Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Facebook sự tham gia vào không gian số và ảnh hưởng của nó đến lối sống thanh niên hiện nay tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.78 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ KIM ANH

FACEBOOK: SỰ THAM GIA VÀO KHÔNG GIAN SỐ
VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA NÓ ĐẾN LỐI SỐNG
THANH NIÊN HIỆN NAY

Chuyên ngành : Xã hội học
Mã số

: 9 31 03 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học: GS, TS. Nguyễn Quý Thanh

Phản biện 1: GS.TS. Đặng Cảnh Khanh
Phản biện 2: GS.TS. Lê Ngọc Hùng
Phản biện 3: PGS.TS. Vũ Mạnh Lợi
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam
Vào hồi….. giờ…..phút, ngày….. tháng….. năm 2018


Có thể tìm hiểu luận án tại thƣ viện:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học Xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thanh niên là một trong những nhóm đối tượng sử dụng
nhiều về trang mạng xã hội. Mạng xã hội trở thành một xu hướng
không thể thiếu đối với thanh niên. Với đặc thù là trẻ tuổi, có tri thức,
có tính năng động nên thanh niên là đối tượng rất dễ dàng trong việc
tiếp cận và tiếp nhận những cái mới (trong đó có cả những cái tốt và
những cái xấu). Vì vậy, việc trở thành công dân mạng có thể làm thay
đổi các hoạt động giao tiếp, một số quan niệm của họ về các giá trị
trong cuộc sống hàng ngày qua cách họ tiếp cận và đối xử với các
mối quan hệ.
Có thể nói rằng trang mạng xã hội Facebook là một trang
mạng được rất nhiều người sử dụng trên thế giới và trong những năm
gần đây, trang mạng xã hội Facebook trở thành một hiện tượng xã
hội điển hình, thể hiện nhu cầu giao tiếp xã hội và giải trí cao. Nó tạo
ra mỗi người một cộng đồng xã hội bao gồm những người quen biết
và không quen biết, sự đa dạng về môi trường xã hội trên Facebook,
sự tự do trong việc trao đổi thông tin, tâm tư tình cảm... hoặc ngay cả
yếu tố công việc, kinh tế cũng được đưa vào Facebook để trao đổi.
Nhìn chung, Facebook dần trở thành một công cụ xã hội không thể
thiếu đối với nhiều người, đặc biệt là thanh niên. Song với bất kỳ một
hiện tượng xã hội nào đều có tính hai mặt: tích cực và tiêu cực, vấn
đề đặt ra là chủ thể sử dụng công cụ Facebook này như thế nào thì tác
động ngược trở lại của nó đối với con người, xã hội sẽ như vậy. Bởi
vậy, nghiên cứu về sự tham gia vào trang mạng xã hội và những tác

động từ việc tham gia này trở thành vấn đề được quan tâm.
Vậy câu hỏi là: Sau khi tham gia trang mạng xã hội nói
chung và trang mạng xã hội Facebook nói riêng, lối sống của thanh
1


niên có những thay đổi gì và thay đổi như thế nào? Xuất phát từ lí do
đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Facebook: Sự tham gia vào không gian
số và ảnh hưởng của nó đến lối sống thanh niên hiện nay” để tiến
hành nghiên cứu xã hội học thực nghiệm. Nhằm phân tích và nhìn
thấy được hiện trạng sử dụng trang mạng xã hội Facebook của thanh
niên hiện nay, những tác động của nó đối với lối sống thanh niên. Từ
đó có cái nhìn khái quát nhất về vấn đề trong một cách tiếp cận mới,
đánh giá và đưa ra được xu hướng sử dụng trang mạng xã hội
Facebook của thanh niên trong những năm tiếp theo. Đề tài có sự kết
hợp kiến thức của xã hội học lối sống, khoa học công nghệ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài mong muốn tìm hiểu sự tham gia của thanh niên vào
trang mạng xã hội Facebook. Từ đó có sự phân tích những ảnh hưởng
của sự tham gia vào trang mạng xã hội Facebook đến lối sống thanh
niên và đưa ra một số định hướng về việc quản lý và sử dụng trang
mạng xã hội một cách hiệu quả hơn nữa.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để tiến hành nghiên cứu
sự tham gia của thanh niên vào trang mạng xã hội Facebook và ảnh
hưởng của sự tham gia vào trang mạng xã hội Facebook đến lối sống
thanh niên.
Làm rõ các khái niệm liên quan: không gian số, sự tham gia,
trang mạng xã hội, lối sống thanh niên, hoạt động học tập, hoạt động

giải trí, định hướng giá trị.
Khảo sát định lượng và định tính về sự tham gia của thanh
niên vào trang mạng xã hội Facebook và phân tích các ảnh hưởng của
sự tham gia vào trang mạng xã hội Facebook đến lối sống thanh niên.
2


