1946, Quốc

hội mới họp phiên đầu tiên.
-

Nhà nước quản lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp

luật có hiệu lực trong thực tế
V. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGOẠI GIAO
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại giao là một bộ phận cấu thành tư
tưởng Hồ Chí Minh nói chung được hình thành, phát triển trong gần 60 năm
hoạt động cách mạng, hoạt động quốc tế của Người. Ba mươi năm đầu(19111945) là hoạt động ngoại giao nhân dân, hoạt động ngoại giao Đảng và đoàn
thể, 24 năm sau là hoạt động ngoại giao Nhà nước với tư cách là nguyên thủ
quốc gia và người đứng đầu một đảng cầm quyền. Nhưng có thể nói thời kì
mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta gặp nhiều khó khăn nhất, đương đầu với
nhiều kẻ thù nhất đó là giai đoạn 1945-1954, tình thế dân tộc ta đựơc ví như:
“ngàn cân treo sợi tóc”, để đưa đất nước vượt qua những hiểm nguy đem đến
thắng lợi cho dân tộc Việt Nam đã khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về ngoại
giao là vấn đề có ý nghĩa chính trị, ý nghĩa khoa học to lớn.
-

Cách mạng tháng Tám thành công lập nên nước Việt Nam Dân

chủ cộng hoà. Chính quyền cách mạng vừa được thành lập, lực lượng cách
mạng rất yếu, bị bao vây cô lập tứ phía mà lại phải chống chọi với thù ngoài
giặc trong, chính quyền ta chưa được quốc gia nào công nhận. Chính ở thời kì
cực kỳ quyết định và đầy thử thách này, nghị lực cách mạng phi thường và
thiên tài của Hồ Chí Minh đã được bộc lộ và phát huy rực rỡ; tư tưởng, đường
lối chiến lược, sách lược cũng như năng lực tổ chức thực tiễn và chỉ đạo sáng


suốt của, tài tình của Hồ Chí Minh về đối nội, đối ngoại thể hiện sáng tạo sâu

sắc:
+ Chủ động tấn công phân hoá hàng ngũ địch, thêm bạn bớt thù, lấy
đấu tranh chính trị, hổ trợ kết hợp ngoại giao song phương với ngoại giao đa
phương. Nó đã được thể hiện ngay từ Tuyên ngôn độc lập 2-9-1945, đến chủ
động hoà với tưởng, lôi kéo Tiêu Văn, Lư Hán, Hà Ứng Khâm, đàm phán với
Pháp, tranh thủ Mỹ, Liên hợp quốc, chủ động phá thế cô lập, tình trạng đàm
phán bế tắc..
+ Tuyên truyền đối ngoại , đề cao vị thế của ta, Người nói về ngoại
giao: “Phải trông vào thực lực. Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực
lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn”
+ Ngày 28-9-1945, tại cuộc họp của Hội đồng Chính phủ với tư cách là
Bộ trưởng Ngoại giao, người đã tuyên bố chính sách ngoại giao của Nước
Việt Nam Dân chủ cộng hoà dựa trên những nguyên tắc tự do, bình đẳng và
quyền dân tộc tự quyết.
+ Xem ngoại giao là một mặt trận quan trọng, mang tầm chiến lược.
Đấu tranh ngoại giao với tinh thần tôn trọng lẫn nhau, nhân nhượng trên
nguyên tắc độc lập dân tộc không thể tách rời với thống nhất Tổ quốc. Nay để
chống mưu đồ tách Nam bộ khỏi nước Việt Nam, Người khẳng định: “ Đồng
bào Nam bộ là dân nước Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn sông
chân lý đó không bao giờ thay đổi”
Ký hiệp định sơ bộ 6-3-1946, tạm thời hoà hoãn với Pháp
Ngày 19-4-1946, Hội nghị trù bị Đà Lạt khai mạc
Thăm chính thức nước Pháp, Ký bản Tạm ước 14-9-1946, kéo dài thời
gian hoà hoãn, chuẩn bị kháng chiến.
+ Về đối ngoại, Người kiên trì gắn cách mạng giải phóng dân tộc Việt
Nam với cách mạng thế giới, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của quốc tế.


