Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

đánh giá tình hình giao đất giao rừng nhằm phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp tại xã nghĩa long, huyện nghĩa đàn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.57 KB, 52 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá của loài người, là điều kiện cần để
sinh tồn, để sản xuất, nó không thể thiếu được. Nó là nguồn tài nguyên vô cùng
quý giá mà thiên nhiên ban tặng cho cuộc sống và trở thành một tài nguyên quý
giá của mỗi quốc gia. Là nguồn lực để phát triển đất nước, là một loại tư liệu sản
xuất đặc biệt của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp để đáp ứng điều kiện cơ bản tối
thiểu của đời sống xã hội loài người đảm bảo cho quá trình sản xuất, xã hội tồn
tại và phát triển. Ngoài ra nó còn là giá đỡ của thực vật, nơi sinh tồn của động vật,
vi sinh vật.
Luật đất đai sửa đổi năm 1993 được Quốc hội thông qua ngày 14/07/1993
có hiệu lực ngày 15/10/1995 đã thừa nhận 5 quyền cơ bản của người sử dụng đất,
quan hệ sản xuất nông lâm nghiệp được xác lập trên cơ sở giao đất cho các hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài đã trở thành động lực thúc đẩy quá trình
nông, lâm nghiệp phát triển. Hiệu quả sử dụng đất được nâng cao so với giai đoạn
trước.
Ngoài ra Chính phủ còn cho ra đời một số Nghị định như: Nghị định
64/CP ngày 27/09/1993 quy định: “Giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp”. Nghị định
02/CP ngày 15/01/1994 quy định: “ Giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp”. Nghị định
163/1999/NĐ – CP ban hành ngày 16/11/1999 bổ sung và thay thế một số điều
trọng nghị định 02/CP.
Gần đây Quốc hội nước ta đã đưa ra luật đất đai số 13/2003/QH. Luật này
quy định về quyền hạn và trách nhiệm của Nhà Nước đại diện chủ sở hữu toàn
dân về đất đai và thống nhất quản lý về đất đai, chế độ quản lý và sử dụng đất đai,
quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất.
1
Luật bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 và các văn bản có liên
quan đến giao đất giao rừng và hưởng dụng rừng như Nghị định 135/2005/NĐ –
CP về giao khoán đất, Quyết định 186/2006/QĐ – TTg về quy chế quản lý rừng,
Quyết định 40/2005/QĐ – BNN về quy chế khai thác gỗ và lâm sản.


Những chính sách này đã từng bước đáp ứng được nhu cầu về quản lý đất
đai, đồng thời đã coi trọng, nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ của người sử dụng
đất, gắn người lao động với đất đai khi họ thực sự là chủ của từng thửa đất, từ đó
việc sử dụng đất có hiệu quả, năng suất cây trồng tăng lên, việc khai thác tài
nguyên rừng và đất rừng đã có sự quản lý chặt chẽ, đất đai đã được khai thác một
cách có hiệu quả, triệt để, tương ứng với tiềm năng.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, chính sách giao đất giao rừng đã thực sự
đi vào cuộc sống, đáp ứng được nguyện vọng của người dân, tạo thêm việc làm,
nâng cao thu nhập và cải thiện cuộc sống, nhiều hộ nông dân có thu nhập khá từ
các hoạt động sản xuất kinh doanh trên đất được giao. Tuy nhiên, trong quá trình
vận dụng triển khai thực hiện những chính sách giao đất giao rừng ở mỗi địa
phương lại có những thuận lợi và khó khăn riêng, chính vì vậy mà tác động của
những chính sách này tới sự phát triển kinh tế xã hội ở mỗi địa phương cũng có
sự khác nhau và mang đặc thù của mỗi vùng, do vậy việc nghiên cứu, đánh giá
tình hình giao đất, giao rừng trong giai đoạn hiện nay và đưa ra một số phương
hướng cho giai đoạn tiếp theo là một việc làm cần thiết.
Xuất phát từ tình hình thực tế dựa trên cơ sở nghiên cứu nhằm hiểu được
hiệu quả công tác quản lý và sử dụng đất sau khi thực hiện chích sách giao đất,
giao rừng để đáp ứng được yêu cầu công tác quản lý nhà nước về đất đai và được
sự cho phép của Nhà trường tôi đã tiến hành nghiên cứu chuyên đề: “ Đánh giá
tình hình giao đất giao rừng nhằm phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp tại xã
Nghĩa Long, Huyện Nghĩa Đàn, Tỉnh Nghệ An”.
2
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. CHÍNH SÁCH ĐẤT ĐAI CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
1.1.1. Chính sách đất đai ở Thái Lan
Tại Thái Lan bước sang chế độ quân chủ, luật ruộng đất được ban hành
năm 1954 đã thúc đẩy mạnh mẽ chích sách kinh tế xã hội của đất nước. Luật
ruộng đất đã công nhận toàn bô đất đai bao gồm đất khu dân cư đều có thể được
mua, tẩu lại từ cá thể. Các chủ đất có quyền tự do chuyển nhượng, cầm cố một

cách hợp pháp, từ đó Chính phủ có được toàn bộ đất trồng ( có khả năng trồng
trọt được) và nhân dân đã trở thành người làm công trên đất ấy. Tuy nhiên, trong
giai đoạn này luật ruộng đất quy định chế độ định canh ngắn, chế độ luân canh
vừa. Bên cạnh đó việc thu địa tô cao, dân số tăng nhanh, tình trạng thiếu đất do
việc phân hóa giàu nghèo, đã dẫn đến việc đầu tư trong nông nghiệp thấp. Từ đó,
năng suất cây trồng trên đất phát canh thấp hơn trên đất tự canh. Bước sang năm
1974 Chính Phủ Thái Lan ban hành chính sách cho thuê đất lúa, quy định rõ việc
bảo vệ người làm thuê, thành lập các tổ chức người địa phương làm việc theo sự
điều hành của trại thuê mướn, Nhà nước tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình
phát triển. Luật cải cách ruộng đất năm 1975 quy định các điều khoản với mục
tiêu biến tá điền thành chủ sở hữu ruộng đất, trực tiếp sản xuất trên đất Nhà Nước
quy định hạn mức đối với đất trồng trọt là 3,2 ha (50 rai), đối với đất chăn nuôi
6,4 ha (100 rai), đối với những trường hợp quá hạn mức Nhà nước tiền hành
trưng thu để chuyển giao cho tá điền, với mức đền bù hợp lý.
Đối với đất rừng, để đối phó với vấn đề suy thoái đất, xâm lấn rừng. Bắt
đầu từ năm 1979 Thái Lan thực hiện chương trình giấy chứng nhận quyền hoa lợi,
trong rừng dự trữ Quốc gia, theo chương này mỗi mảnh đất được chia làm hai
miền. Miền từ dưới nguồn nước là miền đất có thể dùng để canh tác nông nghiệp,
miền ở phía trên nguồn nước thì hạn chế và giữ rừng, còn miền đất phù hợp cho
canh tác nhưng mà trước đây những người dân đã chiếm dụng ( dưới 2,5 ha) thì
3
được cấp cho người dân một giấy chứng nhận quyền hưởng hoa lợi. Đến năm
1976 đã có 600126 hộ nông dân có đất được cấp giấy chứng nhân quyền hưởng
hoa lợi. Cùng với chương trình này, đến năm 1975 Cục Lâm Nghiệp Hoàng Gia
Thái Lan đã thực hiện chương trình làng lâm nghiệp nhằm giải quyết cho những
hộ gia đình được ở trên đất rừng, quá trình thực hiện chương trình này đã thành
lập được 98 làng lâm nghiệp với 1 triệu hộ gia đình tham gia. Đi cùng với chương
trình này là việc thành lập các hợp tác xã nông, lâm nghiệp hoạt động dưới sự bảo
trở của ban chỉ đạo HTX. Cục Lâm Nghiệp Hoàng Gia sẽ ký hợp đồng giao đất
dài hạn cho các HTX yêu cầu và thành lập nhóm chuyên gia đánh giá hiệu quả