Đề xuất một số khuyến nghị về việc quản lý và sử dụng trang
mạng xã hội một cách hiệu quả.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự tham gia của thanh niên vào trang mạng xã hội Facebook
và ảnh hưởng của sự tham gia vào trang mạng xã hội Facebook đến
lối sống thanh niên.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Quá trình điều tra khảo sát thu thập thông tin định tính, định
lượng được thực hiện tại thành phố Hà Nội. Thời gian bắt đầu nghiên
cứu vấn đề từ năm 2014 đến năm 2017.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của Luận án
4.1. Phương pháp luận
Từ quan điểm về mối quan hệ biện chứng giữa kiến trúc
thượng tầng và cơ sở hạ tầng trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, tư
tưởng của Marx về vai trò của ý thức trong đời sống xã hội, về mối
liên hệ giữa truyền thông đại chúng và dư luận xã hội được lấy làm
cơ sở cho việc nghiên cứu sự tác động của truyền thông đại chúng và
dư luận xã hội. Quan điểm lý thuyết xã hội học được dùng làm cơ sở
nghiên cứu ở đây gồm: lý thuyết mạng lưới quan hệ xã hội, lý thuyết
tương tác xã hội.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng kết

hợp định tính. Dữ liệu định lượng được thu thập từ việc điều tra bằng
bảng hỏi trên người sử dụng trang mạng xã hội. Dữ liệu định tính
được lấy từ các phỏng vấn sâu và ý kiến của người sử dụng trang
mạng xã hội. Dữ liệu thu về được xử lý bằng phần mềm SPSS 11.5
và được mô hình hóa thông qua các phương trình hồi quy (cụ thể một
3


số phương pháp: thống kê mô tả, kiểm định giả thuyết).
5. Đóng góp mới về khoa học của Luận án
Đề tài hướng đến nghiên cứu và phân tích vấn đề dưới góc
độ tiếp cận của Xã hội học để đánh giá những biến đổi và phát triển
của lối sống ở một nhóm xã hội nhất định là thanh niên.
Đề tài đi vào phân tích thực trạng và đánh giá những tác
động theo cả hai chiều để thấy được một cách nhìn tổng quan nhất về
lối sống thanh niên.
Đề tài này với một góc độ nghiên cứu là lối sống của thanh
niên (cụ thể hơn là đi vào các hoạt động học tập, hoạt động giải trí,
hoạt động định hướng giá trị) trong tác động của yếu tố tham gia vào
trang mạng xã hội Facebook.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Từ kết quả nghiên cứu của luận án, chúng tôi muốn đưa ra
những vấn đề đang xảy ra hiện nay trong lối sống thanh niên giúp cơ
quan truyền thông đại chúng nắm bắt được những ảnh hưởng của các
trang mạng xã hội tới công chúng thanh niên được nghiên cứu, cũng
như những nhu cầu của tầng lớp xã hội này.
Từ đó, tạo cơ sở khoa học để đề xuất giải pháp nhằm tăng
cường hiệu quả của các phương tiện truyền thông đại chúng tới công
chúng thanh niên.
7. Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận; danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, Luận án gồm 4 chương với 13 tiết.

4


Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Nhóm nghiên cứu về sự tham gia của người sử dụng vào trang
mạng xã hội Facebook
Các nghiên cứu của tác giả nước ngoài và tác giả trong nước
đều chỉ ra cơ cấu xã hội của chủ thể trong không gian số thường là
người trẻ tuổi, có học vấn cao, đa dạng nghề nghiệp. Cụ thể trong các
nghiên cứu của các tác giả nước ngoài, trong nước như sau:
Thứ nhất, đối tượng và độ tuổi tham gia rất trẻ. Những
nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên thế giới chủ yếu tập trung
vào nhóm đối tượng là thanh thiếu niên (học sinh và sinh viên) ở thế
hệ Y (Generation), hay còn gọi là Milennial. Họ còn được gọi là thế
hệ mạng – nhóm thanh niên của thế hệ hiện tại, sinh ra trong giai
đoạn đầu thập niên 1980 đến cuối thập niên 1990 - thời điểm công
nghệ kỹ thuật số phát triển như máy tính, điện thoại di động, internet,
máy nghe nhạc Mp3 và các công nghệ khác.
Thứ hai, mục đích tham gia: Những nỗ lực của công nghệ
mạng xã hội và điện thoại di động đã cho phép thanh niên sử dụng
mạng thỏa mãn nhu cầu rộng rãi trong việc kết bạn, trao đổi thông
tin, giao tiếp, tìm kiếm giải trí, học tập với những địa chỉ liên lạc, khu
vực trên toàn cầu và cho phép kết hợp hoạt động của email, tin nhắn,
tạo trang, nhật ký, album ảnh, tải nhạc, video.
Mục đích tham gia của các cá nhân vì mục đích giáo dục: các
tính năng của công nghệ (không phải là bản thân công nghệ), cho phép

và hạn chế cách một người sử dụng công cụ đó. Đồng thời, các nhân tố
xã hội như chuẩn mực, văn hóa, tập quán hành vi là những nhân tố cơ
bản nhất ảnh hưởng đến cách sử dụng công nghệ của một người.

