Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

skkn; phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa 11 theo định hướng phát triển năng lực học sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (839.67 KB, 32 trang )

MỤC LỤC
Trang
A.MỞ ĐẦU
1. Lí do viết sáng kiến
2.Mục tiêu của sáng kiến
3. Giới hạn của sáng kiến
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
3.2. Về không gian
3.3. Về thời gian
B. NỘI DUNG
1. Cơ sở viết sáng kiến
1.1. Cơ sở khoa học
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lí
2. Thực trạng vấn đề cần giải quyết
3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường
trong giảng dạy địa lí
3.1.1. Phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường
trong khi soạn giảng
3.1.2. Phương pháp sử dụng bản đồ trong việc thực hiện các bước lên lớp
3.1.3.Chú ý sử dụng bản đồ để nêu câu hỏi trong quá trình giảng dạy
3.1.4. Chú ý tổ chưc hướng dẫn học sinh được rèn luyện kỉ năng
3.1.5. Trong bước hướng dẫn học sinh học ở nhà
3.2. Một số bđ giáo khoa treo tường được sử dụng trong chương trình địa
lí 11
3.3. Sản phẩm minh chứng
4. Hiệu quả của sáng kiến
C. PHẦN KẾT LUÂN
1. Kết luận
2. Kiến nghị
Tài liệu tham khảo


--------------------------------------***-----------------------------------

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
- BĐGK: bản đồ giáo khoa
- THPT: trung học phổ thông
1

3
4
4
4
4
4
5
5
10
12
17
17
17
18
19
22
23
23
25
28
30
30
31



- SGK: sách giáo khoa
- LB: liên bang
- SKKN: sáng kiến kinh nghiệm
- KT – XH: kinh tế - xã hội
- GD – ĐT: giáo dục – đào tạo

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do viết sáng kiến:

2


Trong những năm qua chúng ta đã và đang tường bước thay đổi cách dạy - học
mới hướng vào học sinh hơn; đó là phương pháp “lấy học sinh làm trung tâm” với
phương pháp dạy - học này đòi hỏi học sinh phải làm việc nhiều hơn bằng sự
hướng dẫn của giáo viên, các em tự tìm ra kiến thức trên sách giáo khoa, tranh ảnh,
bản đồ và các đồ dùng trực quan khác. Đặc biệt với bộ môn Địa lí sử dụng bản đồ
nói chung và bản đồ giáo khoa treo tường là một công cụ, một phương tiện cho
việc dạy học địa lí. Thực sự bản đồ không chỉ là đồ dùng trực quan cũng không chỉ
là một phương tiện để minh họa kiến thức mà chính là nội dung sách giáo khoa
được ghi lại bằng ước hiệu.
Thực tế hiện nay, với chương trình cải cách sách giáo khoa, cũng như việc áp
dụng phương pháp dạy học mới. Các phương tiện dạy - học ở các môn học nói
chung và môn Địa lí nói riêng ngày một nhiều. Đôí với bộ môn Địa lí được trang bị
thêm nhiều bản đồ giáo khoa treo tường mới với nhiều nội dung, nhiều nguồn
thông tin, kiến thức…được thể hiện trên đó, Song việc đưa vào giảng dạy thì chưa
được hiệu quả. Qua trao đổi, dự giờ với nhiều giáo viên trong trường và đồng
nghiệp ở các trường bạn thì việc đưa các bản đồ giáo khoa treo tường có hiện nay

vào giảng dạy khó khăn trong, bởi nhiều lí do:
- Số lượng bản đồ lớn trong khi phòng giành cho bộ môn chưa có nên chưa
được đưa vào sử dụng.
- Có nơi đã được đưa vào sử dụng nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn
phần lớn là do:
+ Học sinh chưa thực sự hiểu được bản đồ.
+ Giáo viên chưa xác định phương pháp phù hợp để truyền thụ thích hợp với
từng loại bản đồ.
+ Việc đặt câu hỏi để khai thác nội dung bản đồ cũng chưa thật sự phù hợp với
bản đồ được treo.
Từ thực tế đó, trong những năm qua bản thân đã được phân công giảng dạy
chương trình Địa lí lớp 11, Xin đưa ra kinh nghiệm trong việc sử dụng bản đồ giáo
3


khoa treo từờng chương trình Địa lí lớp 11 với sáng kiến kinh nghiệm : “Phương
pháp sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường địa lí , trường THPT Yên Châu ”
2. Mục tiêu của sáng kiến:
- Giúp giáo viên xác định được một số phương pháp phù hợp với từng loại bản
đồ, đặt câu hỏi khai thác hiệu quả bản đồ được treo một cách hiệu quả giúp học
sinh hiểu được bản đồ, dựa vào bản dồ để khai thác các kiến thức: quan sát, phân
tích hoặc khai thác những màu sắc và ước hiệu trên bản đồ và tìm ra những kiến
thức địa lí, tìm thấy được các mối liên lệ giữa các yếu tố địa lí trên bản đồ. Từ đó,
thấy được quy luật Địa lí tự nhiên cũng như Địa lí kinh tế xã hội
3. Giới hạn của sáng kiến:
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường khối 11
3.2. Về không gian
Tại trường THPT Yên Châu
3.3 Về thời gian

Năm học 2016 - 2017

B. NỘI DUNG
1. Cơ sở viết sáng kiến:
4


1.1 Cơ sở khoa học:
1.1.1. Khái niệm bản đồ Địa lí
Khái niệm bản đồ địa lí là khái niệm được học sinh tiếp nhận ngay từ những
bài học đầu tiên của chương trình THPT, với định nghĩa: “Bản đồ là hình vẽ thu
nhỏ trên giấy, tương đối chính xác về một khu vực hay về toàn bộ Trái Đất.”
“Bản đồ địa lí là mô hình kí hiệu hình tượng không gian của các đối tượng và
các hiện tượng tự nhiên, xã hội, được thu nhỏ được tổng hợp hóa theo một cơ sở
toán học nhất định nhằm phản ánh vị trí, sự phân bố và mối tương quan của các
đối tượng, hiện tượng, cả những biến đổi của chúng theo thời gian để thỏa mãn
mục đích, yêu cầu đã xác đinh trước.” (K.A.Salishev)
“Bản đồ là hình ảnh thực tế của địa lí, được kí hiệu hóa, phản ánh các yếu tố
hoặc các đặc điểm địa lí một cách có chọn lọc, kết quả từ sự nỗ lực, sáng tạo trong
lựa chọn của tác giả bản đồ và được thiếtdụng để sử dụng chủ yếu liên quan đến
các mối liên hệ trong không gian” (Hội bản đồ thế giới)
Các định nghĩa trên hoàn toàn xác thực với bản đồ Địa lí
1.1.2. Khái niệm bản đồ giáo khoa Địa lí và bản đồ giáo khoa treo tường
* Bản đồ giáo khoa Địa lí
U.C.Bilich và A.C.Vasmuc đã định nghĩa: “Bản đồ giáo khoa là những bản đồ
sử dụng trong mục đích giáo dục, chúng cần thiết cho việc giảng dạy và học tập ở
tất cả các cơ sở giáo dục dưới mọi hình thức, tạo nên một hệ thống giáo dục cho
tất cả các tầng lớp dân cư từ học sinh cho đến việc đào tạo các chuyên gia. Những
bản đồ đó được sử dụng trong nhiều ngành khoa học, trước hết là Địa lí và Lịch
sử” [5]