đầu tư trên đất được giao đó. Thái Lan tiến hành giao được trên 200.000 ha đất
gắn liền với rừng cho cộng đồng dân cư sống gần rừng, diện tích mỗi hộ gia đình
được nhận trồng rừng từ 0.8 ha đến 8 ha.
Bước sang thời kỳ những năm 90, Chính Phủ Thái lan tiếp tục chính sách
ruộng đất theo dự án mới. Trên cơ sở đánh giá, xem xét khả năng của nông dân
nghèo, giải quyết khâu cung cầu về ruộng đất theo hướng sản xuất hàng hóa và
giải quyết việc làm. Dự án này có sự thỏa thuận giữa Chính Phủ, chủ đất và nông
dân giới đầu tư nhằm chia sẻ quyền lợi trong giới kinh doanh và người sử dụng
ruộng đất. Theo dự án này Chính Phủ Giúp đỡ tiền mua đất, mặt khác khuyến
khích đầu tư trong sản xuất nông nghiệp, giải quyết việc làm cho nông dân nghèo.
1.1.2. Chính sách đất đai ở Trung Quốc.
Những thành quả về kinh tế xã hội, bảo vệ môi trường trong quá trình khai
thác và sử dụng đất đai, tài nguyên rừng ở Tung Quốc được điều chỉnh bởi hàng
loạt các văn bản chính sách pháp luật đất đai nhằm quản lý có hiệu quả. Do vậy,
trong thời gian qua quá trình sản xuất nông, lâm nghiệp ở Trung Quốc đã đạt
được những kết quả đáng ghi nhận:
Đất canh tác được Nhà Nước bảo hộ đặc biệt, khống chế nghiêm ngặt việc
chuyển đổi mục đích đất nông nghiệp sang đất khác. Mỗi hộ nông dân chỉ được
4
dùng một nơi làm đất nông nghiệp sang đất khác. Mỗi hộ nông dân chỉ được dùng
một nơi làm đất ở với diện tích giới hạn trong định mức quy định tại địa phương.
Đất thuộc sở hữu tập thể thì không được chuyển nhượng, cho thuê và mục đích
phi nông nghiệp. Đối với đất lâm nghiệp trước những năm 1970, Chính Phủ
Trung Quốc đã chỉ đạo nông dân trồng cây bằng biện pháp hành chính, nên hiệu
quả trồng rừng thấp, chưa có sự phối hợp giữa lợi ích cộng đồng với lợi ích của
người dân. Để khắc phục tồn tại đó bước sang giai đoạn cải cách nền kinh tế,
Chính phủ Trung Quốc đã quan tâm khuyến khích hỗ trợ nông dân kinh doanh
lâm nghiệp phát triển, bên cạnh đó coi trọng vấn đề bảo vệ rừng.
Theo hiến pháp của Nhà Nước vào đầu những năm 80, chính quyền Nhà
nước Trung ương đến tỉnh và huyện bắt đầu cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng

đất cho tất cả các chủ rừng là các tổ chức nhà nước, tập thể và tư nhân. Mỗi hộ
nông dân được phân phối một diện tích đất rừng để sản xuất kinh doanh ‘ Luật
lâm nghiệp quy định đơn vị tập thể và nông dân trồng cây trên đất mình làm chủ
thì hoàn toàn được hưởng sản phẩm trên mảnh đất đó”. Sau khi được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, Chính Phủ đã áp dụng chính sách nhảy bén thúc
đẩy phát triển trang trại rừng và kinh doanh đa dạng để có lợi trước mắt và lâu
dài. Đồng thời với việc cải cách và mở cửa, ngành lâm nghiệp Trung Quốc đã
được chuyển dịch từ chỗ chỉ thực hiện chế độ sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể
sang thực hiện nhiều thành phần tham gia kinh doanh lâm nghiệp (Nhà nước, tập
thể, cá nhân, liên doanh, hợp tác…). Nhiều chính sách về đất lâm nghiệp được
thực hiện, đặc biệt là chính sách “tam định”, trong đó định rõ 3 vấn đề: Quyền sử
dụng đất đồi núi, quyền sử dụng rừng và quy hoạch đất, diện tích đất lâm nghiệp
được để lại cho các hộ nông dân sử dụng. Người dân được giao và cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất rừng. Nhà nước cũng ban hành nhiều luật, chính
sách để tạo điều kiện cho việc lưu chuyển và troa đổi quyền sử dụng đất lâm
nghiệp.
5
1.1.3. Chính sách đất đai ở Inđônêxia.
Nét đặc biệt trong chính sách đất đai ở Inđônêxia là Nhà nước quy định
mỗi nông dân ở gần rừng được nhận khoán 2.500 m
2
đất để trồng cây, hai năm
đầu được phép trồng cây nông nghiệp trên diện tích đó và được quyền hưởng toàn
bộ sản phẩm, không phải nộp thuế. Quá trình sản xuất của nông dân được hỗ trợ
giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật dưới hình thức cho vay. Sau khi thu hoạch
người nông dân phải hoàn trả lại giống đã vay, còn phân bón và thuốc bảo vệ thực
vật chỉ phải trả 70%, nếu mất mùa thì không phải trả vốn vay đó. Bên cạnh đó,
thông qua các hoạt động khuyến nông khuyến lâm Nhà Nước còn tổ chức hướng
dẫn kỹ thuật, tập huấn làm nghề cho người dân, hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng tại
nơi họ sinh sống. Từ đó, việc quản lý rừng ở Inđônêxia bước đầu thu được những

