Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Đáp án đề thi kết thúc học phần I (triết học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (339.84 KB, 38 trang )

------ Đáp án đ ề thi k ế t thúc h ọ c ph ầ n I ------

Báo Chí 7 - Đại học Văn hóa Hà Nội

Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 1


Câu 1: Trình bày những điều kiện và tiền đề của sự ra đời chủ nghĩa Mác – Lê nin?
* Điều kiện kinh tế - xã hội
- Vào cuối thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp xuất hiện và
lan rộng ra các nước tây Âu tiên tiến không những làm cho phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa trở thành hệ thống kinh tế thống trị, tính hơn hẳn của chế độ tư bản so với chế
độ phong kiến thể hiện rõ nét, mà còn làm thay đổi sâu sắc cục diện xã hội mà trước hết
là sự hình thành và phát triển của giai cấp vô sản.
- Đồng thời với sự phát triển đó, mâu thuẫn vốn có, nội tại nằm trong phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng thể hiện sâu sắc và gay gắt hơn. Mâu thuẫn giữa vô sản
với tư sản, vốn mang tính đối kháng, đã biểu hiện thành đấu tranh giai cấp. Giai cấp tư
sản không còn đóng vai trò là giai cấp cách mạng trong xã hội.
- Đến những năm 40 của thế kỷ XIX, giai cấp vô sản đã xuất hiện với tư cách là một lực
lượng chính trị-xã hội độc lập và đã ý thức được những lợi ích cơ bản của mình để tiến
hành đấu tranh tự giác chống giai cấp tư sản.
*Tiền đề lý
luận
-C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa triết học cổ điển Đức, đặc biệt là phép biện chứng duy
tâm và tư tưởng duy vật về những vấn đề cơ bản của triết học để xây dựng nên phép biện
chứng duy vật và mở rộng nhận thức sang cả xã hội loài người, làm cho chủ nghĩa duy
vật trở nên hoàn bị và triệt để.
- Kinh tế chính trị học Anh mà đặc biệt là lý luận về kinh tế hàng hóa; học thuyết giá trị
thặng dư là cơ sở của hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Đó còn là việc thừa nhận các


quy luật khách quan của đời sống kinh tế xã hội, đặt quy luật giá trị làm cơ sở cho toàn
bộ hệ thống kinh tế và rằng, do đó chủ nghĩa tư bản là vĩnh cửu.
- Chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp với những dự đoán thiên tài mà trước hết là lịch sử
loài người là một quá trình tiến hóa không ngừng, chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước;
rằng sự xuất hiện các giai cấp đối kháng trong xã hội là kết quả của sự chiếm đoạt; đồng
thời phê phán chủ nghĩa tư bản là ở đó con người bị bóc lột và lừa bịp, chính phủ không
quan tâm tới dân nghèo. Khẳng định xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội công nghiệp mà
trong đó, công nông nghiệp đều được khuyến khích, đa số người lao động được bảo đảm
những điều kiện vật chất cho cuộc sống v.v là cơ sở để chủ nghĩa Mác phát triển thành lý
luận cải tạo xã hội.
* Tiền đề khoa học tự nhiên.

Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 2


Trong những thập kỷ đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên phát triển mạnh với nhiều phát
minh quan trọng, cung cấp cơ sở tri thức khoa học để tư duy biện chứng trở thành khoa
học.
- Định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lương đã dẫn đến kết luận triết học là sự phát
triển của vật chất là một quá trình vô tận của sự chuyển hoá những hình thức vận động
của chúng.
- Thuyết tế bào xác định sự thống nhất về mặt nguồn gốc và hình thức giữa động vật và
thực vật; giải thích quá trình phát triển của chúng; đặt cơ sở cho sự phát triển của toàn bộ
nền sinh học; bác bỏ quan niệm siêu hình về nguồn gốc và hình thức giữa thực vật với
động vật.
- Thuyết tiến hoá đã khắc phục được quan điểm cho rằng giữa thực vật và động vật không
có sự liên hệ; là bất biến; do Thượng Đế tạo ra và đem lại cho sinh học cơ sở khoa học,
xác định tính biến dị và di truyền giữa các loài.

Chủ nghĩa Mác ra đời là một tất yếu lịch sử. Sự ra đời của nó không những do nhu cầu
nhu cầu khách quan của thực tiễn xã hội lúc bấy giờ, do sự kế thừa những thành tựu trong
lý luận và được kiểm chứng bằng các thành tựu của khoa học, mà còn do bản thân sự
phát triển của lịch sử đã tạo ra những tiền đề khách quan cho sự ra đời của nó. Bởi vậy,
chủ nghĩa Mác “cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công
cụ nhận thức vĩ đại” và Đảng Cộng sản Việt Nam “kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng”.
Câu 2:Phân tích định nghĩa vật chất của Lê nin? Giá trị khoa học của định nghĩa
này?
*Phân tích định nghĩa vật chất của Lê nin
“Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người qua cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh, tồn tại
không phụ thuộc cảm giác .”
Định nghĩa về vật chất của Lê nin cho thấy:
-Thứ nhất, vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan và con người
biết được qua cảm giác.
Trước hết, vật chất là phạm trù triết học. Đây là phạm trù rộng lớn nhất nhưng chỉ thực tại
khách quan. Thực tại là những cái tồn tại thực sự. Khách quan là độc lập với ý thức con
người.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 3


Như vậy, tất cả những gì bên ngoài, độc lập với ý thức con người đều là thực tại khách
quan.
Con người biết được qua cảm giác: Điều đó có nghĩa là vật chất có trước, cảm giác có sau
-Thứ 2, cảm giác chụp lại, nhắc lại và phản ảnh những tồn tại không phụ thuộc cảm giác.
Nghĩa là vật chất là cái mà con người có thể nhận biết được, chỉ có cái chưa biết nhưng
rồi con người sẽ biết thông qua nhận thức.

Như vậy; Theo Lênin Vật chất có 2 thuộc tính cơ bản giúp con người nhận biết được đó
là: Tồn tại khách quan; nhận biết được bằng cảm giác tức thông qua các giác quan của
con người.
*Ý nghĩa khái niệm vật chất của Lê nin:
-Thứ nhất: Định nghĩa này giúp chúng ta cơ sở để chống chủ nghĩa duy tâm khách quan
và chủ quan về thuyết không chỉ biết (bất khả chi luận)
Duy tâm khách quan cho rằng có một lực lượng tinh thần có trước thế giới, đẻ ra thế giới.
Quan điểm đó đã không phản ảnh đúng khoa học.
Duy tâm chủ quan đã cho rằng sự vật là tổng hợp của các cảm giác. Quan điểm đó cũng
không đúng. Thực chất vật chất tồn tại độc lập với ý thức con người chứ không phải là
tổng hợp của cảm giác
Thuyết không thể biết là nghi ngờ nhận thức của con người. Con người chỉ nhận thức
được hiện tượng mà không nhận thức được bản chất sự vật. Có một vật tự nó tức là có
vùng con người không với tới như thiên đàng. Đã rơi vào duy tâm. Quan điểm Lê nin cho
rằng không có cái gì là không biết, dần dần con người sẽ biết, đã chống lại quan điểm
không thể biết .
-Thứ 2 là: Định nghĩa này Đã khắc phục được những hạn chế của chủ nghĩa duy vật siêu
hình. Nghĩa là đồng nhất vật chất với vật thể.có cái vật chất không là vật thể như từ
trường, chân không thì quan điểm duy tâm không giải thích được. Quan điểm Lê nin
khảng định những cái không là vật thể độc lập bên ngoài ý thức, nó chính là vật chất.
-Thứ 3: Định nghĩa này là cơ sở định hướng trong các ngành khoa học khác phát triển.
Nghĩa là vật chất không ai sinh ra, không mất đi , nó chỉ chuyển từ dạng này sang dạng
khác.Do đó Các ngành khoa học khac đi sâu nghiên cứu các hình thức vận động của vật
chất.
-Thứ 4: Định nghĩa này, giúp chúng ta xác định được vật chất trong lĩnh vực xã hội. Đó
là tồn tại xã hội.
Câu 3:Phân tích nguồn gốc và bản chất của ý thức?Phê phán những quan điểm của
chủ nghĩa phi mác xít về vấn đề này?
A, Nguồn gốc và bản chất của ý thức
*Nguồn gốc ý thức:

- Nguồn gốc tự nhiên:
+ Ý thức là thuộc tính phản ánh của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người.

Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 4


 Phản ánh là thuộc tính chung của vật chất. Phản ánh đó là năng lực giữ lại, tái
hiện lại của hệ thống vật chất này những đặc điểm của hệ thống vật chất khác
và ngược lại. Nó được thực hiện trong sự tác động qua lại giữa các hệ thống vật
chất.


Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ chưa hoàn chỉnh đến ngày càng hoàn thiện hơn.



Phản ánh của giới vô sinh. Phản ánh này đơn giản, thụ động, không có chọn
lọc.

 Trên cơ sở phản ánh của thế giới vô sinh xuất hiện một hình thức phản ánh mới
cao hơn về chất, đó là phản ánh của giới hữu sinh. Hình thức phản ánh này gắn
liền với quá trình chuyển hóa từ giới vô sinh qua giới hữu sinh. Hình thức này
có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao: kích thích, cảm ứng, tâm lý sơ
cấp của động vật và cùng với quá trình vượn biến thành người, phản ánh của
động vật cấp cao chuyển hóa thành phản ánh ý thức của con người.
Như vậy, ta thấy rằng các dạng vật chất có trình độ tiến hóa càng cao thì sự phản
ánh càng cao; ý thức chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện dạng vật chất có tổ chức cao là

bộ não của con người, chứ không phải với mọi dạng vật chất; ý thức chỉ là thuộc tính
phản ánh của vật chất, do đó, không được đồng nhất vật chất với ý thức và cũng không
được tách ý thức ra khỏi vật chất.
+ Khách thể vật chất bên ngoài
Bộ não con người với tư cách là hệ thống phản ánh. Vì vậy, muốn có ý thức thì
phải có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài vào bộ não của con người.
Thế nhưng, tại sao con vật cũng có sự tác động của khách thể vật chất bên ngoài
lên bộ não của nó mà lại không có ý thức? Sở dĩ như vậy là vì khác với tâm lý động vật, ý
thức con người ngoài nguồn gốc tự nhiên còn có nguồn gốc xã hội.
- Nguồn gốc xã hội.
Sự ra đời của ý thức gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của bộ não con
người dưới ảnh hưởng của lao động và ngôn ngữ.
+ Lao động:
 Lao động là phương thức tồn tại cơ bản đầu tiên của con người, là hoạt động
đặc thù của con người, làm cho con người khác với tất cả các động vật khác.
 Trong lao động, con người đã biết chế tạo ra các công cụ lao động và sử dụng
các công cụ đó để tạo ra của cải vật chất.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 5


 Lao động là hành động có mục đích, tác động vào thế giới khách quan nhằm
thỏa mãn nhu cầu của con người. Do đó, ý thức con người phản ánh một cách
tích cực, chủ động và sáng tạo.


Trong quá trình lao động, bộ não con người phát triển và ngày càng hoàn thiện,
làm cho khả năng tư duy trừu tượng của con người cũng ngày càng phát triểN.


 Lao động ngay từ đầu đã liên kết mọi thành viên trong xã hội với nhau, làm nảy
sinh ở họ nhu cầu giao tiếp. Vì vậy, ngôn ngữ ra đời và không ngừng phát triển
cùng với lao động.
+Ngôn ngữ:
 Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là “vỏ vật chất” của tư duy, là phương
tiện, là công cụ để con người giao tiếp trong xã hội, phản ánh khái quát sự vật,
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và trao đổi chúng giữa các thế hệ.
 Ý thức là một hiện tượng xã hội, do đó, nếu không có ngôn ngữ thì ý thức
không thể hình thành và phát triển được.
 Chính vì vậy, Ph.Ăngghen đã khẳng định rằng: “Sau lao động, đồng thời với lao
động là ngôn ngữ,.. đó là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não
của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức”
* Bản chất của ý thức:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, ý thức là sự phản ánh thế giới
khách quan vào bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn, nên bản chất của ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh sáng tạo, tích cực và chủ động
về thế giới khách quan. Đó chính là sự khác biệt rất cơ bản của ý thức con người so với
tâm lý động vật và sự “suy nghĩ” của máy móc.
Phản ánh của ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn quy định.
Song, sự sáng tạo của ý thức là sự sáng tạo của sự phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính
chất của quy luật phản ánh.
Con người khác với động vật là thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, có định
hướng, tác động vào sự vật, hiện tượng trong thế giới, buộc chúng phải bộc lộ đặc tính,
kết cấu, quy luật lao động để phản ánh và nhận thức. Khi con người nhận thức được quy
luật, thì con người vận dụng tri thức đó vào việc cải biến thế giới khách quan nhằm phục
vụ cho cuộc sống của mình.
B, Phê phán những quan điểm của chủ nghĩa phi mác xít về vấn đề này:
.....................................................................................................................................
Câu 4: Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và mỗi quan hệ giữa
vật chất và ý thức? Ý nghĩa phương pháp luận này?

Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 6


* Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và mỗi quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có trước,nó
sinh ra và quyết định ý thức:
+Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung
quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc
tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối
tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận
động của ý thức .
+Tác động trở lại của ý thức
 Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương
đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si
thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt
động thực tiễn của con người .
 Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương
hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức
tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn
điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự
phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện
thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách
quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
 Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất
định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất

được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh
thế giới vật chất .
 Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn
tại xã hội .
 Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem
xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề
chân lý …
* Ý nghĩa và phương pháp luận:
- Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái
đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_
để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những
nguyên nhân tinh thần nào.“tính khách quan của sự xem xét” chính là ở chỗ đó .
- Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên
trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 7


- Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết
những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải
nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo
thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.
- Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực
thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi
từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức
Câu 5:Trình bày nội dung nguyên lý mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
của phép biện chứng duy vật? Ý phương pháp luận.