5


Mục đích tham gia của các cá nhân thông qua hoạt động
mang tính giải trí: ở nội dung này thì quan điểm của các tác giả có sự
tương đồng với nhau khi thấy được mục đích tham gia của các cá
nhân vào trang mạng xã hội có tính giải trí.
Mục đích tham gia của các cá nhân theo hướng tiếp cận các
mặt giá trị: ở nội dung này chỉ ra rằng, đối với thanh thiếu niên, số
lượng và tần suất tiếp xúc với bạn bè của một người trên Facebook
hoặc các trang mạng tương tự liên quan đến lòng tự trọng của họ và
là một dấu hiệu xã hội quan trọng của nhu cầu được chấp nhận và
đồng đẳng.
1.2. Nhóm nghiên cứu về ảnh hưởng của trang mạng xã hội
Facebook đến lối sống thanh niên
Thứ nhất, việc chỉ ra ảnh hưởng của trang mạng xã hội
Facebook đến hành vi của người sử dụng, thì cách tiếp cận của tác
giả nước ngoài và trong nước có một chút khác biệt trong cách chỉ ra
vấn đề. Các tác giả nước ngoài tiếp cận vấn đề cụ thể theo hướng chỉ
ra những ảnh hưởng có tính tích cực hay những ảnh hưởng tiêu cực
trang mạng xã hội Facebook đến người sử dụng. Còn các tác giả
trong nước tiếp cận theo hướng tổng hợp các vấn đề.
Thứ hai, các công trình nghiên cứu của cả tác giả trong nước
và nước ngoài đều còn trên bình diện lí thuyết, bước đầu chưa có
nhiều những công trình nghiên cứu cụ thể trên các đối tượng cụ thể
với chuỗi hành vi cụ thể. Đặc biệt, những lí giải về nhu cầu sử

dụng, động cơ sử dụng, những ảnh hưởng của hành vi sử dụng
Facebook đối với hoạt động cá nhân, với sự định hướng giá trị và
thái độ cá nhân, với tâm trạng xã hội... chưa được quan tâm. Rõ ràng,
đây là những thách thức mà Xã hội học cần quan tâm và giải quyết.

6


1.3. Một số vấn đề cơ bản Luận án tập trung nghiên cứu
Căn cứ vào mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu, luận án tập trung
làm rõ những vấn đề cơ bản sau:
Một là, làm rõ hơn các khái niệm: không gian số, sự tham gia
vào không gian số thông qua tần suất truy cập, thời lượng truy cập,
hành vi truy cập, lối sống thanh niên.
Hai là, tìm kiếm và trình bày các lý thuyết đủ để làm cơ sở
cho việc luận giải sự tác động, ảnh hưởng của việc tham gia vào
không gian số đến lối sống của thanh niên.
Ba là, đánh giá thực trạng của sự tham gia vào không gian số
và ảnh hưởng của nó đến lối sống thanh niên.
Vấn đề trung tâm của luận án là làm rõ hơn nữa tác động của
sự tham gia vào không gian số và ảnh hưởng của nó đến lối sống
thanh niên thông qua hoạt động học tập, giải trí, định hướng giá trị.
Trọng tâm mô tả, giải thích, tìm ra được những điểm mới trong mối
quan hệ của việc tham gia vào không gian số và lối sống thanh niên,
đồng thời chỉ ra được liệu sự tham gia vào không gian số là yếu tố có
ảnh hưởng mạnh nhất làm thay đổi lối sống của thanh niên.
Tiểu kết chƣơng 1
Sau quá trình tổng quan các vấn đề nghiên cứu phục vụ cho
Luận án, tác giả thấy:
Thứ nhất, có thể thấy rằng các nghiên cứu về truyền thông xã

hội, đặc biệt là về trang mạng xã hội của quốc tế cũng như trong
nước đã đưa ra được cái nhìn khái quát về lịch sử ra đời cũng như
tiện ích mà trang mạng xã hội đưa lại. Và nội dung nghiên cứu hướng
vào một số nội dung sau: quản lý danh tính, danh sách kết bạn; sự tin
tưởng khi truy cập trang web; sự trình bày web; giám sát và mối
quan tâm riêng tư. Sự nghiên cứu của các học giả trên đã chỉ ra được
7