kết quả đáng kể.
1.1.4. Chính sách đất đai ở Nhật Bản.
Cũng như một số nước khác thuộc khu vực Châu Á, Nhật Bản đã ban hành
luật cải cách ruộng đất lần thứ nhất vào tháng 12 năm 1945, nhằm mục đích xác
định quyền sở hữu ruộng đất cho người dân, bên cạnh đó buộc địa chủ chuyển
nhượng ruộng đất cho người dân, bên cạnh đó buộc đại chủ chuyển nhượng ruộng
đất nếu có trên 5 ha. Quá trình cải cách ruộng đất lần thứ nhất tại Nhật Bản ban
đầu đã mang lại kết quả đáng kể, song lúc đó vai trò kiểm soát của Nhà nước đối
với đất đai chưa được chặt chẽ. Do vậy, Nhật Bản tiến hành cải cách ruộng đất
lần thứ hai nhằm xác lập vai trò kiểm soát của Nhà nước đối với việc thực hiện
chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng đất là thuộc thẩm quyền của Chính Phủ, xác
lập quyền sở hữu ruộng đất của nông dân nhằm giảm địa tô.
Như vậy, qua hai lần cải cách ruộng đất bằng những chính sách cụ thể đã
làm thay đổi quan hệ sở hữu cũng như kết cấu sở hữu ruộng đất ở Nhật Bản đó là:
Nhà nước đã khẳng định được vai trò kiểm soát đối với việc quản lý và sử dụng
đất đai, người dân thực sự đã làm chủ đất để yên tâm đầu tư phát triển sản xuất.
6
1.1.5. Chính sách ở Philippin.
Chính sách lâm nghiệp xã hội “Institutional Social Forestry Program”
(ISFP) năm 1980 của Chính Phủ nhằm dân chủ hóa việc sử dụng đất rừng công
cộng và khuyến khích việc phân chia một cách hợp lý các lợi ích của rừng.
Chương trình đã đề cập nhiều vấn đề, trong đó có chứng chỉ hợp đồng
quản lý và bản thỏa thuận quản lý lâm nghiệp xã hội: bộ phận lâm nghiệp xã hội
chịu trách nhiệm xử lý và phát hành chứng chỉ hợp đồng quản lý “Certificates for
Stewardship Contracts” (CSC) và bản thỏa thuận quản lý lâm nghiệp xã hội
“Community Forestry Stewardship Agreements” (CFSA).
Giấy chứng chỉ CSC do Chính Phủ cấp cho người dân sống trên đất rừng
đã có đủ tư cách pháp nhân được hưởng các thành quả trên mảnh đất đó. Chứng
chỉ CSC cho phép sử dụng diện tích đang ở hay đang canh tác nhưng không quá 7
ha. Đơn xin chứng chỉ CSC được nộp và lưu trữ tại văn phòng phát triển lâm

nghiệp huyện. Các cán bộ lâm nghiệp của văn phòng cấp huyện được ủy quyền
cấp các CSC với diện tích từ 5-7 ha, còn trên 7 ha do Tổng giám đốc văn phòng
phát triển lâm nghiệp.
Khác với các giấy chứng chỉ CSC, bản thỏa thuận lâm nghiệp xã hội
(CFSA) là một hợp đồng giữa Chính Phủ và một cộng đồng hay một hội lâm
nghiệp kể các nhóm bộ lạc. Sự khác nhau cơ bản giữa CSC và CFSA là: CFSA
đất không được nhượng cho cá nhân mà chỉ giao cho cộng đồng hay hiệp hội và
các thành viên của nó với sự thỏa thuận trước để sử dụng trên phạm vi một xã.
Diện tích giữa các xã cũng khác nhau và các đơn vị xin CFSA thường phải nộp và
lưu trữ tại văn phòng phát triển lâm nghiệp cấp huyện nhưng phải được ban thư
ký vụ tài nguyên thiên nhiên duyệt.
1.1.6. Chính sách đất đai ở Thủy Điển.
Nhà nước quản lý 25% diện tích rừng và đất rừng, các công ty lớn sở hữu
25%, còn lại 50% diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu của các hộ tư nhân
7
1.1.7. Chính sách đất đai ở Phần Lan.
Sở hữu tư nhân về rừng và đất rừng ở Phần Lan mang tính truyền thống,
có tới hai phần ba diện tích rừng và đất rừng thuộc sở hữu tư nhân và có khoảng
430.000 chủ rừng, bình quân mỗi chủ rừng sở hữu 33 ha.
1.2. CHÍNH SÁCH GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG Ở VIỆT NAM QUA CÁC
THỜI KỲ.
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1968 đến năm 1980
Để thực hiện xây dựng Miền Bắc đi lên CNXH và thống nhất đất nước,
bảo vệ thành quả cách mạng đã mang lại cho nhân dân miền Bắc, Đảng Ta chủ
trương đưa nhân dân vào làm ăn tập thể, đồng thời thành lập các trạm trại nông
nghiệp, các Nông Trường quốc doanh và HTX, xây dựng vùng kinh tế mới nông,
lâm nghiệp, tổ chức định canh, định cư cho đồng bào dân tộc miền núi vùng cao.
Chính sách giao đất trong giai đoạn này được thể hiện rõ nét qua các văn bản sau:
- Thông báo số 18 TB – TW ngày 23/10/1968 của Ban bí thư TW Đảng đề cập
đến vấn đề: “Nhà nước cần giao cho HTX sử dụng một số đất hoang hoặc

rừng cây để kinh doanh nghề rừng, HTX được hưởng lợi tùy theo công sức bỏ
ra”.
- Thực hiện chủ trương đó, ngày 12/11/1968, hội đồng Chính Phủ ban hành
quyết định 179/CP nhằm: “Đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng và giao đất
lâm nghiệp cho HTX kinh doanh”.
- Ngày 3/10/1979, hội đồng Chính Phủ ban hành quyết định số 272/CP quy
định “Chính sách đối với HTX mở rộng diện tích sản xuất nông, lâm ngư
nghiệp, xây dựng vùng kinh tế mới, thực hiện chương trình định canh định
cư”.
8
Trong giai đoạn này hầu hết ruộng đất của xã viên được đưa vào HTX để
thống nhất sử dụng, hàng năm xã viên được hưởng một phần hoa lợi tính trên số
ruộng đất mà họ góp vào HTX. Tuy nhiên, mỗi xã viên được phép để lại một
phần diện tích đất để trồng rau, trồng cây ăn quả, chăn nuôi. Nhưng không vượt
quá 5% diện tích bình quân của mỗi người trong xã. Khi đã chia xong rồi là ổn
định, số người giảm trong hộ không phải trả ra, số người tăng không được chia
thêm.
Do không giống nhau về trình độ quản lý, điều kiện kinh doanh nghề rừng, sự
quan tâm chỉ đạo không thống nhất ( nơi tốt, nơi xâu ), nên trong giai đoạn này đã
hình thành ba loại hình HTX sau.
- Loại hình HTX đã thực sự đưa rừng và đất rừng vào sản xuất dạng tự doanh,
loại hình này đã thực sự coi trọng nghề rừng, có đầu tư thích đáng cho nghề
rừng như (phân bón, giống cây trồng, lao động…). Song loại hình này còn quá
ít như Quảng Ninh có 28/98 HTX, Lạng Sơn có 29/200 HTX được giao đất
triển khai.
- Loại hình HTX được giao đất, giao rừng nhưng vì nhiều lý do chưa đảm bảo
tự doanh nên vẫn hợp đồng làm khoán trồng rừng hoặc khai thác lâm sản cho
Lâm trường Quốc doanh trên diện tích rừng và đất rừng được giao.
- Loại hình HTX tuy nhận đất nhận rừng nhưng chưa đưa vào sản xuất kinh
doanh, do nhiều nguyên nhân: phải tập trung lao động sản xuất lương thực,