Khi kháng chiến bắt đầu, Hồ Chí Minh chủ trương lấy mặt trận ngoại
giao để phục vụ kháng chiến, bên cạnh làm sâu sắc thêm các luận điểm thời kì

trước còn đưa ra những quan điểm, tư tưởng mới.
-

Khẳng định tư tưởng chủ động tấn công trong đấu tranh ngoại

giao, lấy nó làm mũi nhọn cùng với đấu tranh quân sự và chính trị, nổi bật ở
đầu thời kì này là chiến tranh dư luận, tuyên truyền đối ngoại, tập trung khẳng
định địa vị hợp pháp duy nhất của Chính phủ ta.
Ngày 18-1-1950, Chính phủ Trung Quốc công nhận chính phủ ta
Ngày 30-1-1950, Chính phủ Liên Xô, rồi chính phủ các nước Đông Âu
lần lượt công nhận và xác lập quan hệ ngoại giao với ta Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đi thăm và hội đàm với các lãnh đạo cấp cao của hai
chính phủ Liên Xô và Trung Quốc năm 1950. Với thắng lợi ngoại giao này
của ta, vòng vây của chủ nghĩa đế quốc đã bị phá vỡ. Từ đây, cuộc kháng
chiến của nhân dân Việt Nam được tiếp thêm sức mạnh của cách mạng thế
giới, sẽ từng bước chuyển sang giai đoạn phản công và tiến công.
-

Cho đến chiến dịch Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh luôn coi ngoại

giao là một mặt trận đắc lực phục vụ kháng chiến và thắng lợi ngoại giao tạo
điều kiện cho thắng lợi quân sự.Người đánh giá: Việc Liên Xô, Trung Quốc
và các nước dân chủ công nhận chính phủ ta đã làm nhân dân ta phấn khởi
“đến mức cao nhất”. “Đối với Việt Nam, đó là một thắng lợi lớn về chính trị”
và Người chắc rằng cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho thắng lợi quân
sự sau này.Khi ta đang thắng lớn ở Điện Biên Phủ , lại có đàm phấn ở
Giơnevơ, Người đã kịp thời chống tả khuynh, phê phán tư tưởng thiên về tác
chiến, xem khinh ngoại giao và chỉ ra: để kéo địch vào đàm phán và có được
thắng lợi ở bàn đàm phán ở Giơnevơ, Người vạch ra: “ Triều tiên cho ta thấy
kinh nghiệm là phải bao giờ đánh cho đế quốc quỵ , nó biết không thể đánh

được nữa , nó mới chịu đàm phán. Đừng có ảo tưởng mình muốn đàm phán là


nó đàm phán” và “Ta cũng phải đánh cho Pháp quỵ , lúc ấy có đàm phán mới
đàm phán, chứ không phải đưa đàm phán ra là nó đàm phán ngay đâu.Đừng
có ảo tưởng. Mục đích của nó là xâm lược. Nó mất 90% còn hy vọng 1% nó
vẫn đánh. Phải đánh cho nó quỵ nó mới chịu”.
-

Hồ Chí Minh đã làm sâu sắc thêm luận điểm về nhân nhượng có

nguyên tắc. Người nêu những tư tưởng chỉ đạo:
Phải phân biệt lợi ích trước mắt và tương lai, bộ phận cục bộ; “Mục
đích bất di bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lâp,dân chủ.
Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”;
“đề ra những những điều kiên quá cao, địch không nhận được”
Công khai nêu quan điểm với báo chí: “ Việc thương lượng đình chiến
chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà với Chính
phủ Pháp”. Trước đó, người đã từ chối khéo việc bằng cách tuyên bố rằng
Việt Nam sẽ mang vấn đề Việt Nam ra Liên hiệp quốc khi cần. Điều này cho
thấy tư tưởng đàm phán trực tiếp của Hồ Chí Minh đã được xuất hiện và trở
thành tư tưởng chỉ đạo cho ta khi đi đàm phán Pari sau này.
Sự kiên định lập trường, luôn đấu tranh cho độc lập dân tộc và thống
nhất Tổ quốc cùng với sách lược khôn khéo, mềm mỏng có nguyên tắc, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã buộc đế quốc Pháp phải đặt bút ký Hiệp định Giơnevơ
về Đông Dương 21-7-1954, có đủ chữ kí của 5 nước lớn công nhận và cam
kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân ta.
VI. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUÂN SỰ
1.


