Tải bản đầy đủ (.doc) (55 trang)

Quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp xã quảng lâm, huyện bảo lâm, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.68 KB, 55 trang )

Quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm,
tỉnh Cao Bằng


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN...................................................................................................1
MỤC LỤC.........................................................................................................2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................4
DANH MỤC CÁC BẢNG................................................................................4
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
Chương 1 TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU........................................3
1.1.Trên thế giới............................................................................................3
1.2. Ở Việt Nam.............................................................................................7
Chương 2 MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP...12
NGHIÊN CỨU................................................................................................12
2.1. Mục tiêu nghiên cứu............................................................................12
2.2. Nội dung nghiên cứu...........................................................................12
2.2.1. Điều tra điều kiện cơ bản của xã Quảng Lâm................................12
2.2.2. Đề xuất quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp của xã
Quảng Lâm................................................................................................12
2.3. Phương pháp nghiên cứu.....................................................................12
2.3.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu.............................................12
2.3.2. Phương pháp xử lý, tổng hợp phân tích tài liệu..............................13
Chương 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN..............................15
3.1. Điều tra điều kiện cơ bản xã Quảng Lâm...........................................15
3.1.1. Điều kiện tự nhiên...........................................................................15
3.1.2. Các nguồn tài nguyên......................................................................16
3.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội.............................................................19
3.2.1. Hiện trạng sử dụng các loại đất.......................................................29
3.2.2. Đánh giá hiện trạng tổng hợp.........................................................30


3.3. Đề xuất quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp xã Quảng
Lâm đến năm 2020......................................................................................32
3.3.1. Các căn cứ đề xuất phương án quy hoạch....................................32


3.3.2. Phương hướng mục tiêu và nhiệm vụ phát triển sản xuất nông
lâm nghiệp................................................................................................33
3.3.3. Quy hoạch sử dụng đất nông lâm nghiệp.......................................35
3.3.4. Quy hoạch các biện pháp phát triển sản xuất nông lâm nghiệp......37
3.3.5 Xây dựng mô hình sản xuất nông lâm nghiệp hiệu quả trên địa bàn
xã Quảng Lâm...........................................................................................41
3.3.6. Dự tính đầu tư và hiệu quả kinh tế cho phương án quy hoạch phát
triển sản xuât nông lâm nghiệp.................................................................43
3.3.7. Đề xuất một số giải pháp thực hiện quy hoạch..............................44
Chương 4 KẾT LUẬN,TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ.......................................49
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ BIỂU


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
NLN
PTNT
QHLN
QHNLN

Viết đầy đủ
Nông lâm nghiệp
Phát triển nông thôn
Quy hoạch lâm nghiệp

Quy hoạch nông lâm nghiệp

DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1. Hiện trạng đất lâm nghiệp xã Quảng Lâm năm 2013.....................21
Bảng 3.2: Hiện trạng và cơ cấu sử dụng đất....................................................29
Bảng 3.3. Quy hoạch phát triển sản xuất đất nông lâm nghiệp đến năm 2020.......35


ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngày nay, tài nguyên rừng của thế giới cũng như ở Việt Nam đã và
đang bị thu hẹp về diện tích, giảm sút về chất lượng, môi trường ngày càng bị
suy thoái, ô nhiễm nghiêm trọng dẫn đến thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh
xảy ra ngày càng tăng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do áp lực về
dân số, kéo theo hoạt động kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đồng thời phát triển các
ngành công nghiệp, sự đô thị hoá cũng diễn ra với tốc độ nhanh. Chính vì vậy,
việc quy hoạch sử dụng hợp lý và bền vững tài nguyên rừng, đất đai cũng như
xây dựng nền nông lâm nghiệp bền vững không còn là trách nhiệm riêng của
một quốc gia nào mà là công việc chung của toàn nhân loại.
Quy hoạch nông lâm nghiệp là một bộ phận cấu thành của quy hoạch tổng
thể nhằm phát triển kinh tế xã hội. Do đó công tác QHNLN cần có sự phối hợp chặt
chẽ với quy hoạch phát triển nông thôn và một số ngành liên quan khác nhằm tránh
sự chồng chéo hạn chế lẫn nhau giữa các ngành. Mỗi ngành kinh tế muốn tồn tại,
phát triển thì nhất thiết phải lập kế hoạch, mà trong đó công tác điều tra cơ bản phục
vụ quy hoạch phải đi trước một bước. Do đặc điểm Việt Nam có địa hình đa dạng,
phức tạp, phân hóa mạnh, cùng với nền kinh tế xã hội và nhu cầu người dân trong
nền kinh tế thị trường cũng hết sức phong phú nên việc QHNLN cho các cấp quản
lý, các đơn vị sản xuất kinh doanh ngày càng trở thành một đòi hỏi thực tế khách
quan. QHNLN là tiền đề vững chắc cho bất kì giải pháp nào nhằm phát huy đồng
thời những tiềm năng to lớn, cực kỳ đa dạng tài nguyên rừng và các điều kiện tự
nhiên kinh tế, xã hội khác góp Chương vào việc phát triển bền vững ở địa phương

và quốc gia. Điều đó chứng tỏ rằng, để việc sản xuất NLN có hiệu quả hay việc sử
dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng bền vững nhất thiết phải có công tác
QHNLN, làm cơ sở cho việc lập kế hoạch, định hướng trước khi các hoạt động sản
xuất kinh doanh NLN khác diễn ra.
Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội việc quy hoạch nông
lâm nghiệp vẫn còn nhiều bất cập: Những diện tích rừng và đất lâm nghiệp
1