hoặc phương hướng trồng rừng và kinh doanh lâm nghiệp chưa rõ ràng, chưa
có vốn hỗ trợ, trình độ quản lý còn hạn chế.
Trong thời kỳ này ở Miền Bắc hình thành 3 hình thức sở hữu ruộng đất được
hiến pháp năm 1959 khẳng định: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư
nhân. Ở miền Nam sau khi thắng lợi 30/4/1975. Đảng và Nhà nước ta đã có chủ
trương cải tạo XHCN với nông nghiệp, từng bước đưa nông dân vào làm ăn tập
thể, từ hình thức tập đoàn sản xuất đến HTX, phát triển nhất là từ Bình Thuận trở
9
ra. Tuy nhiên, do những hạn chế của các HTX miền Bắc nên việc xây dựng và
hình thành các HTX ở miền Nam gặp nhiều khó khăn.
Chính sách giao đất trong giai đoạn này mang đặc trưng chủ yếu là:
- Duy trì 3 hình thức sở hữu về đất đai (sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu
tư nhân). Sở hữu toàn dân và tập thể có xu thế ngày càng mở rộng, sở hữu tư
nhân có chiều hướng thu hẹp dần.
- Ý nghĩa khẩu hiệu “người cày có ruộng” bị mờ nhạt dần vì người nông dân
trực tiếp làm ruộng đã từng bước gián tiếp quản lý ruộng đất theo xu hướng
phát triển từ HTX bậc thấp lên bậc cao, cuối cùng chỉ thực sự làm chủ mảnh
đất 5% của mình.
- Chính sách ruộng đất và thực hiện HTX nông nghiệp tuy có làm cho sản xuất
chậm phát triển nhưng thuận lợi cho việc động viên sức người, sức của cho
công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1986.
Đây là giai đoạn Nhà Nước ta tiến hành cải cách nền kinh tế đất nước bằng
các hình thức như: cải tiến việc quản lý các HTX nhằm đảm bảo việc phát triển
sản xuất, nâng cao hiểu quả kinh tế, bên cạnh đó thực hiện hình thức khoán sản
phẩm đến nhóm người lao động nhằm phát huy tích cực vai trò năng lực của của
người lao động.
Đối với sản xuất nông nghiệp: Tại hội nghị lần thứ I của Ban Chấp hành
TW Đảng tháng 12/1980 đã quyết định: “Mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện
các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp”. Chỉ thị 100-CT/TW ngày

13/01/1981 của BCH TW Đảng đã chỉ rõ nguyên tác khoán với nội dung khoán
ba khâu gồm: khoán chi phí khoán công điểm và khoán sản phẩm.
Đối với sản phẩm lâm nghiệp: Hội đồng Bộ Trưởng đã ban hành quyết
định 184 – HĐBT ngày 6/11/1982 về việc: “Đẩy mạnh giao đất lâm nghiệp cho
10
tập thể và cá nhân trồng cây gây rừng trước hết tập trung giao đất đồi núi trọc,
rừng nghèo và rừng chưa giao cho lâm trường”.
Nét mới của quyết định này là đã mở rộng đối tượng giao đất bao gồm
(HTX, tập đoàn, hộ nông dân, cơ quan, xí nghiệp, trường học, quân đội). Quá
trình thực hiện quyết định 184/CP giao khoán rừng cho các tổ chức, hộ nông dân
đã chú ý đến việc tạo động lực kinh tế cho tập thể và cá nhân sản xuất kinh doanh
rừng phát triển. Diện tích đất và rừng giao cho tập thể và các nhân sản xuất kinh
doanh rừng phát triển. Diện tích đất rừng giao cho tập thể kinh doanh không hạn
chế, đối với cá nhân mỗi hộ gia đình ở miền núi được cấp từ 2000-2500 m
2
cho
mỗi lao động để làm vườn rừng, ngoài ra có thể nhận khoán đất trống đồi núi trọc
để trồng rừng theo quy hoạch.
Quá trình triển khai thực hiện quyết định trên ở một số địa phương đã tiến
hành giao đất, giao rừng cho HTX và nhân dân kinh doanh. Nhưng chưa nhận
thức đúng tầm quan trọng, mặt khác chưa có kinh nghiệm chỉ đạo cụ thể, bên
cạnh đó một số cán bộ và người dân còn nặng cơ chế bao cấp.
Tổng hợp kết quả giao đất, giao rừng trong thời kỳ từ năm 1968 đến năm
1986: đa giao được 4.443.830 ha ( rừng và đất rừng) cho 5.722 HTX, 2271 cơ
quan đơn vị trường học và 770.750 hộ gia đình.
1.2.4. Giai đoạn từ thời kỳ đổi mới từ năm 1986 đến nay.
Quá trình thực hiện quyết định 184/CP giao khoán rừng cho các tổ chức,
hộ nông dân không phát huy được hiệu quả cao. Do đó, ngày 12/11/1993
BCHTW Đảng ra chỉ thị 29-CT/TW về đẩy mạnh giao đất, giao rừng xây dựng
rừng và tổ chức kinh doanh theo phương thức nông lâm kết hợp. Chỉ thị này đã