các khía cạnh thúc đẩy sự tham gia của người sử dụng vào các trang
mạng xã hội. Tuy nhiên, trong tương lại các nhà nghiên cứu nên tập
trung hơn nữa vào các sự kiện mang tính tạm thời liên quan đến sức
khỏe tâm thần. Đó là những trải nghiệm Internet dẫn tới các triệu
chứng trầm cảm, hay các trầm cảm sẽ dẫn tới nguy cơ xảy ra các sự
cố trực tuyến tiêu cực sau đó.
Thứ hai, về phương pháp, khả năng của các nhà nghiên cứu
mạng xã hội trong việc đưa ra các khẳng định về quan hệ nhân quả
còn bị hạn chế vì thiếu các nghiên cứu thực nghiệm hoặc các nghiên
cứu theo chiều dọc. Mặc dù thực tế đang thay đổi nhanh chóng, các
học giả vẫn có một sự hiểu biết hạn chế về vấn đề ai là người sử dụng
và không sử dụng các trang web này, lý do tại sao? Với mục đích gì?
Những câu hỏi như vậy đòi hỏi phải nghiên cứu định lượng và định
tính trên quy mô lớn.
Thứ ba, có những rủi ro và lợi ích gắn liền với việc sử dụng
mạng xã hội bao gồm sự lan tỏa không giới hạn và sức khỏe. Những
nỗ lực nghiên cứu hiện nay liên quan đến mạng xã hội trong lĩnh vực
y học, tâm lý học, khoa học máy tính cũng như khía cạnh hình sự pháp luật là cần thiết. Và những nghiên cứu này có sự kết hợp phân
tích một trang mạng xã hội theo phương pháp Xã hội học. Đây chính
là một điểm quan trọng để thúc đẩy nghiên cứu sinh nghiên cứu về
vấn đề đã lựa chọn.

Thứ tư, những nghiên cứu trên là những tài liệu tham khảo
cho Luận án, các nghiên cứu chỉ ra được mục đích sử dụng khi tham
gia vào các trang mạng xã hội của sinh viên: giao tiếp, giải trí, học
tập. Tuy nhiên, các hướng nghiên cứu này chỉ mới đáp ứng được một
phần việc chỉ ra sự tham gia của người sử dụng vào trong không gian
số. Bởi sự tham gia vào không gian số cần phải chỉ rõ được tần suất
8


tham gia, thời gian sử dụng... Điều này chính là hướng mới, bổ sung
thêm tư liệu của tác giả vào trong Luận án.
Thứ năm, có rất nhiều những nghiên cứu về lối sống, lối sống
thanh niên của thời kỳ trước, tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, thời kỳ
mới của truyền thông đại chúng, truyền thông xã hội thì những
nghiên cứu lại chưa có nhiều. Do đó, những nghiên cứu này mang
tính tham khảo và định hướng cho việc xác định lối sống thanh niên
cho phù hợp với sự quan tâm của Luận án.
Thứ sáu, cả trong bối cảnh thế giới và Việt Nam hiện nay thì
những nghiên cứu về Internet đều không còn là mới. Có thể thấy các
nhà nghiên cứu Việt Nam quan tâm nhiều hơn tới thực trạng việc sử
dụng Internet và tác động của Internet đối với đời sống văn hóa mà
còn ít quan tâm tới những trải nghiệm của những người trong cuộc
liên quan tới quá trình kết nối mạng lưới xã hội và sự thể hiện bản
sắc cuả họ trong các trang mạng xã hội. Trong khi nhà nghiên cứu
nước ngoài rất quan tâm tới những khía cạnh này thể hiện bằng
những chủ đề nghiên cứu thú vị sâu sắc.
Chƣơng 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Hệ thống khái niệm

Khái niệm “sự tham gia”
Khái niệm “sự tham gia” chưa có định nghĩa thống nhất.
Theo hướng tiếp cận riêng của luận án: Sự tham gia chính là
việc cá nhân có tài khoản trang mạng xã hội, có sự tương tác với các
thành viên khác trong cộng đồng mạng, có tần suất truy cập, thời
lượng truy cập, mối quan hệ bạn bè trên trang mạng xã hội của thanh
niên
9


Khái niệm “không gian số”
Không gian số - một hình thức mới của không gian công
cộng. Trong không gian số này hay còn gọi là không gian ảo, các chủ
thể không đồng bộ và nhất thể với các biệt danh đại diện tham gia
vào đó. Theo hướng tiếp cận của luận án thì đại diện cho không gian
số chính là trang mạng xã hội Facebook. Trang mạng xã hội
Facebook trở thành cầu nối của một cá nhân vào một không gian
khác, không gian ảo – thực, thực - ảo.
Khái niệm “lối sống thanh niên”
Khái niệm “lối sống”
Có nhiều định nghĩa khác nhau về lối sống. Bản chất lối sống
chịu tác động của nhiều yếu tố tác động, trong đó quan trọng nhất là
quá trình tiếp biến văn hóa thông qua hoạt động của các phương tiện
truyền thông đại chúng nói chung, trang mạng xã hội nói riêng.
Nhằm khảo sát kỹ lưỡng về khái niệm này trong mối liên hệ với việc
tham gia vào trang mạng xã hội Facebook, trong Luận án này chúng
tôi tiếp nhận, vận dụng, thao tác hóa khái niệm một cách cụ thể hơn
nữa từ phần khái niệm của Depaxin và nhóm tác giả Trần Kiều, Vũ
Trọng Rỹ, Hà Nhật Thăng, Lưu Thu Thủy đó là: đưa khái niệm “lối
sống” của thanh niên như một phức thể được cấu thành từ ba phương

