Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn La và hiệu quả can thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.03 KB, 28 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG

BÙI HỮU TOÀN

THỰC TRANG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN KIẾN THỨC,
THỰC HÀNH RỬA TAY
BẰNG XÀ PHÒNG CỦA CÁC BÀ MẸ NGƯỜI MÔNG ĐANG NUÔI
CON DƯỚI 5 TUỔI TỈNH SƠN LA VÀ HIỆU QUẢ CAN THIỆP

CHUYÊN NGÀNH
MÃ SỐ

: Vệ sinh xã hội học và Tổ chức Y tế

: 62 72 01 64

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SỸ Y HỌC

HÀ NỘI – 2018


CÔNG TRÌNH NÀY ĐƢỢC HOÀN THÀNH TẠI
VIỆN VỆ SINH DỊCH TỄ TRUNG ƢƠNG
Hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. Nguyễn Huy Nga
GS.TS. Phùng Đắc Cam


Phản biện 1: ...................................
Phản biện 2: ...................................
Phản biện 3: ..................................

Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng đánh giá luận án Tiến sỹ cấp Viện tại
Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương.
Vào hồi……….ngày………tháng……..năm 2018

Có thể tìm luận án tại:
- Thư viện quốc gia
- Thư viện Viện vệ sinh Dịch tễ Trung ương


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ ĐƢỢC CÔNG BỐ CỦA TÁC
GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Huy Nga, Phùng Đắc Cam, Nguyễn Thị Liên
Hƣơng, Lƣơng Mai Anh. Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức và
thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ Mông đang nuôi con
dưới 5 tuổi, tỉnh Sơn la năm 2014. Tạp chí Y học Dự phòng. 2017. tâp 27,
số 3 tr.128-134.
2. Bùi Hữu Toàn, Nguyễn Huy Nga, Phùng Đắc Cam, Nguyễn Thị Liên
Hƣơng, Lƣơng Mai Anh. Đánh giá kết quả truyền thông-giáo dục sức
khỏe nâng cao kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng cho các bà
me người Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi tại tỉnh Sơn La năm 2016. Tạp
chí Y học Dự phòng. 2017. tâp 27, số 3 tr.135-140.


1
CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSHQ

: Chỉ số hiệu quả
RTBXP : Rửa tay bằng xà phòng
DTTS
: Dân tộc thiểu số
THCS
: Trung học cơ sở
ĐTNC
: Đối tượng nghiên cứu
TTGDSK : Truyền thông- Giáo dục
sức khỏe
HQCT
: Hiệu quả can thiệp
UNICEF : Quỹ Nhi đồng Liên hiệp
quốc
NS&VSMT : Nước sạch và vệ sinh
VSMT
: Vệ sinh môi trường
môi trường
QLMTYT : Quản lý môi trường y tế WHO
: Tổ chức Y tế thế giới
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), hàng năm vẫn
còn có khoảng 1,9 triệu trẻ em dưới 5 tuổi ở các quốc gia nghèo chết do tiêu
chảy. Thống kê các bệnh truyền nhiễm của Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế cho
thấy khoảng một nửa các bệnh truyền nhiễm có tỷ lệ mắc cao nhất là những
bệnh có liên quan tới nước sạch, vệ sinh môi trường và các hành vi vệ sinh cá
nhân trong đó hành vi rửa tay.
Rửa tay bằng xà phòng (RTBXP) được coi là cách phòng bệnh có chi phí
thấp nhất nhưng lại mang lại hiệu quả phòng các bệnh tiêu chảy, giun sán, nhiễm
khuẩn hô hấp cao hơn so với các biện pháp khác trong các chương trình can thiệp

về nước sạch và vệ sinh môi trường (NS&VSMT). Thói quen rửa tay xà phòng
trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện giúp loại bỏ mầm bệnh theo tay bẩn xâm
nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể gây ra những bệnh tật nguy hiểm cho
con người. Các nghiên cứu của Cục Y tế dự phòng (YTDP), Cục Quản lý môi
trường y tế (QLMTYT) cho thấy tỷ lệ người rửa tay trước khi ăn và và sau khi đi
vệ sinh còn thấp trong dân, đặc biệt trong nhóm các dân tộc ít người.
Dân tộc Mông được cho là nhóm cần được quan tâm đặc biệt do đang đối
diện trước những nguy cơ rất lớn về lây nhiễm các bệnh nhiễm trùng: Tỷ lệ
người Mông mù chữ rất cao (76,8%). Tỷ lệ người dân không được tiếp cận với
các phương tiện truyền thông cao hơn các nhóm dân tộc khác.
Tỉ lệ không rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh của người Mông khá
cao so với các nhóm dân tộc phía Bắc, nguyên nhân chủ yếu vẫn do thói quen
và thiếu nước.


2
Sơn La là một tỉnh miền núi, là địa bàn sinh sống chủ yếu của đồng bào
dân tộc Mông. Cùng với các cộng đồng dân tộc khác, dân tộc Mông tại tỉnh
Sơn La đang phải đối diện với các vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng với điều kiện
sống khó khăn, thiếu nước sinh hoạt và tỷ lệ bệnh truyền nhiễm ngày càng gia
tăng trong những năm gần đây và không có xu hướng thuyên giảm hoặc có thì
chỉ giảm rất ít. Năm 2008 - 2010, Tiêu chảy là một trong 5 bệnh luôn có số ca
mắc cao nhất. Dân tộc Mông là dân tộc có số dân đứng thứ 3 tại tỉnh Sơn La
(147.516 người) và tỷ lệ mắc bệnh trên 100.000 dân luôn cao nhất so với các
dân tộc khác trong tỉnh. Tỷ lệ này luôn cao hơn tỷ lệ chung toàn tỉnh ở tất cả
các bệnh truyền nhiễm khác không riêng gì tiêu chảy. Với những lý do trên,
đưa truyền thông - giáo dục sức khỏe (TTGDSK) nhằm cải thiện hiểu biết và
thực hành rửa tay, rửa tay bằng xà phòng phù hợp cho dân tộc Mông, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu đề tài “Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến kiến
thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người Mông đang nuôi

con dưới 5 tuổi tỉnh Sơn La và hiệu quả can thiệp” với các mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ
Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Sơn La năm
2013 - 2014 .
2. Đánh giá hiệu quả can thiệp Truyền thông - Giáo dục sức khỏe đối với hành vi
rửa tay bằng xà phòng của đối tượng nghiên cứu năm 2014 - 2016.
NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI VÀ Ý NGHĨA KHOA HỌC THỰC TIỄN
CỦA LUẬN ÁN
- Đánh giá hiệu quả can thiệp và cơ sở cho việc nhân rộng : Nghiên cứu
đã đưa ra kênh TT-GDSK trực tiếp (thăm hộ gia đình và thảo luận nhóm) là
hoạt động chính dựa vào lực lượng y tế thôn bản sẵn có của chương trình y tế
nông thôn. Trong điều kiện nguồn kinh phí cho hoạt động RTBXP ở một địa
phương với nhóm dân đặc biệt (phụ nữ Mông) còn chưa có ở huyện Vân Hồ
thì đây là một điểm mới và mạnh của luận án. Sau thời gian can thiệp hơn 01
năm, hiệu quả của các can thiệp đã được đánh giá bằng các số liệu thống kê y
tế có độ tin cậy, là cơ sở cho việc nhân rộng ra những khu vực khác có điều
kiện tự nhiên –xã hội tương tự.