xác định rõ giao đất, giao rừng gắn liền với việc tổ chức bảo vệ và kinh doanh
rừng, sử dụng có hiệu quả diện tích đất trống, đồi núi trọc theo phương thức nông
lâm kết hợp. Gắn trách nhiệm cụ thể cho từng người sử dụng đất, coi đay là một
cuộc vận động cách mạng mang nội dung kinh tế chính trị sâu sắc.
11
Nghị quyết đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 là điểm
mốc quan trọng để bước sang một giai đoạn mới xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung quan liêu bao cấp, chuyển sang xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN. Từ đó, công tác quản lý và sử dụng đất được Đảng và Nhà nước ta
quan tâm hơn trước. Nhiều chủ trương, chính sách đất đai được ban hành để điều
chỉnh quan hệ sở hữu và sử dụng đất đai một cách hoàn thiện hơn. Nhằm khai
thác tốt tiềm năng, giá trị của đất, nâng cao hiệu quả kinh tế và bảo vệ môi
trường. Hàng loạt các văn bản luật và dưới luật thuộc thẩm quyền Quốc hội ( các
bộ luật), UBTVQH ( các Pháp lệnh, Nghị quyết). Chính Phủ ( các Nghị định, Chỉ
thị, Quyết định…), các Tỉnh, Thành phố trực thuộc TW ( Chỉ thị, Nghị quyết,
Quyết đinh…) đã được soạn thảo và ban hành liên quan tới licnhx vực quản lý đất
đai như: giao đát, giao rừng và cấp GCNQSDĐ, giải quyết các vi phạm pháp luật
và tranh chấp đất đai, di dân, di chuyển lao động, định canh định cư, khai hoang
đất để sản xuất lương thực, trồng rừng bảo vệ môi trường và cân bằng sinh thái…
Quá trình thực hiện chích sách giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, các
nhân sử dụng ổn định lâu dài theo Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993, chính sách
giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức, hộ gia đình, các nhân sử dụng ổn đinh, lâu
dài vào mục đích lâm nghiệp theo Nghị định số 02/CP ngày 15/01/1994, Nghị
định 163/CP ngày 16/11/1999, chính sách giao khoán đất sự dụng và mục đích
sản xuất nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản trong các doanh nghiệp Nhà nước
theo Nghị định số 01/CP ngày 04/01/1995. Đã đáp ứng yêu cầu quản lý và sử
dụng đất phù hợp với phù hợp với ý chí nguyện vọng của toàn dân, tạo nên động
lực mạnh mẽ khơi dậy tiềm năng đất đai, lao động, vật tư, tiền vốn trong nhân dân
cũng như của các tổ chức thuộc các thành phần kinh tế đặc biệt là trong nông

nghiệp và nông thôn nước ta.
12
Tại hội nghị TW Đảng lần thứ 6 tháng 9/1988 Bộ chính trị đã thông qua
nghị quyết 10-NQ/TW “về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, khắc phục
những hạn chế của chỉ thị 100-CT/TW ngày 13/1/1981. Bên cạnh đó TW Đảng đã
chỉ đạo đẩy nhanh quá trình sản xuất phải giải phonhs mạnh mẽ sức sản xuất
nhằm khai thác hợp lý tính năng lao động, đất đai, tăng nhanh sản lượng nông sản
hàng hóa, lấy hộ xã viên làm đơn vị kinh tế tự chủ.
Luật bảo vệ và phát triển rừng được ban hành ngày 19/1991 đã quy định
Nhà nước giao rừng, đất trồng rừng cho tổ chức và cá nhân để phát triển và sử
dụng rừng ổn định lâu dài theo quy hoạch và kế hoạch của Nhà nước. Quyết định
327/CT ngày 15/9/1992 của chủ tịch HĐBT (gọi tắt là chương trình 327) quy
định một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng bãi bồi
ven biển và vùng mặt nước. Đã tạo ra cơ hội điều kiện để phát triển tài nguyên
rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc ở khu vực miền núi và ven biển, việc thực
hiện nhiệm vụ phát triển hệ thống nông, lâm nghiệp, khôi phục lại môi trường
sinh thái nâng cao đời sống đảm bảo an ninh chính trị khu vực miền núi, mặt khác
chương trình đã có tác dụng điều chỉnh lại lao động dân cư giữa các vùng.
Ngày 14/7/1993 luật đất đai sửa đổi được Quốc hội khóa IX thông qua và
có hiệu lực ngày 15/10/1993 đánh dấu kết quả một quá trình nghiên cứu, vận
dụng thực tiễn để thể chế hóa chính sách mới về đất đai, vừa bảo đảm phát huy
quan hệ sở hữu toàn dân, vừa phù hợp với cách vận hành của một nền kinh tế
hàng hóa, bắt đầu tiếp cận với nền kinh tế hiện đại.
Quá trình được thực hiện luật đất đai năm 1993 cùng với sự biến động,
thay đổi phát triển của nền kinh tế đất nước, quan hệ đất đai theo cơ chế thị
trường đã đòi hỏi những yêu cầu mới về chính sách đất đai. Cho nên luật đất đai
năm 1993 đã có một số điểm không đáp ứng yêu cầu đó. Do vậy năm 1998, năm
2001, năm 2003, luật đất đai được sửa đổi quan trọng để đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế xã hội trong thời đại mới: Quy định thời gian sử dụng đất, phân cấp
13

thẩm quyền quản lý đất đai, thực hiện chủ trương giao đất nông lâm cho hộ gia
đình cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản trong các doanh nghiệp nhà nước theo quy định số 01/CP vào ngày
16/11/1999. Hơn nữa các quyền sử dụng đất: Chuyển đổi, chuyển nhượng cho
thuê, thừa kế, thế chấp được luật đất đai năm 2003 sửa đổi quy định rõ, tạo cơ sở
pháp lý về những lợi ích cụ thể giúp người dân thực hiện được làm chủ được về
quá trình sử dụng cũng như kinh doanh trên diện tích được giao.
1.2.4.1. Chính sách giao đất nông nghiệp.
Được thực hiện theo nghi định 64/CP ngày 27/09/1993 đối với hộ gia đình
cá nhân như sau:
- Đối tượng được giao đất:
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp lao động nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản,
làm muối mà nguồn sống chủ yếu là thu nhập có được từ các hoạt động sản xuất
đó thì được nhà nước giao trong hạn mức để sử dụng ổn định lâu dài vào sản
xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản, làm muối không thu tiền sử dụng đất
nhân khẩu được giao đất nông nghiệp thường trú tại địa phương, kể cả người làm
nghĩa vụ quân sự.
- Hộ gia đình cá nhân được nhà nước giao đất làm nhà ở.
- Qũy đất nông nghiệp để giao:
Đất nông nghiệp đang sử dụng được giao hết cho hộ gia đình, cá nhân trừ
đất đã được giao cho tổ chức, đất làm muối cũng được giao cho hộ gia đình cá
nhân sản xuất.
- Nguyên tắc giao đất:
+ Đảm bảo sự đoàn kết, ổn định trong nông thôn, thúc đất sản xuất phát
triển, bên cạnh đó phải đảm bảo cho các đối tượng được giao đất (người làm
nông, nuôi trồng thủy sản) có đất để sản xuất.
14
+ Người được giao đất phải sử dụng đất đúng mục đích trong thời hạn
được giao, bảo vệ, cải tạo bồi bổ và sử dụng đất tiết kiệm, hợp lý để tăng khả
năng sinh lợi của đất, phải chấp hành pháp luật đất đai.