BĐGK là một loại hình cụ thể trong hệ thông bản đồ Địa lí, là biểu hiện thu
nhỏ của bề mặt Trái Đất lên mặt phẳng dựa trên cơ sở toán học. Bằng ngôn ngữ bản
đồ, phương tiện (đồ họa) phản ánh sự phân bố, thực trạng mối liên hệ tương hỗ của
khách thể - tương ứng với mục đích, nội dung và phương pháp của môn học trên

5


những nguyên tắc chặt chẽ của tổng quát hóa bản đồ; phù hợp với trình độ phát
triển của lứa tuổi học sinh.
Nói một cách đơn giản, BĐGK là bản đồ dùng để dạy và học Địa lí theo
chương trình SGK đã được quy định trong nhà trường, chủ yếu trong môn học Địa
lí và Lịch sử. Đối tượng sử dụng chủ yếu là giáo viên và học sinh trong môn Địa lí
và Lịch sử
* Bản đồ giáo khoa treo tường
Theo Lâm Quang Dốc

[6]

: “BĐKH treo tường là loại bản đồ dùng để giảng

dạy và học trên lớp. Nó được dùng để học tập, nghiên cứu và giảng dạy ở nhiều
lĩnh vực, nhất là trong lĩnh vực Địa lí và Lịch sử.”
Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của việc dạy học địa lí là sự phát
hiện các quan hệ nhân quả, các mối liên hệ phụ thuộc giữa các đối tượng và hiện
tượng nghiên cứu, những biến đổi của chúng theo thời gian và theo không gian.
Nhiệm vụ đó chỉ được thực hiện có kết quả khi người giáo viên biết sử dụng tốt,
khai thác triệt để các bản đồ trong khi giảng dạy. Vì vậy, đã từ lâu mọi người thừa
nhận là không thể dạy học địa lí mà không có bản đồ, nhưng khi đó bản đồ chỉ
được coi như một đồ dùng dạy học trực quan đơn thuần. Ngày nay, chúng ta không

xem bản đồ giáo khoa như thế, mà coi nó là một nguồn tài liệu độc lập, nghĩa là
bản đồ giáo khoa vừa là công cụ để dạy học địa lí, vừa là nguồn tư liệu khoa học
độc lập, là đối tượng nghiên cứu những kiến thức địa lí. Bản đồ được xem như một
cuốn sách giáo khoa địa lí thứ hai.
Các sản phẩm bản đồ giáo khoa được sử dụng rất rộng rãi ở các bậc học khác
nhau từ cấp cơ sở đến đại học, ở các trường Trung học chuyên nghiệp của nhiều
ngành nghề khác nhau, kể cả các bản đồ giáo khoa có đặc trưng riêng phục vụ việc
dạy học ở các trường khiếm thị, khuyết tật. Hệ thống sản phẩm bản đồ giáo khoa
vừa phải đủ kiểu loại để phục vụ mọi phương pháp dạy học, học, nghiên cứu, kiểm
tra, đối thoại, ôn tập và làm bài tập, xây dựng sơ đồ, bình đồ địa thế…

6


Những kiến thức cơ bản về sự thành lập và nhất là sử dụng bản đồ là cơ sở của
hệ thống kiến thức bản đồ ban đầu được nhà trường cung cấp cho học sinh không
thông qua một môn bản đồ học riêng mà thông qua việc học địa lí từ lớp 6 trở lên.
Thế giới hiện đại đòi hỏi mỗi công dân phải hiểu và biết bản đồ - những kiến thức
rất cần để làm việc ở hầu hết các ngành kinh tế quốc dân, dù là quản lí, lập quy
hoạch, thiết kế, thi công… trong dân sự cũng như trong quân đội. Điều đó có nghĩa
là cả trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước đều không thể không biết bản
đồ, dù là ở mức văn hoá chung.
1.1.3. Đặc điểm của bản đồ giáo khoa treo tường
* Tính khoa học của bản đồ giáo khoa
Tính khoa học được biểu thị ở độ chính xác tương ứng về mặt địa lí giữa bản
đồ và thực địa, độ chính xác về cơ sở toán học bản đồ. Bản đồ địa lí được xây dựng
theo quy luật toán học nhất định, theo tỉ lệ nhất định. Quy luật toán học biểu hiện rõ
ở tính đơn trị và tính liên tục của việc biểu hiện bản đồ. Tính đơn trị biểu hiện ở
chỗ một điểm bất kì trên bản đồ có toạ độ x và y chỉ tương ứng với một điểm trên
bề mặt đất và mỗi kí hiệu đặt trên điểm này chỉ có một ý nghĩa cố định rõ ràng

trong bản chú giải. Tính liên tục biểu hiện ở chỗ trên bản đồ “không có khoảng
trống”. Điều đó nói lên rằng trên khắp lãnh thổ biên vẽ bản đồ đã được nghiên cứu
đầy đủ, mọi đối tượng phân bố trên lãnh thổ và không gian của chúng đã có tài liệu
chính xác. Tỉ lệ và các đơn vị đo, thang màu và sự phân cấp chỉ số số lượng, sự
phân cấp kí hiệu cho phép thực hiện trên bản đồ mọi khả năng đo tính và nhận biết
đặc điểm khác nhau của các hiện tượng.
Tính khoa học của bản đồ còn biểu hiện ở sự phù hợp giữa đặc điểm các hiện
tượng được biểu hiện với nội dung của phương pháp thể hiện bản đồ.
Tính khoa học của bản đồ cũng được xác định bằng lượng thông tin thích hợp.
Nhìn chung lượng thông tin trên mỗi bản đồ càng nhiều thì giá trị sử dụng càng cao,
nhưng đến một giới hạn nhất định tuỳ theo loại hình, nội dung và tỉ lệ bản đồ. Nếu
vượt quá giới hạn này sẽ làm cho việc sử dụng khó khăn, do vậy mà giá trị sử dụng và
7


tính khoa học sẽ giảm đi.
Ngoài những biểu hiện trên, tính khoa học của bản đồ còn biểu hiện ở tính
trừu tượng, tính chọn lọc và tính tổng hợp, tính bao quát, tính đồng dạng và tính
logic.
Ở nhà trường phổ thông, nhiệm vụ của người giáo viên không chỉ dạy cho học
sinh những kiến thức khoa học của bộ môn mà còn thông qua việc dạy chữ để dạy
người. Người thầy giáo phải đóng góp phần mình trong giáo dục và đào tạo con
người mới. Chính vì vậy, những kiến thức truyền đạt cho học sinh nhất thiết phải
trên quan điểm duy vật biện chứng. Trên bản đồ cần phải có những tiền đề để thông
qua đó người giáo viên trang bị cho học sinh thế giới quan duy vật.
* Tính trực quan của bản đồ giáo khoa
Các bản đồ dùng trong nhà trường, đặc biệt thể loại bản đồ treo tường đòi hỏi
phải có tính trực quan cao, đó chính là tính đặc trưng quan trọng nhất của bản đồ
giáo khoa. Tính trực quan thường mâu thuẫn với tính khoa học. So với các bản đồ
khác, bản đồ giáo khoa khái quát cao hơn, dùng nhiều hình ảnh trực quan, phương