3
- Xây dựng nội dung hoạt động can thiệp cụ thể, có tính khả thi và bền
vững: Nghiên cứu đã dựa trên đặc điểm thực tế của cộng đồng người Mông,
nhu cầu từ cộng đồng và dựa trên việc lồng ghép vào nội dung hoạt động của Y
tế thôn bản. Kết quả nghiên cứu đã cung cấp các dữ liệu cơ bản làm bằng
chứng khoa học xây dựng kế hoạch đưa hoạt động RTBXP vào cộng động dân
tộc ít người.
- Cung cấp kiến thức RTBXP cho nhóm dân đặc biệt là phụ nữ Mông:
Nghiên cứu đã xây hoạt động lồng ghép can thiệp hiệu quả phù hợp về nội
dung và hình thức nhằm nâng cao kiến thức và thực hành RTBXP. Hiệu quả
của nghiên cứu đã tạo ra môi trường thuận lợi cho nhóm dân đặc biệt một cách

có kế hoạch và khoa học dựa trên việc tiếp tục duy trì hoạt động can thiệp bằng
TT-GDSK trực tiếp bền vững ở địa phương
BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Nội dung chính của Luận án gồm 101 trang và được chia thành các phần:
Đặt vấn đề (02 trang); Tổng quan tài liệu (25 trang); Phương pháp nghiên cứu
(19 trang); Kết quả nghiên cứu (33 trang); Bàn luận (18 trang); Kết luận (02
trang); Khuyến nghị (01 trang). Luận án gồm 43 bảng, 7 hình (bản đồ, biểu đồ,
sơ đồ) và có 118 tài liệu tham khảo (33 tài liệu tiếng Việt, 85 tài liệu tiếng
Anh) cùng các phụ lục liên quan.
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN
Theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) và Bộ Y tế Việt
Nam: Việc không rửa tay bằng xà phòng vào các thời điểm quan trọng như
trước khi ăn, sau khi tiểu/đại tiện, trước khi cho con ăn và sau khi chăm sóc
trẻ,… đang làm gia tăng các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán, đây là các bệnh rất
phổ biến và chiếm tỷ lệ cao trong số các bệnh thường gặp ở các vùng nông
thôn Việt Nam. Ở Việt Nam, hành vi RTBXP còn thấp. Theo kết quả điều tra
vệ sinh môi trường tại 3 huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Phú Lộc thuộc Bắc
Trung bộ năm 2005, tỷ lệ đối tượng nghiên cứu trả lời thường xuyên rửa tay xà
phòng rất thấp (dưới 2%), trong đó rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn là 1,7%,
sau khi ăn là 1,8%. Kết quả điều tra vệ sinh môi trường (VSMT) tại 3 huyện
Quản Bạ, Yên Minh, Chiêm Hóa thuộc khu vực miền núi phía Bắc năm 2005
cho thấy: hầu hết người dân ở các vùng miền núi này đều không có thói quen


4
RTBXP trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện. Chỉ có 0,2% đối tượng thường
xuyên RTBXP trước khi ăn và 0,8% đối tượng RTBXP sau khi đại tiểu tiện.
Một nghiên cứu khác cho thấy, tỷ lệ bà mẹ có RTBXP/chất tẩy rửa ở một số
thời điểm quan trọng còn rất thấp: trước khi ăn là 15,3%, sau khi đi tiểu tiện là
4,7%, sau khi đi đại tiện là 25%, trước khi cho trẻ ăn là 13,2%, sau khi lau/rửa

đít cho trẻ là 25% và sau khi dọn phân/đổ bô cho trẻ là 29,3%.
Truyền thông - Giáo dục sức khỏe là một phương tiện hữu hiệu để thay
đổi thói quen truyền thống như sử dụng màn và màn tẩm hóa chất xua diệt
mu i phòng chống bệnh sốt rét, thói quen ăn gỏi cá của người dân trong các
vùng lưu hành bệnh sán lá gan và thói quen sử dụng bao cao su trong việc
phòng chống lây nhiễm qua đường tình dục như AIDS... là không thể thay đổi
trong giai đoạn ngắn. Sự tuyên truyền giáo dục kiên trì và liên tục nhấn mạnh
vào lợi ích việc nằm màn, của nấu chín cá nước ngọt được coi là biện pháp có
hiệu quả để phòng, chống các bệnh này. Tỷ lệ không rửa tay xà phòng rất cao ở
một số dân tộc thiểu số (DTTS) như Ba Na, Ra glai, Bru-Vân Kiều, Gia Rai,
Mnông, Ê Đê. Nếu lấy tỷ lệ người rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi
đi đại tiện và sau khi tiểu tiện của dân tộc Thái bằng 1, thì tỷ lệ đó ở nhóm
Kinh-Hoa cao gấp từ 3-4 lần có ý nghĩa thống kê; một số dân tộc như Mường,
Dao, Ba Na, Ê Đê, Ra glai đều kém hơn so với dân tộc Thái.
Các nghiên cứu về sức khỏe, dân tộc Mông tập trung chủ yếu vào các bệnh
mang tính chất lưu hành địa phương như Bướu cổ, sốt rét. Các bệnh nhiễm trùng
được Nghiên cứu có đề cập đến DTTS được triển khai trên bình diện rộng nhất
hiện nay là nghiên cứu Điều tra Quốc gia về vị thành niên và thanh niên Việt
Nam (SAVY) năm 2003 do Bộ Y tế, WHO, UNICEF tiến hành.
Các nghiên cứu cũng đã xác định được một rào cản lớn trong hoạt động
truyền thông tại cộng đồng DTTS như: Hầu hết các DTTS đều có trình độ dân
trí thấp, tỷ lệ mù chữ và tái mù chữ cao và khả năng sử dụng tiếng phổ thông
còn hạn chế, đặc biệt là nhóm nữ. Tỷ lệ đối tượng không tiếp cận được với các
phương tiện truyền thông đại chúng rất cao.
Các nghiên cứu về TTGDSK trong phòng chống bệnh truyền nhiễm cũng
được đề cập trong nghiên cứu của Nguyễn Huy Nga, Trịnh Hữu Vách nhưng
chỉ đề cập ít đến người Mông. Chưa có nghiên cứu sâu về người Mông và vấn
đề sức khỏe.



