Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN CAO HỌC Công tác xã hội với bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.09 KB, 24 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trẻ em là mầm non của mỗi nước và là vấn đề được nhân loại hết sức quan
tâm. Ở nước ta, vẫn còn bị ảnh hưởng rất nặng nề tư tưởng trọng nam, khinh nữ,
tình trạng phân biệt đối xử với trẻ em gái vẫn còn tồn tại khá phổ biến ở nông thôn
và thành thị, từ trong gia đình ra ngoài xã hội ở mức độ khác nhau. Luật bình đẳng
giới năm 2006 ra đời phần nào xóa giảm sự bất bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ
em gái trong gia đình, xã hội.
Bình đẳng giới trong gia đình thực chất là bình đẳng giữa vợ, chồng, con
trai, con gái, nam-nữ về vị trí, vai trò trong đó bao gồm sự bình đẳng trong việc
tiếp cận nguồn nhân lực, bình đẳng trong thù lao công việc, bình đẳng trong việc
thụ hưởng các thành quả và bình đẳng trong các vấn đề liên quan đến bản thân, gia
đình và xã hội. Điều đó có nghĩa là đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình giúp cho
nam - nữ đều được tạo cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
gia đình, cộng đồng và xã hội.
Công tác xã hội là một chuyên ngành là hoạt động thực tiễn mang tính tổng
hợp cao. Trong đó nhân viên công tác xã hội bằng những hiểu biết, kiến thức kĩ
năng của mình giu thân chủ phục hồi các chức năng, khơi dậy các khả năng tiềm
ẩn của bản thân thân chủ để họ tự giải quyết vấn đề gặp phải, giúp cộng động có
những nhận thức đúng đắn về những sai lệch trong xã hội như những vấn đề: Bất
bình đẳng giới trong gia đình, bao lực gia đình, phân công lao động trong gia
đình…
Như vậy bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình được
hiểu là trong gia đình giữa trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng trong việc được
chăm sóc bảo vệ quyền được sống, bình đẳng về quyền được học tập, bình đẳng
trong việc thực hiện các công việc trong gia đình, bình đẳng về quyền được nghỉ

1


ngơi, được vui chơi và tham gia các hoạt động vui chơi, giả trí phù hợp với lứa
tuổi. Các thành viên khác trong gia đình không được có hành vi phân biệt đối xử


giữa trẻ em trai và trẻ em gái.
Việc quan tâm, chăm lo, giáo dục, sự không phân biệt đối xử giữa trẻ em
trai và trẻ em gái của gia đình và xã hội sẽ giúp thế hệ trẻ có hành trang vững chắc
bước vào đời. Để tìm hiểu rõ vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em sau đây em xin viết
bài tiểu luận về đề tài: “Công tác xã hội với bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và
trẻ em gái trong gia đình Việt Nam hiện nay”.

2


NỘI DUNG
I.

Lý do chọn đề tài
Với sự tiến bộ của khoa học và công nghệ, sự phát triển của kinh tế, xã hội,
đời sống của con người ngày càng được nâng lên nhưng có những vấn đề xã hội
vẫn chưa được đẩy lùi hoặc giảm thiểu.
Từ xưa đến nay, nữ giới luôn được cho là phái yếu, yếu thế trước mọi công
việc, nam giới là người độc lập, mạnh mẽ nên có quyền quyết định mọi công việc
trong gia đình. Vì vậy, nạn nhân của bạo lực gia đình thường chủ yếu là phụ nữ và
trẻ em gái (chiếm tới 75%). Năm 2008 điều tra về bạo lực gia định có tới 1.478 vụ
(thể hiện trên 9 dạng bạo lực), đã có 1.219 chiếm 82% vụ chồng gây ra cho vợ và
con cái. Những bất bình đẳng tồn tại trong gia đình thường là bất bình đẳng về
công việc, suy nghĩ, giáo dục…
Thống kê của Viện xã hội học, Viện KH-XHVN 25/2/2006: Việt Nam có
đến 66% các vụ ly hôn liên quan đến bạo hành gia đình, 5% phụ nữ được hỏi thừa
nhận bị chồng đánh đạp thường xuyên, 82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành
phố có xảy ra bạo lực. Tỷ lệ ohuj nữ, trẻ em bị ngược đãi trong những gia đình khá
giả ở mức cao hơn 76%. Bất bình đẳng giới chưa có hồi kết khi mà trách nhiệm
của phụ nữ đối với gia đình và con cái vẫn nặng nề; tình trạng thiếu máu diễn ra

phổ biến ở các bà mẹ mang thai; nạn bạo hành , phân biệt đối xử tồn tại trong mọi
tầng lớp dân cư; cơ hội học tập, vay vốn làm ăn, thằng tiến, kể cả mức lương của
chị em vẫn thua xa so với nam giới.
Hậu quả của việc muốn có con trai trong gia đình để nối dõi tông đường vẫn
là tâm lý ăn sâu bám rễ ở mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là những vùng nông
thôn và vùng sâu vùng xa nhận thức còn kém. Cũng xuất phát từ nguyện vọng có
con trai mà cuộc điều tra xã hội học ở Hà Nội có 2/3 người hỏi đã nêu lên nguyện
vọng muốn sinh con thứ ba. Số bé trai mới sinh là 289.126 em và bé gái là 216.585