pháp biểu thị trực quanhơn và phần lớn là vượt ra ngoài điều kiện cho phép của tỉ lệ
bản đồ. Tiêu chuẩn để đánh giá tính trực quan của bản đồ là thời gian dùng để nhận
biết và hiểu nội dung bản đồ. Những dấu hiệu dùng trên bản đồ cần có hình dạng và
mầu sắc gần với thực tế để học sinh có thể nhanh chóng nhận biết nội dung của
hiện tượng được phản ánh và nhớ lâu.
Mọi người đều thừa nhận là trong một bài giảng địa lí nếu dùng bản đồ như một
đồ dùng trực quan thì bài giảng sẽ dễ hiểu và có sức hấp dẫn đối với học sinh. Tuy
nhiên, không nên lạm dụng tính trực quan mà cần phải lựa chọn giới hạn một cách
hợp lí cho tính trực quan để khỏi gây ra những ảnh hưởng phản tác dụng.
* Tính chọn lọc và tính tổng hợp của bản đồ giáo khoa
Tất cả những riêng biệt và những hiện tượng trong thực tế nhiều khi không thể

8


hiện được hết trên bản đồ mà có sự chọn lọc. Chẳng hạn, trong các nhân tố hình
thành khí hậu trên lãnh thổ, người ta chỉ lựa chọn lượng mưa và nhiệt độ để biểu
hiện. Các yếu tố khác như áp suất, gió… đều bị loại bỏ
Bản đồ không chỉ có tính chọn lọc mà còn có tính tổng hợp. Tính tổng hợp thể
hiện ở sự thống nhất các hiện tượng và quá trình trong thực tế. Chẳng hạn, muốn
hiểu biết đặc điểm phát triển kinh tế của một đất nước phải biểu hiện các nhân tố:
nguồn lực, trình độ phát triển nông nghiệp, công nghiệp, thu nhập đầu người…
Tính tổng hợp bao giờ cũng liên quan đến những khái niệm, chỉ tiêu và kí hiệu, nhờ
chúng mà có thể phân tích các hiện tượng và các quá trình.
Tính tổng hợp và tính chọn lọc có nhiều trong bản đồ Địa lí. Sự khác nhau của
các tính chất này chỉ là ở mức độ và tính trực quan.
* Tính sư phạm của bản đồ giáo khoa
Tính sư phạm của bản đồ được biểu hiện trên nhiều mặt, nhưng nói chung đều
thống nhất ở chỗ phải đảm bảo tính tương ứng giữa bản đồ với chương trình, sách
giáo khoa, tâm lí lứa tuổi học sinh, hoàn cảnh của nhà trường và hoàn cảnh xã hội.

Một bản đồ giáo khoa muốn đảm bảo được tính sư phạm cần phải biểu hiện ở
những mặt sau:
- Nội dung của bản đồ giáo khoa phải phù hợp với chương trình địa lí của từng
cấp học và từng lớp học, phù hợp với trình độ của học sinh.
- Nội dung của bản đồ được xác định trên cơ sở chương trình bộ môn, nội dung
sách giáo khoa. Nội dung bản đồ phải được tổng quát hoá phù hợp với nội dung
sách giáo khoa và nhiệm vụ dạy học. Sách giáo khoa là tiêu chuẩn nội dung để
thành lập bản đồ. Nếu sách giáo khoa thay đổi thì nội dung của bản đồ giáo khoa
cũng phải thay đổi theo.
- Quan trọng hơn cả là bản đồ giáo khoa phải phù hợp với đối tượng sử dụng
bản đồ, nghĩa là phải phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh. Khi làm một bản

9


đồ giáo khoa treo tường thì việc xác định tỉ lệ bản đồ, các đường nét trên bản đồ,
màu sắc và lực nét… đều phải dựa vào chiều cao của học sinh, khả năng tư duy,
đặc biệt thị lực của học sinh. Ngoài ra quy mô lớp học, cách bố trí lớp học cũng ảnh
hưởng tới việc thiết kế bản đồ giáo khoa.
- Lưới chiếu (mạng lưới kinh vĩ tuyến) cùng tỉ lệ bản đồ giáo khoa cũng phải phù
hợp với nội dung bài học, phù hợp với lứa tuổi học sinh. Ở những lớp đầu cấp, lưới
chiếu là phần nội dung bài học, giúp học sinh hình dung được hình dạng Trái Đất, sự
phân chia các bán cầu (Đông – Tây, Nam – Bắc), phân chia kinh vĩ độ, múi giờ, các
đới khí hậu và biến dạng trên bản đồ… Khi cần biểu hiện một phần hay toàn bộ Trái
Đất thì nên dùng các lưới chiếu giữ đúng hình dạng để học sinh nhận biết dễ dàng.
- Ở các lớp cao hơn, các em học sinh đã có vốn kiến thức địa lí khá hơn, tư duy
địa lí đã phát triển cao hơn, việc biên vẽ các bản đồ nên dùng các lưới chiếu biểu
hiện đúng diện tích lãnh thổ biên vẽ bản đồ. Trên cùng một lãnh thổ biên vẽ bản đồ
nhưng được xây dựng ở các tỉ lệ khác nhau thì nên dùng cùng một loại lưới chiếu
để học sinh tiện so sánh, đối chiếu.

- Tính sư phạm còn biểu hiện ở sự thống nhất cách ghi chữ, hệ thống kí hiệu,
các phương pháp biểu hiện mà học sinh đã quen biết. Bố cục bản đồ phải hợp lí,
trình bày đẹp để vừa giáo dục óc thẩm mĩ vừa kích thích học sinh say mê làm việc
với bản đồ, đem lại cho các em sự hứng thú học môn địa lí.
Những biểu hiện của tính sư phạm đều có liên quan chặt chẽ với nhau, cùng
thống nhất ở mục tiêu giảng dạy, học tập và được trình bày một cách có hệ thống
trên các loại bản đồ từ lớp dưới lên lớp trên. Sử dụng bản đồ giáo khoa chỉ có thể
đạt được hiệu quả cao nhất khi chúng thành một hệ thống thống nhất.
1.1.4. Những yêu cầu có tính nguyên tắc với bản đồ giáo khoa treo tường
- Bản đồ giáo khoa treo tường phải đảm bảo phương hướng chính trị, khoa học
nhất định. Mỗi một bản đồ đều có tư tưởng chính trị nhất định phục vụ cho mục
đích của bài giảng.