được giao sử dụng chưa hiệu quả, năng suất và chất lượng rừng chưa cao, tình
hình sử dụng đất còn thiếu bền vững, cơ cấu cây trồng vật nuôi chuyển đổi
còn chậm.
Những tồn tại trên đã ảnh hưởng đến công tác quy hoạch nông lâm
nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Do đó hướng giải
quyết hiện nay là giúp xã phân bổ lại đất đai, lập phương án quy hoạch nông
lâm nghiệp hợp lý, kết hợp kỹ thuật canh tác, đồng thời giúp người dân đề
xuất được cơ cấu cây trồng vật nuôi phù hợp với gia đình, với kinh tế thị
trường nhằm góp Chương nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của nhân dân
địa phương.
Xuất phát từ những yêu cầu trên chúng tôi thực hiện chuyên đề: " Quy
hoạch phát triển sản xuất nông lâm nghiệp xã Quảng Lâm, huyện Bảo
Lâm, tỉnh Cao Bằng”

2


Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1.Trên thế giới
Quy hoạch vùng tuân theo học thuyết Mác - Lê Nin về phân bố và phát

triển lực lượng sản xuất theo lãnh thổ và sử dụng các phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng.
Dựa trên học thuyết của Mác và Ăng Ghen, V.I. Lê Nin đã nghiên cứu các
hướng cụ thể về kế hoạch hóa phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội chủ
nghĩa. Tại Châu Âu, vào thập niên 30 và 40 của thế kỷ 20, quy hoạch ngành giữ
vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ.
- Công tác quy hoạch vùng ở Liên Xô
Công tác quy hoạch vùng hay còn gọi là quy hoạch vùng sản xuất nông
nghiệp lấy việc nghiên cứu tổng hợp tất cả các điều kiện tự nhiên kinh tế xã
hội của mỗi vùng làm nguyên tắc chủ đạo để phân bố lực lượng sản xuất. Từ
đánh giá sức lao động và nguồn tài nguyên thiên nhiên đã đi tới nhận định
phân bố lực lượng sản xuất hợp lý là một trong các điều kiện cơ bản để nâng
cao năng suất lao động tích lũy nhiều của cải vật chất cho xã hội, không
ngừng phát triển sản xuất và văn hóa của đất nước.
- Quy hoạch vùng lãnh thổ ở Bungari
Mục đích của việc quy hoạch đó là sử dụng hiệu quả nhất lãnh thổ của
đất nước. Nội dung của quy hoạch đó là:
- Cụ thể hóa, chuyên môn hóa sản xuất nông nghiệp.
- Phối hợp giữa sản xuất công nghiệp và sản xuất nông nghiệp theo
ngành dọc.
- Xây dựng các mạng lưới công trình phục vụ công cộng và sản xuất.
- Tổ chức đúng đắn mạng lưới khu dân cư và phục vụ công cộng liên hợp
trong phạm vi hệ thống nông thôn.
3


- Bảo vệ môi trường thiên nhiên, tạo điều kiện tốt cho nhân dân lao động,
sinh hoạt.
- Quy hoạch vùng ở Pháp
Thực hiện theo quan điểm hệ thống các mô hình quy hoạch vùng lãnh

thổ của M. Pierre Thénevin. Trong nghiên cứu quy hoạch vùng này người ta
đã nghiên cứu hàm mục tiêu cực đại giá trị tăng thêm xã hội với các ràng
buộc trong nội bộ vùng, có quan hệ với các vùng khác và nước ngoài.
- Quy hoạch vùng lãnh thổ của Thái Lan
Công tác quy hoạch vùng lãnh thổ được chú ý từ những năm 1970. Hệ
thống quy hoạch được tiến hành theo 3 cấp: (Quốc gia, vùng, địa phương).
Quy hoạch phải gắn liền với tổ chức hành chính và quản lý Nhà nước,
phải phối hợp với chính quyền, địa phương .
Như vậy công tác quy hoạch vùng lãnh thổ đã được tiến hành ở nhiều
nước từ lâu và đã đạt được những kết quả nhất định.
Quy hoạch vùng nông nghiệp là một biện pháp tổng hợp của Nhà nước
về phân bố và phát triển lực lượng sản xuất trên lãnh thổ các vùng hành chính,
nông nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu về phát triển tất cả các ngành kinh tế
trong vùng.
Quy hoạch vùng nông nghiệp là giai đoạn kết thúc của kế hoạch hóa
tương lai của Nhà nước một cách chi tiết sự phát triển và phân bố lực lượng
sản xuất theo lãnh thổ của các vùng, là biện pháp xác định các xí nghiệp
chuyên môn hóa một cách hợp lý. Là biện pháp sử dụng đất đai, lợi dụng các
yếu tố tự nhiên, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật…
Vùng hành chính là đối tượng quy hoạch vùng nông nghiệp, đồng thời
cũng là vùng lãnh thổ mà ở đó có các điều kiện kinh tế, vùng tổ chức lãnh thổ
thuận lợi cho việc phát triển tất cả các ngành kinh tế - quốc dân.
Sự phát triển của quy hoạch lâm nghiệp gắn liền với sự phát triển kinh tế
Tư bản chủ nghĩa. Do công nghiệp và giao thông vận tải phát triển, nên nhu cầu
4


về gỗ ngày càng tăng. Sản xuất gỗ đã tách khỏi nền kinh tế địa phương của chế
độ phong kiến và bước vào thời đại kinh tế hàng hoá Tư bản chủ nghĩa. Thực tế
sản xuất lâm nghiệp đã không còn bó hẹp trong việc sản xuất gỗ đơn thuần mà