5
CHƢƠNG 2: PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tƣợng, địa điểm và thời gian nghiên cứu
2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu.
- Phụ nữ người dân tộc Mông đang nuôi con dưới 5 tuổi.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được triển khai tại 3 xã của huyện Mai Sơn là Chiềng Sung,
Chiềng Chăn, Cò Nòi và 3 xã của huyện Vân Hồ là Vân Hồ, Loóng Luông và
Chiềng Xuân của tỉnh Sơn La.
2.1.3.Thời gian nghiên cứu
Thời gian triển khai nghiên cứu từ tháng 9/2013 đến tháng 12/2016
2.2. Thiết kế nghiên cứu
Đề tài có 2 thiết kế riêng biệt phục vụ cho mục tiêu nghiên cứu: Nghiên
cứu trước can thiệp (thiết kế mô tả cắt ngang có phân tích) và nghiên cứu can
thiệp cộng đồng đánh giá trước sau, có đối chứng.
2.3. Chọn mẫu và cỡ mẫu trong điều tra cắt ngang.

Trong đó:
n: là mẫu tối thiếu của điều tra
P: là tỉ lệ ước tính kiến thức rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ người
dân tộc ít người là 13 %
Z1- α/2: giá trị tương ứng CI = 95% là 1,96
d: Độ chính xác tuyệt đối mong muốn, trong nghiên cứu này d = 0,03
Với các tham số nêu trên, nghiên cứu tối thiểu cần một c mẫu là: n =
482. Đề phòng mất mẫu số bà mẹ cần cho nghiên cứu là 500.
Cách chọn mẫu
Chọn chủ đích 6 xã là Vân Hồ, Loóng Luông, Chiềng Xuân (huyện Vân
Hồ) và Chiềng Chăn, Chiềng Sung, Cò Nòi (huyện Mai Sơn), các xã chọn có từ
4 bản Mông trở lên, m i xã chọn điều tra 4 bản Mông tổng số bản chọn điều tra
là 24 bản.

2.3.2. Cỡ mẫu và cách chọn mẫu trong nghiên cứu can thiệp.
Chọn chủ đích 12 bản Mông đã được chọn trong nghiên cứu nền thuộc 3 xã
Chiềng Xuân, Loóng Luông và Vân Hồ của huyện Vân Hồ vào nhóm can thiệp .


6
2.5. Các khái niệm, thƣớc đo, tiêu chuẩn đánh giá
- Tỉ lệ hộ có nguồn nước sử dụng và tính sẵn có nguồn nước rửa tay;
- Tỉ lệ hộ có xà phòng và tính sẵn có;
- Tỉ lệ % bà mẹ hiểu biết về RTBXP;
- Tỉ lệ bệnh đường hô hấp hàng năm trên 1000 trẻ.
2.6. Xây dựng nội dung và hình thức can thiệp.
2.6.1. Xác định các vấn đề cần can thiệp
Các hoạt động can thiệp vào cộng đồng đích. Các nội dung của mô hình
can thiệp được xây dựng nhằm khắc phục các rào cản trong hoạt động truyền
thông tại cộng đồng DTTS đã được xác định.
Phương pháp can thiệp: Sử dụng phương pháp và tài liệu truyền thông
cộng đồng đích.
Tài liệu truyền thông được sử dụng trong hoạt động can thiệp tại cộng
đồng là các đĩa VCD, tờ rơi, áp phích được in bằng 2 thứ tiếng
- Tờ rơi được in bằng 2 thứ tiếng thông qua các buổi truyền thông trực
tiếp hoặc qua các buổi họp nhóm.
Nội dung tài liệu truyền thông phù hợp với đặc điểm phong tục tập quán
địa phương.
2.6.2. Chương trình can thiệp tại cộng đồng.
Các hoạt động truyền thông can thiệp tại cộng đồng dự kiến được tổ chức
trong vòng 1 năm, từ tháng 9/2014 đến tháng 9/2015.
2.7. Chỉ số đánh giá kết quả can thiệp
2.7.1. Chỉ số về các hoạt động can thiệp đã thực hiện
- Số cán bộ được tập huấn về kỹ năng truyền thông, Số già làng, trưởng

bản, các bà mẹ Mông tham gia Hội nghị truyền thông.
- Số lượng tài liệu truyền thông được phân phối.
2.7.2. Đánh giá hiệu quả về nâng cao kiến thức và thực hành của các bà mẹ
ngƣời Mông.
Nghiên cứu cũng đánh giá kết quả của biện pháp can thiệp thông qua so
sánh tỷ lệ người dân Mông đạt điểm kiến thức và thực hành rửa tay và RTBXP
trước và sau can thiệp bằng sử dụng chỉ số hiệu quả (CSHQ) và hiệu quả can
thiệp (HQCT) được tính như sau.


7
|Tỷ lệ sau CT- Tỷ lệ trước CT|
Chỉ số hiệu quả (%) = 100

x

Tỷ lệ trước CT
Hiệu quả can thiệp (%) giữa 2 nhóm của m i một giải pháp can thiệp sẽ
là hiệu của các chỉ số tính toán như sau:
HQCT = (CSHQ nhómCT - CSHQ nhóm ĐC.)
2.8. Vật liệu và kỹ thuật nghiên cứu
2.8.1. Công cụ thu thập số liệu
- Phiếu QXP1: Dùng để thu thập các thông tin liên quan đến rửa tay bằng
xà phòng của bà mẹ nuôi con dưới 5 tuổi tại hộ gia đình (phụ lục 1)
- Phiếu QXP2: Dùng thu thập các thông tin về thực hành chăm sóc trẻ
dưới 5 tuổi của các bà mẹ/người chăm sóc chính (Phụ lục 2)
- Phiếu QXP3: Dùng thu thập thông tin về tình hình dịch bệnh tại xã
nghiên cứu
Định tính: Bao gồm các bản hướng dẫn thảo luận nhóm được chuẩn bị
sẵn để thảo luận các nhóm ĐTNC (Phiếu QXP4) (phụ lục 3)

Mẫu gợi ý trong điều tra chuyên sâu (Phiếu QXP5)
2.9. Quản lý, phân tích, sử dụng số liệu
2.9.1. Nhập số liệu
- Số liệu thu thập được nghiên cứu sinh rà soát và được hai người độc
lập, nhập số liệu hai lần riêng rẽ dựa vào phần mềm Epidata 3.1.
2.9.2. Kế hoạch làm sạch số liệu
2.9.3. Phân tích số liệu
- Số liệu do nghiên cứu sinh quản lý và phân tích với phần mềm SPSS 16.0;
- Các phương pháp phân tích thống kê mô tả và phân tích được sử dụng;
- Số liệu của hai lần thực hiên phỏng vấn trước và sau can thiệp được so
sánh với nhau để đánh giá hiệu quả của can thiệp.
2.10. Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ quy định đạo đức trong nghiên cứu y sinh học đã
được Hội đồng đạo đức của Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương phê duyệt số
023/2010/YTCC-HD3 ngày 24/5/2010.