10


- Bản đồ phải phù hợp với nội dung, chương trình sách giáo khoa, phù hợp với
atlat giáo khoa, phù hợp với bản đồ bài tập và các loại bản đồ khác, đồng thời phù
hợp với lứa tuổi, trình độ học sinh.
- Bản đồ giao khoa không chỉ có tác dụng minh họa cho sách giáo khoa mà
còn là nguồn tri thức độc lập của địa lí, trên đó phản ánh các đặc tính của địa
phương, mối quan hệ của các hiện tượng nhưng không quá tải. Nếu bản đồ chỉ nội
dung sách giáo khoa thì bản đồ sẽ sơ lược và có nhiều chỗ trống. Những tư liệu bổ
sung có tác dụng làm rõ hơn, dễ hiểu hơn những nội dung trong sách giáo khoa.
- Không biến bản đồ giáo khoa thành sơ đồ. Sự bố trí mạng lưới kinh vĩ tuyến
và các đối tượng phải phù hợp với thực tế, sự định vị phải chính xác. Bản đồ là tài
liệu khoa học nên nó phải đảm bảo tính chính xác về mặt toán học. Kích thước,
hình dạng, vị trí, các mối quan hệ không gian của đối tượng thể hiện phải có sự
chính xác và nêu được đặc tính của đối tượng và phân biệt rõ các đối tượng. Yêu
cầu này phải cân đối với các yêu cầu khác.

- Tất cả những số liệu sử dụng trong bản đồ giáo khoa treo tường cần đạt đến
trình độ hiện đại, thường xuyên cập nhật cho phù hợp với sách giáo khoa và thực
tế. Khi sách giáo khoa thay đổi, bản đồ không phù hợp với sách phải xây dựng mới,
hoặc nếu sử dụng giáo viên phải bổ sung số liệu, tài liệu mới. Trường hợp này
thường xảy ra với các đối tượng địa lí kinh tế - xã hội.
- Bản đồ giáo khoa phải đảm bảo tính trực quan. Tính trực quan cũng như sự
hấp dẫn truyền cảm đối với học sinh là một yêu cầu quan trọng. Một bản đồ treo
trước lớp đẹp, sáng sủa, mang tính mĩ thuật cao sẽ thu hút được sự chú ý của học
sinh, giúp học sinh dễ tiếp nhận hơn các tài liệu giáo khoa.
1.2. Cơ sở chính trị, pháp lí
- Cơ sở chính trị: không
- Cơ sở pháp lí: Nghị quyết Số: 29-NQ/TW “về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế"; Công văn số:
11


1100/SGDĐT- ngày 08 tháng 9 năm 2016 của Sở Giáo dục và đào tạo Sơn La V/v
GDPT hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ Giáo dục trung học năm học 2016-2017.
------------------------------------------------------------------------------2 Thực trạng của vấn đề
2.2.1. Ý nghĩ của bản đồ giáo khoa trong giảng dạy Địa lí khối 11, trường
THPT Yên Châu
- Trong các đồ dùng, phương tiện dạy học Địa lí khối 11đang được sử dụng tại
trường THPT Yên Châu: tranh ảnh, bảng biểu, video, bản đồ, biểu đồ… BĐGK giữ
vai trò rất quan trọng.
BĐGK là bộ phận khăng khít không thể tách rời trong quá trình giảng dạy Địa
lí. Bởi vì môn Địa lí trong nhà trường chọn lọc và trình bày những tri thức Địa lí
bằng ngôn ngữ tự nhiên, còn BĐGK phản ánh chúng bằng ngôn ngữ bản đồ. Sự
phối hợp giữa ngôn ngữ tự nhiên và ngôn ngữ bản đồ làm cho việc phản ánh thực tế
Địa lí sinh động hơn, đầy đủ hơ, giúp cho việc nhận thức Địa lí dễ dàng hơn. Vì

vậy môn Địa lí trong nhà trường THPT luôn gắn với BĐGK như hình với bóng.
- BĐGK là công cụ duy nhất giúp giáo viên và học sinh có cái nhìn bao quát
được các hiện tượng diễn ra trên một khoảng không gian rộng lớn không thể tri
giác trực tiếp được.
BĐGK mở rộng khái niệm không gian cho học sinh, cho phép các em thiết
lập mối quan hệ tương hỗ và nhân quả của các hiện tượng và các quá trình địa lí tự
nhiên và địa lí kinh tế xã hội. Hình thành cho học sinh thế giới quan duy vật biện
chứng.
Sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường là đồ dùng dạy học không thể thiếu đối
với một giáo viên giảng dạy Địa lí. Bởi ai giảng dạy Địa lí thì cũng luôn luôn có ý
thức và thói quen giảng dạy bằng bản đồ. Bản đồ giáo khoa nó không chỉ là đồ
dùng trực quan minh họa cho bài giảng mà nó còn là một cuốn sách giáo khoa thể
hiện khá nhiều kiến thức và nhiều kỉ năng đòi hỏi giáo viên phải hướng dẫn giúp
học sinh sử dụng bản đồ.
12


Nguồn bản đồ GV sử dụng trong dạy học Địa lí 11 bao gồm: Bản đồ trong
Sách giáo khoa (SGK) Địa lý 11; Bản đồ giáo khoa treo tường phục vụ dạy học
Địa lí 11 do Bộ GD & ĐT xây dựng; Tập bản đồ “thế giới và các châu lục”; Tập
bản đồ - bài tập và bài thực hành Địa lí 11; Các bản đồ từ đĩa CD Encarta sản xuất
từ năm 1999 đến 2009 và một số bản đồ điện tử khác trên các trang web.
Thực tế nguồn bản đồ giáo viên sử dụng thường xuyên trong dạy học Địa lí
11 hiện tại là bản đồ trong SGK Địa lí 11 và bản đồ treo tường dành cho dạy học
Địa lí 11 do Bộ GD-ĐT xây dựng (85% sử dụng bản đồ SGK, 85% sử dụng bản đồ
treo tường).
Bản đồ địa lí nói chung, bản đồ địa lí treo tường là những mô hình hình ảnh,
phản ánh sự vật, hiện tượng, quá trình...ở những không gian khác nhau, với những
đặc điểm, tính chất, số lượng, chất lượng và cấu trúc khác nhau trên Trái Đất bằng
ngôn ngữ đặc biệt. Bản đồ là phương tiện trực quan, nguồn trí thức quan trọng. Qua

bản đồ học sinh có thể nhìn bao quát những khu vực lãnh thổ rộng lớn, xa xôi trên
bề mặt Trái Đất mà họ chưa bao giờ có điều kiện đi đến tận nơi để quan sát. Vì
không phải là môn học riêng ở trường phổ thông nên những kiến thức về bản đồ
phải dạy lồng vào các kiến thức địa lí và ngược lại, từ kiến thức về bản đồ giúp học
sinh hình thành những biểu tượng, kĩ năng địa lí dưới sự tổ chức và hướng dẫn của
giáo viên. Đặc biệt hiện nay , hệ thống kỉ năng trong học tập môn địa lí ở trường
THPT rất đa dạng như: phân tích, nhận xét, tổng hợp, so sánh , thu thập, xử lí, trình
bày , vận dụng kiến thức để giải thích các hiện tượng và sự vật địa lí…
2.2.2. Một số thuận lợi và hạn chế còn tồn tại trong sử dụng bản đồ giáo khoa
Địa lí 11 trong dạy và học
Trong cuộc sống hằng ngày, trong sản xuất, nhất là trong nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa, vai trò của bản đồ ngày càng trở nên quan trọng. Chính vì vậy mà
chương trình cải cách giáo dục đề ra cho giáo viên địa lí những nhiệm vụ khá nặng
nề: Thông qua việc dạy địa lí mà phải trang bị cho học sinh những kiến thức về
bản đồ. Học sinh không chỉ nắm bắt những màu sắc, kí hiệu … của bản đồ. Mà
13