3


em, tỷ số giới tính là 100,8 nam/100. Điển hình là Thái Bình: tỷ số 120 nam/100
nữ, Kiên Giang: 125 nam/100 nữ, An Giang: 128 nam/100 nữ, Sóc Trăng 124
nam/100 nữ… Ngay từ đầu kết quả điều tra dân số năm 1999 đã có dấu hiệu mất
cân bằng giới tính trên phạm vi cả nước, đặc biệt 16 tỉnh/thành phố có tỷ suất vượt
quá ngưỡng tự nhiên (106 nam/100 nữ).
Như vậy sự bất bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình là cuộc cách mạng
hết sức khó khăn và lâu dài vì sự hạ thấp, khinh miệt đối với phụ nữ đã tồn tại từ
hàng nghìn năm nay. Ở vùng nông thôn và miền núi, nơi dân trí thấp, phụ nữ dân
tộc thiểu số còn phải làm việc quần quật từ 5h sáng đến 11-12h đêm khiến phụ nữ
mệt mỏi, tính cách giảm theo chiều hướng xấu, giảm tình yêu đối với chồng, không
có đủ thời gian để chăm sóc bản thân, theo đuổi những thú vui, sở thích riêng, phát
triển chuyên môn nghề nghiệp… Còn về phía các ông chồng lại mang trên mình
trạng thái ỉ lại, chán vợ, có dư quá nhiều thời gian để làm thú vui khác, những cuộc
ngoại tình làm sứt mẻ tình cảm vợ chồng. Nguy hiểm hơn là điều này duy trì tư
tưởng “trọng nam khinh nữ”, cản trở mục tiêu bình đẳng giới quốc gia.
Trong một số kết quả nghiên cứu, về việc học tập từ tiểu học lên các bậc học
cao hơn của trẻ em gái dân tộc thiểu số cho thấy, tỉ lệ trẻ em gái được học lên trung
học cơ sở thấp hơn trẻ em trai rất nhiều.

Vì vậy từ những số liệu cụ thể trên, cùng những hệ quả của sự bất bình đẳng
giới trong gia đình, tôi quyết định thực hiện đề tài: “Công tác xã hội với bất bình
đẳng giới giữa trẻm em trai và trẻ em gái ở Việt Nam hiện nay” để đưa ra được
biện pháp can thiệp cũng như hỗ trợ nhằm giảm sự bất bình đẳng.
II.
1.

Một số khái niệm
Khái niệm bình đẳng giới:
Theo tài liệu, Bình đẳng giới là sự thừa nhận và coi trọng như nhau các đặc
điểm giống và khác nhau giữa phụ nữ và nam giới, nam và nữ có vị thế bình đẳng
và đều được tôn trọng như nhau. Nam và nữ cùng: có điều kiện bình đẳng để phát
4


huy hết khả năng và thực hiện các mong muốn của mình; có cơ hội bình đẳng để
tham gia đóng góp và thụ hưởng các nguồn lực, lợi ích của sự phát triển; được
hưởng tự do và chất lượng cuộc sống bình đẳng; được hưởng thành quả bình đẳng.
Dưới góc độ Luật bình đẳng giới, theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật bình đẳng
giới năm 2006: “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau được
tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình trong sự phát triển của cộng
đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau thành quả của sự phát triển”.
2.

Khái niệm bình đẳng giới trong gia đình
Bình đẳng giới trong gia đình thực chất là bình đẳng giữa vợ, chồng, con
trai, con gái, nam-nữ về cơ hội, vị trí, vai trò trong đó bao gồm sự bình đẳng trong
việc tiếp cận nguồn nhân lực, bình đẳng trong thù lao công việc, bình đẳng trong
việc thụ hưởng các thành quả và bình đẳng trong các vấn đề liên quan đến bản
thân, gia đình và xã hội. Điều đó có nghĩa là đảm bảo bình đẳng giới trong gia đình

giúp cho nam-nữ đều được tạo cơ hội để phát huy năng lực của mình cho sự phát
triển của gia đình, cộng đồng và xã hội. Như vậy, bình đẳng giới giữa em trai và
em gái trong gia đình được hiểu là trong gia đình giữa trẻ em trai và trẻ em gái
bình đẳng trong việc được chăm sóc bảo vệ quyền được sống, bình đẳng về quyền
được học tập, bình đẳng trong việc thực hiện các công việc trong gia đình, bình
đẳng về quyền được nghỉ ngơi, được vui chơi và tham gia các hoạt động vui chơi,
giải trí phù hợp với lứa tuổi. Các thành viên khác trong gia đình không được có
hành vi phân biệt đối xử giữa trẻ em trai và trẻ em gái.

3.

Những nội dung cơ bản của bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái
trong gia đình hiện nay
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, trẻ em là những người dưới 18 tuổi.
Gia đình đóng vai trò quan trọng, cơ bản trong việc hình thành nhận thức, thái độ
về các quan hệ giới. Thực hiện bình đẳng giới trong gia đình sẽ là cơ hội tốt, là đòn
bẩy quan trọng để tăng cường khả năng nhận thức bình đẳng giới của mỗi cá nhân
5


đồng thời cũng là yếu tố đảm bảo bình đẳng giới của mỗi cá nhân, góp phần thúc
đẩy sự phát triển của gia đình và xã hội. Trẻ em khi sinh ra có quyền được chăm
sóc, nuôi dưỡng, học tập và tham gia vui chơi, giải trí… Tại khoản 4 Điều 18 Luật
bình đẳng giới năm 2006 đã quy định: “con trai và con gái được gia đình chăm sóc,
giáo dục, và tạo điều kiện học tập, lao động, vui chơi giải trí và phát triển. Do đó,
nội dung của bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình thể hiện ở
những khía cạnh sau:
- Trong gia đình, trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng trong việc đảm bảo
quyền được sống. Tại khoản 2 Điều 5 Luật bình đẳng giới năm 2006 quy định giới
tính chỉ các đặc điểm sinh học của nam và nữ. Giới tính mang tính chất bẩm sinh