Sự phát triển của đường lối quân sự Hồ Chí Minh

Những bài viết và bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quân sự thể
hiện sâu sắc đường lối quân sự và tư tưởng về quân sự của Người. Nó bao
gồm toàn bộ những vấn đề lý luận về quân sự của cách mạng Việt nam:cách


mạng bạo lực và bạo lực cách mạng; khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng; chiến tranh nhân dân và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Là sự vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng, khoa học quân sự của
chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể Việt nam; đồng thời đã kế
thừa và phát triển lên một chất lượng mới những truyền thống quân sự của
dân tộc ta hình thành trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước. Tư tưởng
quân sự của Hồ Chí Minh là sự kết hợp nhuần nhuyễn cả hai yếu tố đó. Nó
phản ánh đúng đắn những quy luật về khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách
mạng, về đấu tranh vũ trang và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân trong
thời đại ngày nay. Đó là lý luận quân sự hiện đại của dân tộc ta, một cống hiến
to lớn của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận quân sự Mác – Lênin.
Nét cơ bản nhất của sự phát triển đó là, từ những quan điểm chỉ đạo
việc chuẩn bị và tiến hành một cuộc khởi nghĩa vũ trang phát triển thành
những quan điểm chỉ đạo việc tiến hành một cuộc chiến tranh cách mạng lâu
dài, một cuộc chiến tranh nhân dân có lực lượng vũ trang gồm ba thứ quân
làm nồng cốt cho toàn dân đánh giặc. Vì vậy, trong thời kì kháng chiến chống
Pháp nội dung phát triển của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh rất phong phú,
được cụ thể hoá trên tất cả các vấn đề:
-

Chiến tranh nhân dân

Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong

chiến tranh cách mạng. Người tin tưởng vững chắc ở quyết tâm gang thép,
khả năng vô tận, sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân, Hồ Chí Minh
coi vấn đề liên minh công nông, vấn đề đoàn kết và phát động toàn dân đánh
giặc dưới sự lãnh đạo của Đảng là then chốt của chiến tranh cách mạng ở một
nước thuộc địa. Người nêu rõ: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành một
bức tường đồng xung quanh Tổ quốc, dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức
nào, đụng đầu vào bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”. Người kêu gọi: “


Bất kì đàn ông, đàn; bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc, hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp cứu
Tổ quốc” “ Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc, thuỗng, gậy gộc, ai cũng ra sức chống thực dân, cứu nước”.
-

Lực lượng vũ trang nhân dân

Quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là một bộ phận quan
trọng trong tư tưởng quân sự của Hồ Chí Minh. Người nói: “Muốn giải phóng
thì phải đánh phát xít Nhật và Pháp. Muốn đánh chúng thì phải có lực lượng
quân sự”. Ngay khi tập trung lực lượng để lập đội quân chủ lực đầu tiên.
Người đã chỉ thị phải duy trì và phát triển lực lượng vũ trang ở các địa
phương. Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ là lực lượng
nồng cốt của toàn dân để tiến hành chiến tranh cách mạng ở nước ta.
- Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh đổi Vệ quốc quân thành Quân đội quốc gia
Việt Nam
Đối với việc xây dựng quân đội nhân dân, Hồ Chí Minh quyết tâm xây
dựng quân đội ta thành một công cụ bạo lực sắc bén của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động, một quân đội “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng
chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ

nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh
thắng”. Muốn thế, phải xây dựng quân đội một cách toàn diện, cả về chính trị,
quân sự và cơ sở vật chất – kĩ thuật, cả về tư tưởng và tổ chức. Mỗi cán bộ,
chiến sỹ trong quân đội nhân dân trước hết phải có trình độ giác ngộ cách
mạng cao, có bản lĩnh chính trị vững; nhưng chưa đủ, mà còn phải có bản lĩnh
chiến đấu kiên cường, trình độ kĩ thuật, chiến thuật điêu luyện, sức chiến đấu
bền bỉ, dẻo dai. Người nói: “ nếu tư tưởng vững, chính trị vững, kỉ thuật khá,
thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng. Trái lại, nếu chính trị khá, nhưng
quân sự kém hoặc chính trị quân sự đều khá nhưng thân thể yếu thì cũng


không thắng được”. Cho nên, phải ra sức xây dựng và không ngừng bồi
dưỡng bản chất cách mạng, bản chất giai cấp công nhân cho quân đội.
-