cần phải có ngay những lý luận và biện pháp nhằm đảm bảo thu hoạch lợi
nhuận lâu dài cho các chủ rừng. Chính hệ thống hoàn chỉnh về lý luận quy
hoạch lâm nghiệp đã được hình thành trong hoàn cảnh như vậy.
Đầu thế kỷ 18, những nguyên tắc đơn giản nhất của kinh doanh tổ chức
rừng bắt đàu được áp dụng để thu được sản phẩm gỗ đều đặn. Phạm vi quy
hoạch lâm nghiệp mới chỉ giải quyết việc “ Khoanh khu chặt luân chuyển”, có
nghĩa đem trữ lượng hoặc diện tích tài nguyên rừng chia đều cho từng năm của
chu kỳ khai thác và tiến hành khoanh khu chặt luân chuyển theo trữ lượng hoặc
diện tích. Phương thức này phục vụ cho kinh doanh rừng chồi, chu kỳ khai
thác ngắn.
Sau Cách mạng công nghiệp, vào thế kỷ 19 phương thức kinh doanh
rừng chồi được thay bằng phương thức kinh doanh rừng hạt với chu kỳ khai
thác dài. Và phương thức “Khoanh khu chặt luân chuyển” nhường chỗ cho
phương thức “Chia đều” của Hartig. Hartig đã chia đều chu kỳ khai thác
thành nhiều thời kỳ lợi dụng và trên cơ sở đó khống chế lượng chặt hàng năm.
Đến năm 1816, xuất hiện phương thức luân kỳ lợi dụng của H. Cotta, Cotta
chia chu kỳ khai thác thành 20 thời kỳ lợi dụng và cũng lấy đó để khống chế
lượng chặt hàng năm.
Sau đó phương pháp “Bình quân thu hoạch” ra đời, quan điểm của
phương pháp này là giữ đều mức thu hoạch trong chu kỳ khai thác hiện tại, đồng
thời vẫn đảm bảo thu hoạch được liên tục trong chu kỳ sau. Và đến cuối thế kỷ
19, xuất hiện phương pháp “Lâm Chương kinh tế” của Judeich. Phương pháp
này khác với phương pháp “Bình quân thu hoạch” về căn bản, Judeich cho rằng
những lâm Chương nào đảm bảo thu hoạch được nhiều tiền nhất sẽ được đưa
vào diện khai thác. Hai phương pháp “Bình quân thu hoạch” và “Lâm Chương
5


kinh tế” chính là tiền đề của hai phương pháp tổ chức kinh doanh và tổ chức
rừng khác nhau.

Phương pháp “Bình quân thu hoạch” và sau này là phương pháp “Cấp
tuổi” chịu ảnh hưởng của “Lý luận rừng tiêu chuẩn”, có nghĩa là rừng phải có kết
cấu tiêu chuẩn về tuổi cũng như về diện tích, trữ lượng, vị trí và đưa các cấp tuổi
cao vào diện tích khai thác. Hiện nay, phương pháp kinh doanh rừng này được
dùng phổ biến ở các nước có tài nguyên rừng phong phú. Còn phương pháp
“Lâm Chương kinh tế” và hiện nay là phương pháp “Lâm Chương” không căn
cứ vào tuổi rừng mà dựa vào đặc điểm cụ thể của mỗi lâm Chương tiến hành phân
tích, xác định sản lượng và biện pháp kinh doanh. Cũng từ phương pháp này, còn
phát triển thành “Phương pháp kinh doanh lô” và “Phương pháp kiểm tra” .
Trong suốt hai thế kỷ 18 và 19, ngành khoa học về quy hoạch lâm nghiệp
và điều chế rừng dần từng bước bổ sung các cơ sở lý luận, hoàn thiện các giải
pháp tối ưu trong kinh doanh rừng. Phát triển mạnh nhất của ngành khoa học này
là ở Châu Âu như ở Đức và Áo, tên gọi của ngành khoa học này cũng luôn thay
đổi do quan niệm và nhận thức trong từng giai đoạn khác nhau.
Tại châu Âu, vào thập kỷ 30 và thập kỷ 40 của thế kỷ 20, quy hoạch
ngành giữ vai trò lấp chỗ trống của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu
thế kỷ. Năm 1946, Jack.G.V. đã cho ra đời chuyên khảo đầu tiên về phân loại
đất đai với tên" Phân loại đất đai cho quy hoạch sử dụng đất". Đây cũng là tài
liệu đầu tiên, đề cập đến đánh giá khả năng của đất cho quy hoạch sử dụng
đất. Tại vùng Rhodesia trước đây (nay là Cộng hoà Zimbabwe) Bộ Nông
nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay hướng dẫn quy hoạch sử dụng đất hộ trợ cho
quy hoạch cơ sở hạ tầng cho công tác trồng rừng. Vào đầu những năm 60 của
thế kỷ 20, Tạp chí "East African Journal for Agriculture and Forestry" đã xuất
bản nhiều bài báo về quy hoạch cơ sở hạ tầng ở Nam châu Phi. Năm 1966,
Hội Đất học của Mỹ và Hội Nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo về hướng