được hình thành một cách tự nhiên trên cơ sở di truyền, là sản phẩm của quá trình
tiến hóa tự nhiên về sinh học của con người không bị thay đổi theo thời gian và
môi trường xã hội. Khi sinh ra trẻ em không phân biệt trẻ em trai và trẻ em gái đều
có quyền được sống, bình đẳng về quyền được tôn trọng thân thể và nhân phẩm.
Gia đình phải áp dụng các biện pháp thích hợp để bảo vệ trẻ em trai và trẻ em gái
khỏi mọi hình thức bạo lực về thể xác hoặc tinh thần; không phân biệt đối xử, gây
tổn thương hay xúc phạm, ngược đãi trẻ em. Cha mẹ và những người khác trong
gia đình có trách nhiệm bảo đảm điều kiện sống cần thiết cho sự phát triển của trẻ
em trai cũng như trẻ em trai.
- Quyền bình đẳng về học tập giữa trẻ em trai và trẻ em gái. Quyền học tập
là một quyền cơ bản của trẻ em. Theo quy định tại Điều 33 Luật bình đẳng giới
năm 2006 thì gia đình phải đối xử công bằng, tạo cơ hội như nhau cho con trai và
con gái trong học tập. Sự quan tâm, giáo dục của gia đình đối với trẻ em là môi
trường quan trọng giúp mỗi con người hòa nhập vào cộng đồng và xã hội, thích
ứng với đòi hỏi về nghề nghiệp, đạo đức, vốn sống của mỗi con người; sự quan
tâm của họ đối với trẻ em còn giúp cho con cái tránh những tệ nạn xã hội nảy sinh
đối với mỗi con người. Quá trình xã hội hóa giáo dục được tạo bởi ba môi trường
6


gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh
hưởng lớn đến sự hình thành và phát triển nhân cách của mỗi con người; sự quan
tâm giúp đỡ lẫn nhau của mỗi thành viên trong gia đình giúp mỗi con người có
điều kiện phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ và tinh thần. Trẻ em trong gia đình
được cha mẹ tạo điều kiện được học tập, giữa trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng
với nhau về độ tuổi đi học. Nghĩa là theo thông thường, trẻ em khi tới 5 tuổi sẽ đi
học trường mầm non thì cả trẻ em trai và trẻ em gái khi đủ 5 tuổi đều được phải
được gia đình tạo điều kiện cho đến trường học tập. Các thành viên khác trong gia
đình không được đối xử không công bằng, thiên vị giữa trẻ em trai và trẻ em gái về
độ tuổi được đến trường học tập.

Ví dụ: khi trẻ em trai đến 5 tuổi thì được gia đình tạo mọi điều kiện học tập
nhưng trẻ em gái lại không được cho đi học trường mầm non mà cho nghỉ ở nhà.
Dẫn đến có nhiều em gái không được đi học trường mầm non khi đi học tiểu học
tiếp thu chậm hơn so với trẻ em trai được đi học từ trường mầm non.
Hiện nay, tại Điều 16 Luật chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định
trẻ em học tiểu học trong các cơ sở công lập không phải đóng học phí. Điều này
thể hiện trách nhiệm của Nhà nước đảm bảo bình đẳng về học tập giữa trẻ em trai
và trẻ em gái, giữa trẻ em ở nông thôn, vùng dân tộc thiểu số so với trẻ em ở thành
thị. Trẻ em trai và trẻ em gái được tạo điều kiện học tập ở môi trường an toàn, gần
gũi và không phân biệt đối xử với tất cả các trẻ em thuộc mọi thành phần khác
nhau, là môi trường để trẻ phát triển về sức khỏe, lợi ích và tinh thần. Đảm bảo
bình đẳng nâng cao quyền lợi của các trẻ em gái trong việc nâng cao trình độ văn
hóa và trình độ học vấn.
- Bình đẳng về quyền chăm sóc y tế giữa trẻ em trai và trẻ em gái. Trẻ em có
quyền ngang nhau trong việc được hưởng sự quan tâm, chăm sóc của gia đình.
Hiện nay, việc chăm sóc cho trẻ em đã được luật hóa trong Luật bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em năm 2004. Gia đình không được bỏ mặc, sao nhãng trong sự
7


chăm sóc đối với trẻ em gái. Trẻ em là trai hay gái bị tàn tật về tinh thần hay thể
chất đều được chăm sóc, được hưởng một cuộc sống trọn vẹn và tử tế. Điều đó có
nghĩa không có trẻ em nào dù là trẻ em gái, trẻ em tàn tật… bị tước đoạt quyền
được hưởng sự quan tâm chăm sóc của gia đình và các dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Dù là trẻ em trai hay trẻ em gái trong gia đình đều được hưởng chăm sóc chế độ
dinh dưỡng phù hợp với lứa tuổi như nhau. - Bình đẳng giữa trẻ em trai và trẻ em
gái trong việc thực hiện các công việc trong gia đình. Điều này có nghĩa là giữa trẻ
em trai và trẻ em gái trong gia đình bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các
công việc của gia đình. Các thành viên khác trong gia đình phân công đồng đều các
công việc phù hợp với lứa tuổi cho trẻ em trai và trẻ em gái như nhau.

- Trẻ em trai và trẻ em gái bình đẳng với nhau về thời gian nghỉ ngơi, được
vui chơi và tham gia các hoạt động giải trí, văn hóa và nghệ thuật phù hợp với lứa
tuổi. Gia đình tạo điều kiện cho trẻ em trai cũng như gái có thời gian nghỉ ngơi hợp
lý, được vui chơi và tham gia các hoạt động khác như nhau.
- Có một số trẻ em đang đi học vẫn tham gia vào làm việc cùng gia đình.
Do đó, giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình còn bình đẳng với nhau về tiền
lương mà chúng được hưởng với cùng một lượng thời gian, khối lượng công việc
như nhau.
III. Thực trạng về vấn đề bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái
trong gia đình hiện nay
1.