Căn cứ địa và hậu phương

Trong bài hình thức chiến tranh ngày nay tác giả vạch rõ: “ Chiến tranh
ngày nay phức tạp vô cùng. Trước kia chỉ có quân đội đánh nhau ở tiền
tuyến.., ngày nay... cả hậu phương”. Vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương ra sức
xây dựng và củng cố hậu phương của chiến tranh nhân dân. Người kêu gọi: “
Hậu phương thi đua với tiền phương”
“ Ruộng rẫy là chiến trường
Cuốc cày là vũ khí
Nhà nông là chiến sỹ
Hậu phương thi đua với tiền phương”
Hậu phương phải vững mạnh cả về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá.
Phải không ngừng mở rộng hậu phương ta, thu hẹp hậu phương địch, xây
dựng và phát triển cơ sở cách mạng ngay sau vùng sau lưng địch, biến hậu
phương địch thành hậu phương ta. Phải đặc biệt coi trọng xây dựng căn cứ địa

cách mạng, tạo nên những bàn đạp để đẩy mạnh cách mạng và chiến tranh
cách mạng. Hậu phương càng mạnh thì tuyền tuyến càng có thêm sức người
sức của để đánh thắng kẻ thù
2.

Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh

Hồ Chủ tịch đã chỉ ra nhiều vấn đề rất quý báu về nghệ thật quân sự
của chiến tranh nhân dân:
-

Người xác định: để đánh thắng bọn đế quốc xâm lược có lực

lượng quân sự mạnh hơn ta gấp bội, cần phải kháng chiến lâu dài “Trường kỳ
kháng chiến nhất định thắng lợi”.
-

Vừa kháng chiến vừa kiến quốc, Hồ Chí Minh chia cuộc kháng

chiến thành 3 giai đoạn: cầm cự, phòng ngự và phản công. Sử dụng chiến


tranh du kích kết hợp với chiến tranh chính quy , lấy ít địch nhiều; lấy yếu
thắng mạnh “nay tuy châu chấu đá voi, nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra”, kết
hợp chặt chẽ tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch với phá tề, trừ gian, tác chiến với
vận động binh lính.
-

Kháng chiến phải dựa vào sức mình là chính, đồng thời phải ra


sức tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế. Người khẳng định: “Một
dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì
không xứng đáng được độc lập”
-

Điểm nổi bật là tư tưởng tiến công. Phải tích cực, chủ động, kiên

quyết tiến công địch bằng mọi lực lượng, với mọi hình thức, trên mọi mặt
trận, phát triển không ngừng thế tiến công nhân dân.Tiến công toàn diện bằng
cả quân sự và chính trị, phát triển thế tiến công từ nhỏ đến lớn từ cục bộ đến
toàn bộ, tiến lên giành toàn thắng.
Với chủ trương kháng chiến toàn dân, toàn diện Đảng ta và Hồ Chí
Minh đã buộc kẻ thù xâm lược phải đương đầu với sức mạnh tổng hợp vĩ đại
của cả một dân tộc, bằng chứng là thắng lợi to lớn của toàn Đảng, toàn quân
và toàn dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ, buộc đế quốc pháp phải ngồi
vào bàn đàm phán, ký hiệp định Giơnevơ 21-7-1954, chấm dứt cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam.
VII. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
1.

Đạo đức là cái gốc của cách mạng

Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân
dân, trước hiện tượng một số can bộ lợi dụng chức quyền, làm những điều sai
trái, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết nhiều bức thư và bài báo nhắc nhở; “các cơ
quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là đầy tớ của dân
...Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì có hại cho dân, ta phải