6


dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong quy hoạch sử

dụng đất...
Trước những năm 70 của thế kỷ 20, quan niệm về quy hoạch và điều
chế rừng cũng chỉ quan tâm chủ yếu đến lợi nhuận và mục tiêu sản xuất gỗ là
chính. Nhiều công trình nghiên cứu khoa học tập trung vào các lĩnh vực sản
lượng gỗ, và việc tổ chức rừng trong quy hoạch và điều chế cũng nhằm mục
tiêu sản xuất gỗ liên tục.
Tuy nhiên, ngày nay trước những thay đổi về môi trường toàn cầu cũng
như trong từng khu vực, quốc gia đã đòi hỏi ngành lâm nghiệp xem xét việc quy
hoạch rừng và tổ chức sản xuất kinh doanh và thực tế cho thấy khoa học về tổ
chức rừng này không chỉ đơn thuần là khoa học thuần túy về cấu trúc, sản lượng,
sinh vật học rừng mà còn liên quan đến yếu tố văn hóa, xã hội, kinh tế, môi
trường. Do đó quy hoạch và điều chế rừng ngày nay cần có những thay đổi trong
nhận thức cũng như giải pháp toàn diện để kinh doanh bền vững tài nguyên rừng..
1.2. Ở Việt Nam
Quy hoạch nông nghiệp huyện được tiến hành ở hầu hết các huyện, là
một quy hoạch ngành bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ sản, thủ
công nghiệp và công nghiệp chế biến. Nhiệm vụ chủ yếu của quy hoạch nông
nghiệp huyện là:
(1) Trên cơ sở điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện căn cứ vào
dự án phát triển, phân bố lực lượng sản xuất và phân vùng nông nghiệp tỉnh
hoặc thành phố đã được phê duyệt, xác định phương hướng nhiệm vụ, mục
tiêu phát triển nông nghiệp và xây dựng các biện pháp nhằm thực hiện được
các mục tiêu đó theo hướng chuyên môn hoá tập trung hoá kết hợp phát triển
tổng hợp nhằm thực hiện 3 mục tiêu nông nghiệp là giải quyết lương thực,
thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và nông sản xuất khẩu ổn định.

7


(2) Hoàn thiện phân bổ sử dụng đất đai cho các đối tượng sử dụng

đất nhằm sử dụng đất đai được hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ và nâng cao
được độ phì nhiêu của đất.
(3) Tạo điều kiện để ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nông
nghiệp.
(4) Tính vốn đầu tư cơ bản và hiệu quả của sản xuất nông nghiệp
theo quy hoạch.
Quy hoạch lâm nghiệp là tiến hành phân chia, sắp xếp hợp lý về mặt
không gian tài nguyên rừng và bố trí cân đối các hạng mục sản xuất kinh
doanh theo các cấp quản lý lãnh thổ và các cấp quản lý sản xuất khác nhau
làm, cơ sở cho việc lập kế hoạch cho sản xuất kinh doanh lâm nghiệp đáp
ứng nhu cầu lâm sản cho nền kinh tế quốc dân, cho kinh tế địa phương,
đồng thời phát huy những tác dụng có lợi khác của rừng.
Quy hoạch lâm nghiệp liên quan rất nhiều đến các hoạt động sản xuất
của các ngành khác và nó được đặt trong bối cảnh phát triển kinh tế, xã hội
của vùng, khu vực cũng như nhu cầu của từng địa phương, do đó phương
án quy hoạch cần xem xét mối quan hệ này, đặc biệt xuất phát từ thực tế.
Hiện nay chúng ta đã có nhiều thay đổi trong cách tiếp cận trong xây dựng
phương án quy hoạch, thay vì các quy hoạch thường do một nhóm chuyên
gia xây dựng trên cơ sở các luận cứ khoa học về rừng, đất...thường bỏ quên
mối quan hệ với dân cư tại chỗ, chúng ta đã từng bước tổ chức quy hoạch ở
cấp xã với sự tham gia của nhiều bên liên quan.
Quy hoạch lâm nghiệp áp dụng ở nước ta ngay từ thời kỳ Pháp thuộc,
áp dụng thông qua các mô hình rừng trồng, như việc xây dựng phương án
điều chế rừng chồi, sản xuất củi. Điều chế rừng Thông theo phương pháp
hạt đều .
Đến năm 1955 - 1957, tiến hành sơ thám và mô tả ước lượng tài
nguyên rừng, năm 1958 - 1959 tiến hành thống kê trữ lượng rừng miền
8



Bắc, mãi đến năm 1960 - 1964, công tác quy hoạch lâm nghiệp mới áp
dụng miền Bắc. Sau năm 1975 hình thành các liên hiệp lâm nghiệp, các
lâm trường trong cả nước, chúng ta tiến hành các cuộc tổng kiểm kê tài
nguyên rừng và xây dựng phương án quy hoạch lâm nghiệp cho từng cấp
lãnh thổ, trong đó chú trọng các đơn vị trực tiếp kinh doanh lâm nghiệp
như Liên hiệp lâm nghiệp, lâm trường. Giai đoạn này phương án quy hoạch
lâm nghiệp được xem như là yếu tố pháp lý để tổ chức sản xuất kinh doanh
cho một đơn vị lâm nghiệp. Tuy nhiên thực tế cũng cho thấy rằng các
phương án này thường chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế và khó thực thi,
do trong quá trình xây dựng phương án chúng ta chưa phản ánh được thực
trạng nhu cầu xã hội hoặc do cơ sở dữ liệu có độ tin cậy thấp, đồng thời với
nó là sự tách biệt cộng đồng dân cư trong các cấp kinh doanh, quản lý bảo
vệ rừng; điều này đã dẫn đến rừng kinh doanh kém hiệu quả, rừng vẫn bị
mất. Từ những năm 80 của thế kỷ 20 chúng ta bắt đầu chú trọng vào khoa
học điều chế rừng, tức là cố gắng tổ chức rừng khoa học hơn về không gian
và thời gian, tránh kinh doanh rừng làm mất rừng. Dựa vào phương án quy
hoạch, hầu hết các lâm trường đều phải xây dựng phương án điều chế rừng
và hàng năm đều có các thiết kế sản xuất. Hoạt động này đã đóng góp tích
cực vào việc quản lý kinh doanh gỗ ổn định hơn, tuy nhiên về kỹ thuật các
phương án này cũng ở mức đơn giản. Nhưng qua hơn 20 năm thực hiện
chúng ta cũng thấy rằng các phương án này vẫn nặng về kỹ thuật, lý thuyết
về việc áp dụng trong thực tế rất hạn chế, hơn nữa nó cũng tập trung vào
khai thác gỗ; những yếu tố về quan hệ xã hội trong kinh doanh rừng chưa
được xem xét, việc thâm canh rừng với sản phẩm đa dạng chưa được đề
cập nhiều. Điều này đòi hỏi quy hoạch cũng như điều chế rừng xem xét
cách tiếp cận cũng như vận dụng lý thuyết sản lượng trong thực tiễn. Thực
tế cho thấy điều chế rừng và quy hoạch có tính xã hội sâu sắc, chúng ta cần
quan tâm hơn đến kiến thức bản địa, năng lực, nguồn lực tại chỗ để xây
9