* Mối liên hệ phổ biến và ý nghĩa phương pháp luận:
-Khái niệm mối liên hệ, mối liên hệ phổ biến
+ Mối liên hệ: là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định sự tác động và chuyển hoá
lẫn nhau giữa các sự vật hiện tượng hay giữa các mặt các yếu tố của mỗi sự vật hiện
tượng hay giữa các mặt các yếu tố của mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới.
+Mối liên hệ phổ biến: là phạm trù triết học dùng để chỉ tính phổ biến của các mối liên hệ
của các sự vật hiện tượng của thế giới đồng thời cũng dùng để chỉ các mối liên hệ tồn tại
và những sự vật hiện tượng của thế giới trong đó những những mối liên hệ phổ biến nhất
là những mối liên hệ tồ tại ở mọi sự vật hiện tượng của thế giới nó thuộc đối tượng
nghiên cứu của phép biện chứng.
- Tính chất của các mối liên hệ .
+Tính khách quan của các mối liên hệ :Có nghĩa là các mối liên hệ là cái vốn có của bản
thân thế giới bản thân các sự vật tồn tại độc lập không phu thuộc vào ý muốn của con
người, con người chỉ có thể nhận thức và vận dụng những mối liên hệ đó trong hoạt động
thực tiễn của mình.Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là khách quan vì các sự vật
hiện tượng là những dạng cụ thể của vật chất mà vật chất tồn tại khách quan
Độc lập ý thức của con người cho nên mối liên hệ giã các sự vật hiện tượng khách
quan(VD:mlh giữa con ngưòi và tự nhiên là khách quan)
+ Tính phổ biến của các mối liên hệ:Có nghĩa là tất cả các sự vật hiện tượng trong TG
đều có liên hệ với nhau và ngay trong mỗi sự vật cũng có mlh giữa các bộ phận cấu
thành.mlh giữa các sự vật hiện tượng là phổ biến vì TG là một thể thống nhất trong đó
mỗi sự vật hiện tượng là một hệ thống cấu trúc chặt chẽ vì thế mà chúng luôn có mlh hữu
cơ với nhau hay nói cách khác mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là phổ biến.
+ Tính đa dạng, phong phú của mlh có nghĩa là nó diễn ra đa dạng cả vệ hình thức trình
độ, phạm vi tính chất…Mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng là đa dạng , phong phú bởi
vì các sự vật hiện tượng đều có những mlh cụ thể khác nhau mặt khác cùng một mlh nhất
định của sự vật nhưng trong những điều kiện cụ thể khác nhau ở những giai đoạn phát
triển khác nhau thì cũng có những tính chất và vai trò khác nhau.
+ Biểu hiện đa dạng phong phú của các mlh của các sự vật hiện tượng:Có mối liên hệ bên
trong và bên ngoài sự vật mlh bản chất và hiện tượng mlh chủ yếu và thứ yếu, mlh trực

tiếp và gián tiếp.
-Ý nghĩa phương pháp luận:
+Trong nhận thức và thực tiễn phải có quan điểm toàn diện .Quan điểm toàn diện yêu cầu
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 8


khi nhận thức sự vật hiện tượng phải xem xét sự vật trong mqh biện chững giữa các mặt
các bộ phận cấu thành sự vật và giữa sự vật đó với sự vật khác.Song toàn diện không có
nghĩa là dàn đều giữa các mlh mà phải tập chung vào những mối liên hệ chủ yếu và bản
chất thì chúng ta mới nhận thức được đầy đủ sâu sắc các mối liên hệ ở các sự vật hiện
tượng cần nghiên cứu.
+Trong nhận thức và thực tiễn cấn phải có những quan điểm lịch sự cụ thể, quan điểm
lịch sự cụ thể yêu cầu khi nhận thức sự vật hiện tượng phải gắn với điều kiện lịch sử ra
đời tồn tại và phát triển của sự vật.
* Nguyên lý về sự phát triển và ý nghĩa phương pháp luận
- Khái niệm phát triển
Trong lịch sử triết học, quan điểm siêu hình xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm thuần
túy về lượng, không có sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng; đồng thời, nó cũng
xem sự phát triển là quá trình tiến lên liên tục, không trải qua những bước quanh co phức
tạp.
Đối lập với quan điểm siêu hình, trong phép biện chứng khái niệm phát triển dùng để chỉ
quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên: từ trình độ thấp đến
trình độ cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Như vậy, khái niệm phát triển không
đồng nhất với khái niệm "vận động" (biến đổi) nói chung; đó không phải là sự biến đổi
tăng lên hay giảm đi đơn thuần về lượng hay sự biến đổi tuần hoàn lặp đi lặp lại ở chất cũ
mà là sự biến đổi về chất theo hướng ngày càng hoàn thiện của sự vật ở những trình độ
ngày càng cao hơn.
Phát triển cũng là quá trình phát sinh và giải quyết mâu thuẫn khách quan vốn có của sự

vật, hiện tượng; là quá trình thống nhất giữa phủ định các nhân tố tiêu cực và kế thừa,
nâng cao nhân tố tích cực từ sự vật, hiện tượng cũ trong hình thái của sự vật, hiện tượng
mới.
-Tính chất của sự phát
triển
Các quá trình phát triển đều có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong
phú.
+Tính khách quan của sự phát triển biểu hiện trong nguồn gốc của sự vận động và phát
triển. Đó là quá trình bắt nguồn từ bản thân sự vật, hiện tượng; là quá trình giải quyết
mâu thuẫn trong sự vật, hiện tượng đó. Vì vậy, phát triển là thuộc tính tất yếu, khách
quan, không phụ thuộc vào ý thức con người.
+ Tính phổ biến của sự phát triển được thể hiện ở các quá trình phát triển diễn ra trong
mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; trong tất cả moi sự vật, hiện tượng và trong mọi
quá trình, mọi giai đoạn của sự vật, hiện tượng đó; trong mỗi quá trình biến đổi đã bao
hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái mới, phù hợp với qui luật khách quan.
+ Tính đa dạng, phong phú của sự phát triển được thể hiện ở chỗ: phát triển là khuynh
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 9


hướng chung của mọi sự vật, hiện tượng, song mỗi sự vật, mỗi hiện tượng, mỗi lĩnh vực
hiện thực lại có quá trình phát triển không hoàn toàn giống nhau. Tồn tại ở những không
gian và thời gian khác nhau sự vật sẽ phát triển khác nhau. Đồng thời trong quá trình phát
triển của mình, sự vật còn chịu nhiều sự tác động của các sự vật, hiện tượng hay quá trình
khác, của rất nhiều yếu tố và điều kiện lịch sử, cụ thể. Sự tác động đó có thể làm thay đổi
chiều hướng phát triển của sự vật, thậm chí có thể làm cho sự vật thụt lùi tạm thời, có thể
dẫn tới sự phát triển về mặt này và thoái hóa ở mặt khác…Đó đều là những biểu hiện của
tính phong phú, đa dạng của các quá trình phát triển.
c.Ý nghĩa phương

pháp luận
+Nguyên lý về sự phát triển là cơ sở lý luận khoa học để định hướng việc nhận thức thế
giới và cải tạo thế giới. Theo nguyên lý này, trong mọi nhận thức và thực tiễn cần phải có
quan điểm phát triển. Theo Lênin: “Logic biện chứng đòi hỏi phải xét sự vật trong sự
phát triển, trong sự tự vận động…trong sự biến đổi của nó”
+Quan điểm phát triển đòi hỏi phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập
với sự phát triển.
+Quan điểm phát triển luôn đặt sự vật, hiện tượng theo khuynh hướng đi lên. Phát triển là
một quá trình biện chứng, bao hàm tính thuận nghịch, đầy mâu thuẫn, vì vậy đòi hỏi
chúng ta phải nhận thức được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá
trình phát triển.
+Xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong
nhiều giai đoạn khác nhau, trong mối quan hệ biện chứng giữa quá khứ, hiện tại và tương
lai trên cơ sở khuynh hướng phát triển đi lên. Đồng thời, phải phát huy vai trò nhân tố
chủ quan của con nguời để thúc đẩy quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng theo đúng
quy luật.
+Như vậy, với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng duy vật của chủ nghĩa Mac-Lênin giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong nhận
thức và thưc tiễn. Khẳng định vai trò đó của phép biện chứng duy vật, Ăngghen viết:
“Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những
phản ánh của chúng trong tư tưởng trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự
ràng buộc, sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Lênin cũng cho rằng:
“Phép biện chứng đòi hỏi người ta phải chú ý đến tất cả các mặt của những mối quan hệ
trong sự phát triển cụ thể của những mối quan hệ đó, chứ không phải lấy một mẩu ở chỗ
này, một mẩu ở chỗ kia”
Câu 6:Trình bày nội dung quy luật chuyển hóa từ sự thay đổi về lương dẫn đến sự
thay đổ về chất và ngược lại? Ý nghĩa của phương pháp luận
*Khái niệm chất, lượng
Trong phép biện chứng, khái niệm chất dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của
sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với

Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 10


cái khác.
Như vậy, tạo thành chất của sự vật chính là các thuộc tính khách quan vốn có của sự vật,
nhưng khái niệm chất không đồng nhất với khái niệm thuộc tính. Mỗi sự vật, hiện tượng
đều có những thuộc tính cơ bản và không cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới hợp
thành chất của sự vật, hiện tượng. Khi những thuộc tính cơ bản thay đổi thì chất của nó
thay đổi. Việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản của sự vật phải tùy theo quan
hệ cụ thể của sự phân tích; cùng một thuộc tính, trong quan hệ này là cơ bản thì trong
quan hệ khác có thể là không cơ bản.
Mặt khác, chất của sự vật, hiện tượng không những được xác định bởi chất của các yếu tó
cấu thành mà còn bởi cấu trúc và phương thức liên kết giữa chúng, thông qua các mối
liên hệ cụ thể. Vì vậy, việc phân biệt thuộc tính cơ bản và không cơ bản, chất và thuộc
tính cũng chỉ có ý nghĩa tương đối. Mỗi sự vật, hiện tượng không chỉ có một chất, mà có
nhiều chất, tùy thuộc vào các mối quan hệ cụ thể của nó với những cái khác. Chất không
tồn tại thuần túy tách rời sự vật, biểu hiện tính ổn định tương đối của nó.
Khác với khái niệm chất, khái niệm lượng dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có
của sự vật về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, qui mô của sự tồn tại, tốc
độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật. Với khái niệm này cho
thấy: một sự vật có thể tồn tại nhiều loại lượng khác nhau, được xác định bằng các
phương thức khác nhau phù hợp với từng loại lượng của cụ thể của sự vật
Như vậy, chất và lượng là hai phương diện khác nhau của cùng một sự vật, hiện tượng
hay một quá trình nào đó trong tự nhiên, xã hội hay tư duy. Hai phương diện đó đều tồn
tại khách quan. Tuy nhiên, sự phân biệt giữa chất và lượng trong quá trình nhận thức về
sự vật chỉ có ý nghĩa tương đối; có cái trong mối quan hệ này đóng vai trò là chất nhưng
trong
mối

quan
hệ
khác
lại

lượng.
*Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là một thể thống nhất giữa hai mặt chất và lượng. Hai
mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thay đổi về
lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển hóa về chất của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên, không
phải sự thay đổi về lượng bất kỳ nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất. Ở một giới hạn
nhất định, sự thay đổi về lượng chưa dẫn tới sự thay đổi về chất. Giới hạn mà sự thay đổi
về lượng chưa làm chất thay đổi được gọi là độ
Khái niệm độ chỉ tính qui định, mối liên hệ thống nhất giữa chất và lượng, là khoảng giới
hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật, hiện
tượng. Vì vậy, trong giới hạn của độ, sự vật, hiện tượng vẫn là nó, chứ chưa chuyển hóa
thành sự vật và hiện tượng khác.
Sự vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng thường bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Khi
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 11


lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Giới hạn đó
chính là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, với những điều kiện xác
định tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới. Đây chính là bước nhảy trong quá trình
vận động, phát triển của sự vật.
Bước nhảy là sự chuyển hóa tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Sự
thay đổi về chất diễn ra dưới nhiều hình thức bước nhảy khác nhau, được quyết định bởi
mâu thuẫn, tính chất và điều kiện của mỗi sự vật. Đó là các bước nhảy: lớn và nhỏ, cục

bộ và toàn bộ, tự phát và tự giác…
Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn vận động, phát triển đồng thời đó cũng là điểm
khởi đầu cho một giai đoạn mới, là sự gián đoạn trong quá trình vận động, phát triển liên
tục của sự vật. Trong thế giới, luôn luôn diễn ra quá trình biến đổi tuần tự về lượng dẫn
đến sự nhảy vọt về chất, tạo ra một đường nút liên tục, thể hiện cách thức vận động và
phát triển của sự vật từ thấp đến cao. Ăngghen khái quát tính tất yếu này: “Những thay
đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất định, sẽ chuyển hóa thành những sự khác
nhau về chất”
Khi chất mới ra đời, sẽ tác động trở lại lượng mới. chất mới tác động tới lượng mới làm
thay đổi kết cấu, qui mô. Trình độ, nhịp độ của sự vận động và phát triển của sự vật.
Tóm lại, bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có sụ thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất
thông qua bước nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá
trình đó liên tục diễn ra, tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên,xã hội
và tư duy.
*Ý nghĩa phương pháp
luận
- Vì bất kỳ sự vật nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính qui định lẫn
nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, cho nên trong nhận thức và thực tiễn cần
phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng của sự vật, tạo nên sự
nhận thức toàn diện về sự vật.
- Vì những thay đổi về lượng của sự vật có khả năng trong những điều kiện nhất định sẽ
chuyển hóa thành những thay đổi về chất và ngược lại, cho nên trong hoạt động nhận
thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm
thay đổi về chất của sự vật; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng
làm thay đổi về lượng của sự vật.
- Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự vật với điều
kiện lượng phải được tích lũy tới giới hạn điểm nút, cho nên trong công tác thực tiễn cần
phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh; mặt khác, theo tính tất yếu qui luật thì khi

lượng đã được tích lũy đến giới hạn điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về
chất của sự vật, do đó, cũng cần phải khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 12


tác thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp qui luật, chủ quan, duy ý chí, không
tích lũy về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về chất; hữu
khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ, không dám thực hiện bước nhảy dù lượng
đã tích lũy tới điểm nút và quan niệm phát triển chỉ đơn thuần là sự tiến hóa về lượng.
- Hình thức bước nhảy của sự vật là hết sức đa dạng, phong phú, do vậy trong nhận thức
và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy cho phù hợp
với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát
triển không chỉ phụ thuộc vào điều kiện khách quan, mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ
quan của con người. Do đó, cần phải nâng cao tính tích cực chủ động của chủ thể để thúc
đẩy quá trình chuyển hóa từ lượng đến chất một cách có hiệu quả nhất.
Câu 7:Trình bày nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập? Ý
nghĩa phương pháp luận.
*Khái niệm các mặt đối lập, mâu thuẫn, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập
Tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chứa đựng những mặt trái ngược
nhau.Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá; trong
kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền..v..v..Những mặt trái ngược nhau đó trong
phép biện chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã
hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là khách quan và là phổ biến trong tất cả các sinh
vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện

chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách quan và phổ biến trong tự nhiên, xã
hội và tư duy. Mâu thuẫn biện chứng trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực
và là nguồn gốc phát triển của nhận thức. Mâu thuẫn biện chứng không phải là ngẫu
nhiên, chủ quan, cũng không phải là mâu thuẫn trong lôgic hình thức. Mâu thuẫn trong
lôgich hình thức là sai lầm trong tư duy.
Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự
thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa
các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân
tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là sự “đồng nhất” của các mặt đối lập.
Với ý nghĩa đó,” sự thống nhất của các mặt đối lập” còn bao hàm cả sự “ đồng nhất” của
các mặt đó. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu
thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập còn biểu hiện ở sự tác động ngang nhau của chúng.
Song đó chỉ là trạng thái vận động của mâu thuẫn ở một giai đoạn phát triển khi diễn ra
sự cân bằng của các mặt đối lập.
Các mặt đối lập không chỉ thống nhất, mà còn luôn “đấu tranh” với nhau. Đấu tranh của
các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau giữa
các mặt đó. Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 13


thuộc vào tính chất, vào mối liên hệ qua lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể
diễn ra cuộc đấu tranh giữa chúng.
* Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là 2 xu hướng tác động khác nhau của các
mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy, mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “sự
thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt

đối lập không tách rời nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, sự thống nhất
gắn liền với sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền với
tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự thống nhất của các
mặt đối lập là tương đối, tạm thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất(…) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng
qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như
sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định
một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển.
Lúc đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là sự khác nhau căn bản, nhưng theo
khuynh hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng ngày càng phát triển đi đến đối
lập. Khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng sẽ chuyễn hoá lẫn nhau,
mâu thuẫn được giải quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất
mới ; sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển là một
cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của các mặt đối
lập thì cũng không có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ
cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật . Do đó mâu thuẫn chính
là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
* Phân loại mâu thuẫn
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các sự vật, hiện tượng, cũng như trong tất cả các giai đoạn
phát triển của chúng. Mâu thuẫn hết sức phong phú, đa dạng. Tính phong phú đa dạng
được quy định một cách khách quan bởi đặc điểm của các mặt đối lập, bởi điều kiện tác
động qua lại của chúng, bởi trình độ tổ chức của hệ thống (sự vật) mà trong đó mâu
thuẫn tồn tại.
Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét , người ta phân biệt thành mâu thuẫn
bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của
cùng một sự vật. Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra

trong mối quan hệ sự vật đó với các sự vật khác .
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự
tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét. Cùng một mâu thuẫn nhưng xét trong mối quan hệ
này là mâu thuẫn bên ngoài nhưng xét trong mối quan hệ khác lại là mâu thuẫn bên trong.
Thí dụ: Trong phạm vi nước ta mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn
bên trong; còn mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước ASEAN khác lại là mâu
thuẫn bên ngoài. Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 14


là mâu thuẫn bên trong. Vì vậy để xác định một mâu thuẫn nào đó là mâu thuẫn bên trong
hay mâu thuẫn bên ngoài trước hết phải xác định phạm vi sự vật được xem xét.
Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có ảnh hưởng đến sự phát triển của sự vật. Tuy
nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài không ngừng có tác động qua lại lẫn
nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết mâu thuẫn
bên ngoài; việc giải quyết mâu thuẫn bên ngoài là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn bên
trong. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng cho thấy: việc giải quyết những mâu thuẫn
trong nước ta không tách rời việc giải quyết mâu thuẫn giữa nước ta với các nước khác.
Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được
chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất
cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn
cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự
vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết
không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất .
Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một

giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất định
của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Giải quyết được mâu thuẫn
chủ yếu trong từng giai đoạn là điều kiện cho sự vật chuyển sang giai đoạn phát triển
mới.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu có quan hệ chặt chẽ với nhau. Mâu thuẫn chủ
yếu có thể là một hình thức biển hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận
động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu
thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng bước mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển
nào đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi
phối. Giải quyết mâu thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn
chủ yếu.
Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội
thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp những tập đoàn người, có lợi ích
cơ bản đối lập nhau. Thí dụ : Mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa vô sản với tư
sản, giữa dân tộc bị xâm lược với bọn đi xâm lược.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản
thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời. Chẳng
hạn mâu thuẫn giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa thành thị với nông
thôn,..v..v
Việc phân biệt mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng có ý nghĩa trong việc xác định
đúng phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Giải quyết mâu thuẫn đối kháng phải bằng
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 15



phương pháp đối kháng; giải quyết mâu thuẫn không đối kháng phải bằng thì phải bằng
phương pháp trong nội bộ nhân dân.
Từ sự phân tích trên có thể rút ra thực chất quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập như sau:
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành
những mâu thuẫn trong bản thân nó; sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi cái mới ra đời thay thế.
* Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có ý nghĩa phương
pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực tiễn.
Để nhận thức đúng bản chất sự vật và tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt
động thực tiễn phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật. Muốn phát hiện
ra mâu thuẫn phải tìm ra trong thể thống nhất những mặt, những khuynh hướng trái
ngược nhau, tức tìm ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. V.I.Lênin viết: “ Sự phân đôi của cái thống nhất và sự
nhận thức của các bộ phận của nó, đó là thực chất…của phép biện chứng”.
Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét quá trình phát sinh, phát triển của từng mâu thuẫn,
xem xét vai trò, vị trí và mối quan hệ lẫn nhau của các mâu thuẫn; phải xem xét quá trình
phát sinh, phát triển và vị trí của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động qua lại giữa
chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng. Chỉ có như thế mới có thể hiểu đúng
mâu thuẫn của sự vật, hiểu đúng xu hướng vận động, phát triển và điều kiện để giải quyết
mâu thuẫn.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn, không được
điều hoà mâu thuẫn.Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn phải phù hợp với trình độ phát
triển của mâu thuẫn. Phải tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng để giải quyết
mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi. Một mặt phải
chống thái độ chủ quan, nóng vội; mặt khác phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách
quan để làm cho các điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác
nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các hình thức giải quyết mâu
thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều

kiện cụ thể..
Câu 8:Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
*Khái niệm thực tiễn
Thực tiến là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử- xã hội của con
người nhằm cải biến thế giới khách quan.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất. Tất cả những hoạt động bên ngoài hoạt động tinh thần
của con người đều là hoạt động thực tiễn.
- Là hoạt động có mục đích. Khác hoạt đông bản năng của động vật.
- Có tính lịch sử - xã hội: Là hoạt động của con người trong xã hội và trong những giai
đoạn lịch sử nhất định.
- hoạt động thực tiễn rất đa dạng, cơ bản có 3 hình thức:
+ Hoạt động sản xuất vật chất
+ Hoạt động chính trị - xã hội.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 16