nhiệm vụ đặt ra là phải biết phân tích, đánh gía, thu thập, xử lí, vận dụng các kiến
thức để giả thích các hiện tượng. Tóm lại những kiến thức này được đặt ra ở mức
độ khá cao. Tức là khi tốt nghiệp phô thông học sinh trở thành một công dân, phải
có khả năng đọc và sử dụng bản đồ trong sản xuất, trong chiến đấu. Trong phân
phối chương trình, không có giờ học về bản đồ. Khi dùng bản đồ để dạy địa lí,
cũng là trang bị cho học sinh những kiến thức về bản đồ. Nhận thức một cách đúng
đắn chức năng của bản đồ trong công tác giảng dạy điạ lí có một giá trị quan trọng,
nó ảnh hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên, nên vấn đề sử dụng
bản đồ trọng dạy học là vấn đề hết sức quan trong không thể thiếu của mỗi người
giáo viên dạy học địa lí.
*Thuận lợi
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy giáo viên và học sinh có nhiều thuận lợi

nhất định trong việc sử dụng bản đồ để dạy và học Địa lí 11 như nguồn bản đồ từ
SGK khá phong phú, màu sắc rõ và đẹp; có bộ bản đồ treo tường kèm theo khá
phù hợp nội dung chương trình dạy Địa lí 11.Bên cạnh đó, giáo viên còn được rèn
luyện PP sử dụng bản đồ trong dạy học Địa lí khá thành thạo từ các trường đại học
sư phạm trong cả nước, nhất là biết kết hợp sử dụng bản đồ với các phương pháp
dạy học theo hướng phát huy được tính tích cực của người học như dạy học nêu
vấn đề/tình huống, dạy học hợp tác, dạy học khám phá…
Ngoài ra, trường THPT Yên Châu đều có trang bị máy chiếu nên rất thuận lợi
cho giáo viên trong việc sử dụng bản đồ qua giáo án điện tử.
* Khó khăn
Hiện nay, vấn đề sử dụng hiệu quả BĐGK (trong đó có BĐGK treo tường)
trong dạy học địa lí trường THPT vẫn còn rất nhiều vấn đề, đặc biệt tại các trường
vùng sâu vùng xa. Hiện nay, cùng với chương trình cải cách sách giáo khoa thì các
thiết bị dạy học cũng được tăng cường ngày một nhiều. Bộ môn địa lí cũng vậy, số
bản đồ mới cung cấp ngày càng nhiều. Tuy nhiên, do điều kiện khác nhau về nhiều

14


mặt, việc sử dụng BĐGK trong giảng dạy và học tập tại trường THPT còn nhiều
tồn tại.
Thời gian 45 phút cho một tiết dạy với lượng kiến thức quá nhiều thì giáo
viên rất khó để vừa dạy hết nội dung vừa tổ chức cho học sinh khai thác bản đồ và
báo cáo trên bản đồ. Nên nhìn chung, hiệu quả sử dụng BĐGK chưa cao. Hiện nay
một số giáo viên chưa thực sự quan tâm về vấn đề lớn này, cũng như quan tâm đến
nội dung kiến thức kĩ năng của bản đồ thể hiện. Bên cạnh đó nhà xuất bản giáo dục
đã in ấn các bản đồ trên nhưng tài liệu nào viết cụ thể về việc sử dụng bản đồ và
nội dung bản đồ giáo khoa địa lí treo từơng mà nhà xuất bản giáo dục đã in ấn để
cho giáo viên tham khảo sử dung trong khi giảng dạy còn ít. Đồng thời bản đồ giáo
khoa treo tường địa lí lớp 11 cũng chỉ mới được cung cấp vào gần cuối của học kì

II năm học 2007-2008. Hơn nữa, mặt bằng học sinh chưa cao tại nhiều lớp cơ bản,
đặc biệt trong trường THPT Yên Châu, bên cạnh những khó khăn khác (cơ sở vật
chất, trang thiết bị dạy học của trường…)
Một thực tế hiện nay, đó là bản đồ thì mới nhưng lại thêm phần giáo viên
chưa nhiệt tình hay chưa có thói quen trong vấn đề xử dụng bản đồ trong dạy học
có chăng thì giáo viên chúng ta cứ đến tiết dạy thì giáo viên mới đến phòng thiết bị
để mượn bản đồ để đi dạy tiết đó. Vì vậy khi lên lớp nhiều giáo viên mắc phải
những lúng túng trong sử dụng bản đồ, cũng như nói những kiến thức trong bản đồ
và các kỉ năng xử dụng còn mập mờ. Bởi vì, đó là những bản đồ mới nhưng giáo
viên thì chưa chú ý đến nó trong khi soạn bài, cũng như chú ý đến các kỉ năng xử
dụng bản đồ và một tâm lí còn chủ quan trong xử dụng bản đồ.
2.2.3. Nguyên nhân tồn tại hạn chế trong việc sử dụng bản đồ giáo khoa Địa lí
Hiện nay, với chương trình cải cách sách giáo khoa, cũng như việc áp dụng
phương pháp dạy học mới. Các phương tiện dạy - học ở các môn học nói chung và
môn Địa lí nói riêng ngày một nhiều. Đôí với bộ môn Địa lí được trang bị thêm
nhiều bản đồ giáo khoa treo tường mới với nhiều nội dung, nhiều nguồn thông tin,
kiến thức…được thể hiện trên đó, Song việc đưa vào giảng dạy thì chưa được hiệu
15


quả. Qua trao đổi, dự giờ với nhiều giáo viên trong trường và đồng nghiệp ở các
trường bạn thì việc đưa các bản đồ giáo khoa treo tường có hiện nay vào giảng dạy
khó khăn trong, bởi nhiều lí do:
- Số lượng bản đồ lớn trong khi phòng giành cho bộ môn chưa có nên chưa
được đưa vào sử dụng.
- Đã được đưa vào sử dụng nhưng hiệu quả chưa được như mong muốn phần
lớn là do:
+ Mặt bằng học sinh không đồng đều gây khó khăn trong việc áp dụng các
phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa trong giảng dạy Địa lí, đặc biệt là Địa lí 11
+ Học sinh chưa quan tâm và nhận biết tầm quan trong của việc rèn luyện kĩ

năng khai thác và sử dụng bản đồ giáo khoa ở chương trình lớp 11, trường THPT
để chuẩn bị cho thi tốt nghiệp ở lớp 12 và ứng dụng thực tế trong cuộc sống sau
này
+ Một số học sinh có quan tâm nhưng chưa thực sự hiểu được bản đồ, kĩ năng
khai thác kiến thức trên bản đồ còn yếu.
+ Giáo viên chưa xác định phương pháp phù hợp để truyền thụ thích hợp với
từng loại bản đồ.
+ Bản đồ được treo ở phòng thiết bị đến tiết dạy thì mang lên lớp dạy nên lúng
túng trong khi dạy- học.
+ Việc rèn luyện các kỉ năng Địa lí trong các bản đồ cũng chưa đạt hiệu quả,
đôi khi còn lơ mơ, việc sử dụng bản đồ chỉ là hình thức.
+ Việc đặt câu hỏi để khai thác nội dung bản đồ cũng chưa thật sự phù hợp với
bản đồ được treo.
Từ thực tế đó, trong những năm qua bản thân đã được phân công giảng dạy
chương trình Địa lí lớp 11, đã không ngừng tìm hiểu các loại bản đồ giáo khoa treo
tường dùng cho giảng dạy Địa lí lớp 11. Xin đưa ra kinh nghiệm trong việc sử
dụng bản đồ giáo khoa treo từờng chương trình Địa lí lớp 11 với sáng kiến kinh