diện: hoạt động học tập, hoạt động giải trí và định hướng giá trị. Các
hoạt động học tập, hoạt động giải trí và định hướng giá trị của thanh
niên được tiếp tục thao tác thành các chỉ báo cụ thể hơn để có thể đo
lường được bằng các thang đo phù hợp.
Khái niệm “thanh niên”
Dù tiếp cận ở góc độ nào thì “thanh niên” vẫn là một nhóm
xã hội – dân cư bao gồm tất cả những thành viên trong một xã hội cụ
thể đang ở trong độ tuổi thanh niên.
10


Theo cách tiếp cận của đề tài, hướng nghiên cứu sẽ tập trung
vào nhóm thanh niên từ 15-30 tuổi.
Khái niệm “lối sống thanh niên”
Do có những quan niệm và cách tiếp cận khác nhau trong
nghiên cứu về thanh niên và văn hóa thanh niên nên cách tiếp cận,
nhận diện và phân tích về lối sống thanh niên cũng rất khác nhau.
Trong hướng nghiên cứu của Luận án, từ việc phân tích và có hướng
tiếp cận riêng của Luận án về “lối sống” trên ba phương diện: hoạt
động học tập, hoạt động giải trí, định hướng giá trị, đề tài tiếp tục tập
trung phân tích „lối sống thanh niên” trên cả ba phương diện, và coi
đó như là một nội dung trong các hoạt động sống của thanh niên.
2.1.2.Vận dụng lý thuyết
Lý thuyết mạng lưới quan hệ xã hội
Do đó, khi vận dụng lý thuyết mạng lưới xã hội để phân tích
ảnh hưởng của trang mạng xã hội Facebook đến lối sống của thanh
niên hay với mạng lưới quan hệ xã hội của thanh niên tức là xem xét
sự liên kết của người đang sử dụng Facebook với các quan hệ xã hội
(gia đình, bạn bè, các nhóm xã hội khác) của họ có những biến
chuyển, thay đổi không và thay đổi theo chiều hướng thân thiết hơn,

thắt chặt hơn hay lỏng lẻo hơn, đời sống tình cảm của thanh niên
phong phú hơn, tự do hơn hay bị bó hẹp hơn, các mối quan hệ được
mở rộng hơn hay hẹp đi, đồng thời tác động của mạng lưới xã hội
thông qua Facebook đối với một số hoạt động của thanh niên trong
đó không chỉ có vấn đề trao đổi tình cảm, học vấn mà còn là mạng
lưới xã hội cho các hoạt động khác như tìm kiếm cơ hội việc làm, cơ
hội mở rộng quan hệ. Phân tích và so sánh mối quan hệ hay mạng
lưới xã hội của thanh niên trước và sau khi tham gia vào không gian
số, từ đó đi vào đánh giá tác động hai mặt của sự biến đổi thông qua
11


hai loại hình mạng lưới xã hội của sinh viên, đánh giá xu hướng tiến
triển của mạng lưới xã hội nói riêng và lối sống nói chung của thanh
niên dưới góc độ tiếp cận của một lĩnh vực khoa học và cộng nghệ:
Trang mạng xã hội Facebook. Từ đó phân tích và chỉ ra những thay
đổi trong lối sống của thanh niên theo hai hướng tích cực và hạn chế.
Lý thuyết tương tác biểu trưng
Đây là lý thuyết quan trọng của xã hội học về tương tác xã
hội. Tuy nhiên lý thuyết này cũng có những điểm yếu như quy tất cả
các tương tác xã hội về tương tác cá nhân dẫn đến việc xem nhẹ các
tương tác ở cấp độ vĩ mô. Lý thuyết này cũng chưa phân tích kỹ về
những rắc rối, khó khăn trong tương tác khi các cá nhân xuất phát từ
hai nền văn hóa có những hệ thống biểu tượng tương đối khác nhau.
Lý thuyết tương tác biểu trưng được đưa vào để phân tích
trong đề tài nhằm hướng đến làm rõ hơn sự thay đổi của mạng lưới
xã hội của thanh niên thông qua các hành vi, tương tác giữa các
nhóm thanh niên với nhau, giữa cá nhân với cá nhân, thanh niên với
gia đình, bạn bè và một số đối tác tương tác khác nhằm tạo nên một
mạng lưới xã hội cụ thể và rõ ràng. Tức là, lý thuyết tương tác xã hội