8
2.11. Hạn chế của nghiên cứu, sai số và biện pháp khắc phục
Để khắc phục tối đa sai số thông tin, cách tiếp cận đối tượng nghiên cứu
(ĐTNC) của điều tra viên (ĐTV) sẽ được đặc biệt chú ý. Nghiên cứu sẽ chọn
những ĐTV là người hiểu rõ phong tục tập quán của người Mông, có kinh
nghiệm giao tiếp với người Mông. Sử dụng một phiên dịch là người Mông và
là cán bộ y tế của bản biết thành thạo tiếng Kinh.
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thực trạng kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà
mẹ Mông đang nuôi con dƣới 5 tuổi.
3.1.1. Đặc điểm về dân số học về đối tượng nghiên cứu


Bảng 3.1. Phân bố đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi và trình độ học vấn.
Đặc điểm

Nhóm
tuổi

Dưới 26 tuổi
Từ 26-35
Trên 35

Trình Chỉ biết đọc, viết
độ học Tiểu học
vấn
Từ THCS trở lên

Vân Hồ
Nhóm can
thiệp (%)
n=254
23,0
64,3
12,7

Mai Sơn
Nhóm chứng
(%)
n=254
27,0
54,3
18,7


28,1

32,3

30,3

48,3

41,4

44,3

23,6

26,3

25,4

Cộng
chung
n=508

So
sánh
(p)

25
59,3
15,7


>0,05

>0,05

Bảng 3.1 cho biết các phần lớn bà mẹ người Mông đang nuôi con dưới 5
tuổi có độ tuổi ≤ 36 (84,3%), trong đó độ tuổi từ 26 đến 35 chiếm gần 2/3
(59,3%), 15,7% các bà mẹ có độ tuổi trên 35.Có đến 1/3 bà mẹ không biết chữ
hoặc chỉ mới biết đọc biết viết ở tất cả các xã (30,3%). Các bà mẹ Mông đang
nuôi con dưới 5 tuổi có trình độ tiểu học là 44,3% và trung học cơ sở (25,4%),
có rất ít bà mẹ có học vấn trung học (3,4%).


9
Bảng 3.2. Phân bố tỉ lệ (%) theo nghề nghiệp và thu nhập của các bà mẹ
người Mông
So
Vân Hồ Mai Sơn Cộng
Đặc điểm
sánh
n=254
n=254 chung
(p)
Tỉ lệ hộ Nghèo (%)
16,3
17,0
16,7
>0,05
Thu
Tỉ lệ hộ Cận nghèo (%)

64,3
49,7
57,0
>0,05
nhập/tháng Tỉ lệ hộ trung bình và
19,4
33,3
26,3
>0,05
khá (%)
Tỉ lệ Nông dân (%)
82,0
84,3
83,1
<0,05
Nghề
Tỉ lệ Công chức, viên
nghiệp
18,0
13,7
16,9
>0,05
chức (%)
Bảng 3.2. Cho biết các bà mẹ được điều tra làm nông nghiệp là chủ yếu
(83,1%). Dựa theo chuẩn nghèo của Việt Nam 2012 có 73,7% số bà mẹ đang
sống trong các hộ gia đình nghèo và cận nghèo. Kết quả điều tra quan sát cho
biết nguồn thu nhập của các gia đình chủ yếu từ sản xuất trồng trọt (Ngô và cây
ăn quả như Mận, Đào).
3.1.2. Đặc điểm một số yếu tố liên quan đến rửa tay bằng xà phòng.
3.1.2.1. Nguồn nước và tính sẵn có tại các hộ bà mẹ Mông.


Biểu đồ 3.1. Thực trạng về cung cấp nước tại các hộ bà mẹ Mông.
Kết quả biểu đồ 3.1 cho biết ba nguồn nước được sử dụng tại các bản
người Mông của 2 huyện là nước giếng khoan, giếng giếng khơi và nước máy.


10
Có 89,7% hộ gia đình cho rằng đủ nước dùng, còn 10,3% hộ cho biết thiếu nước
dùng trong sinh hoạt.
3.1.2.2. Nguồn xà phòng và tính sẵn có tại các hộ bà mẹ Mông.
Bảng 3.6. Phân bố các loại xà phòng đang dùng tại các hộ bà mẹ Mông.
Loại xà phòng
Có xà phòng
Xà phòng bánh
Bột giặt
Khác

Vân Hồ
n=254
Số Tỉ lệ
lượng
%
221
87,0
161
63,5
218
86,0
106
41,8


Mai Sơn
n=254
Số
Tỉ lệ
lượng
%
200
78,7
72
28,2
198
78,0
103
40,6

Cộng chung
n=508
Số
Tỉ lệ
lượng
%
421
82,9
232
45,7
416
82,0
209
41,2


Bảng 3.6 cho biết 82,9% các bà mẹ Mông sống trong các gia đình có xà
phòng trong nhà, tỉ lệ này không khác nhau giữa 2 huyện. Loại xà phòng họ sử
dụng chính là bột giặt, ngoài ra có 45% hộ gia đình có xà phòng bánh trong nhà.