dựng một kế hoạch kinh doanh rừng khả thi và có hiệu quả hơn, trong đó
chú ý đến vai trò của cộng đồng, người dân, những kinh nghiệm cũng như
sự tham gia của họ, và kinh doanh rừng phải đóng góp vào việc nâng cao
đời sống của dân sống trong vùng gần rừng. Từ năm 1965 đến nay, lực
lượng quy hoạch lâm nghiệp ngày càng được tăng cường và mở rộng. Viện
điều tra quy hoạch rừng kết hợp chặt chẽ với lực lượng điều tra quy hoạch
của các Sở Lâm nghiệp (nay là Sở Nông nghiệp & PTNT) không ngừng cải
tiến phương pháp điều tra, quy hoạch lâm nghiệp của nước ngoài cho phù
hợp với trình độ và điều kiện tài nguyên rừng ở nước ta. Tuy nhiên, so với
lịch sử phát triển của các nước khác thì quy hoạch lâm nghiệp nước ta hình
thành và phát triển muộn hơn nhiều. Vì vậy, những nghiên cứu cơ bản về
kinh tế, xã hội, kỹ thuật và tài nguyên rừng làm cơ sở cho công tác này ở
nước ta đang trong giai đoạn vừa tiến hành vừa nghiên cứu áp dụng .
Theo Chiến lược Phát triển Lâm nghiệp quốc gia giai đoạn 2006 - 2020
một trong những tồn tại mà Bộ Nông nghiệp & PTNT đánh giá là: “Công tác
quy hoạch nhất là quy hoạch dài hạn còn yếu và chậm đổi mới, chưa kết hợp
chặt chẽ với quy hoạch của các ngành khác, còn mang nặng tính bao cấp và
thiếu tính khả thi. Chưa quy hoạch 3 loại rừng hợp lý và chưa thiết lập được
lâm Chương ổn định trên thực địa.. ”. Đây cũng là nhiệm vụ nặng nề và cấp
bách đối với ngành lâm nghiệp của nước ta hiện nay.
Năm 1997, ngành Lâm nghiệp thực hiện tổng kiểm kê toàn quốc theo
chỉ thị 286/TTg ngày 02/05/1997 của Thủ tướng chính phủ nhằm chuẩn bị
thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng và phát triển kinh tế lâm nghiệp,
nhiều địa phương đã tiến hành lập dự án QHLN, kể từ đó công tác QHLN
được các địa phương hết sức quan tâm..
Song song với việc tiến hành áp dụng công tác QHLN vào thực tiễn
sản xuất môn học QHLN đã được đưa vào giảng dạy ở các trường đại học
chuyên ngành.
10



Ngày nay khoa học quy hoạch lâm nghiệp và điều chế rừng đang tiếp
tục được phát
triển với những yêu cầu mới, trong đó xem xét một cách toàn diện
hơn việc tổ chức nghề rừng trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội, bảo
đảm ba yêu cầu cơ bản là bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường.

11


Chương 2
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích, đánh giá được điều kiện cơ bản của xã Quảng Lâm ảnh
hưởng đến phát triển nông lâm nghiệp, đánh giá tình hình sản xuất nông lâm
nghiệp từ đó đề xuất các nội dung cơ bản cho quy hoạch nông lâm nghiệp cho
xã Quảng Lâm.
2.2. Nội dung nghiên cứu
2.2.1. Điều tra điều kiện cơ bản của xã Quảng Lâm
- Điều tra điều kiện tự nhiên
- Điều tra điều kiện kinh tế- xã hội
- Hiện trạng quản lý sử dụng đất
2.2.2. Đề xuất quy hoạch phát triển sản xuất nông lâm
nghiệp của xã Quảng Lâm
- Các căn cứ đề xuất phương án quy hoạch
- Phương hướng, mục tiêu và nhiệm vụ phát triển sản xuất nông,
lâm nghiệp.
- Quy hoạch sử dụng đất nông, lâm nghiệp.

- Quy hoạch các biện pháp phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp.
- Dự tính đầu tư và hiệu quả.
- Đề xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Các tài liệu về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế của huyện, xã.
- Các báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp
trên địa bàn xã.
12


- Tình hình sản xuất nông lâm nghiệp của xã trong 3 năm từ 2008 - 2010
- Phương án quy hoạch sử dụng đất
- Các số liệu thống kê về đất đai, cơ sở hạ tầng, kết quả sản xuất, thị
trường giá cả...
- Các tài liệu, văn bản về chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
cũng như các chính sách của địa phương, các ngành có liên quan đến ngành
nông lâm nghiệp.
- Các số liệu về thời tiết, khí hậu
Những số liệu trên được thu thập, kế thừa từ các cơ quan: Uỷ ban nhân dân
xã Quảng Lâm, Ban Nông lâm nghiệp xã, Phòng Nông nghiệp và phát triển nông
thôn huyện, Phòng Tài nguyên - Môi trường huyện, Hạt kiểm lâm huyện và một
số cơ quan khác về các hoạt động sản xuất kinh doanh nông lâm nghiệp.
- Ngoài các số liệu trên, đề tài còn tiến hành thu thập một số qui trình
qui phạm của ngành, các hướng dẫn kỹ thuật liên quan đến quy hoạch nông
lâm nghiệp do các tổ chức, các chương trình và dự án đề xuất.
2.3.2. Phương pháp xử lý, tổng hợp phân tích tài liệu
- Các thông tin liên quan đến điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội như: vị trí
dịa lý, địa hình địa thế, khí hậu thời tiết, đất đai, tài nguyên động thực vật,