+ Hoạt động thực nghiệm khoa học (Nhằm tạo ra môi trường giống hoặc gần giống môi
trường sống bên ngoài: hoạt động này ngày càng đóng vai trò quan trọng).
- Trong 3 hoạt động trên, hoạt động sản xuất vật chất có vai trò quan trọng nhất, là cơ sở
cho các hoạt động khác của con người và cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức
Thực tiễn và nhận thức không ngừng phát triển trong sự tác động lẫn nhau, trong đó thực
tiễn đóng vai trò là cơ sở, nguồn gốc, động lực, mục đích của nhận thức và là cơ sở của
chân lý.
- Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc, động lực của nhận thức
+ Con người muốn tồn tại thì phải lao động sx để tạo ra những sản phẩm phục vụ cho con
người, muốn lao động sx con người phải tìm hiểu thế giới xung quanh. Vậy, hoạt động

thực tiễn tạo ra động lực đầu tiên để con người nhận thức thế giới.
+Trong hoạt động thực tiễn , con người dung cac song cụ, các phương tiện để tác động
vào thế giới, làm thế giới bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính, kết cấu, quy luật vận động;
con người nắm bắt lấy các đặc điểm thuộc tính đó, dần dần hình thành tri thức về thế giới.
+Trong hoạt động thực tiễn, con ngườidần tự hoàn thiện bản thân mình, các giác quan
của con người ngày càng phát triển. do đó, làm tăng khả năng nhận thức của con người
về thế giới.
+ Trong bản thân nhận thức có động lực trí tuệ. Nhưng suy cho cùng thì đông lực cơ bản
của nhận thức là thực tiễn. Trong hoạt động thực tiễn con người đã vấp phải nhiều trở
ngại, khó khăn và thất bại. Điều đó buộc con người phải giải đáp những câu hỏi do thực
tiễn đặt ra. Ănghen nói: Chính thực tiễn đã “đặt hàng” cho cac nhà khoa học phải giải đáp
những bế tắc của thực tiễn (ngày càng nhiều ngành khoa học mới ra đời để đấp ứng yêu
cầu của thực tiễn như KH vật liệu mới, KH đại dương, KH vũ trụ…)
+ Trong hoạt động thực tiễn, con người chế tạo ra các công cụ, phương tiện có tác dụng
nối dài các giác quan, nhờ vậy làm tăng khả năng nhận thức của con người về thế giới.
- Thực tiễn là mục đích của nhận thức: Mục đích của mọi nhận thức không phải vì bản
thân nhận thức, mà vì thực tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, biến đổi xã hội vì nhu cầu
của con người. Mọi lý luận khoa học chỉ có ý nghĩa khi nó được ứng dụng vào thực tiễn.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý: Làm sao để nhận biết được nhận thức của con
người đúng hay sai? Tiêu chuẩn để đánh giá cuối cùng không nằm trong lý luận, trong
nhận thức mà ở thực tiễn. Khi nhận thức được xác nhận là đúng, nhận thức đó sẽ trở
thành chân lý.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không nhất thiết phải qua thực tiễn khiêpr nghiệm mới biết
nhận thức đó là đúng hay sai, mà có thể thông qua quy tắc logic vẫn có thể biết được
nhận thức đó là thế nào. Nhưng xét đến cùng thì những nguyên tắc đó cũng đã được
chứng minh từ trong thực tiễn.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính tương đối:
Tuyệt đối là ở chỗ: Thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn
có khả năngg xác định cái đúng, bác bỏ cái sai.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7


Trang 17


Là tương đối ở chỗ: Thực tiễn ngay một lúc không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ
cái sai một cách tức thì. Hơn nữa, bản thân thực tiễn không đứng yên một chỗ mà biến
đổi và phát triển liên tục, nên nó không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hóa
thành chân lý vĩnh viễn
Câu 9:Trình bày con đường biện chứng của quá trình nhận thức? Mối quan hệ giữa
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính?
Con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức là phản ánh đúng đắn đối với hiệt
thực khách quan) là một quá trình. Đó lá quá trình bắt đầu từ "trực quan sinh động" (nhận
thức cảm tính) tiến đến "tư duy trừu tượng" (nhận thức lý tính). Nhưng những sự trừu
tượng đó không phải là điểm cuối cùng của một chu kỳ nhận thức, mà nhận thức phải tiếp
tục tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh
tính đúng đắn của nó và tiếp tục vòng khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng
chính là quy luật chung của quá trình con người nhận thức về hiện thực khách quan.
- Giai đoạn từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn nhận
thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành phản
ánh các sự vật, hiện tượng khách quan, mang tính chất cụ thể, với những biểu hiện phong
phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Ở giai đoạn này, nhận thức
mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự vật cụ thể, trong
hiện thực khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân của những
hiện tượng quan sát được. Do đó, đây chính là giai đoạn thấp của quá trình nhận thức.
Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình thức cơ bản là: cám giác, tri
giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng khách quan là hình ảnh sơ khai nhất, đơn
giản nhất của các quá trình nhận thức, nhưng nếu không có nó thì sẽ không thể có bất cứ
nhận thức nào về sự vật, hiện tượng khách quan. Mỗi cảm giác của con người về sự vật,

hiện tượng khách quan đều có một nội dung khách quan, mặc dù nó thuộc về sự phản ánh
chủ quan của con người. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Nó là
cơ sở hình thành nên tri giác.
Tri giác là sự phản ánh tương đối toàn vẹn của con người về những biểu hiện của sự vật,
hiện tượng khách quan, cụ thể, cảm tính, được hình thành trên cơ sở liên kết, tổng hợp
những cảm giác về sự vật, hiện tượng. So với cảm giác, tri giác là hình thức nhận thức
cao hơn, đầy đủ hơn, phong phú hơn, nhưng đó vẫn chỉ là sự phản ánh đối với những
biểu hiện bên ngoài của sự vật, hiện tượng khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất,
quy luật khách quan.
Biểu tượng là sự tái hiện hình ảnh về sự vật, hiện tượng khách quan vốn đã được phản
ánh bởi cảm giác và tri giác; nó là hình thức phản ánh cao nhất và phức lạp nhất của giai
đoạn nhận thức cảm tính, đồng thời nó cũng chính là bước quá độ từ giai đoạn nhận thức
cảm tính lên nhận thức lý tính. Đặc điểm của biểu tượng là có khả năng tái hiện những
hình ảnh mang tính chất biểu trưng về sự vật, hiện tượng khách quan, nó có tính chất liên
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 18


tưởng về hình thức bên ngoài, bởi thế nó bắt đầu có tính chất của những sự trừu tượng
hóa về sự vật, hiện tượng. Đó là tiền đề của những sự trừu tượng hóa của giai đoạn nhận
thức lý tính.
Tuy nhiên, ở giai đoạn cảm tính, nhận thức vẫn chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật
khách quan để nhờ đó nhận thức có thể lý giải được đúng đắn các sự vật, hiện tượng được
phản ánh trong giai đoạn nhận thức cảm tính, có khả năng đáp ứng được nhu cầu nhận
thức phục vụ hoại động thực tiễn, nhu cầu hoạt động cải biến sáng tạo thế giới khách
quan.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh gián
tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự vật, hiện
tượng khách quan, Đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng nhất là

tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý
tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán đoán và suy lý
(suy luận).
Khái niệm là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, phản ánh những đặc tính bản chất
của sự vật, hiện tượng. Sự hình thành khái niệm là kết quả của sự khái quát, tổng hợp
biện chứng các đặc điểm, thuộc tính của sự vật, hiện tượng hay một lớp các sự vật, hiện
tượng. Nó là cơ sở hình thành nên những phán đoán trong quá trình con người tư duy về
sự vật, hiện tượng khách quan.
Phán đoán là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành thông qua việc liên
kết các khái niệm với nhau theo phương thức khẳng định hay phủ định một đặc điểm,
một thuộc tính nào đó của đối tượng nhận thức.
Theo trình độ phát triển của nhận thức, phán đoán được chia làm ba loại: phán đoán đơn
nhất, phán đoán đặc thù và phán đoán phổ biến. Phán đoán phổ biến là hình thức phản
ánh thể hiện sự bao quát rộng lớn nhất về thực tại khách quan.
Suy lý là hình thức cơ bản của nhận thức lý tính, được hình thành trên cơ sở liên kết các
phán đoán nhằm rút ra tri thức mới về sự vật, hiện tượng. Điều kiện để có bất cứ một suy
lý nào cũng phải là trên cơ sở những tri thức đã có dưới hình thức là những phán đoán,
đồng thời tuân theo những quy tắc lôgích của các loại hình suy luận, đó là suy luận quy
nạp (đi từ những cái riêng đến cái chung) và suy luận diễn dịch (đi từ cái chung đến mỗi
cái riêng, cái cụ thể).
- Mối quan hệ giữa nhận thức cảm tính, nhận thức lý tính với thực tiễn
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình nhận
thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình nhận thức,
song chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức cảm tính gắn
liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho nhận thức lý tính
thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết được bản chất, quy
luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng giúp cho nhận thức cảm tính
có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7


Trang 19


Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những tri thức
về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không thì con
người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định xem những
tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức nhất thiết phải
trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính chân thực của
những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi nhận thức suy đến
cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn.
Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình vận động,
phát triển của nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức trở về với thực tiễn từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức, V.V.. Quá trình này lặp đi lặp lại,
không có điểm dừng cuối cùng, trình độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ sau thường
cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri thức ngày
càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sấc hơn về thực tại khách quan. Đây cũng chính là
quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình phản ánh thực
tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận thức cũng là một sự biểu hiện cụ thể, sinh
động của những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật: quy luật phủ định của
phủ định, quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về
chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Sự vận động của
quy luật chung trong quá trình vận động, phát triển nhận thức chính là quá trình con
người, loài người ngày càng tiến dần tới chân lý.
Câu 10: Phương thức sản xuất là gì? Trình bày những yếu tố cấu thành của phương
thức sản xuất và vai trò của những yếu tố đó?
 Phương thức sản xuất là cách thức tiến hành sản xuất ra của cải vật chất trong
một giai đoạn nhất định của lịch sử.
 những yếu tố cấu thành của phương thức sản xuất:................................
 Vai trò:
-Thứ nhất, phương thức sx quyết định tính chất của xã hội. XH là do con
người kết hợp các hoạt động với nhau tạo ra, nhưng con người lại không thể tùy

ý lựa chọn chế độ xã hội cho mình. Ngay cả những tư tưởng lớn, những học
thuyết khoa học, những vĩ nhân, những nhà nước mạnh… cũng không tùy ý áp
đặt được chế độ xã hội. sự ra đời một chế độ xã hội trong lịch sử do một yếu tố
kinh tế hoàn toàn khách quan la phương thức sx quyết định. PTSX chiếm hữu
nô lệ quyết định tính chất của chế độ xã hội nô lệ, phương thức sx phong kiến
quyết định tính chất của xã hội phong kiến, PTSX tư bản chủ nghĩa quyết định
tính chất của chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa…
-Thứ hai, PTSX quyết định tổ chức kết cấu của xã hội. tổ chức kết cấu của xã
hội bao gồm từ tổ chức kết cấu kinh tế đến các quan điểm tư tưởng, các giai
cấp, các đảng phái, các nhà nước, các thiết chế xã hội và các tổ chức chính trị –
xã hội khác. Toàn bộ tổ chức kết cấu ấy của xã hội không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người mà do PTSX quyết định, nghĩa là mỗi PTSX
khác nhau sinh ra một kiểu tổ chức kết cấu xã hội khác nhau phù hợp với nó.
-Thứ ba, PTSX quyết định sự chuyển hóa của xã hội loài người qua các giai
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 20


đoạn lịch sử khác nhau. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử của sx và thực
chất là sự phát triển kế tiếp nhau của các PTSX. Khi PTSX cũ mất đi,PTSX
mới ra đời thì chế độ xã hội cũ mất theo chế độ xã hội mới cũng ra đời. Loài
người đã và sẽ trải qua năm PTSX, tương ứng với nó là năm chế độ xã hội:
Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng
sản chủ nghĩa.
Câu 11: Trình bày nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất? Liên hệ với thực tiễn nước ta hiện nay?
 Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất
- Lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện
trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Đó là kết quả của năng lực thực
tiễn của con người trong quá trình tác động vào tự nhiên tạo ra của cải vật chất
bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của loài người. Lực lượng sản xuất bao
gồm tư liệu sản xuất (tư liệu lao động và đối tượng lao động) và người lao động
với kinh nghiệm sản xuất và thói quen lao động.
Các yếu tố của lực lượng sản xuất có quan hệ với nhau. Sự phát triển của lực
lượng sản xuất là sự phát triển của tư liệu lao động thích ứng với bản thân
người lao động, với trình độ văn hoá, khoa học, kỹ thuật của họ.
Năng suất lao động là thước đo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đồng
thời, xét đến cùng, đó là nhân tố quan trọng nhất cho sự thắng lợi của một trật
tự xã hội mới. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những thành tựu của khoa học được vận dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản
xuất, có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất phát triển; những tư liệu sản xuất,
những tiến bộ của công nghệ
và phương pháp sản xuất là kết quả vật chất của nhận thức khoa học. Thời đại
ngày nay tri thức khoa học trở thành một bộ phận cần thiết của kinh nghiệm và
tri thức của người sản xuất v.v. và được phát triển mạnh mẽ. Đó là lực lượng
sản xuất to lớn thúc đẩy quá trình phát triển tiến bộ xã hội trên thế giới.
- Quan hệ sản xuất
Quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất được gọi là quan hệ sản
xuất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống
vật chất của xã hội. Tính vật chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng tồn
tại khách quan độc lập với ý thức con người.
Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất; quan hệ về tổ
chức quản lý trong sản xuất; quan hệ phân phối sản phẩm. Ba mặt trên có quan
hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất giữ vai trò
quyết định. Bản
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7


Trang 21


chất của bất cứ kiểu quan hệ sản xuất nào trước hết do quan hệ chiếm hữu tư
liệu sản xuất quyết định.
 Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất
- Quan hệ sản xuất được hình thành, biến đổi, phát triển dưới ảnh hưởng quyết
định của lực lượng sản xuất
+Lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất và cách mạng nhất, là nội dung của
phương thức sản xuất, còn quan hệ sản xuất là yếu tố tương đối ổn định, là hình
thức xã hội của phương thức sản xuất. Trong mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức thì nội dung quyết định hình thức.
+ Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với
tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng
sản xuất tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất
phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi
xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực
lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới xuất hiện...
+Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử
khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất
mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội khác nhau
từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau.
- Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
+ Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất sẽ
tạo địa bàn rộng lớn cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành động
lực cơ bản thúc đẩy, tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển.
+ Khi quan hệ sản xuất đã lỗi thời, lạc hậu không còn phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất thì nó trở thành xiềng xích trói buộc, kìm hãm

sự phát triển của lực lượng sản xuất.
+Quan hệ sản xuất, sở dĩ có thể tác động (thúc đẩy hoặc kìm hãm) sự phát triển
của lực lượng sản xuất, vì nó quy định mục đích của sản xuất; ảnh hưởng đến
thái độ lao động của quảng đại quần chúng; kích thích hoặc hạn chế việc cải
tiến công cụ, việc áp
dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, việc hợp tác và phân công lao
động, v.v..
+Trong xã hội có giai cấp đối kháng mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất biểu hiện thành mâu thuẫn giai cấp và chỉ thông qua đấu tranh giai
cấp mới giải quyết được mâu thuẫn đó để đưa xã hội tiến lên.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực
lượng sản xuất biểu hiện sự vận động nội tại của phương thức sản xuất và biểu
hiện tính tất yếu của sự thay thế phương thức sản xuất này bằng phương thức
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 22


sản xuất khác cao hơn. Quy luật này là quy luật phổ biến tác động trong mọi xã
hội, làm cho xã hội loài người phát triển từ thấp đến cao.