được vận dụng cho sự lý giải tính chất của các mối quan hệ trong một
mạng lưới xã hội, thể hiện rõ hơn bản chất của các nút thắt từ chặt
chẽ đến lỏng lẻo của các mối quan hệ nhỏ.
2.2. Cơ sở thực tiễn
2.2.1. Một số đặc điểm về khách thể
Đặc điểm của thanh niên
Những thay đổi trong vị thế xã hội, sự thách thức khách quan
của cuộc sống dẫn đến làm xuất hiện ở lứa tuổi thanh niên những nhu
cầu về hiểu biết thế giới, hiểu biết xã hội và các chuẩn mực quan hệ
người - người, hiểu mình và tự khẳng định mình trong xã hội. Đặc
12


biệt là nhu cầu giao tiếp đối với các bạn đồng trang lứa của thanh
niên phát triển mạnh. Sự giao tiếp này sẽ có những tác động nhất
định đến hành động của thanh niên.
2.2.2. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu:
Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam; trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, nơi đặt trụ sở của các
cơ quan trung ương của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị-xã
hội, cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế; là trung tâm lớn về
văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ, kinh tế và giao dịch quốc
tế của cả nước. Hiện tại, Hà Nội có khoảng 70 trường đại học, 20
trường cao đẳng, 60 trường trung cấp, dạy nghề, nhiều trung tâm
đào tạo của nước ngoài. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, dạy
nghề không chỉ thu hút một lượng lớn học sinh trong cả nước đến
học tập. Hà Nội trở thành trung tâm văn hóa, giáo dục lớn của cả
nước. Xuất phát từ những lợi thế về đặc điểm của mình, Hà Nội là
địa bàn nghiên cứu phù hợp với những nội dung, vấn đề đặt ra trong
nghiên cứu.

Chƣơng 3
SỰ THAM GIA CỦA THANH NIÊN VÀO TRANG MẠNG
XÃ HỘI FACEBOOK (KHÔNG GIAN SỐ)
3.1. Tần suất và thời lượng mỗi lần truy cập trang mạng xã hội
Facebook
Tần suất truy cập trang mạng xã hội Facebook
Trong số thanh niên được khảo sát có sử dụng mạng xã hội
Facebook, trong đó có 54,5% thanh niên truy cập ở mức độ 1-5
lần/ngày; 27,5% thanh niên truy cập ở mức độ 6-10 lần/ngày và
12,5% thanh niên không dùng hàng ngày. Với các yếu tố: giới tính,
nơi ở, nghề nghiệp thì không thể hiện mối liên hệ mạnh với tần suất
13


truy cập mạng xã hội. Như vậy, chưa có bằng chứng cho thấy việc
truy cập trang mạng xã hội Facebook thường xuyên phụ thuộc vào
các yếu tố này.
Tóm lại, từ các phân tích ở trên cho thấy, hiện nay, việc sử
dụng trang mạng xã hội Facebook đang rất phổ biến trong thanh niên.
Mức độ truy cập càng thường xuyên thì tần suất truy cập trung bình
hàng ngày càng lớn. Điều này chứng tỏ việc vào trang mạng xã hội
chiếm khá nhiều thời gian của thanh niên.
Thời lượng truy cập trang mạng xã hội Facebook
Trở lại với kết quả của nghiên cứu, cho thấy có đến hơn
50% thanh niên tham gia khảo sát sử dụng mạng xã hội từ 30 phút
trở lên. Kết quả này một lần nữa khẳng định mạng xã hội đang có
sức hút lớn đối với thanh niên. Đó là con số đáng suy nghĩ khi hoạt
động chủ đạo của thanh niên là dành cho việc tích lũy kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp tương lai trong khi một ngày họ đã mất 8 tiếng
cho việc nghỉ ngơi, 8 tiếng cho học tập/làm việc, còn lại 8 tiếng cho

tất cả các hoạt động khác (ăn uống, sinh hoạt, gặp gỡ các mối quan
hệ, học thêm kiến thức/kỹ năng mới...).
Thời lượng truy cập trang mạng xã hội Facebook của thanh
niên có sức ảnh hưởng nhất định từ các yếu tố giới tính ở mức trung
bình. Còn các yếu tố: nghề nghiệp, nơi ở không thể hiện được mối
liên hệ vớ yếu tố thời lượng mỗi lần truy cập trang mạng xã hội.
3.2. Mục đích truy cập trang mạng xã hội Facebook
Kết quả cho thấy, việc cập nhập thông tin là mục đích cao
nhất mà người sử dụng trang mạng xã hội hướng đến (57,0%)
(người tham gia khảo sát). Điều này cũng dễ lí giải bởi tính năng
của trang mạng xã hội Facebook là để giải trí và cập nhập những
thông tin mới. Trang mạng xã hội Facebook là công cụ tìm kiếm
14