thực trạng phát triển kinh tế, dân số, thành Chương dân tộc, cơ sở hạ tầng...
được kế thừa có chọn lọc từ nguồn tài liệu của các cơ quan chuyên môn thuộc
tỉnh, huyện, xã.
- Hệ thống các thông tin liên quan đến tổ chức và thể chế được tổng hợp
và phân tích bằng phương pháp SWOT để đánh giá điểm mạnh (Strongth),
điểm yếu (Weakness), Cơ hội (Oppotunity) và những hạn chế, nguy cơ, thách
thức (Threat) để đề xuất giải pháp quy hoạch phù hợp.
- Tổng hợp phân tích các thông tin chuyên đề như: Tình hình sử dụng
đất, tình hình sản xuất lâm nghiệp. Khai thác tối đa các thông tin từ các bản
đồ hiện trạng sử dụng đất, bản đồ địa hình, bản đồ phân chia các loại rừng và
13


phân cấp phòng hộ. Bản đồ quy hoạch được xây dựng dựa trên bản thuyết
minh và tuân theo đúng các quy định về làm bản đồ.
- Các thông tin điều tra phục vụ cho quy hoạch bảo vệ và phát triển lâm
nghiệp được tổng hợp theo phương pháp tối ưu hoá mục tiêu và phân tích đa
tiêu chuẩn áp dụng cho xây dựng kế hoạch. Trong quá trình xử lý tài liệu, tiến
hành chỉnh lý và sắp xếp các thông tin theo thứ tự ưu tiên mức độ quan trọng
của vấn đề phân tích các ý kiến quan điểm để lựa chọn tìm ra giải pháp.

14


Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Điều tra điều kiện cơ bản xã Quảng Lâm
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý
Quảng Lâm là một xã thuộc huyện Bảo Lâm, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam.

Xã có hình dạng kéo dài theo chiều đông-tây và có vị trí:
- Bắc giáp với xã Thạch Lâm, xã Tân Việt, xã Nam Quang
- Đông giáp thị trấn Pác Miầu
- Nam giáp với ba xã Yên Phong , Yên Phú, Giáp Sơn, huyện Bắc Mê ,
tỉnh Hà Giang
- Tây giáp xã Minh Sơn của huyện Bắc Mê, xã Du Tiến của huyện Yên Minh
Xã Quảng Lâm có 10 xóm: Cốc Lùng, Nà Luông, Bản Nà, Nà Đon, Nà
Kiểng, Nậm Moòng, Phiêng Mường, Phiêng Phát, Tổng Chảo, Tổng Ngoảng
Lùng Hóa, Hợp Tiến.
3.1.1.2. Địa hình
Địa hình diện mạo của xã Quảng Lâm có dạng địa hình đặc trưng cơ
bản, núi cao và thung lũng núi đá.
Địa núi cao của xã chủ yếu là núi đá vôi có độ cao từ 160m- 1776m, độ
dốc trung bình từ 250 - 350, địa hình đất dốc từ tây sang đông, chủ yếu sử
dụng vào sản xuất nông, lâm nghiệp kết hợp. Trên địa bàn xã Quảng Lâm có
núi Mã Lùng cao 1776 mét ở ranh giới với tỉnh Hà Giang
3.1.1.3. Khí hậu
Theo số liệu thống kê hàng năm, cho thấy Quảng Lâm là xã nằm trong
vùng khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, một năm chia thành hai mùa rõ rệt.
Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 trong năm, tháng 8 có lượng mưa lớn
nhất 452,5mm.

15


Mùa khô từ tháng 11 trong năm đến tháng 3 năm sau, lượng mưa trung
bình 45,95mm.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 200c, nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất
là 100c. Tổng lượng mưa hàng năm 1700mml phân bố không đồng đều.
3.1.1.4. Thủy văn

Hệ thủy văn trong xã phụ thuộc theo mùa, mùa mưa nhiều nước, mùa
khô ít nước.
Xã có suối Cốc Pục, suối Tổng Ngắng và dòng chính của sông Gâm
chảy trên địa phận phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản và
sinh hoạt. Nhìn chung hệ thống thủy lợi của xã còn khá hạn chế. Những thôn
cao đều khó khăn về nước sinh hoạt và sản xuất.
3.1.2. Các nguồn tài nguyên
3.1.2.1. Tài nguyên đất
- Đất phù sa: (P)
Đất phù sa trung tính điển hình (P), đất được hình thành do phù sa các
con suối, thành phần cơ giới thịt nặng chặt, cục đất giữ nước phù hợp cho sản
xuất nông nghiệp.
- Đất feralit (xf).
Đất xám feralit điển hình: (xf-h) gồm: Đất feralit đá nông (xf-đ1), đất
feralit đá sâu (xf-đ2). Đất nghèo chất kiềm phân bố rỉa rác khắp toàn xã, có
thành phần cơ giới thịt trung bình, nhìn chung đất có độ phì tương đối khá,
nhưng ở địa hình cao chia cắt mạnh. Loại đây này với với diện tích 1.259,0 ha
chiếm 25,44% tổng diện tích tự nhiên của xã phân bố chủ yếu ở phía đông,
một phần sự dụng vào mục đích nông nghiệp và lâm nghiệp kết hợp.
- Đất xám mùn trên núi (ký hiệu Xu): Gồm đất xám mùn trên núi đá
sâu thành phần cơ giới thịt nặng, ký hiệu Xu-đ2. Đất xám mùn điển hình (Xuh): là đất có thành phần cơ giới thịt trung bình, phản ứng chua nhiều pHkcl<4,5 hàm lượng mùn và đạm tổng số tầng mặt giàu (5,2%-0,251%). Các
16