Biểu đồ 3.2. Khoảng cách để xà phòng đến nơi có nguồn nước rửa tay.
Quan sát nơi để xà phòng cho biết có 78,5% xà phòng được đặt cạnh nơi
rửa tay hoặc trong vòng 5m (biểu đồ 3.2)


11
3.1.3. Thực trạng kiến thức và thực hành của các bà mẹ người Mông liên
quan tới rửa tay xà phòng
Có 44,7% các bà mẹ cho biết có nghe về RTBXP, các thông tin này chủ
yếu từ nguồn truyền thông công cộng như tivi, đài truyền thanh xã (29,3%) và
từ các nhân viên y tế, chủ yếu là y tế xã (36,2%)
3.1.3.2. Kiến thức của các bà mẹ Mông về RTBXP.
Bảng 3.8. Tỷ lệ bà mẹ biết những bệnh gây nên do bàn tay không sạch
Huyện Vân
Huyện Mai Cộng chung
p
Hồ (n = 254) Sơn (n = 254) (n=508)
Tên bệnh
SL
%
SL
%
SL
%
Tiêu chảy


144

56,7

174

68,3

318

62,5

Khác

46

18,0

48

19,0

94

18,5

p>0,05

Không biết

75
29,7
69
27,3
145
28,5
Kết quả bảng 3.8 cho biết: Tỷ lệ bà mẹ người Mông không kể tên được
một bệnh nào do bàn tay bẩn gây nên ở 2 huyện Vân Hồ và Mai Sơn (28,5%).
Bệnh được biết đến nhiều nhất chủ yếu là tiêu chảy (62,5%).
Bảng 3.9.

iểu biết của bà mẹ người Mông về bàn tay sạch và thời điểm
rửa tay
Huyên Vân Hồ
Huyện Mai
Cộng chung
n=254
Sơn n=254
n=508
Kiến thức
Số
Số
Số
%
%
%
lƣợng
lƣợng
lƣợng
Không biết 195

76,8
185
72,8
380
74,8
Có bàn
Rửa tay
51
20,1
52
20,5
103
20,3
tay sạch
RTBXP
8
3,1
17
6,7
25
4,9
Bảng 3.9 cho kết quả: Chỉ có 25,2% bà mẹ trả lời phải rửa tay và 74,8%
các bà mẹ trả lời không biết. Khi được hỏi cần rửa tay khi nào, chỉ có 16,5%
các bà mẹ Mông trả lời cần rửa tay trước khi ăn, tỉ lệ cần rửa tay sau khi đi vệ
sinh của bà mẹ Mông thấp (9,6%) sau khi đi đại tiện và 9,4% sau tiểu tiện).
3.1.3.3. Thực hành rửa tay bằng xà phòng
Bảng 3.10 cho biết: có 51,5% nói đã rửa tay sau khi vệ sinh, 46,2% có
rửa tay trước khi ăn, 42,3% đã rửa tay sau khi lao động và 38,5% nói đã rửa
tay sau khi cho trẻ đi vệ sinh.



12

Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ các bà mẹ rửa tay trước khi cho trẻ ăn và sau khi cho trẻ
đi vệ sinh.
Trong tổng số 335 bà mẹ được quan sát (170 ở huyện Vân Hồ và 165 ở
huyện Mai Sơn), 124 bà mẹ cho con đi vệ sinh có 25% bà mẹ rửa tay sau khi
cho con đi vệ sinh (biểu đồ 3.4) và trong 211 bà mẹ cho trẻ ăn chỉ có 28 bà mẹ
rửa tay trước khi cho trẻ ăn (13,2%).
3.2. Mối liên quan của một số yếu tố kiến thức và thực hành rửa tay.
3.2.1. Mối liên quan giữa thực hành rửa tay bằng xà phòng với hiểu biết và
nhận thức và tính sẵn có.
Bảng 3.11. iên quan giữa các yếu tố dân số học và kiến thức của bà mẹ
người Mông về RTBXP
Kiến
Số điều
OR
Yếu tố
p
thức đạt
tra
(95%CI)
Dưới 35
235
429
1,1 (0,6Nhóm tuổi
>0,05
1,8)
Trên 35
34

79
Nghèo, cận nghèo
190
375
Thu nhập
1,4(0,9-2,8)
0,9
Không nghèo
79
133
Dưới TTCS
71
154
Trình độ
1,4(1-2,2) <0,05
học vấn
Từ TTCS trở lên
198
354
Làm nông nghiệp
210
422
Nghề
1,4(1-2,3) <0,05
nghiệp
Cán bộ, công nhân
59
86



13
Bảng 3.11 cho biết: Kiến thức về RTBXP của bà mẹ Mông dưới 35 tuổi
so với các bà mẹ trên 35 tuổi không khác nhau (OR=1,1; p>0,05). Những bà
mẹ có học vấn từ trung học cơ sở (THCS) trở lên có kiến thức đúng RTBXP
cao hơn 1,4 lần so với bà mẹ có học vấn tiểu học và mù chữ (OR=1,4,p<0,05),
các bà mẹ là cán bộ, công chức có kiến thức đúng RTBXP cao gấp 1,4 lần so
với bà mẹ làm nông nghiệp. Chưa thấy mối liên quan giữa kiến thức với mức
sống của các hộ (OR=1,4; p >0,05).
Bảng 3.12. iên quan đơn biến giữa các yếu tố dân số học và thực hành rửa
tay bằng xà phòng các bà mẹ người Mông.
Không
OR
Yếu tố
n
p
rửa tay
95%CI
Từ 35 trở xuống
205
283
1,2
Nhóm
0,64
tuổi
Trên 35
36
52
(0,6-2,3)
Trình độ
học vấn

Thu nhập
Nghề
nghiệp

Dưới TTCS

121

101

Từ TTCS trở lên
Nghèo, cận nghèo
Không nghèo
Làm nông nghiệp
Cán bộ, công nhân

120
203
38
225
16

234
247
88
278
57

2,3
(1,2-2,9)

1,9
(1,1-2,6)
2,9
(1,2-3,9)

<0,05
<0,05
<0,05

Thực hành RTBXP của 335 bà mẹ (Bảng 3.12.) cho biết các bà mẹ có
học vấn thấp (tiểu học, mù chữ) ít rửa tay hơn 2,3 lần người có học vấn từ
THCS trở lên (OR=2,3; p<0,05), các bà mẹ làm nông nghiệp thường không rửa
tay cao gấp 2,9 lần hơn các bà mẹ làm công chức (OR = 2,9; p<0,05), các bà
mẹ sống trong các hộ nghèo tỉ lệ không rửa tay thấp hơn 1,9 lần các bà mẹ
không nghèo (OR =1,9; p<0,05).