16


nghiệm : “Phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa treo tường địa lí 11 trong
việc dạy học Địa lí lớp 11 cơ bản, trường THPT Yên Châu ”
------------------------------------------------------------------------------3. Các giải pháp thực hiện
3.1. Một số phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa trong giảng dạy Địa lí.
3.1.1. Phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa khi soạn giảng.
Sau khi xác định mục tiêu và yêu cầu của bài giảng, giáo viên biết được khối
lượng kiến thức lý thuyết cũng như những biểu tượng, kĩ năng cần trang bị cho học
sinh. Việc chuẩn bị bản đồ cho bài giảng phải căn cứ vào mục tiêu, nội dung của
bài giảng và đối tượng học sinh. Những bản đồ được xác định là cần thiết cho bài

giảng không chỉ giới hạn trong những bản đồ đã có trong sách giáo khoa (SGK),
mà còn bao gồm cả những bản đồ treo tường… Như vậy, việc chuẩn bị bản đồ cho
bài giảng phải được tiến hành trên tất cả các loại hình bản đồ đặc biệt cần phát huy
bản đồ treo tường, nhưng nội dung cũng như phương pháp phải có sự thống nhất,
đáp ứng mục tiêu của bài giảng. Số lượng bản đồ cần dùng cho một tiết học cũng
cần xác định hợp lí, nếu dùng quá nhiều bản đồ cho một tiết học thì không những
không phát huy được tác dụng mà đôi khi còn dẫn đến những kết quả ngược lại, dễ
làm cho học sinh phân tán tư tưởng, không xác định được chủ điểm của bài. Vì thế,
bài giảng sẽ không đạt được mục tiêu đặt ra. Tuy nhiên cho đến nay, cũng không ai
đưa ra số lượng bản đồ cần dùng cho một tiết học là bao nhiêu, tuỳ theo tính chất
và yêu cầu của từng bài, từng tiết, từng điều kiện của mỗi giáo viên và mỗi trường
hợp cụ thể mà giáo viên xác định số lượng và thể loại bản đồ cho thích hợp. Khi số
lượng và thể loại bản đồ cần cho bài giảng đã được xác định giáo viên phải tiến
hành công tác chuẩn bị cho mỗi
bản đồ bao gồm:
- Chọn lọc nội cần thiết và phù hợp để sử dụng cho bài giảng.

17


3.1.2. Phương pháp sử dụng bản đồ giáo khoa trong thực hiện các bước lên
lớp.
Trong giờ giảng bài ở trên lớp ngoài việc khai thác kiến thức địa lí trong sách
giáo khoa, giáo viên còn hướng dẫn học sinh khai thác những kiến thức, kĩ năng từ
bản đồ thông qua tư duy, phục hồi lại môi trường địa lí trên thực địa đã được thu
nhỏ. Giáo viên hướng dẫn học sinh nhận biết, hiểu được những hiện tượng địa lí và
khả năng phân tích các hiện tượng ấy trên bản đồ, đồng thời cũng hướng dẫn các
em tiếp nhận các kiến thức địa lí bằng bản đồ. Trong giờ học tại lớp, nếu bài giảng
của giáo viên gắn liền với bản đồ thì học sinh phải luôn luôn làm việc, vừa nghe,
nhìn, suy nghĩ, phát biểu ý kiến và ghi chép. Như vậy mới phát huy được tính tích

cực của học sinh và huy động được học sinh tham gia bài giảng một cách hứng thú.
Giáo viên vừa trang bị kiến thức khoa học địa lí cho học sinh, vừa rèn luyện cho
các em những kĩ năng địa lí, kĩ năng bản đồ, vừa hướng dẫn phương pháp học địa lí
trên bản đồ.Để làm tốt như vậy giáo viên cần phải:
3.1.2.1. Cần có kế hoạch hướng dẫn học sinh ôn tập và bổ sung những ước
hiệu của bản đồ.
Mặc dù ngay từ đầu năm học cấp II ( lớp 6 ) và đầu năm học của cấp III ( lớp
10 ) các em được trang bị một số kiến thức cơ bản về bản đồ các kí hiệu về bản đồ
tuy nhiên với số lượng 1 tiết cho mỗi cấp học thì quá ít, không thể giới thiệu hết tất
cả các loại bản đồ, các loại kí hiệu của bản đồ… Trong khi đó hiên nay các loại
bản đồ giáo khoa treo tường hiện nay được trang bị nhiều loại , với nội dung được
thể hiện đa dạng. Do đó các kí hiệu, màu sắc cũng được thể hiện nhiều hơn. Vì vậy,
giáo viên ít thời gian để bổ sung những ước hiệu mới, kí hiệu mới …
3.1.2.2. Trong quá trình sử dụng bản đồ để khai thác và truyền đạt kiến thức
của bài giảng, giáo viên phải luôn có ý thức làm mẫu.
“ Làm mẫu” trong sử dụng bản đồ nhằm giúp học sinh biết cách tiến hành
khai thác kiến thức trên cơ sở bản đồ trong quá trình tự học về sau. Sử dụng bản đồ
treo tường để giảng dạy giáo viên cần nghĩ rằng: Những thao tác chỉ bản đồ kết hợp
18


với những lời giảng giải của mình đều là những thao tác khuôn mẫu, nhằm hướng
dẫn học sinh biết cách đọc và sử dụng bản đồ ngay trong khi nghe giảng bài mới ở
lớp từ đó tạo điều kiện cho bản thân học sinh có thể tự tiến hành học tập môn địa lí
bằng bản đồ ở lớp cũng như ở nhà.
Chương trình địa lí lớp 11 không chỉ cung cấp cho học sinh biết : Khái quát
tình hình kinh tế - xã hội những khu vực hay thế giới mà nó còn cung cấp cung
cấp những kiến thức của từng quốc gia về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên, dân cư
và tình hình phát triển kinh tế xã hội. Từ đó giúp cho các em biết phân tích ( giải
thích ) được từng sự vật, từng hiện tượng địa lí đang học trong mối quan hệ biện