hết sức tránh”; phải sửa ngay những lầm lỗi: Trái phép, cậy thế, hủ hoá, tư

túng, chia rẽ, kiêu ngạo...
Bàn về vận động đời sống mới (viết năm 1947) Người kêu gọi phải ra
sức thực hành Cần, Kiệm, liêm, Chính. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm
việc”, Người dành hẳn một chương, bàn về tư cách đạo đức cách mạng của
một đảng chân chính cách mạngvà của người đảng viên, tóm lại trong 5 điều:
Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm và Người kết luận; “Cũng như sông phải có
nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có
gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài
gioả mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phòng cho dân
tộc, giải phóng cho loài ngườilà một công việc to tát, mà tự mình không có
đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc
gì”.
Trên báo sự thật năm 1948, số 101, lần đầu tiên Người đặt vấn đề phải
tẩy hết các bệnh chủ nghĩa cá nhân, mà biểu hiện của nó là: ‘Ngày thường thì
kỷ luật kém. Khi có vấn đề nghiêm trọng thì hoang mang. Lúc tính toán công
việc thì đặt lợi ích của cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích
chung ..Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra bệnh quan liêu, Kềnh càng, Kiêu
ngạo, Chậm chạp, làm cho qua chuyện, ham chuộng hình thức. Muốn làm cho
sạch bệnh ấy thì phải thực hiện tự phê bình...từ cấp trên xuống và từ cấp dưới
lên”.
Năm 1952, Đảng ta phát động phong trào thi đua thực hành tiết kiệm,
chống tham ô, chống lãng phí, quan liêu. Thực chất đây là một cuộc vận động
giáo dục về đạo đức cách mạng. Nhân dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài
“thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu”Trong bài này Người
chỉ rõ: tiết kiệm vừa là một phẩm chất đạo đức; vừa là một chiến lược kinh tế.
Muốn tiết kiệm phải ra sức đấu tranh chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Ba


căn bệnh này là những thứ “giặc ở trong lòng”, “giặc nội xâm”, một số cán bộ
cách mạng khi có chút ít quyền hạn trong tay thì sinh ra kiêu ngạo, xa xỉ,

phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, biến thành người có tội với cách mạng.
Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công, chúng ta phải tẩy sạch cho hết
những thứ xấu của xã hội cũ.
2.

Đạo đức là tiêu chuẩn hàng đầu của người lãnh đạo trong điều

kiện Đảng cầm quyền
Chủ tịch Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng: trong việc xây dựng nhà
nước kiểu mới, tấm gương đạo đức của các bậc lãnh đạo, của các nhà cầm
quyền có vai trò hết sức to lớn. Nhân dân sẽ noi theo gương đó mà mà hành
động, ứng xử. Vì vậy Người thường xuyên nhắc nhở cán bộ phải chăm lo giữ
gìn đạo đức trong cuộc sống và công tác. Bản thân Người là một tấm gương
lớn. Người thường nói: đời sống của nhân dân ta còn khổ, người cách mạng
không thể có cuộc sống khác . Trong sinh hoạt hằng ngày của Người, Hồ Chủ
tịch luôn chọn một chế độ bình thường như những cán bộ khác, rất bình dị
mang đậm tính nhân văn. Với người “Đạo đức cách mạng không phải từ trên
trười sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và
củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”
VIII. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ KINH TẾ, VĂN HOÁ, GIÁO
DỤC
Sau khi giành được độc lập đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn,
gian khổ hơn 90% dân số mù chữ, chưa thoát ra khỏi nạn đói, nền văn hoá lạc
hậu. Để ổn định tình hình, thay mặt chính phủ lâm thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đưa ra những nhiệm vụ cấp bách đó là: giải quyết nạn đói,
thanh toán nạn dốt...Và coi đó là những thứ giặc cần phải xoá bỏ “giặc
đói”, “giặc dốt”. Người nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân


cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá

trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”
Đưa ra những giải pháp cần thiết:
-

Về kinh tế

Hồ Chí Minh cho rằng: “ Tất cả đường lối, phương châm, chính sách
của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân” toàn bộ quan tâm
của Người về kinh tế là chăm lo phát triển sản xuất để làm sao cho nhân ta có
đủ cái ăn, cái mặc, ở, học hành, đi lại, giải trí..... tức là lo sao cho mỗi người
dân lao động đều được ấm no, hạnh phúc.
Để khắc phục nạn đói, người đề nghị Hội đồng chính phủ phát động
phong trào tăng gia sản xuất và mở cuộc lạc quyên cứu đói, Người kêu gọi:
“Tăng gia sản xuất,tăng gia sản xuất ngay, tăng gia sản xuất nữa”. Hưởng ứng
lời kêu gọi của người, cả nước thi đua thực hiện “tấc đất, tấc vàng”, “không
một tấc đất bỏ hoang”.
Phát triển kinh tế phải đi liền với thực hiện công bằng xã hội và tiến
bộ đạo đức. Người nói: “Nước ta bị tây áp bức hơn 80 năm, bốn năm bị Nhật
áp bức. Dân ta đói rét khổ sở không thể nói xiết....Chính phủ ta đã hứa với
dân sẽ gắng sức làm cho ai nấy đều có phần hạnh phúc”. Do đó, Chính phủ
phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân
dân....có như thế dân chúng mới đoàn kết chung quanh Chính phủ, mới vì
quyền lợi thiết thân của mình mà hy sinh giết giặc”
-