Thành tựu
Ngày nay, mặc dù những định kiến giới vẫn còn tồn tại, nhưng vị trí, vai trò
của phụ nữ và trẻ em gái nói chung trong gia đình và xã hội đã được nâng lên so
với trước. Cùng với sự phát triển của xã hội nhiều chuyên ngành khoa học ra đời
trong đó có khoa học giới và các khoa học có liên quan như Tâm lý học, Xã hội
học, Dân số học… nghiên cứu tiếp cận các vấn đề giới dưới nhiều góc độ khác
nhau, đánh dấu bước phát triển quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về giới
8


trong sự phát triển của xã hội. Có thể nhận thấy khoa học giới ra đời là cơ sở quan
trọng để nghiên cứu các vấn đề giới trong gia đình và xã hội, là cơ sở để hoạch
định chính sách, ban hành các văn bản pháp luật về vấn đề bình đẳng giới.
Những quan điểm và chủ trương, chính sách, Pháp luật của Đảng và Nhà
nước ta về vấn đề bình đẳng giới đã được ban hành như Hiến pháp, Luật Hôn nhân
gia đình, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Bình đẳng giới…
Trong nhiều năm nay, Việt Nam dẫn đầu khu vực Châu Á- Thái Bình
Dương về các chỉ số về bình đẳng giới qua việc cung cấp các dịch vụ y tế - giáo

dục tới trẻ em trai và trẻ em gái. Đến nay, các tỉnh đều có trung tâm chăm sóc sức
khỏe sinh sản, công tác phòng chống suy dinh dưỡng ở trẻ em từng bước đẩy lùi.
Sự ra đời của pháp lệnh dân số, Luật bình đẳng giới, Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo
dục trẻ em đã giúp các gia đình ở cả thành thị và nông thôn có nhận thức đúng đắn
về bình đẳng giới. Từ đó, trong các gia đình tình trạng phân biệt đối xử giữa trẻ em
trai và trẻ em gái giảm đi đáng kể. Nhiều gia đình mặc dù sinh hai bé gái nhưng
vẫn thực hiện chính sách kế hoạch hóa không sinh thêm con nữa để đảm bảo đời
sống tốt, chăm sóc và giáo dục trẻ.
Nhà nước đã thực hiện nhiều chính sách đi học ở các trường tiểu học công
lập không phải đóng phí để tạo điều kiện cho trẻ em trai và trẻ em gái trong gia
đình đều được đến trường học tập như nhau. Số lượng học sinh phổ thông từ năm
2000 đến 2009, số trẻ em gái đi học cấp III có tăng lên. Đây là một dấu hiệu tích
cực để đánh giá sự bình đẳng trong học tập. Gia đình ở nông thôn và các vùng dân
tộc thiểu số đã quan tâm tới việc học tập của cả trẻ em gái cũng như trẻ em trai.
Nên số lượng trẻ em gái được tham gia học tập cũng tăng lên. Trẻ em gái được tạo
điều kiện bình đẳng với trẻ em nam trong nâng cao trình độ văn hóa và trình độ
học vấn. Tỷ lệ trẻ em gái biết chữ trong số người biết chữ đã tăng lên đáng kể.
Chênh lệch về số trẻ em trai và trẻ em gái trong tất cả các cấp bậc được thu hẹp
(báo cáo quốc gia của Việt Nam, tháng 8 năm 2005 đã khẳng định điều này). Trẻ
9


em trai và trẻ em gái trong gia đình đã được đảm bảo các quyền được sống, học
tập, chăm sóc sức khỏe, nghỉ ngơi và tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí…
Ngoài ra, nhà nước đã thể hiện nhiều chính sách quan tâm tới những trẻ em tàn tật
giúp trẻ hòa đồng với cộng đồng và xã hội.
2.

Nguyên nhân
Nguyên nhân dẫn đến sự bất bình là do chính các hộ gia đình đã định hình

các mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá nhân và truyền tải
chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trong nhiều gia đình vẫn còn tồn tại sự phân
công chênh lệch các công việc trong gia đình đối với trẻ em trai và trẻ em gái. Trẻ
em gái phải bắt đầu làm việc khi còn ít tuổi, trong khi đó trẻ em trai có nhiều cơ
hội đến trường học tập. Ngày càng có nhiều trẻ em gái bắt đầu kiếm sống vì nhu
cầu kinh tế để tồn tại, công việc của trẻ em gái thường bếp bênh và chất lượng
thấp, đặc biệt trẻ em gái có nguy cơ bị buôn bán. Trong phần lớn các gia đình trẻ
em trai thường được ưu tiên không tham gia vào các hoạt động vô hình trong gia
đình. Trẻ em trai có nhiều thời gian nghỉ ngơi, vui chơi và tham gia các hoạt động
giải trí khác nhiều hơn so với trẻ em gái.
Ví dụ: như trẻ em gái khi đến trường học xong về nhà phải giúp bố mẹ làm
các công việc nhà trong gia đình, trẻ em gái ở nông thôn học xong về nhà giúp bố
mẹ nấu cơm, thái rau, bèo nấu cám cho lợn ăn trong khi thời gian đó trẻ em trai lại
được nghỉ ngơi, cùng bạn tham gia vào các hoạt động giải trí khác. Do đó các gia
đình không nên có sự chênh lệch về thời gian nghỉ ngơi giữa các trẻ. Cần cân đối
thời gian hợp lý để cả trẻ em trai và trẻ em gái đều được nghỉ ngơi, tham gia vui
chơi giải trí như nhau, bảo đảm phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ.

3.