+ Giao đất cho hộ gia đình cá nhân là giao chính thức và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất ổn định và lâu dài.
+ UBND cấp xã xét và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên cơ sở
đề nghị ủy ban nhân dân xã.
- Thời hạn giao đất:
Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm thì thời hạn giao đất là 20
năm, đối với đất nông nghiệp trồng cây lâu năm là 50 năm.
Thời điểm giao đất được tính như sau:
Đối với hộ gia đình cá nhân được giao đất trước ngày 15/10/1993 thì thống
nhất tính từ điểm mốc ngày 15/10/1993. Đối với hộ gia đình cá nhân được giao
sau ngày 15/10/1993 thì được tính từ ngày giao.
- Hạn mức đất được giao:
+ Đối với đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm: Các tỉnh Đông Nam bộ và
đồng bằng Sông Cửu long hạn mức giao đất không quá 3 ha, các tỉnh và thành
phố trực thuộc TW khác không quá 2 ha.
+ Đối với đất nông nghiệp để trồng cây lâu năm: Các xã đồng bằng không
quá 20 ha, các xã trung du miền núi không quá 30 ha.
+ Đối với đất trống đồi núi trọc, đất khai hoang lấn biển thì hạn mức đất giao
cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng do UBND cấp tỉnh quyết định căn cứ vào quỹ
đất của từng địa phương và khả năng sản xuất của họ trên tinh thần bảo đảm
chính sách khuyến khích, tạo điều iện thuận lợi để sử dụng đất này vào sản xuất
nông nghiệp.
1.2.4.2. Chính sách giao đất lâm nghiệp.
15
Theo nghị định số 02/CP ngày11/01/1994 của chính phủ quy định: “Giao đất
lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài”
- Đối tượng được giao đất, cho thuê: Các tổ chức, hộ gia đình cư trú tại
địa phương. Những nơi có tập quán sống cộng đồng, suy tôn già làng, trưởng bản
đại diện cho cộng đồng, họ tộc những vùng núi cao thì đất lâm nghiệp sẽ được
giao cho già làng, trưởng bản.

- Căn cứ để giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp: Quỹ đất lâm nghiệp của
từng địa phương; quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được phê duyệt; hiện trạng
quản lý sử dụng đất lâm nghiệp của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; hạn mức đất
giao, cho thuê đất lâm nghiệp theo quy định của pháp luật và nhu cầu sử dụng đất
lâm nghiệp của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
- Quỹ đất lâm nghiệp để giao ổn định lâu dài: Toàn bộ đất có rừng tự
nhiên, đất có rừng trồng và đất chưa có rừng đã được quy hoạch để trồng cây gây
rừng, khoanh nuôi bảo vệ thảm thực vật, không phân biệt độ dốc được tính vào
quỹ đất lâm nghiệp để giao cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài.
+ Nhà nước giao cho các tổ chức quản lý và sử dụng ổn định lâu dài các loại
đất lâm nghiệp là rừng đặc dụng, rừng phòng hộ đầu nguồn xung yếu và rất xung
yếu. Rừng phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu và các loại rừng phòng hộ khác tập
trung, xa khu dân cư. Đất lâm nghiệp là rừng sản xuất tập trung, xa khu dân cư,
đất lâm nghiệp dự trữ quốc gia.
+ Nhà nước giao đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sự dụng ổn định lâu
dài, đất lâm nghiệp có rừng tự nhiên, rừng trồng, đất để trồng rừng mà hộ gia
đình, cá nhân trực tiếp quản lý sử dụng hợp pháp, do Nhà nước có thẩm quyền đã
giao trong những năm trước đây. Đất có rừng hoặc chưa có rừng thuộc rừng
phòng hộ đầu nguồn ít xung yếu, rừng chắn gió, chắn cát, chắn sóng lấ biển đã ổn
16
định, rừng sản xuất nằm xen kẽ trong các khu dân cư, đất chưa có rừng của rừng
bảo vệ môi trường sinh thái.
+ Nhà nước giao cho các chi cục kiểm lâm trực tiếp quản lý các vùng đất lâm
nghiệp chưa giao cho các chủ thể cụ thể.
- Thời hạn giao đất lâm nghiệp:
Các tổ chức của Nhà nước, thời hạn giao được quy định theo kế hoạch sử
dụng đất của Nhà nước. Tổ chức khác, hộ gia đình, cá nhân là 50 năm, hết
thời hạn quy định nếu người sử dụng đất vẫn có nhu cầu và sử dụng đất đúng
mục đích thì được Nhà nước giao tiếp đất đó để sử dụng.

- Hạn mức đất được giao:
Căn cứ vào quỹ đất lâm nghiệp của từng địa phương, trên cơ sở quy hoạch đã
được phê duyệt, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định cụ thể hạn mức đất lâm
nghiệp được giao cho các đối tượng dựa trên nguyên tác mọi tổ chức, hộ gia đình
cá nhân có nhu cầu và khả năng sử dụng đất lâm nghiệp hoặc theo nhiệm vụ được
giao quản lý của các dự án. Đảm bảo các đối tượng sử dụng đất lâm nghiệp coa
hiệu quả cao nhất.
- Khoán đất lâm nghiệp sử dụng vào mục đích lâm nghiệp
+ Đối tượng được giao khoán sử dụng vào mục đích lâm nghiệp là tổ chức
được Nhà nước giao đất lâm nghiệp sử dụng vào mục đích lâm nghiệp có quyền
giao khoán đất lâm nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân đang làm việc cho tổ chức,
hộ gia đình cá nhân cứ trú tại địa phương được UBND cấp xã xác nhận, tổ chức
hộ gia đình cá nhân ở địa phương khác có vốn đầu tư và sản xuất theo quy hoạch
của các đơn vị giao khoán.
+ Căn cứ để giao khoán là quỹ đất lâm nghiệp đã được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định giao cho các đơn vị giao khoán. Dự án khả thi dự án đầu
tư hoặc dự án đầu tư đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Vốn
17
lao động của bên nhận khoán, các chính sách đầu tư hỗ trở vốn của Nhà nước và
các chính sách lao động xã hội khác có liên quan.
+ Nguyên tắc giao khoán và nhaank khoán: Bỏa đảm lợi ích của bên giao
khoán bên nhận khoán. Khoán ổn định, lâu dài theo quy hoạch và dự án khả thi
hoặc dự án đầu tư. Giao khoán đất gắn liền với cây trồng, vật nuôi và các giá trị
tài sản khác trên đất, việc giao nhận khoán phải thông qua hợp đồng.
+ Thời hạn giao khoán đất lâm nghiêp: Rừng phòng hộ và rừng đặc dụng là 50
năm, rừng sản xuất tùy theo chu ỳ kinh doanh.
+ Nội dung giao khoán đất lâm nghiệp: rừng phòng hộ, nội dung giao khoán
gồm: Khoán bảo vệ rừng, khoán khoanh nuôi, tái sinh rừng, khoán trồng rừng
mới theo quy hoạch. Nhà nước cấp kinh phí hàng năm để trả cho bên nhận khoán.
Rừng sản xuất, đất đang có rừng tự nhiên thì khoán bảo vệ, khoanh nuôi phục hồi.