tầng dưới trung bình và nghèo, lân tổng số tầng mặt khá (0,115%), các tầng
dưới khá (>1,1%) lân dễ tiêu rất nghèo (<5mg/100g) kali dễ tiêu nghèo (58mg/100g đất).
Đây là loại đất có độ phì cao nhưng hạn chế sự dụng vì đất ở vùng núi
có địa hình dốc, đi lại khó khăn. Đất được phân bố ở phía tây của xã, mức dộ
chia cắt mạnh. Vì vậy sử dụng vào mục đích nông nghiệp là hạn chế, đất chủ
yếu dùng để phát triển rừng, bảo vệ môi trường, có thể trồng cây ăn quả và

cây lược liệu ôn đới.
- Đất đỏ (Fu):
Đất có thành phần cơ giới nặng phản ứng hơi chua. Đất được hình
thành theo thung lũng sông Miện, đất tốt c o khả năng sử dụng vào nông
nghiệp nhưng diện tích ít. Có 2 loại:
+ Đất mùn vàng đỏ đá nông (Fuđ1): Phản ứng chua vừa pHkcl 5,1 – 5,23
hàm lượng mùn và đạm tổng số tầng mặt giàu (4,51% - 0,242%). Các tầng dưới
trung bình (0.8%) lân và kali dễ tiêu ở mức độ nghèo (5mg/100g đất).
+ Đất mùn vàng đỏ đá sâu (Fuđ2): Phản ứng chua vừa pHkcl 5.3 –
5.36, hàm lượng mùn và đạm tổng số tầng mặt giàu (5.03 – 0.2196%). Các
tầng dưới trung bình và nghèo, lân tổng số gaifu (0.67 – 0.219), kali tổng số
trung bình khá ()0.933 – 1.136%) lân và kali dễ tiêu tầng mặt trung bình
(11.7mg/100g đất) các tầng dưới nghèo.
3.1.2.2. Tài nguyên nước
Là một số có địa hình tương đối phức tạp có nhiều khe sâu núi đá, khí
hậu khô nóng, xã vì vậy nên xã không chú trọng đến phát triển thủy.
Nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn xã
được lấy chủ yếu từ hai nguồn.
+ Quảng Lâm là xã có nguồn nước mặt tương đối dồi dào, có con sông
Miện chảy qua chiều dài khoảng 8.0km. Tuy nhiên lượng mưa phân bố không
đồng đều trong năm. Về mùa mưa do mưa lớn, do nước sông chảy xiết về mùa
mưa, đã tạo nên dòng chảy mạnh gây lũ lớn làm ảnh hưởng đến sản xuất và giao
17


thông. Mùa khô lượng mưa ít mực nước ở các suối, sông hạ thấp gây nên hiện
tượng thiếu nước, ảnh hưởng đến sinh hoạt và phát triển nông nghiệp.
+ Nguồn nước ngầm của xã hiện chưa được thăm dò nên chưa nắm được
trữ lượng cụ thể, nguồn nước sinh hoạt chủ yếu là sử dụng nguồn nước mặt nên
chất lượng không đảm bảo do chưa có hệ thống xử lý, người dân quen với việc sử

dụng nước trực tiếp từ hệ thống các khe, suối nên chưa đảm bảo vệ sinh.
3.1.2.3. Tài nguyên rừng
Tổng diện tích đất rừng 5.377,94 ha chiếm 73,24% diện tích đất tự
nhiên toàn xã Quảng Lâm, đất trồng rừng sản xuất 0,19 ha, đất quy hoạch rừng
phòng hộ 4714,89ha, đất khoanh nuôi rừng phòng hộ là 662,86ha . Là xã có diện
tích đất rừng rộng, núi đá nên có nhiều loại nhóm gỗ hiếm, núi đá cao hóa thạch
hùng vĩ đẹp thu hút khách du lịch thăm quan du lịch trở thành điểm đến của khách
du lịch trong và ngoài nước.
3.1.2.4. Tài nguyên nhân văn
Quảng Lâm có nền văn hóa khá đa dạng và phong phú, là sự kết hợp
hài hòa văn hóa truyền thống của 6 dân tộc anh em H’Mông, Dao, Thái, Tày,
Nùng, Giáy, Cao Lan cùng chung sống trên địa bàn xã. Mỗi dân tộc có phong
tục tập quán và văn hóa khác nhau tạo nên một bức tranh văn hóa đa sắc màu.
Đây là yếu tố quan trọng, là tiềm năng để mở rộng khai thác phát triển du lịch
văn hóa cộng đồng trong tương lai.
Người dân xã Quảng Lâm có truyền thống cần cù trong lao động, anh
dũng trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, sáng tạo và thông minh trong xây
dựng quê hương đất nước. Nếp sống văn hóa ngày càng được củng cố, các
nếp sinh hoạt, lễ hội, phong tục tập quán lành mạnh vẫn được nhân dân bảo
tồn và phát triển như khèn Mông, kéo co, ném còn, đẩy gậy.
3.1.2.5. Môi trường
Hiện tại nhìn chung môi trường cảnh quan Quảng Lâm là xã có cảnh
quan ít bị ô nhiễm, nhưng vẫn còn thôn cao diện tích không gian chật hẹp,

18


chôn cất gần nhà ở, chưa có bãi rác tập trung, nên nếu không có biện pháp
khắc phục kịp thời, ô nhiễm môi trường sẽ xảy ra trong thời gian tới.
3.1.2.6. Đánh giá về điều kiện tự nhiên