Li n

n i

iến thứ và t nh ẵn ó với thự hành rử t y xà phòn

Bảng 3.13. iên quan đơn biến giữa kiến thức và thực hành rửa tay bằng xà
phòng các bà mẹ người Mông.
Không
OR
Yếu tố
n
p
rửa tay

95%CI
Không đạt
72
95
Kiến
1,1
0,91
thức
(0,7-1,8)
Đạt
169
240
Nguồn nước cách trên 5m
116
168
0,75
0,24
(0,5-1,3)
125
167
Tính sẵn Nguồn nước dưới 5 m

Không có xà phòng
5
8
1,6
0,54
(0,7-1,9)
Có xà phòng
236

327


14
Kết quả bảng 3.13 cho biết chưa thấy mối liên quan thực hành RTBXP
của các bà mẹ Mông với kiến thức RTBXP: Thực hành RTBXP của các bà mẹ
sống trong các hộ có nguồn nước dưới 5m không khác với các bà mẹ sống
trong hộ nguồn nước trên trên 5m (OR=0,75; p>0,05), bà mẹ trong các hộ có
xà phòng thực hành RTBXP cao hơn 1,6 lần so với các bà mẹ trong các hộ
không có xà phòng nhưng chưa thấy mối liên quan (OR=1,6; p>0,05).
3.3. Hiệu quả hoạt động truyền thông, GDSK
3.3.1. Các hoạt động can thiệp cộng đồng
Tập huấn cho cán bộ và truyên truyền viên của các bản
Đã tiến hành 4 lớp tập huấn cho cán bộ và tuyên truyền viên, cụ thể tại
trung tâm y tế huyện tổ chức 2 lớp cho cán bộ điều tra của của Trung tâm Y tế
dự phòng (TTYTDP) huyện, 2 lớp về kỹ năng điều tra, kỹ năng truyền thông
trực tiếp cho cán bộ y tế 3 xã và tuyên truyền viên của các bản can thiệp. Tiến
hành 96 buổi thảo luận nhóm chủ đề rửa tay bằng xà phòng tại 12 bản của 3 xã
can thiệp. Nghiên cứu sinh cùng với nhóm nghiên cứu đã tham gia trực tiếp các
buổi thảo luận nhóm, m i bản tiến hành ít nhất 2 buổi trong thời gian can thiệp.

Hiệ

x
n thiệp

h t độn tr y n th n v rử t y bằn xà phòn t i

3.3.2.1 Sự thay đổi nguồn thông tin người d n tiếp c n.
Nguồn thông tin về RTBXP đến với các bà mẹ sau hơn 1 năm cho biết

các bà mẹ Mông ở huyện Vân Hồ là 95,4% cao hơn ở huyện Mai Sơn (44%).
Loại hình kênh truyền thông chủ yếu đến với các bà mẹ ở Vân Hồ qua thông
tin đại chúng (tivi, loa truyền thanh), qua cán bộ y tế và hội họp cao hơn ở
huyện Mai Sơn lần lượt là 95,4/39,8; 94,3/39,1; 79,1/7,9.
3.3.2.2. Kết quả đ u ra các hoạt động can thiệp.
Sau một năm tiến hành các hoạt động TTGDSK tại 3 xã can thiệp của huyện
Vân Hồ, các chỉ số đều tăng lên: 95,4% các bà mẹ nhận được thông tin RTBXP từ
các kênh truyền thông, Thông tin RTBXP các bà mẹ nhận được qua tivi, truyền
thanh tăng từ 29,9% lên 93,5%, sau can thiệp tỉ lệ thông tin do cán bộ y tế tăng từ
37% lên 94,3% và từ hội họp, thảo luận nhóm từ 3,5% lên 79,1% và chỉ số hiệu
quả của 3 loại kênh thông tin lần lượt là 212,6/154,8/2132.
3.3.3. iệu quả can thiệp của các hoạt động truyền thông.
3.3.3.1. iệu quả tăng tỉ lệ nguồn thông tin các bà mẹ được tiếp c n.


15
Bảng 3.2 .

iệu quả can thiệp của các kênh TTGDSK
CSHQ
Nguồn thông tin
HQCT
p
Can thiệp Nhóm chứng
Biết thông tin
103,5
3,5
100
<0,05
Từ thông tin đại chúng

212,6
38,7
174,0
<0,05
Từ cán bộ y tế
154,8
10,3
144,5
<0,05
Từ hội họp
2132,0
186,5
1945,6
<0,05
Tranh, ap phich
1101,9
258,1
843,8
<0,05
Thông tin khác
70,4
2,3
68,1
>0,05
Kết quả bảng 3.20 cho biết CSHQ của các nguồn thông tin đến được của
nhóm can thiệp đều tăng, hai nguồn tăng rõ rệt là từ hội họp, tranh ảnh, tờ rơi lần
lượt CSHQ tăng 2132% và 1101,9% với HQCT là 1945,6 và 843 (p<0,05).
3.3.3.2. iệu quả can thiệp của tính sẵn có của nguồn nước và xà phòng
Nguồn nước và nguồn xà phòng của các hộ phụ nữ Mông không thay đổi
giữa hai nhóm can thiệp và chứng, người dân Mông vẫn chủ yếu dùng bột giặt cho

tất cả công việc như rửa tay, giặt quần áo, rửa chén bát và gọi chung là “xà phòng”.
3.3.3.3. iệu quả can thiệp và kiến thức rửa tay bằng xà phòng
Bảng 3.2.3.

iệu quả nâng cao kiến thức RTBXP của các bà mẹ nhóm
can thiệp
Kiến thức RTBXP
Trước can thiệp Sau can thiệp
CSHQ
p
Số điều tra
n=254
n=263
Đạt
Tỉ lệ %
53,2
73,4
38,1
<0,05
Không đạt
Tỉ lệ %
46,9
26,62
43,2
<0,05
Kết quả bảng 3.23 cho biết kiến thức RTBXP đạt của các bà mẹ Mông ở
nhóm can thiệp tăng từ 53,2% lên 73,4%, CSHQ tăng 38,1% (p<0,05).
Bảng 3.25.
Kiến thức


iệu quả can thiệp về kiến thức của các bà mẹ.
CSHQ (%)
HQCT
p

Nhóm can thiệp

Nhóm chứng

(%)

Đạt

38,1

0,7

37,4

<0,05

Không đạt

43,2

1,5

41,7

<0,05



16
Bảng 3.25 cho biết khác nhau về sự thay đổi kiến thức RTBXP giữa hai
nhóm can thiệp và chứng, CSHQ ở các bà mẹ của nhóm can thiệp tăng 38,1%
còn nhóm chứng chỉ tăng 0,7% với HQCT=37,4 (p<0,05).
3.3.3.4. iệu quả thực hành rửa tay bằng xà phòng của các bà mẹ
Bảng 3.26.