Về giáo dục
Đề ra hai nhiệm vụ: một là cần “mở một chiến dích để chống nạn

mù chữ”; hai là cần “mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân ta
bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính”

Người không nói những điều to tát, nhưng thấm thía: “Một dân tộc
dốt là một dân tộc yếu”. “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không,


dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang hay không để sánh vai với các
cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các em”. Từ đó Người chỉ rõ một trong những công việc phải thực
hiện cấp tốc lúc này là nâng cao dân trí”, bởi không một quốc gia nào có thể
tiến hành xây dựng chế độ xã hội mới và bảo vệ tổ quốc thành công trong
điều kiện văn hoá, dân trí, đạo đức, tinh thần xã hội lại thấp kém.
Đấy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ thực hiện mở lớp học
“bình dân học vụ” nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân, “Những người đã
biết chữ hãy dạy cho những người chưa biết chữ...Những người chưa biết chữ
hãy gắng sức mà học tập cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết
thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo”.
Để thúc đẩy việc xoá nạn mù chữ và xây đựng nền giáo dục mới, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã ký các sắc lệnh thành lập nha bình dân học vụ, hội đồng
cố vấn học sinh để giúp Chính phủ soạn thảo chương trình giáo dục mới của
đất nước.
-

Về văn hoá

Hồ Chí Minh gọi văn hoá là mặt trận, tức là khẳng định văn hoá cũng
có tầm quan trọng như các mặt trận khác. Người kêu gọi bài trừ các hủ tục, lề
thói lạc hậu. Mở cuộc vận động đời sống mới, xây dựng một nền văn hoá
mới. Bản thân Người đã sử dụng ngòi bút của mình như một vũ khí đấu tranh
không thoả hiệp với chủ nghĩa thực dân, cổ vũ cho sự nghiệp đấu tranh của
dân tộc, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động trên thế giới.
+ Ngày 7-9-1945, trong buổi tiếp đoàn đại biểu Uỷ ban văn hoá lâm

thời Bắc Bộ, Người nói: “cái văn hoá mới này cần phải có tính cách khoa học,
tính đại chúng thì mới thuận với trào lưu tiến hoá của tư tưởng hiện đại”.


Trong báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của
Đảng(1951), Người khẳng định phải “xây dựng một nền văn hoá Việt Nam có
tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”
+ Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương nền văn hoá mới mà chúng ta xây
dựng phải “Lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, tức là muốn
nói đến chức năng cao cả của văn hóa:
Văn hoá phải khẳng định và nêu cao lý tưởng độc lập, tự chủ, góp phần
nâng cao tư tưởng và hoàn thiện đạo đức cách mạng của con người. Tại Hội
nghị văn hoá toàn quốc lần thứ nhất, khai mạc vào cuối năm 1946, chủ tịch
Hồ Chí Minh đã nêu rõ: ‘Văn hoá phải làm thế nào cho ai cũng có lý tưởng
độc lập, tự chủ,tự do. Đồng thời, phải làm thế nào cho quốc dân có tinh thần
vì nước quên mình, vì lợi ích chung và quyên lợi ích riêng...Văn hoá là phải
làm thế nào cho mỗi người dân Việt Nam từ già đến trẻ, cả đàn ông và đàn bà,
ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được
hưởng”.
Văn hoá phải góp phần mở rộng hiểu biết, nâng cao dân trí. Một dân
tộc muốn độc lập, tự cường phải có vốn hiểu biết rộng rãi để thiết thực tham
gia vào công việc kiến thiết nước nhà.
Văn hoá – văn nghệ ngoài nội chân thật, phong phú còn phải có hình
thức trong sáng, vui tươi góp phần nâng cao mỹ cảm cho nhân dân.
IX. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1.

Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề đại đoàn kết

dân tộc

- Truyền thống dân tộc đã hun đúc nên tinh thần yêu nước, khát vọng
giải phóng dân tộc của Hồ Chí Minh. Người đánh giá cao sức mạnh to lớn của
tinh thần đoàn kết và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh viét:
“ từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó


kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”
-

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác- Lênin từ yêu cầu của sự

nghiệp giải phóng dân tộc chủ yếu qua hoạt động thực tiễn. Vì vậy, Người nã
nắm bắt được bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa

Mác-Lênin, vận

dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
2.