bạn bè thông minh. Việc đăng tải hình ảnh cá nhân, gia đình, bạn bè
cũng là một cách chia sẻ giúp cho người truy cập nắm được thông
tin nhanh chóng và cập nhập.
Kết quả phân tích tương quan giữa yếu tố giới tính, nghề
nghiệp và trình độ học vấn với mục đích truy cập trang mạng xã hội
của nam và nữ thanh niên trong khảo sát cho thấy: dù có sự khác
biệt về mặt giới tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn, nam và nữ
thanh niên đều có sự lựa chọn cao nhất là muốn cập nhập thông tin
của các thành viên khác trên trang mạng xã hội. Tuy vậy, mối liên
hệ giữa các yếu tố này với nhau lại không cao (Cramer‟s V đều <
0,05).
3.3. Đối tƣợng tƣơng tác trên trang mạng xã hội của thanh niên
Kết quả cho thấy: bạn thân là đối tượng mà thường xuyên
giao tiếp của thanh niên tham gia khảo sát (41,5%). Các thành phần
giao tiếp khác như: người thân trong gia đình; đồng nghiệp, quen

qua công việc; bạn học được lựa chọn với tỷ lệ cao lần lượt là
23,3%; 19,5% và 15,8%. Kết quả khẳng định rằng: thanh niên kết
bạn không đơn thuần chỉ là để cho có bạn, theo nghĩa càng nhiều
bạn càng tốt, mà họ cũng cố gắng duy trì các mối quan hệ bạn bè
thực trên mạng xã hội.
3.4. Đánh giá chung của thanh niên khi tham gia trên trang
mạng xã hội Facebook
Có nhiều bạn trẻ trong nghiên cứu công nhận vai trò tích
cực của mạng xã hội. Có thể thấy có đến 28,2% người trả lời nhờ có
trang mạng xã hội Facebook mà có thêm nhiều bạn mới; 20,5% tình
cảm gia đình, bạn bè tốt hơn.
Tuy nhiên bên cạnh những tác động tích cực kể trên thì mạng
xã hội cũng mang lại không ít những tác động tiêu cực. Những giá trị
15


ảo từ mạng xã hội đang tác động trực tiếp đến cuộc sống hiện thực
của nhiều bạn trẻ. Kết quả điều tra của đề tài cũng cho thấy một
phần những tiêu cực mà trang mạng xã hội Facebook đem lại hể
hiện một số mặt tiêu cực: 11,7% người trả lời cho rằng khi truy cập
vào mạng xã hội thì sẽ làm mất thời gian làm việc khác; 6,2% người
trả lời là có mâu thuấn bạn bè từ những lời bình luận phản cảm.
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ khảo sát những
suy nghĩ, đánh giá của người trả lời về những tác động tích cực
cũng như những tác động tiêu cực mà mạng xã hội Facebook mang
lại và qua đó thấy được nhận thức của người tham gia mạng xã hội
như thế nào về vấn đề này.
Như vậy, thanh niên hiện nay đã phần nào khai thác được
những thế mạnh và các ưu điểm của trang mạng xã hội. Bản thân
các trang mạng xã hội là một phần của công nghệ thông tin, tính ưu

điểm hay hạn chế của trang mạng xã hội là do cách thức sử dụng,
tham gia của các thành viên. Do vậy, người sử dụng là nhân tố đóng
vai trò quan trọng trong việc phát huy mặt tích cực và làm giảm
thiểu những mặt còn hạn chế của trang mạng xã hội.
Tiểu kết chƣơng 3
Tần suất truy cập và thời lượng truy cập của thanh niên là
thường xuyên. Các tài khoản sử dụng trang mạng xã hội Facebook
theo khảo sát đều có thời gian sử dụng trên 1 năm. Yếu tố tần suất
và thời lượng truy cập tuy có chịu ảnh hưởng từ các yếu tố như khu
vực, nơi ở, giới tính nhưng mối liên hệ giữa những yếu tố này lại
không cao.
Mối quan hệ bạn bè trên trạng mạng xã hội của thanh niên
theo kết quả khảo sát thường là bạn thân. Với kết quả có được thì
thanh niên dù là nam hay là nữ, dù ở nghề nghiệp hay trình độ học
16


vấn nào thì họ cũng đều giữ liên lạc với những người bạn thân,
người thân trong gia đình của mình. Những yếu tố này cũng không
ảnh hưởng hay chi phối nhiều đến sự lựa chọn kết bạn hay tương
tác của thanh niên trong khảo sát.
Qua đó, từ Luận án có thể thấy rằng với cơ chế xuất phát từ
những mong muốn của cá nhân mà mạng lưới quan hệ xã hội của
thanh niên được tích lũy và cộng dồn. Từ sự thiết lập mối quan hệ
xã hội thông qua các tương tác mà các nhóm đồng dạng xuất hiện
và được thiết lập đối với tất cả mọi người. Mạng lưới quan hệ xã
hội có thể là thật, có thể là ảo tuy nhiên vẫn phải khẳng định sự xuất
hiện của trang mạng xã hội Facebook có một sự ảnh hưởng nhất
định đến lối sống của người truy cập nói chung và của thanh niên
nói riêng.