iệu quả cải thiện rửa tay trước khi cho trẻ ăn của các bà mẹ
nhóm can thiệp.
Trƣớc
Sau can
Thực hành
CSHQ
can thiệp thiệp
p
n=254
n= 263
Có rửa tay trước
Tỉ lệ (%)
22
58,6
165 <0,05
khi cho trẻ ăn
Có RTBXP trước
Tỉ lệ (%)
13,3
44,5
237 <0,05

khi cho trẻ ăn

Nhận xét bảng 3.26: Quan sát thực hành của bà mẹ rửa tay và rửa tay xà
phòng trước khi cho trẻ ăn nhóm can thiệp ở 2 thời điểm trước can thiệp và sau
can thiệp cho biết tỉ lệ rửa tay trước khi cho trẻ ăn từ 22,1% tăng lên 58,6% với
CSHQ=165 (p<0,05), tỉ lệ rửa tay bằng xà phòng của các bà được cải thiện
nhiều hơn tăng từ 13,2% lên 44,5%, CSHQ=237% (p<0,05).
Bảng 3.28 cho biết: Hiệu quả can thiệp thực hành rửa tay của các bà mẹ
trước khi cho trẻ ăn giữa nhóm can thiệp và nhóm chứng được thể hiện rõ
HQCT của rửa tay là 83% (p<0,05) và có rửa tay bằng xà phòng là 208%
(p<0,05), có sự khác biệt rõ giữa hai nhóm (p<0,05)
Bảng 3.28.

iệu quả can thiệp thực hành rửa tay, rửa tay bằng xà phòng
của các bà mẹ trước khi cho trẻ ăn
CSHQ (%)
HQCT
Thực hành
p
(%)
Nhóm can thiệp Nhóm chứng
Có rửa tay
165
82
83
<0,05
Có rửa tay
237
29
208

<0,05
bằng xà phòng


17
Bảng 3.29.

iệu quả thực hành rửa tay sau khi cho con đi đại tiện của các
bà mẹ nhóm can thiệp.

Thực hành

Trƣớc can thiệp Sau can thiệp

CSHQ

p

Tỉ lệ %

n

Tỉ lệ %

n

Có rửa tay

21,2


67

97,2

36

358

<0,05

Có RTBXP

11,9

67

88,9

36

647

<0,05

Nhận xét: Quan sát hành vi rửa tay của các bà mẹ sau khi cho con đi đại
tiện (Bảng 3.29) cho biết: Rửa tay sau khi cho con đi đại tiện của các bà mẹ
nhóm can thiệp từ tăng 21,2% (trước can thiệp) lên 97,2% (sau can thiệp) với
CSHQ=358% (p<0,05). Sau can thiệp các bà mẹ khi rửa tay sử dụng xà phòng
nhiều hơn, Tỉ lệ RTBXP tăng từ 11,9% lên 88,9% với CSHQ=647% (p<0,05).
Bảng 3.31.


iệu quả can thiệp thực hành rửa tay, rửa tay xà phòng của các
bà mẹ khi cho trẻ đi đại tiện.
Nhóm can thiệp
Nhóm chứng
Thực hành
HQCT
p
Số lượng CSHQ Số lượng CSHQ
Có rửa tay
Có rửa tay
xà phòng

14/35

358

15/31

307

49

>0,05

8/32

647

3/2


31

516

<0,05

Nhận xét bảng 3.31: Hiệu quả can thiệp thực hành RTBXP ở các bà mẹ
rửa tay sau khi cho đi đại tiện giữa hai nhóm có sự khác biệt chỉ số HQCT
dương và có sự khác biệt rõ hành vi rửa tay xà phòng (516; p<0,05).
So sánh kết quả quan sát trực tiếp trẻ đi vệ sinh, ăn uống và hành vi rửa
tay của các bà mẹ Mông trước khi cho trẻ ăn, sau khi cho trẻ đi vệ sinh (Bảng
3.34) cho biết sau can thiệp trước khi cho trẻ ăn tỉ lệ các bà mẹ rửa tay và rửa
tay bằng xà phòng của nhóm can thiệp (58,6%) cao hơn nhóm chứng (23,8%;
p<0,05), hiệu quả can thiệp rửa tay xà phòng là 208. Tỉ lệ rửa tay xà phòng sau
khi cho trẻ đi vệ sinh của các bà mẹ đều thay đổi và tăng so với trước can thiệp,


18
các hành vi này của các bà mẹ nhóm can thiệp đều cao hơn nhóm chứng với
HQCT lần lượt là 616 và 1325 (p<0,05).
3.4. Kết quả nghiên cứu định tính rửa tay bằng xà phòng của ngƣời Mông.
Người Mông sử dụng nguồn nước sạch tự nhiên.
Người Mông trước đây không sử dụng nguồn nước tù đọng
Người Mông Sơn La dùng nước rất tiết kiệm
Người Mông Sơn La chỉ rửa tay khi thấy "bẩn"
Người Mông trước đây không có khái niệm bàn tay sạch phòng chống
bệnh, người Mông chỉ rửa tay khi họ nhìn thấy bàn tay "bẩn" có nghĩa là khi
tay chân bị nhiễm các vết „bẩn‟ nhìn được như bùn, đất, nhựa cây hoặc chất
phân của người.

3.5. Tình hình mắc một số bệnh có liên quan đến rửa tay bằng xà phòng

Biểu đồ 3.6 Tỉ lệ trẻ mắc bệnh tiêu chảy trên 1
trẻ của hai nhóm
từ 2 13-2016.
Nhận xét: Tỉ lệ tiêu chảy ở nhóm can thiệp giảm từ 38,7/1000 (2013) trẻ
còn 24,8/1000 trẻ (2016). Ở nhóm chứng tỉ lệ này cũng giảm từ 33,8/1000 trẻ
(2013) xuống 21,8/1000 trẻ (2016).


19

Biểu đồ 3.7 Tỉ lệ trẻ mắc bệnh đường hô hấp trên 1
2013-2016.

trẻ của hai nhóm từ

Biểu đồ 3.7 cho biết tỉ lệ bệnh đường hô hấp của trẻ ở hai nhóm đều giảm
nhưng mức độ giảm trẻ ở nhóm can thiệp rõ hơn từ 203,7/1000 trẻ xuống
152,6/1000 trẻ (p<0,05).
CHƢƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Đặc điểm kinh tế, xã hội và sử dụng nguồn nƣớc của các bản Mông 2
huyện Vân Hồ và Mai Sơn.
Kết quả điều tra của chúng tôi năm 2013 tại 24 bản Mông cho biết nguồn
nước sử dụng của người Mông hiện tại rất đa dạng, ba nguồn nước họ thường
dùng là nước công cộng (nước máy 25%), nước giếng khoan (32%) và nước
giếng đào (28%). Khác với kết quả nghiên cứu của Cục QLMTYT, có thể giải
thích dựa trên kết luận của Đào Duy Khuê, người dân vùng đồng bằng bắc bộ
có thói quen sử dụng nguồn nước từ các giếng, còn người các dân tộc miền núi
quen dụng nguồn nước sẵn có, sở dĩ họ dùng giếng khoan và giếng đào là kết

quả của các hoạt động cung cấp nước sạch của chính phủ và đặc biệt của một
số tổ chức khác như UNICEF, UNPA.