Phát triển, xây dựng tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh

-

Tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân

Tuyên bố với các phóng viên nước ngoài, trong một cuộc họp báo ở
Bắc Bộ phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “đoàn kết toàn dân, quyết
tâm vì chính nghĩa, quyết giữ độc lập bằng mọi giá”, Người nói - cần phải
tăng cường và mở rộng khối đại oàn kết toàn dân nhằm thu hút rộng rãi đông

đảo nhân dân tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Người chỉ thị phải nhanh chóng phát triển những tổ chức đã có trong
Mặt trận Việt Minh, đồng thời phải thành lập thêm các tổ chức mới
+ Ngày 20-71946,Thành lập Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và xin
gia nhập Liên hiệp công đoàn thế giới
+ Ngày 29-5-1946, thành lập Hội liên việt quốc dân Việt Nam
+ Ngày 27-7-1946, thành lập Đảng xã hội Việt Nam
+ Ngày 20-10-1946, Thành lập Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam
+ Ngày 3-3-1951,Đại hội toàn quốc thống nhất Việt Minh – Liên Việt
khai mạc, Đại hội đã quyết định hợp nhất thành một mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi, lấy tên là Mặt trận Liên Việt.
-

Chính sách đại đoàn kết của Hồ Chí Minh không phải là sách

lược nhất thời, mà xuất phát từ tinh thần nhân văn cao cả và trong sáng.
Trong thư gửi các đồng chí tỉnh nhà ngày 17-9-1945, NGười nhắc nhở:
“ Chúng ta không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những


người không nguy hiểm lắm, thì nên dùng chính sách cảm hoá, khoan dung,
không nên bắt bớ lung tung,không nên tịch thu vô lý, làm cho dân kinh
khủng”, Người đối xử với một tấm lòng đô lượng, khoan dung, không muốn
để một ai đứng ngoài có thể để cho kẻ thù lôi kéo lợi dụng.
Nhờ tầm nhìn xa trông rộng và tấm lòng nhân ái bao la, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã mời được những nhân sỷ trí thức có danh vọng tham gia vào
chính phủ mới. Người từng nói: “ Chỉ sợ lòng mình không rộng chứ không sợ
người ta không theo mình”
-


Với khối đại đoàn kết các dân tộc anh em trong đại gia đình các

dân tộc Việt Nam
Trong thư gửi tới Đại hội các dân tộc thiểu số Miền Nam được tổ chức
tại Plâycu, NGười viết: “Đồng bàokinh hay thổ, Mường hay Mán, Giarai hay
Êđê, Xêđăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt
Nam, đều là anh em ruột thịt... Sông có thể cạn, núi có thể mòn, nhưng lòng
đoàn kết của chúng ta không bao giờ giảm bớt . Chúng ta quyết góp chung lực
lượng lại để giữ lại quyền tự do, độc lập của chúng ta”
-

Với đồng bào tôn giáo

Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra đời, Ngày 3-9-1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra tuyên bố: thực hiên tự do tính ngưỡng, lương
giáo đoàn kết. Người chủ động trong việc tập hợp, đoàn kết đồng bào tôn giáo
vì sự nghiệp chung, trong chuyến đi về thăm Phát Diệm, giáo xứ Ninh Bình,
Người nói với cha Từ: “Tôi về đây với một tấm lòng sốt sắng và thân mật...
Dù ông giáo hay không Công giáo, Phật giáo hay không Phật giáo đều phải
tranh đấu cho nền độc lập của nước nhà”
-

Đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế


Tăng cường đoàn kết dân tộc, đồng thời tăng cường đoàn kết quốc tế,
giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào, mở rộng quan hệ hữu nghị với các nước bạn
trên thế giới.
Trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp tư tưởng lớn của Người
với khẩu hiệu chiến lược: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công,

thành công, đại thành công” trở thành nguồn cổ vũ, động viên, tập hợp tất cả
mọi tầng lớp, mọi cá nhân và cả cộng đồng, làm nên sức mạnh vô địch của
toàn dân ta về mọi mặt: kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục.... Và chính sức
mạnh đoàn kết đó đã huy động được toàn bộ nhân tài vật lực của dân tộc, thời
đại để chiến thắng kẻ thù, làm nên một Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, mở
ra thời kì mới cho dân tộc Việt Nam, thời kì độc lập dân tộc gắn liền với chủ
ngiã xã hội.

I



×