Hạn chế
- Trong việc đảm bảo quyền sống của trẻ em:
Hiện nay, đa số người dân khi có bầu họ sẵn sang đến các phòng khám tư
nhân để siêu âm giới tính thai nhi – mặc dù việc này đã bị nghiêm cấm. Nhiều
10


trường hợp khi phát hiện thai nhi là bé gái họ không ngần ngại bỏ đi để chờ lần sau
là con trai. Tình trạng nạo phá thai, lựa chọn giới tính của thai nhi trước khi sinh đã
làm cho nhiều đứa trẻ khi còn trong bụng mẹ đã bị tước đoạt quyền được sinh ra và

được sống. Phần lớn do áp lực từ phía gia đình. Do nước ta vẫn còn bị ảnh hưởng
bởi ý thức của hệ tư tưởng phong kiến “trọng nam kinh nữ”, các gia hay dòng họ từ
xưa và nay vẫn có tư tưởng coi trong việc sinh con trai, họ quan niệm “ nhất nam
viết hữu, thập nữ viết vô” tức là con trai thì một là có, mười con gái thì vẫn là
không và nếu không có cong trai để nối dõi thì bị xem là tuyệt tự và khi bố mẹ, ông
bà chết đi sẽ không có người thờ cúng. Dẫn đến ở nước ta vẫn còn bất bình đẳng
giữa trẻ em trai và trẻ em gái về các điều kiện đảm bảo cuộc sống ổn định. Việc các
gia đình coi trọng con trai dẫn đến khi sinh con ai cũng muốn sinh trẻ em trai. Điều
đó vô hình chung đang dẫn đến sự mất cân bằng giới tính.
Theo số liệu của cơ quan chức năng thì ở nước ta hiện nay, có nơi tỷ lệ sinh
là 135 bé trai 100 bé gái. Điều này là bất lợi, đáng cảnh báo trong tương lai gần.
Ngoài ra, còn do ở một số vùng nông thôn, dân tộc thiểu số có phong tục lạc hậu
như: khi người phụ nữ sinh con thì tự người mẹ phải sinh một mình và chăm sóc
con một mình. Dẫn đến, có sự bất bình đẳng về quyền sống của trẻ em ở các gia
đình thành thị và gia đình ở nông thôn. Một phần khác, khi gia đình cha mẹ mâu
thuẫn thường dẫn tới hành vi bạo lực đối với trẻ em. Khi đó, đa số trẻ em gái
thường bị đánh đập hoặc bị chửi mắng xúc phạm danh dự.
- Bình đẳng quyền học tập giữa trẻ em trai và trẻ em gái:
Sự chênh lệch về tỉ lệ mù chữ của trẻ em trai so với trẻ em gái ngày càng
giảm. Tuy nhiên sự bất bình đẳng giới ở nước ta vẫn tồn tại ở nhiều dạng khác
nhau, ở từng thời gian và không gian khác nhau. Cuộc sống của hàng triệu trẻ em
gái vẫn còn bị phân biệt đối xử. Một số vùng khó khăn, gia đình đông con, trẻ em
gái ít có cơ hội đi học hơn. Phổ biến nhất ở nước ta hiện nay là số đông vẫn còn tư
tưởng trọng nam kinh nữ. Những hệ quả của bất bình đẳng giới trong giáo dục khi
11


có những bất bình đẳng trong việc tiếp cận nguồn lực của cuộc sống thì tất yếu dẫn
đến những hệ quả tiêu cực. Thực tế đã cho thấy điều này diễn ra ở Việt Nam, cho
thấy trẻ em chịu thiệt thòi trực tiếp từ việc mẹ chúng mù chữ hoặc không được đến

trường dẫn đến chất lượng chăm sóc con cái thấp, khiến tỷ lệ tử vong và suy dinh
dưỡng ở trẻ em và trẻ sơ sinh. Những bà mẹ có trình độ học vấn cao thường có
hành vi chăm sóc con cái mình phù hợp hơn. Bất bình đẳng giới trong gia đình về
quyền học tập của trẻ em làm giảm chất lượng nguồn nhân lực trung bình của xã
hội. Thực vậy, nếu chúng ta giả định rằng, trẻ em trai và trẻ em gái có khả năng
thiên bẩm như nhau và những đứa trẻ có khả năng hơn sẽ được học tập và đào tạo
nhiều hơn, thì việc thiên vị trẻ em trai và trẻ em gái có nghĩa là những trẻ em có
tiềm năng thấp hơn, như thế chất lượng nguồn nhân lực trong nền kinh tế sẽ thấp
hơn mức có thể đạt được và kìm hãm tiềm năng tăng trưởng kinh tế.
Nguyên nhân dẫn đến sự bất bình đẳng là do chính trong các hộ gia đình đã
định hình các mối quan hệ giới ngay từ đầu của quá trình xã hội hóa cá nhân và
truyền tải chúng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có những định kiến giới của cha
mẹ biểu hiện như: quan niệm cho rằng các trẻ em gái không cần phải học nhiều mà
cần phải làm việc nội trợ giúp gia đình, con trai mới được đi học nhiều. Đời sống
kinh tế cũng ảnh hưởng rất nhiều đến bình đẳng giới trong giáo dục. Tình trạng
nghèo đói của gia đình, trình độ học vấn thấp của cha mẹ, các nghiên cứu xã hội
giáo dục cho thấy một tỷ lệ bỏ học rất đáng kể của những trẻ em xuất thân từ gia
đình nghèo, cha mẹ thậm chí không biết chữ sống ở vùng nông thôn, vùng sâu,
vùng xa.
- Trong việc thực hiện các công việc trong gia đình:
Trong nhiều gia đình vẫn tồn tại sự phân công chênh lệch các công việc
trong gia đình đối với trẻ em trai và trẻ em gái. Trẻ em gái phải bắt đầu làm việc
khi còn ít tuổi trong khi trẻ em trai có nhiều cơ hội được đến trường học tập. Trẻ
em gái thường phải làm các công việc vô hình, những hoạt động không được trả
12


lương như nấu nướng, quét dọn và chăm sóc người thân trong gia đình. Những gia
đình có mẹ đi làm thì con gái lớn trong gia đình phải ở nhà làm việc nội trợ và
chăm sóc gia đình.