chứng ( hữu cơ ) giữa điều kiện tự nhiên, dân cư và tình hình phát kinh tế xã hội
của các quốc gia và khu vực. Từ những sự vật hiện tượng đã biết có thể phân tích
những sự vật hiện tượng địa lí chưa biết theo quy luật của chúng.
3.1.3. Chú ý sử dụng bản đồ để nêu câu hỏi trong quá trình giảng dạy.
Bản đồ nói chung và bản đồ treo tường nói riêng là một công cụ để giáo viên
khai thác và truyền đạt kiến thức, là một phương tiện để gáo viên dẫn dắt học sinh
để tìm ra những nội dung chủ yếu của bài tập có thể nói hầu như mọi kiến thức cơ
bản cuả bài giảng địa lí đều có ở trên bản đồ này hay ở bản đồ khác. Vì vậy, trong
quá trình giảng bài giáo viên cần chú ý đến phương pháp phát vấn trên cơ sở quan
sát bản đồ, làm được như vậy chẳng những giúp học sinh nắm được nội dung của
bài học một cách dễ dàng, mà còn tăng cường rèn luyện kĩ năng đọc bản đồ và bồi
dưỡng khả năng tư duy địa lí.
Để thực hiện những yêu cầu trên một cách hiệu quả trong quá trình thực hiện
phương phát phát vấn trên cơ sở đọc bản đồ chúng ta cần lưu ý những điểm sau:
+ Đặt câu hỏi từ dễ đến khó:
Khi giảng bài 5: Một số vấn đề của châu lục và khu vực ( tiếp theo )
Tiết 2: Một số vấn đề của Mĩ La Tinh. Gíáo viên cũng nên đặt những câu hỏi
vừa mang tính chất gợi ý vừa có tính chất dẫn dắt để học sinh có thể đi từ nhận xét
trên cơ sở màu sắc (ước hiệu của bản đồ) đến những nội dung màu sắc của bản đồ.
19


Ví dụ: Như bài trên và học sinh quan sát bản đồ Các cảnh quan và khoáng sản
chính ở Mĩ La Tinh giáo viên đưa ra câu hỏi.
-Quan sát bản đồ địa lí tự nhiên châu Mĩ .em hãy cho biết Mĩ La Tinh có
những cảnh quan và khoáng sản chính nào ? ( sau khi học sinh trả lời giáo viên bổ
sung và hỏi tiếp )
-Qua bản đồ trên em hãy cho biết cảnh quan và loại khoáng sản nào chiếm tỉ
lệ nhiều nhất ở Mĩ La Tinh?( sau khi học sinh trả lời giáo viên bổ sung và hỏi tiếp )
- Những loại cảnh quan và khóang sản đó có thuận lợi và khó khăn trong việc

phát triển kinh tế của Mĩ La Tinh ?
Nếu phần này làm tốt, mới hướng dẫn được học sinh học bài và làm bài tập ở
nhà bằng bản đồ được tốt. Thông thường khi giảng bài ở lớp, giáo viên đưa ra
những câu hỏi, học sinh suy nghĩ, quan sát trên bản đồ để tìm ra câu trả lời. Đây là
loại câu hỏi mà nội dung câu trả lời đã có trong bản đồ, cho nên, giáo viên cần chú
ý đến cơ sở bản đồ để học sinh sử dụng cho câu trả lời. Nếu câu trả lời dựa trên
sách giáo khoa, hoặc trong những bản đồ trong sách giáo khoa, thì chắc rằng phần
lớn học sinh trong lớp đều có khả năng trả lời. Nhưng nếu câu hỏi đưa ra đòi hỏi
học sinh phải tìm câu trả lời trên bản đồ treo tường, giáo viên cần quan sát xem
những học sinh ngồi cuối lớp có thể nhìn bản đồ không. Đã có những trường hợp,
câu hỏi đưa ra chỉ 10 em học sinh ngồi ở bàn đầu là có khả năng chuẩn bị câu trả
lời, còn hầu hết là ngồi chơi. Phương pháp đàm thoại tiến hành trên cơ sở dùng bản
đồ tại lớp rất sinh động, làm cho lớp học có một không khí học tập tự giác, khích lệ
các em cùng suy nghĩ và tham gia bài giảng. Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện tốt
phương pháp này, những hệ thống câu hỏi đặt ra cần tính toán trên cơ sở tư duy,
năng lực của học sinh và với thời gian cần thiết cho một câu hỏi, để đảm bảo kế
hoạch giảng dạy về mặt thời gian. Những câu hỏi đặt ra trong khi giảng bài, nên
dùng những loại câu hỏi đòi hỏi người trả lời chỉ cần đọc bản đồ, thông qua tư duy
và tìm ra câu trả lời, không nên dùng những câu hỏi đòi hỏi phải tính toán trên bản
đồ mới trả lời được. Nếu tính toán chi tiết thì không đủ thời gian mà nếu ước lượng,
20


sẽ gây cho học sinh thói quen làm việc tuy tiện, đại khái. Sau khi những câu hỏi đặt
ra đã lần lượt được trả lời, giáo viên hệ thống hoá và tổng kết vấn đề. Nếu giáo viên
sử dụng tốt bản đồ trên lớp không những đem lại hiệu quả cao trong khi trang bị
kiến thức cho học sinh mà còn củng cố và trang bị những kĩ năng địa lí đặc biệt là
kĩ năng bản đồ, kĩ năng đặc thù của bộ môn. Trong chương trình SGK địa lí mới
(thực hiện ở lớp 10 từ năm học 2006-2007), những nội dung, yêu cầu về rèn luyện
kĩ năng bản đồ cho học sinh ở trường phổ thông đặt ra khá nặng, trong khi chương

trình cũng như kế hoạch giảng dạy không bố trí nhiều thời gian cho công việc này.
Việc rèn luyện kĩ năng bản đồ cho học sinh hầu như chỉ được tiến hành trong khi
dạy các bài học địa lí. Kĩ năng đọc bản đồ, phân tích bản đồ, dùng bản đồ để nhận
định khái quát về địa lí tự nhiên một khu vực, một quốc gia... các em có thể làm
ngay trên lớp. Còn những kĩ năng tính toán như: tính chiều dài một dòng sông, một
tuyến đường giao thông, diện tích một khu rừng bị cháy...hầu như các em không
làm được trên lớp mà giáo viên thường dùng thời gian của các buổi thực hành để
hướng dẫn các em.

.

+ Đặt câu hỏi với yêu cầu trả lời các nội dung từ đơn giản đến phức tạp:
Ví dụ : Khi giảng bài 8 : Liên Bang Nga, phần II/ Điều kiện tự nhiên, dựa vào
bản đồ tự nhiên của Liên Bang Nga, giáo viên có thể nêu ra những câu hỏi :
+ Dựa vào bản đồ địa lí tự nhiên
Liên Bang Nga em nhận xét gì về địa
hình của LB Nga? ( Cao ở phía đông
và thấp dần về phía đông)
+ Địa hình của Liên Bang Nga được
chia làm mấy phần ? ( hai phần :
Phía đông và phía tây)
+ Sự phân hoá như vậy ảnh hưởng
như thế nào đến sự phát triển kinh tế
21


và phân bố dân cư giữa phía tây và phía đông? ( học sinh phải có sự liên hệ giữa
các yếu tố tự nhiên trên bản đồ để liên hệ, so sánh trả lời câu hỏi )
3.1.4. Chú ý tổ chức hướng dẫn cho học sinh được rèn luyện kĩ năng mọi lúc
mọi nơi.