*Thuận lợi
Là xã có sông Gâm chảy qua, đồi núi đẹp thuận lợi để phát triển dịch
vụ du lịch, tham quan.
Chế độ mưa, nhiệt độ và ánh sáng thuận lợi, diện tích đất lúa nước khá
lớn để phát triển Nông lâm nghiệp như trồng lúa nước, nghề rừng, chăn
nuôi…
Đất đai và khí hậu đa dạng, phù hợp với nhiều loại cây trồng sinh trưởng
và phát triển, đây là một tiền đề để phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, mà
cụ thể là việc quy hoạch các khu sản xuất nông nghiệp tập trung theo hướng sản
xuất hàng hóa, qua đó góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói
chung và cơ cấu cây trồng nói riêng của huyện trong những năm tới.
* Hạn chế
Có vị trí địa lý khá phức tạp do địa hình bị chia cắt mạnh nên khó khăn
trong hoạt động đi lại, đồi núi cao và sản xuất của các xóm bị chia cắt.
Tập đoàn cây rừng và động vật rừng nghèo, tập trung trên đỉnh núi cao
nên lâm sản thu được từ rừng không cao.
Diện tích rừng hiện còn chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn. Rừng
trồng quá ít, môi trường sinh thái tự nhiên đã và đang mất cân bằng.
Trong những năm qua thời tiết khí hậu, thiên tai, dịch bệnh gia súc gia
cầm thường xuyên xảy ra gây ảnh hưởng đến phát triển chăn nuôi.
3.1.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
- Cơ cấu kinh tế: Ngành Nông – Lâm nghiệp hiện nay chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu kinh tế của xã, hình thức kinh tế tự cung tự cấp vẫn còn khá
phổ biến trong nhân dân, ý chí vươn lên còn nhiều hạn chế. Dịch vụ đang
hình thành và phát triển, tuy nhiên quy mô còn khá nhỏ.
19


Nhìn chung quá trình chuyển đổi cơ cấu và phát triển kinh tế xã Quảng
Lâm diễn ra còn chậm, thu nhập bình quân trên đầu người trong xã còn thấp,

đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn
- Thu nhập bình quân đầu người 3 triệu đồng/ người/ năm
- Tỷ lệ hộ nghèo 85.5%.
3.1.3.1. Sản xuất nông nghiệp
Sản xuất nông nghiệp – lâm nghiệp của xã Quảng Lâm hiện nay tập
trung chủ yếu vào trồng trọt và chăn nuôi, phát triển lâm nghiệp đã được quan
tâm đầu tư trong giai đoạn vừa qua nhưng ngành lâm nghiệp phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng của xã.
* Ngành trồng trọt :
- Tổng diện tích gieo trồng năm 2013 đạt 1.120 ha. Trong đó: Diện tích
gieo trồng lúa 278,13ha, đất trồng lúa nước còn lại là 224,43ha.
Đất trồng cây hàng năm khác là1506,36ha, đất trồng cây ăn quả lâu
năm là 0,28ha, đất trồng cây ăn quả lâu năm khác là 43,95ha… cho năng suất
cao góp phần rất lớn việc chủ động thức ăn cho chăn nuôi đàn gia súc.
* Ngành chăn nuôi :
Xã có điều kiện thuận lợi trong phát triển chăn nuôi đàn gia súc lấy thịt.
Hơn nữa việc sử dụng sức trâu, bò để cày kéo, trên địa bàn xã vẫn còn phổ
biến nên trong giai đoạn vừa qua đàn trâu, bò của xã vẫn có chiều hướng phát
triển về tổng đàn.
- Tổng đàn trâu, bò năm 2012 đạt 1.740 con (tăng 217 con so với năm
2008 ) ; trong đó đàn bò đạt 1.320 con (tăng 108 con so với năm 2013).
- Tổng đàn lợn năm 2012 đạt 1.210 con (tăng 510 con so với năm 2008).
Trong năm 2011 UBND xã luôn chỉ đạo ban thú y và khuyến nông viên
thôn bản nắm tình hình dịch bệnh xảy ra trên địa bàn xóm, báo cáo kịp thời
khi có dịch bệnh xảy ra, để có biện pháp phòng và điều trị kịp thời.
Nhìn chung, tổng đàn gia súc gia cầm sinh trưởng phát triển tốt, tăng
trưởng tổng khá nhanh. Công tác tiêm phòng được triển khai thực hiện triệt
để, khống chế được dịch bệnh phát sinh. Nhưng hiện tượng trâu bò chết rét
vào mùa đông do thiếu thức ăn dự trữ còn xảy ra phổ biến.
20



* Thủy sản
- Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản năm 2012 đạt 7.5 ha (tăng
2.5ha so với năm 2008). Ước năm 2015 diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 420
ha (tăng 320ha so với năm 2012)
- Sản lượng nuôi thủy sản năm 2012 đạt 4.5 tấn (tăng 1.5 tấn so với
năm 2008) .
3.1.3.2. Sản xuất lâm nghiệp
a. Đất sản xuất lâm nghiệp
Năm 2011 tổng diện tích rừng toàn xã là 4.040.91ha, độ che phủ rừng
chiếm 70.18% diện tích đất tự nhiên, trong đó:
- Đất trồng rừng sản xuất là 1.027.11ha, chiếm 25.42% tổng diện tích
đất lâm nghiệp.
- Đất có rừng phòng hộ có diện tích 3.013.80ha, chiếm 74.58% diện
tích đất lâm nghiệp.
Bảng 3.1. Hiện trạng đất lâm nghiệp xã Quảng Lâm năm 2013
TT

Hạng mục

I

Đất lâm nghiệp

1

Đất rừng sản xuất

2

3

Diện tích (ha)

Cơ cấu (%)

5.377,94

73,24

0.19

0.002

Đất rừng phòng hộ

5377,75

73,24

Đất rừng đặc dụng

0

0,0

21



×