Họ cũng phải thường xuyên làm các công việc không được trả lương như:
làm việc cho doanh nghiệp của gia đình. So với trẻ em trai, trẻ em gái không được
đến trường hoặc phải gánh chịu gánh nặng gấp ba-việc nhà, việc học tập ở trường
và việc làm kinh tế. Ngày càng có nhiều trẻ em gái phải bắt đầu kiếm sống vì nhu
cầu kinh tế để tồn tại. Công việc của trẻ em gái thường bấp bênh và chất lượng
thấp. Trong các việc làm không công khai và không được kiểm soát như giúp việc
gia đình thì trẻ em gái chiếm tỷ lệ nhiều hơn so với trẻ em trai làm cho nguy cơ bị
bóc lột lao động. Nhiều trẻ em gái được trả công ít hơn so với trẻ em trai và nam
giới khi làm cùng một loại công việc và trẻ em gái có quyền kiểm soát ít hơn số
tiền mà họ nhận được. Nếu trẻ em gái tiêu tiền kiếm được thì chủ yếu là các chi
tiêu trong gia đình của họ.
- Về quyền được chăm sóc:
Những gia đình mà chỉ có một người mẹ làm chủ gia đình thì trẻ em bị thiệt
thòi hơn so với những đứa trẻ trong các gia đình khác, trẻ em gái đặc biệt có nguy
cơ bị buôn bán. Trẻ em gái có thể bị bố mẹ bán đi hoặc cho không với hứa hẹn về
một cuộc sống tốt đẹp hơn cho chúng. Những đứa trẻ này cuối cùng thường gánh
chịu những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Ở nông thôn và một số vùng dân
tộc thiểu số, người mẹ phải đi làm không có cơ hội chăm sóc con cái và cho con tới
trường thì sẽ mang con theo tới nơi làm việc. Trẻ em gái sống trong các gia đình
khó khăn sẽ ít được quan tâm hơn so với trẻ em trai. Bởi phần lớn trong họ vẫn tồn
tại tư tưởng trọng nam khinh nữ. Mặt khác, chế độ dinh dưỡng đối với trẻ em trai
và trẻ em gái có sự chênh lệch. Nên có nhiều trẻ em bị suy dinh dưỡng, gầy gò.
- Về thời gian nghỉ ngơi, vui chơi và tham gia các hoạt động văn hóa,
nghệ thuật phù hợp với lứa tuổi:
13


Trong phần lớn các gia đình trẻ em trai thường được ưu tiên không phải
tham gia vào các hoạt động vô hình trong gia đình. Trẻ em trai có thời gian nghỉ
ngơi, vui chơi và tham gia các hoạt động giải trí khác nhiều hơn so với trẻ em gái.

Ví dụ như: trẻ em gái khi đến trường học xong về nhà phải giúp bộ mẹ làm các
công việc trong gia đình, trẻ em gái ở nông thôn học xong về phải giúp bố mẹ nấu
cơm, thái rau, bèo nấu cám cho lợn ăn trong khi thời gian đó thì trẻ em trai được
nghỉ ngơi, cùng bạn tham gia các hoạt động giải trí khác. Do đó, các gia đình
không nên có sự chênh lệch về thời gian nghỉ ngơi giưa các trẻ. Cần cân đối thời
gian hợp lý để cả trẻ em gái và trẻ em trai đều được nghỉ ngơi, tham gia vui chơi
giải trí như nhau, đảm bảo phát triển trí tuệ và thể lực của trẻ.
III.
1.

Mục tiêu và mục đích
Mục tiêu
- Giảm thiểu sự bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia
đình hiện nay
- Nâng cao nhận thức, kiến thức cho mọi người về bất bình đẳng giới
- Giảm thiểu hậu quả, hệ lụy của bất bình đẳng giới
- Kiểm soát những mặt đạt được và chưa đạt được trong việc giảm thiểu bất
bình đẳng giới
- Đẩy mạnh giáo dục khoa học, truyền thông giới trong hệ thống nhà trường
và xã hội, giúp cho trẻ em nhận thức được những vấn đề giới và bình đẳng giới
một cách cơ bản và có hệ thống.
- Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị, nhằm nâng cao nhận
thức cũng như năng lực giảm thiểu bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái
ở nước ta hiện nay.

2.

Mục đích
- Giảm bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình


14


- Nâng cao năng lực cho trẻ em gái được nâng vị thế của mình lên trong gia
đình và xã hội
IV.
1.

Phương pháp nghiên cứu và mô hình nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở các công việc phải làm và trật tự các công việc. Từ đó xác định
được các phương pháp nghiên cứu xã hội học, phương pháp nghiên cứu công tác
xã hội có thể được áp dụng trong quá trình quản lý cũng như thực hiện nghiên cứu
đề tài:
+ Phương pháp nghiên cứu xã hội học là hệ thống các nguyên tắc để làm
công cụ cho việc phân tích, khái quát và nghiên cứu về đời sống xã hội mà được
coi như là đối tượng xã hội học. Có thể hiểu đó là tổng hợp tất cả các phương pháp
kỹ năng và cách thức nghiên cứu xã hội học nhằm làm sáng tỏ, bản chất các đặc
trưng, cơ cấu, xu hướng và tính quy luật của các hiện tượng và các quá trình xã
hội.
+ Phương pháp nghiên cứu công tác xã hội là sự vận dụng các phương pháp
vào hoạt động nghiên cứu con người và xã hội nhằm giúp đỡ những con người có
vấn đề và giải quyết các vấn đề khó khăn con người thường gặp trong thực tiễn, sử
dụng các lý thuyết cũng như biện pháp can thiệp phù hợp nhằm hỗ trợ cộng đồng,
nhóm, cá nhân giải quyết vấn đề của họ.

2.

Mô hình nghiên cứu
a.


Các phương pháp thu thập thông tin định tính:

-

Phỏng vấn sâu

-

Thảo luận nhóm tập trung

-

Đánh giá nhanh

-

Thu thập thông tin có sự tham gia của cộng đồng

-

Nghiên cứu trường hợp

-

Tạo tình huống
15


-


Thực nghiệm

-

Quan sát không tiêu chuẩn hóa

-

Phân tích nội dung văn bản (định tính)

-

Phân tích lịch sử cuộc đời

b.