Sự vận dụng quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình
độ của lực lượng sản xuất ở nước ta.
-Nước ta lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
từ một nước nông nghiệp lạc hậu, do đó xây dựng phương thức sản xuất xã hội
chủ nghĩa là một quá trình lâu dài và đầy khó khăn, phức tạp. Kinh nghiệm thực
tế chỉ rõ, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ và có
những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.


-Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình thức kinh tế
trung gian, quá
độ từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn. Để xây dựng phương thức
sản xuất xã hội chủ nghĩa, chúng ta chủ trương xây dựng một nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm
phát huy mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế, phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất để xây dựng cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Từng bước xã
hội hoá xã hội chủ nghĩa, quá trình đó được thực hiện không phải bằng gò ép
mà được thực hiện từng bước thông qua sự hỗn hợp các hình thức sở hữu như
công ty cổ phần, chủ nghĩa tư bản nhà nước, các hình thức hợp tác xã v.v. để
dần dần hình thành các tập đoàn kinh doanh lớn, trong đó các đơn vị kinh tế
quốc doanh và tập thể là nòng cốt.
­ Chúng ta chỉ bỏ qua những gì của xã hội cũ không còn phù hợp với xã hội mới
thay thế và không đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao hơn; chúng ta chủ
trương thực hiện sự chuyển hoá cái cũ thành cái mới theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
­
Câu 13: Tồn tại xã hội là gì? Ý thức xã hội lag gì? Các yếu tố cấu thành tồn tại xã hội
và ý thức xã hội? Mối quan hệ của các yếu tố đó như thế nào?
- Khái niệm tồn tại xã hội
+ Khái niệm:
Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ toàn bộ sinh hoạt vật chất và điều kiện sinh hoạt vật
chất của mỗi cộng đồng người trong những điều kiện lịch sử xác định.
+ Các yếu tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, gồm có:
 Một là, phương thức sản xuất ra của cải vật chất của xã hội đó. Ví dụ, phương
thức kỹ thuật canh nông lúa nước là nhân tố cơ bản tạo thành điều kiện sinh
hoạt vật chất truyền thống của người Việt Nam.

Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7


Trang 23


 Hai là, các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên - hoàn cảnh địa lý, như: các điều
kiện khí hậu, đất đai, sông hồ,... tạo nên đặc điểm riêng có của không gian sinh
tồn của cộng đồng xã hội.
 Ba là, các yếu tố dân cư, bao gồm: cách thức tổ chức dân cư, tính chất lưu dân
cư, mô hình tổ chức dân cư,...
Các yếu tố đó tồn tại trong mối quan hệ thống nhất biện chứng, tác động lẫn nhau tạo
thành điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội, trong đó phương thức sản xuất vật chất
là yếu tố cơ bản nhất.
Ví dụ, trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm
hình thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam
trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm qua. Để tiến hành được phương thức đó,
người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn định bền
vững,...
- Khái niệm ý thức xã hội
+ Khái niệm:
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh
từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.
+ Kết cấu của ý thức xã hội.
Có thể phân tích từ những góc độ khác nhau:
 Một là, theo nội dung và lĩnh vực phản ánh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao
gồm các hình thái khác nhau, đó là ý thức chính trị, ý thức pháp quvền, ý thức
đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học,...
 Hai là, theo trình độ phản ánh của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội có thể
phân biệt ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận. Ý thức xã hội thông
thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm... của những con người
trong một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ

hoạt dộng thực tiễn hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý
luận. Ý thức lý luận là những tư tương, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái
quát hóa thành các học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái
niệm, phạm trù, quy luật. Ý thức lý luận khoa học có khả năng phản ánh hiện
thực khách quan một cách khái quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên
hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và
mang tính hệ thống tạo thành các hệ tư tưởng.
 Ba là, cũng có thể phân tích ý thức xã hội theo hai trình độ và hai phương thức
phản ánh đối với tồn tại xã hội. Đó là tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội. Tâm
lý xã hội là toàn bộ đời sống tình cảm, tâm trạng, khát vọng, ý chí.... của những
cộng đồng người nhất định; là sự phản ánh trực tiếp và tự phát đối với hoàn
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 24


cảnh sống của họ. Hệ tư tưởng xã hội là toàn bộ các hệ thống quan niệm, quan
điểm xã hội như: chính trị, triết học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo,...; là sự phản
ánh gián tiếp và tự giác đối với tồn tại xã hội.
Câu 14:Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội? Ý nghĩa
phương pháp luận về vấn đề này?
a. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Sự quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, tồn tại xã hội là nguồn gốc khách quan, cơ sở khách quan của sự hình thành,
ra đời của ý thức xã hội (nghệ thuật, tư tưởng, chính trị, pháp quyền).
Thứ hai, tồn tại xã hội quyết định nội dung, tính chất, đặc điểm của ý thức xã hội nói
chung, của các hình thái ý thức xã hội nói riêng.
Thứ ba, tồn tại xã hội thay đổi sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đổi của ý thức xã hội.
Tất nhiên, mức độ, nhịp độ thay đổi của các bộ phận trong ý thức xã hội diễn ra khác
nhau. Có những bộ phận biến đổi nhanh hơn (ví dụ như chính trị, pháp luật), có bộ phận

thay đổi chậm hơn (ví dụ như nghệ thuật, tôn giáo).
Thứ tư, trong xã hội có giai cấp thì ý thức xã hội cũng mang tính giai cấp.
b. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Trong quá trình phát triển của mình, ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại
xã hội. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Có điều này là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Ở đây, ý thức xã hội là cái phản ánh, tồn
tại xã hội là cái được phản ánh. Cái được phản ánh là cái có trước và biến đổi nhanh, còn
cái phản ánh là cái có sau và thường biến đổi chậm hơn cái được phản ánh. Mặt khác,
một số bộ phận của ý thức xã hội, đặc biệt trong các hiện tượng tâm lý xã hội, đã ăn sâu
vào tiềm thức con người, nên nó có tính bảo thủ, có sức ỳ rất lớn. Trong xã hội thường có
lực lượng bảo thủ muốn duy trì những ý thức xã hội lạc hậu theo hướng bảo vệ lợi ích
của mình.
Khắc phục những biểu hiện lạc hậu của ý thức xã hội bằng con đường phát triển kinh tế –
xã hội, phát triển khoa học – kỹ thuật và tuyên truyền giáo dục ý thức tiến bộ, cũng như
phải đấu tranh chống lại những lực lượng bảo thủ, phản tiến bộ.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Nguyên lí cơ bản của CNMLN – Báo Chí 7

Trang 25


×