3.1.3.1 Trong bước kiểm tra đầu giờ:
Khi kiểm tra bài cũ, giáo viên phải treo bản đồ phục vụ bài học trước để học
sinh quan sát và trả lời những câu hỏi của giáo viên đặt ra, mọi câu hỏi kiểm tra
được đặt ra cần phải có những yêu cầu buộc học sinh quan sát bản đồ trong quá
trình trả lời câu hỏi.
Ví dụ: Trước khi giảng bài 11: Khu Vực Đông Nam Á ( tiếp theo ), để tiến hành
kiểm tra bài cũ, giáo viên vừa treo bản đồ tự nhiên khu vực Đông Nam Á, vừa có
thể nêu câu hỏi kiểm tra bài cũ của học sinh như: “Dựa vào bản đồ tự nhiên của khu
vực Đông Nam Á, Em hãy mô tả vị trí địa lí và lãnh thổ của khu vực, vị trí địa lí
và lãnh thổ của đó có thuận lợi như thế nào trong phát triển kinh tế- xã hội?
3.1.3.2 Trong bước giảng nội dung bài mới:
Phải thường xuyên thông qua các thao tác “mẫu” của giáo viên khi sử dụng
bản đồ để khai thác và truyền đạt những nội dung của bài giảng là một yêu cầu rất
quan trọng, nhằm hướng dẫn học sinh hình dung được cách đọc bản đồ ngay trong
khi nghe giảng, đồng thời cũng là một biện phát rất quan trọng để nâng cao hiệu
quả của bài giảng.
Khi sử dụng phương pháp phát vấn trong quá trình giảng dạy và đặt ra các
câu hỏi để học sinh suy nghĩ và trả lời, giáo viên cũng đặt biệt lưu ý tới những yêu
cầu buộc học sinh quan sát bản đồ để trả lời những nội dung câu hỏi, có như vậy
mơí thúc đẩy quá trình rèn luyện kỉ năng đọc bản đồ và phát triển tư duy địa lí cho
học sinh một cách thường xuyên và liên tục trong suốt quá trình giảng dạy.
3.1.3.3 Trong bước cũng cố :
Trong bước cũng cố nội dung kiến thức vừa học và những tiết ôn tập giáo
viên cần đặt ra những câu hỏi có những yêu cầu rèn luyện kỉ năng về bản đồ.
22


3.1.5. Trong bước hướng dẫn học sinh học tập ở nhà
Hướng dẫn học sinh biết cách học mỗi bài địa lí trên cơ sở bản đồ kết hợp
với sách giáo khoa và ghi vở.

Những nội dung thường xuyên cần lưu ý hướng dẫn học sinh trong tất cả các
tiết:
+Một số ước hiệu của bản đồ trong sách giáo khoa cần học bổ sung để phục
vụ cho nội dung bài học.
+Cách đọc mối liên hệ giũa các nội dung chủ yếu của bài học thể hiện trong
bản đồ sách giáo khoa.
+Những ước hiệu mới ( ước hiệu học sinh chưa biết) để phục vụ cho quá
trình nghe giảng của tiết sau.
3.2. Một số bản đồ giáo khoa treo tường được sử dụng trong chương trình địa
lí 11.
TT

Tên bản đồ
Bản đồ tự

1

nhiên Châu
Phi
Châu Phi –

2

Địa Lí tự
nhiên
Mĩ Latinh-

4

1:12.000.00

0

KT-XH
Châu Mĩ -

3

Tỉ lệ

KT-XH
Châu Á -

5

Địa Lí tự

6

nhiên
Bản đồ Kinh

Sử dụng cho bài
Bài 5: Một số vấn đề của châu lục và khu vực.
Tiết 1: Một số vấn đề của Châu Phi.(I/Một số
vấn đề về tự nhiên).
Bài 5: Một số vấn đề của châu lục và khu vực.
Tiết 1: Một số vấn đề của Châu Phi.(III/ một

1:16.000.00
0

1:13.000.00
0
1:15.000.00
0
1:5.000.000

số vấn đề về kinh tế )
Bài 5: Một số vấn đề của châu lục và khu vực.
Tiết 2: Một số vấn đề của Mĩ La Tinh.(I/ Một
số vấn đề về tự nhiên)
Bài 5: Một số vấn đề của châu lục và khu vực.
Tiết2: Một số vấn đề của Mĩ La Tinh.(II/ một
số vấn đề về kinh tế)
Bài 5: Một số vấn đề của châu lục và khu vực.
Tiết 3: Một số vấn đề khu vực Tây Nam Ávà
Trung Á.
Bài 6: Hợp chủng quốc Hoa Kì
23


Tiết 2: Kinh tế .

tế Hoa Kì

7

Các nước
Châu Âu

Tiết 3: Thực hành sự phân hoá lãnh thổ sản

xuất của Hoa Kì.
Bài 7: Liên Minh Châu Âu.
1:7.000.000

giới
Bài 8: Liên Bang Nga

LB Nga 10

Địa Lí tự

1: 8.000.000 Tiết 1: Tự nhiên, dân cư và xã hôị.(I/ Vị trí địa

nhiên.
LB Nga
11

-Kinh tế
chung

lí và lãnh thổ và II/Điều kiện tự nhiên)
Bài 8: Liên Bang Nga
1:8.000.000

12

nhiên

1:2.200.000


Nhật Bản 13

Kinh tế
chung

1:2.200.000

- Kinh tế

1:

1:

chung
Ôtrâylia Địa lí tự
nhiên

Tiết 1: Tự nhiên, dân cư và tình hình phát
triển kinh tế.( I/ Điều kiện tự nhiên)

Tiết 1: Tự nhiên, dân cư và tình hình phát
triển kinh tế.( III/ Tình hình phát triển kinh tế)
Tiết 2: Các ngành và các vùng kinh tế.
Bài 10: Cộng Hoà ND Trung Hoa.

chung
ĐNÁ – KT

15


Tiết 3: Thực hành tìm hiểu sự thay đổi GDP

Bài 9 : Nhật Bản

Trung Quốc
14

Tiết 2: Kinh tế
và phân bố Nông nghiệp của Liên Bang Nga.
Bài 9 : Nhật Bản

Nhật Bản Địa Lí tự

Tiết 1: Eu – liên minh khu vực lớn trên thế

Tiét 2 : Kinh tế
Bài 11: Khu vực Đông Nam Á
Tiết 2: Kinh tế
Bài 12: Ô-Xtrây-Li-A

1:12.000.00

Tiết 1: Khái quát về Ô-Xtrây-Li-A ( 1/ Vị trí

0

địa lí và điều kiện tự nhiên)

24



Ôtrâylia –
16

kinh tế
chung

Bài 12: Ô-Xtrây-Li-A
1:6.000.000

Tiết 1: Khái quát về Ô-Xtrây-Li-A (II/Kinh tế)

3.3. Sản phẩm minh chứng
( Chương trình cơ bản)
1/ Bản đồ: ĐỊA LÍ TỰ NHIÊN CHÂU PHI
Bản đồ: KINH TẾ KINH TẾ CHUNG LIÊN BANG NGA.
( Sử dụng cho bài 8: Liên Bang Nga - Tiết 2: Kinh tế )

Bản đồ kinh tế chung Liên Bang Nga .

THUYẾT MINH NỘI DUNG VÀ HƯỚNG SỬ DỤNG BẢN ĐỒ
CẤU TRÚC BẢN ĐỒ:
Bản đồ giáo khoa địa lí treo tường địa lí kinh tế chung Liên Bang Nga và biểu
đồ tổng sản phẩm trong nước qua các năm từ năm 2000- 2004.
NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH ĐƯỢC THỂ HIỆN TRÊN BẢN ĐỒ VÀ BIỂU ĐỒ:

25



×