Các phương pháp thu thập thông tin định lượng:

-

Phỏng vấn bằng bảng hỏi định lượng (An két: trực tiếp; gián tiếp)

-

Phỏng vấn có tiêu chuẩn hóa

-

Quan sát có tiêu chuẩn hóa


-

Phân tích nội dung văn bản (định lượng)

-

Sử dụng số liệu thống kê, các kết quả nghiên cứu xã hội học, các loại

điều tra khác
Các phương pháp chọn mẫu chung trong nghiên cứu định tính và nghiên cứu
định lượng


Chọn mẫu trong nghiên cứu định tính

Định tính là hướng tiếp cận nhằm thăm dò, mô tả và giải thích dựa vào các
phương tiện khảo sát các kinh nghiệm, nhận thức, động cơ thúc đẩy, dự định, hành
vi, thái độ.
Chọn đối tượng nghiên cứu: xác định vùng phù hợp với chủ đề nghiên cứu,
chọn cộng đồng/quần thể có thể phản ánh tính đa dạng của các đặc điểm quan
trọng nhất, lựa chọn đối tượng nghiên cứu.
-

Phương pháp chọn mẫu thuận tiện

-

Phương pháp chọn mẫu tích lũy nhanh


-

Phương pháp chọn mẫu tỉ lệ

-

Phương pháp chọn mẫu tự phát



Chọn mẫu trong nghiên cứu định lượng

16


Định lượng là nghiên cứu sử dụng các phương pháp khác nhau để lượng
hóa, đo lường, phản ánh và diễn giải các mối quan hệ giữa các nhân tố các biến với
nhau.
-

Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản

-

Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống

-

Phương pháp chọn mẫu phân chùm (cụm)


-

Phương pháp chọn mẫu phân tầng (tổ)

-

Phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn

-

Phương pháp chọn mẫu chủ

c. Các mô hình
1.

Định tính

2.

Định lượng

3.

Định lượng



Định tính

4.


Định tính



Định lượng

5.

Định tính

 Định lượng



Định tính

Trong đề tài này có thể thực hiện được cả 5 mô hình trong nghiên cứu,
nhưng có 2 mô hình phổ biến nhất là định tính và định tính  định lượng. Đề tài
này tôi chọn mô hình nghiên cứu là định tính  định lượng vì:




Khi có nhiều kinh phí
Có nhiều thời gian
Năng lực cán bộ quản lý + những người huy động tham gia đề tài trình độ có hiểu
biết nhiều về phương pháp nghiên cứu của xã hội học và các kiến thức liên quan
đến vấn đề nghiên cứu và xã hội học quản lý, công tác xã hội làm việc với nhóm và




cộng đồng.
Có thể có một số các phương án nghiên cứu khác nhau về kinh phí và hiệu quả của
các thông tin thu thập được. Nghiên cứu định tính nhằm phục vụ cho nghiên cứu
định lượng.

17




Thông tin thu thập được có độ chính xác cao, có thể tính được sai số các kết quả
thu được khi suy rộng cho tổng thể của đề tài
Xây dựng giả thuyết nghiên cứu

V.

* Khung lý thuyết
Môi trường kinh tế,
văn hóa, xã hội

-

Đặc điểm nhân khẩu
học
Hoàn cảnh gia đình
Lối sống gia đình
Sinh hoạt văn hóa của
địa phương, vùng

miền

Công tác xã hội với
bất bình đẳng giới giữa
trẻ em trai và trẻ em
gái trong gia đình ở
Việt Nam hiện nay.

Sự quan tâm của Đảng
và Nhà nước về Công
tác xã hội với bất bình
đẳng giới giữa trẻ em
trai và trẻ em gái trong
gia đình ở Việt Nam
hiện nay.

* Thao tác biến trong khung lý thuyết
Thao tác biến phụ thuộc




Nhận thức về bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình
Mong muốn về cơ sở vật chất, trang thiết bị, kiến thức về bình đẳng giới
Thái độ của đội ngũ nhân viên
18





Sự thay gia tăng các chương trình hành động vì bình đẳng giới
Chính sách xã hội, các chương trình, chiến lược liên quan đến vấn đề bình đẳng



giới
Nhu cầu tiếp nhận kiến thức về bình đẳng giới



Thao tác biến độc lập
-

Đặc điểm nhân khẩu học:
+ Giới tính
+ Tuổi
+ Nghề nghiệp
+ Địa bàn cư trú
+ Trình độ học vấn

-

Hoàn cảnh gia đình:
+ Điều kiện kinh tế, thu nhập
+ Thành phần gia đình
+ Mối liên hệ giữa các thành viên trong gia đình

-

Lối sống gia đình

Sinh hoạt văn hóa, lối sống văn hóa của địa phương, vùng miền
Thao tác biến can thiệp






Tình hình kinh tế địa phương
Sự quan tâm hỗ trợ từ chính quyền địa phương
Chính sách nhà nước
Sự quan tâm hỗ trợ của các nhà chuyên gia về chống bất bình đẳng giới
* Giả thuyết nghiên cứu
-

Trong việc thực hiện đề tài CTXH với bất bình đẳng giới giữa trẻ em

trai và trẻ em gái thì sự bất bình đẳng trong gia đình đã được giảm thiểu, được xã
hội ủng hộ và dành sự quan tâm nhiều.
-

Khoảng 28% bất bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong

gia đình vẫn còn tồn tại.

19


-


Phần lớn các gia đình đã nhận thức được bất bình đẳng giới gây hậu

quả nghiêm trọng trong gia đình
VI.