Đất đang có rừng, nếu đất chưa có rừng thì khoán đất để người nhận khoán tự bỏ
vốn để trồng rừng, khi khai thác phải bán sản phẩm theo hợp đồng, nếu Nhà nước
đàu tư vốn, bên nhận khoán phải hoàn trả vốn và bán sản phẩm cho bên giao
khoán.
1.3. TÌNH HÌNH GIAO ĐẤT, GIAO RỪNG TẠI TỈNH NGHỆ AN.
1.3.1. Diện tích quy hoạch sản xuất lâm nghiệp
1.3.1.1 Diện tích đất lâm nghiệp:
- Tổng diện tích: 1.195.477 ha chiếm 72% diện tích tự nhiên.
- Diện tích có rừng: 684.398 ha ( rừng trồng: 61.288 ha) chiếm 43%
- Diện tích chưa có rừng: 511.079 ha
Trong đó:
Quy hoạch rừng đặc dụng: 223.648 ha
Quy hoạch rừng phòng hộ: 580.854 ha
Quy hoạch rừng sản xuất: 390.975 ha
18
1.3.1.2 Trữ lượng rừng:
- Gỗ: 50.006.005 m
3
- Tre nứa: 1.049.696 ngàn cây
* Rừng tự nhiên:
- Rừng gỗ: 45.165.169 m
3
+ Rừng giàu: 9.803.872 m
3
+ Rừng trung bình: 16.025.737 m
3
+ Rừng nghèo: 12.589.718 m
3
+ Rừng hỗn giao: 3.327.956 m
3

+ Rừng phục hồi có trữ lượng: 6.748.932 m
3
- Rừng tre nứa: 1.029.475 ngàn cây
* Rừng trồng:
+ Rừng gỗ: 1.512.879 m
3
+ Rừng mét: 20.220 ngàn cây
1.3.2. Công tác giao đất, cho thuê đất, cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất
lâm nghiệp
1.3.2.1. công tác giao đất theo nghị định 02/CP của Chính phủ
Ngày 15/01/1994, Chính phủ đã ban hành nghị định 02/NĐ – CP về việc giao
đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp. Từ năm 1994 đến ngày
15/03/2000, UBND tỉnh đã bàn giao cho ngành kiểm lâm sở nông nghiệp và phát
triển nông thôn chủ trì để thực hiện giao đất lâm nghiệp ở thực địa và cấp quyết
định giao đất kèm theo số lâm bạ.
Theo báo cáo của chi cục kiểm lâm đến năm 2000, ngành kiểm lâm và ngành
nông nghiệp và phát triển nông thôn đã tổ chức giao đất lâm nghiệp được 368.628
ha cho 58.063 hộ và 190 tổ hức, đoàn thể.
19
Việc giao đất lâm nghiệp trong giai đoạn này cần nhiều vấn đề:
- Các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức mới được giao đất ở thực địa, chưa được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như: thế chấp, chuyển nhượng.
- Hồ sơ giao đất còn nhiều tồn tại như: Diện tích giao không chính xác, không
xác định được vị trí đất đã giao, được đo đạc lập bản đồ giao đất, thiếu biên
bản xác định ranh giới, mốc giới và quyết định giao đất.
- Ranh giới sử dụng đất của các tổ chức (nông, lâm trường, các tổng đội TNXP)
chưa rõ ràng, xen lẫn đất của các hộ gia đình cá nhân.
- Ranh giới hành chính được xác định theo chỉ thị 364 còn nhiều chỗ tranh chấp
dẫn đến quỹ đất lâm nghiệp ở vùng này chưa xác lập và chưa giao cho tổ chức
hay hộ gia đình, cá nhân.

- Quá trình giao đất lâm nghiệp trước đây, ngoài ngành kiểm lâm còn do các
đơn vị khác thực hiện như bán định canh, định cư, phòng nông nghiệp huyện,
nên dẫn đến sự chồng chéo, hồ sơ vừa thiếu lại không đồng bộ.
- Việc giao đất lâm nghiệp được thực hiện khi chưa có quy hoạch 3 loại rừng và
tình trạng giao đất theo nhóm hộ khá phổ biến
- Tiến độ thực hiện việc giao đất lâm nghiệp quá chậm sau 6 năm chỉ đạt xấp xỉ
30% tổng diện tích đất lâm nghiệp cần giao.
1.3.2.2. Công tác giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm
nghiệp theo nghị định 163/NĐ-CP của Chính phủ.
Từ thực trạng của công ty giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 02/CP, sau khi
Chính phủ ban hành Nghị định 163/NĐ-CP. UBND tỉnh đã ban hành quyết định
số 190/QĐ-UB ngyaf 16/03/2000 giao cho ngành địa chính chủ trì tổ chức thực
hiện việc đo đạc giao đất lâm nghiệp.
Thực hiện nhiệm vụ giao đất, sở tài nguyên và môi trường đã tiến hành các
nôi dung sau:
20
- Tham mưu để UBND tỉnh thành lập ban chỉ đạo thực hiện nghị định 163 của
tỉnh, thành lập ban chỉ đạo cấp sở, chỉ đạo các huyện thành lập ban chỉ đạo
cấp huyện.
- Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành kiểu văn bản chỉ đạo đôn đốc, trực tiếp
ban hành hàng chục văn bản hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ
- Tổ chức quán triệt chủ trương tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ, thực hiện
Nghị định 163 cho toàn tỉnh.
- Ban hành thực hiện Nghị định 163/1999/NĐ-CP gồm 5 bước:
+ Bay chụp ảnh máy bay toàn lãnh thổ tỉnh
+ Lập bản đồ địa chính cơ sở giao đất lâm nghiệp
+ Tổ chức giao đất lâm nghiệp tại thực địa
+ Đo đạc lập bản đồ địa chính, chi tiết đầu tư lâm nghiệp
+ Lập hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp.
Như vậy, trong 2 bước đầu là do Trung ương thực hiện còn 3 bước sau là do