20
Các bà mẹ Mông ở Sơn La đa phần là làm nông nghiệp thuần túy
(83,2%) có tỉ lệ thấp là cán bộ, công nhân.
Tỉ lệ hộ nghèo của người Mông Sơn La khá cao 73,8%, trong 6 xã điều
tra đều thuộc xã nghèo của tỉnh và đều nằm trong dự án 318 của chính phủ, dự
án MNPRP2 - WB, dự án KFM cộng hòa liên bang Đức. Đây là một khó khăn
thực sự cho triển khai thực hiện triển khai hoạt động RTBXP.
Kết quả điều tra cho biết 74% bà mẹ Mông có trình độ học vấn thấp (tiểu
học và mù chữ) trong đó tỉ lệ mù chữ của các bà mẹ là 14%. Kết quả này so với
các điều tra của Cục YTDP năm 2006 và Cục QLMTYT khác nhau, tỉ lệ mù
chữ của chúng tôi cao gấp 7 lần so với kết quả của Cục QLMTYT năm 2006
(1,8%).
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bà mẹ người Mông biết rửa tay với
xà phòng giúp loại trừ vi khuẩn còn chưa cao và không khác nhau nhiều theo
xã 33,3%. Kết quả điều tra này tương đương với điều tra của Đào Huy Khuê
năm 2007 (30,9%) và thấp hơn nhiều so với kết quả điều tra của Cục
QLMTYT năm 2012 (91,3%) có thể do đối tượng điều tra là người Kinh sống
tại các tỉnh đồng bằng Bắc bộ và sau một số hoạt động can thiệp. Tỷ lệ người
hiểu biết về cách phòng bệnh giun sán và tiêu chảy bằng rửa tay còn thấp, chỉ
chiếm 14,1% trong mẫu điều tra. Tỷ lệ này ở người Kinh cao hơn mức chung
(17,2%) nhưng ở các DTTS đều thấp. Nhìn chung, hiểu biết của các dân tộc ít
người ở Trung bộ và Tây Nguyên hạn chế hơn so với miền núi phía Bắc.
Các bà mẹ Mông phần lớn không rửa tay sau khi cho con đi tiểu tiện
(73,2%) cho thấy đại bộ phận đối tượng nghiên cứu cho rằng bàn tay không bị
nhiễm bẩn khi đi tiểu tiện. Đây cũng là một chủ điểm cần khai thác để phát
triển tài liệu truyền thông: Bàn tay chúng ta có thể bị nhiễm bẩn từ đâu và như

thế nào sau khi đi tiểu tiện.
Quan sát trực tiếp hành vi của các bà mẹ trước khi cho con ăn trong
nghiên cứu của chúng tôi cho biết chỉ có 13,2% bà mẹ RTBXP thấp hơn nhiều
kết quả trả lời phỏng vấn của của bà mẹ người Mông rửa tay trước khi cho trẻ
ăn (46,2%), điều này minh chứng cho sự cần thiết của nghiên cứu quan sát trực


21
tiếp các hành vi để đánh giá thực trạng của các nghiên cứu định tính và củng cố
thêm nhận định của Cục YTDP năm 2011 khi tiến hành nghiên cứu can thiệp
trên các bà mẹ người Kinh nuôi con dưới 5 tuổi.
Thói quen RTBXP trước khi ăn và sau khi đại, tiểu tiện giúp loại bỏ mầm
bệnh theo tay bẩn xâm nhiễm vào thức ăn, nước uống, vào cơ thể gây ra những
bệnh tật nguy hiểm cho con người. Theo khuyến cáo của WHO và Bộ Y tế Việt
Nam: Việc không RTBXP vào các thời điểm quan trọng như trước khi ăn, sau
khi tiểu/đại tiện, trước khi cho con ăn và sau khi chăm sóc trẻ,… đang làm gia
tăng các bệnh tiêu chảy, tả, lỵ, giun sán. Đây là các bệnh rất phổ biến và chiếm
tỷ lệ cao trong số các bệnh thường gặp ở các vùng nông thôn Việt Nam.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho biết kiến thức RTBXP của nhóm
can thiệp tăng từ 53,2% lên 73,4%, CSHQ tăng 38,5% (p<0,05), HQCT 37,4
(p<0,05. Thực hành RTBXP của nhóm can thiệp trong nghiên cứu của chúng
tôi làm thay đổi hành vi sử dụng xà phòng khi rửa tay đều trước khi cho trẻ ăn,
tăng lên từ 13,2% lên 44,5% (CSHQ=237%; p<0,05) và sau khi đi vệ sinh tăng
từ 11,9% lên 88,9% (CSHQ=647%; p<0,05). So với nghiên cứu của Cục
QLMTYT năm 2011 các chỉ số này không khác nhau.
4.2. Hiệu quả các hoạt động Truyền thông – Giáo dục sức khỏe nâng cao
kiến thức, thực hành rửa tay bằng xà phòng.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho biết kiến thức RTBXP của nhóm can
thiệp tăng từ 53,2% lên 73,4%, CSHQ tăng 38,5% (p<0,05), HQCT 37,4
(p<0,05). Thực hành RTBXP của nhóm can thiệp trong nghiên cứu của chúng

tôi làm thay đổi hành vi sử dụng xà phòng khi rửa tay đều trước khi cho trẻ ăn,
tăng lên từ 13,2% lên 44,5% (CSHQ=237%; p<0,05) và sau khi đi vệ sinh tăng
từ 11,9% lên 88,9% (CSHQ=647%; p<0,05). So với nghiên cứu của Cục
QLMTYT năm 2011 các chỉ số này không khác nhau.
Hoạt động TTGDSK trong RTBXP cho nhóm đối tượng bà mẹ Mông
nhằm nâng cao kiến thức về RTBXP trong nghiên cứu của chúng tôi dựa chủ
yếu vào lực lượng cán bộ, nhân viên trạm y tế ba xã, nhân viên y tế thôn bản và
hội phụ nữ thôn bản thông qua truyền thông trực tiếp. Chúng tôi đã tiến hành


×