Giải pháp bình đẳng giới giữa trẻ em trai và trẻ em gái trong gia đình
- Phân biệt đối xử về giới trong gia đình là vấn đề cần giải quyết để từ đó
đạt được mục tiêu bình đẳng giới một cách thực chất. Vì gia đình là trường học đầu
tiên của trẻ, mọi cử chỉ, hành vi của người lớn đều được trẻ em tiếp thu và hình
thành trong nhân cách của trẻ. Những biểu hiện của bình đẳng giới ngày càng phổ
biến trên nhiều lĩnh vực và dần được nhận thức sâu sắc trong nhiều người dân. Tuy
nhiên, không thể phủ nhận trên thế giới và đặc biệt ở Việt Nam hiện còn nhiều
quan điểm bảo thủ, ủng hộ cho sự phân biệt giới. Định kiến giới được hình thành
từ rất lâu và nó ăn sâu vào trong quan niệm của mọi người. Định kiến giới là sự đề
cao hay tuyệt đối hóa các đặc điểm và tính chất, vai trò của phụ nữ hoặc nam giới
thường không đúng và hạn chế cá nhân thực hiện những việc mà người đó có khả
năng làm. Ví dụ như ở Việt Nam hiện nay trong gia đình trẻ em trai được ưu tiên
và tạo mọi điều kiện còn trẻ em nữ không được quan tâm mà thế nào cũng được…
Vì lẽ đó xóa bỏ định kiến giới phải là việc làm thường xuyên, bền bỉ, rộng khắp.
- Để thực hiện tốt bình đẳng giới trong gia đình cần tăng cường tuyên truyền
giáo dục các vấn đề giới, bình đẳng giới trong gia đình được quy định trong các
chủ trương, chính sách, Pháp luật của Đảng và Nhà nước ta đặt ra. Từ cơ sở đó mỗi
người ý thức tốt về vấn đề bình đẳng giới trong gia đình, là cơ sở quan trọng để
xây dựng gia đình “no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc”.
- Đẩy mạnh giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường, giúp cho trẻ
em nhận thức được những vấn đề giới và bình đẳng giới một cách cơ bản và có hệ
thống. Từ đó các em có ý thức trách nhiệm trong xây dựng gia đình sau này.
- Nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của công dân trong việc thực
hiện Luật bình đẳng giới ở nước ta hiện nay, để từ đó mỗi người có ý thức trách
nhiệm trong thực hiện bình đẳng giới. Trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới không

20


chỉ là của mỗi cá nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia đình, các cơ quan nhà nước,
tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức nghề nghiệp. Thực hiện bình đẳng giới trong gia
đình nên được đưa thành tiêu chí quan trọng trong xây dựng gia đình văn hóa, làng
văn hóa, khu phố văn hóa…
- Tạo mọi điều kiện cho trẻ em trai và trẻ em gái được học tập, phát triển.
Đổi mới và phát triển mạng lưới tư vấn sức khỏe sinh sản, giáo dục giới tính và
tình dục an toàn vị thành niên, vận động nam nữ áp dụng các biện pháp tránh thai;
tuyên truyền, hướng dẫn phụ nữ biết cách chăm sóc sức khỏe sinh sản cho bản thân
và trẻ em trong gia đình.
- Nhà nước có thể thực hiện chính sách bãi bỏ học phí ở một trong hai cấp
cao hơn cấp tiểu học và khuyến khích cha mẹ, cộng đồng đầu tư vào giáo dục trẻ
em gái
- Giáo dục trẻ em trai và trẻ em gái về lợi ích của bình đẳng giới và cùng đưa
ra quyết định có thể giúp tạo ra mối quan hệ tốt hơn trong gia đình. Sự tham gia
của nam giới và trẻ em trai: Giáo dục nam giới và trẻ em trai, cũng như phụ nữ và
trẻ em gái, về lợi ích của bình đẳng giới và cùng đưa ra quyết định có thể giúp tạo
ra mối quan hệ hợp tác tốt hơn.
- Thực hiện tuyên truyền sâu rộng luật bình đẳng giới. Người làm công tác
giáo dục truyền thông về bình đẳng giới phải có kiến thức về giới và bình đẳng giới
để tuyên truyền phổ biến cho mọi người đều hiểu được nam nữ, trẻ em trai và trẻ
em gái không bị phân biệt đối xử về giới không chỉ là chuyện trong gia đình mà là
vấn đề toàn xã hội. Đây chính là những tiền đề quan trọng để biến các quy định của
luật bình đẳng giới thành thực tiễn cuộc sống.
- Các hành động chính bao gồm bãi bỏ học phí và khuyến khích cha mẹ và
cộng đồng đầu tư vào giáo dục trẻ em gái.

21



22


KẾT LUẬN
Lợi ích của vấn đề bình đẳng giới vượt xa hơn nhiều những tác động trực
tiếp của chúng tới trẻ em. Bình đẳng giới là nhiệm vụ khó khăn đòi hỏi sự quan
tâm và hỗ trợ từ các cơ quan tổ chức, các cấp ngành và sự nỗ lực của chính các cá
nhân trong gia đình. Vì vậy, chúng ta cần quan tâm tới trẻ em để đảm bảo các
quyền của trẻ em được thực hiên. Cần xóa bỏ sự phân biệt đối xử về giới giữa trẻ
em trai và trẻ em gái trong gia đình, cộng đồng và xã hội. Báo cáo Tình hình Trẻ
em Thế giới 2007 chỉ ra việc khuyến khích bình đẳng giới và nâng cao vị thế phụ
nữ, trẻ em – Mục tiêu thiên niên kỷ thứ 3 – sẽ thúc đẩy những mục tiêu khác từ
giảm đói nghèo đến cứu vớt sự sống còn của trẻ em, tăng cường sức khỏe sinh sản,
bảo đảm giáo dục phổ cập, phòng chống HIV/AIDS, bệnh sốt rét và các căn bệnh
khác, và bảo đảm sự bền vững về môi trường.
Là một nhân viên công tác xã hội trong tương lai cần sử dụng các kiến thức
cũng nhưng phương pháp để can thiệp, hỗ trợ, xây dựng, kết nối những nguồn lực,
những chương trình hành động…hỗ trợ cộng đồng cũng như nhà nước ta đẩy lùi
bất bình đẳng giới giữa trẻ em nam và trẻ em nữ hiện nay.

23


MỤC LỤC

24




×