sở Tài nguyên và Môi trường chủ trì tổ chức thực hiện.
- Chủ trì cùng với chi cục kiểm lâm chỉ đạo các huyện phối hợp với các đơn vị
thi công tổ chức thực hiện việc đo đạc, giao đất lâm nghiệp trên địa bàn toàn
tỉnh.
- Giao đất hợp pháp, đúng mục đích và có hiệu quả.
- Thành lập mối quan hệ giữa Nhà nước với người sử dụng đất thông qua quyền
và nghĩa vụ của quyền sử dụng đất.
Kết quả giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 163/1999, Nghị định của Chính
phủ đến 30/06/2003 như sau:
- Về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâm nghiệp đến ngày 30/08/2003.
- Trên cơ sở hồ sơ giao đất lâm nghiệp theo nghị định 02/CP. Một số huyện đã
tiến hành bổ sung hồ sơ, cấp giấy chứng nhận theo Nghị định 163/1999/NĐ-
21
CP cho hộ gia đình, cá nhân được giao đất đang sử dụng ổn định không tranh
chấp, với kết quả cấp giấy chứng nhận đạt 15.676 hộ, với diện tích là 18.252
ha.
Bao gồm:
+ Đô Lương cấp giấy chứng nhận cho: 4.166 hộ
+ Yên Thành cấp giấy chứng nhận cho:5.867 hộ
+ Diễn Châu cấp giấy chứng nhận cho:3.061 hộ
+ Quỳ Hợp cấp giấy chứng nhận cho: 1.168 hộ
+ Hưng Nguyên cấp giấy chứng nhận cho: 74 hộ
+ Nam Đàn cấp giấy chứng nhận cho: 1.322 hộ
Biểu 1.1: Kết quả giao đất trên địa bàn tỉnh Nghệ An
DT ĐO ĐẠC
BĐĐC
GIAO ĐẤT LÂM NGHIỆP
SỐ HỘ DIỆN
TÍCH(HA)
1 Thanh Chương 49.981 6.952 13.145

2 Anh Sơn 39.753 4.258 12.085
3 Tân Kỳ 34.000 7.553 26.440
4 Quỳ Châu 105.613 5.334 43.660
5 Quế Phong 157.534 3.373 63.403
6 Con Cuông 153.309 4.885 31.426
7 Tương Dương 261.707 8.464 185.965
TỔNG CỘNG 965.783 47.633 517.015
22
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU, NỘI DUNG, VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
2.1. MỤC TIÊU:
2.1.1. Mục tiêu tổng quát:
Đánh giá tác động của công tác giao đất, giao rừng nhằm hoàn thiện quá trình
thực hiện chính sách giao đất giao rừng và nâng cao hiệu quả sử dụng đất được
giao tại xã Nghĩa Long, huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể:
- Tổng kết kết quả thực hiện công tác giao đất giao rừng tại xã Nghĩa Long.
- Đánh giá được những tác động chủ yếu về kinh tế, xã hội và môi trường của
công tác giao đất giao rừng tới quá trình phát triển kinh tế hộ gia đình và môi
trường tại xã Nghĩa Long.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao hiểu quả về công tác giao đất
giao rừng và quản lý sử dụng đất đã được giao.
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình giao đất, giao rừng, tình hình quản lý
đất đai, quản lý tài nguyên rừng, điều tra tình hình sử dụng đất của nông hộ sau
khi giao đất, giao rừng trên địa bàn xã Nghĩa Long, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ
An.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
Nội dung nghiên cứu tập trung và đánh giá các vấn đề sau:
+ Điều tra, đánh giá khái quát tình hình tự nhiên – kinh tế - xã hội của khu

vực nghiên cứu
+ Điều tra tình hình trước và sau khi thực hiện chính sách giao đất, giao
rừng trên địa bàn xã
23
+ Đánh giá tác động hiệu quả của công tác giao đất, giao rừng trên địa bàn
xã.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp trên địa
bàn xã
2.4. Phương pháp nghiên cứu chuyên đề.
2.4.1. Phương pháp chọn điểm nghiên cứu:
Để đảm bảo tính khoa học, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn phát triển
trong quản lý và sản xuất, cung cấp các thông tin có tính chất tổng quát thời sự
mang tính đại diện. Kịp thời rút ra những mặt mạnh để phát huy, khai thác và
khắc phục những mặt còn thiếu sót trong quá trình quản lý sử dụng đất trên địa
bàn. Công tác chọn điểm nghiên cứu được căn cứ vào các yêu cầu sau:
+ Chọn địa bàn đã và đang tiến hành công tác giao đất, giao rừng ở vùng
đồi núi.
+ Chọn địa bàn có đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội đáp ứng được nhiều
loại sử dụng đất phát triển như: đất trồng cây hàng năm, đất trồng cây lâu năm,
đất trồng cây công nghiệp hàng hóa, đất lâm nghiệp… Bên cạnh đó chọn địa bàn
có nhiều mô hình nông lâm kết hợp, mô hình trang trại được nhận đất sản xuất có
hiệu quả.
+ Về mặt xã hội: Chọn địa bàn có các dân tộc đại diện cho các thành phần
dân tộc sinh sống.
+ Về mặt sản xuất: Chọn địa bàn có điều kiện và trình độ sản xuất, tình
hình sử dụng đất đại diện.
+ Về mặt kinh tế: Chọn địa bàn điều tra điều kiện kinh tế ( giàu, trung
bình, nghèo) để có số liệu phong phú trong quá trình nghiên cứu.
2.4.2. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
24

- Tiếp cận các cơ quan quản lý nông nghiệp về đất đai, cơ quan quản lý nông lâm
nghiệp (các phòng ban: địa chính, nông nghiệp – khuyến nông – khuyến lâm,
thống kê, khí tượng, thủy văn, tài nguyên môi trường, ) để thu thập các thông tin
cơ bản về điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội, chính sách giao đất giao rừng, bản đồ
hiện trạng sử dụng đất địa bàn nghiên cứu.
- Trên cơ sở đó khảo sát ngoại nghiệp để rà soát về tình hình sử dụng đất, tình
hình giao đất, giao rừng và tình hình cơ bản trên.
- Phương pháp phỏng vấn hộ gia đình
+ Theo kiểu mẫu chuẩn bị trước
+ Các hộ được lựa chọn
Số hộ phỏng vấn được xác định trên cơ sở phân loại kinh tế hộ gia đình
( nghèo, trung bình, giàu) quỹ đất đai mà hộ đang sử dụng ( ít, trung bình, nhiều),
đảm bảo đầy đủ các thành phần dân tộc đang sống trên địa bàn.
- Thu thập thông tin bằng phương pháp chuyên gia, chuyên khảo sát và kế thừa
thông tin sẵn có.
+ Trên cơ sở đó đi khảo sát ngoại nghiệp rà soát lại các thông tin thu thập được để
điều chỉnh lại cho phù hợp với thực tế.
+ Áp dụng phương pháp thống kê kinh tế, để so sánh các chỉ tiêu đánh giá ở hai
thời điểm trước và sau khi giao đất.
2.4.3. chỉnh lý và tổng hợp số liệu.
Trong quá trình điều tra xử lý số liệu ngoại nghiệp hoặc trực tiếp phỏng
vấn các hộ gia đình, qua đó tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của người dân sau đó
tổng hợp bảng biểu để làm cơ sở cho quá trình phân tích số liệu.
Các số liệu thu thập được tổng hợp ở các bảng biểu và được so sánh, phân
tích, đánh giá nhận xét, nội suy, qua hệ thống thông tin đó, quá trình tổng hợp số
liệu được sự hỗ trở của phần mềm EXCEL
25

×