Chƣơng 4
ẢNH HƢỞNG CỦA SỰ THAM GIA VÀO TRANG MẠNG XÃ
HỘI FACEBOOK (KHÔNG GIAN SỐ) ĐẾN LỐI SỐNG
THANH NIEN
4.1. Ảnh hưởng của trang mạng xã hội Facebook tới hoạt động học
tập của thanh niên
Tuân thủ giờ giấc của thanh niên:
Tuân thủ giờ giấc = 4,588 - 0,340* mục đích giao dịch mua
bán sản phẩm + 0,274*tương tác với bạn học - 0,214*thời lượng mỗi
lần truy cập - 0,170*mục đích tìm thông tin và trao đổi trong học tập
+ 0,151*mục đích cập nhập thông tin – 0,111*tương tác với bạn thân.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “mục đích cập
nhập thông tin và sự tương tác với bạn học” trên trang mạng xã hội
có mối quan hệ đồng biến với việc tuân thủ giờ giấc của thanh niên.
17


Ý thức tập trung của thanh niên:
Ý thức tập trung = 4,460 – 0,288*mục đích giao dịch mua
bán sản phẩm – 0,269* thời lượng mỗi lần truy cập + 0,198*tương
tác với bạn học – 0,189*tương tác với người thân trong gia đình
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “sự tương tác với
bạn học” trên trang mạng xã hội có mối quan hệ đồng biến với ý thức
tập trung học của thanh niên.
Việc ghi chép của thanh niên:
Việc ghi chép = 4,966 – 0,405* mục đích giao dịch mua bán
sản phẩm – 0,272*mục đích tìm thông tin và trao đổi trong học tập –
0,177*thời lượng mỗi lần truy cập – 0,127*tương tác với người thân
trong gia đình + 0,149*tương tác với bạn học.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “sự tương tác với

bạn học” trên trang mạng xã hội có mối quan hệ đồng biến với việc
ghi chép của thanh niên.
Hoạt động thảo luận trên lớp của thanh niên:
Hoạt động thảo luận = 5,454 – 0,457*mục đích giao dịch mua
bán sản phẩm – 0,323*mục đích tìm thông tin và trao đổi trong học
tập – 0,184*thời lượng mỗi lần truy cập.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy hoạt động thảo
luận của thanh niên không bị ảnh hưởng bởi những yếu tố trên.
Như vậy có thể thấy, hoạt động học tập của thanh niên là cả
một quá trình, và sự tác động, ảnh hưởng, hay chi phối là từ nhiều
nguyên nhân, không phải bị ảnh hưởng hay tác động đều là từ những
yếu tố tham gia vào trang mạng xã hội. Mà một phần nhỏ trong sự
tương tác, cụ thể là “tương tác với bạn học” có tác động tới “tuân thủ
giờ giấc, ý thức tập trung, việc ghi chép” của thanh niên. Do vậy,

18


thanh niên cần phải hết sức nỗ lực để không bị ảnh hưởng tiêu cực từ
những hoạt động khác đến hoạt động học tập của mình.
4.2. Ảnh hƣởng của trang mạng xã hội Facebook tới hoạt động
giải trí của thanh niên
Hoạt động giải trí tích cực của thanh niên:
Xem Tivi, nghe nhạc cùng người thân:
Xem Tivi, nghe nhạc cùng người thân = 4,684 – 0,416*thời
lượng mỗi lần truy cập + 0,269*bạn học + 0,225*cập nhập thông tin.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “mục đích cập
nhập thông tin và sự tương tác với bạn học” trên trang mạng xã hội
có mối quan hệ đồng biến với việc xem Tivi, nghe nhạc của thanh
niên.

Đi thăm họ hàng, người thân của thanh niên:
Đi thăm họ hàng, người thân = 5,618 – 0,406*thời lượng mỗi
lần truy cập + 0,195*bạn học – 0,184* tần suất - 0,145*người thân
trong gia đình - 0,086*thời gian có tài khoản Facebook - 0,083*đồng
nghiệp, quen qua công việc.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “sự tương tác với
bạn học” trên trang mạng xã hội có mối quan hệ đồng biến với đi
thăm họ hàng, người thân của thanh niên.
Tham gia vào các hoạt động thể dục thể thao của thanh niên:
Tham gia hoạt động thể dục thể thao = 5,310 – 0,373* thời
lượng mỗi lần truy cập + 0,254*bạn học - 0,216* tần suất –
0,130*người thân trong gia đình.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “sự tương tác với
bạn học” trên trang mạng xã hội có mối quan hệ đồng biến với tham
gia vào các hoạt động thể dục thể thao của thanh niên.
Hoạt động giải trí tiêu cực:
19


Uống rượu, bia, chơi đánh bài:
Uống rượu, bia, chơi đánh bài = = 4,781 – 0,353*thời lượng
mỗi lần truy cập + 0,286*bạn học + 0,203*cập nhập thông tin 0,182*người thân trong gia đình - 0,149* tần suất.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “mục đích cập
nhập thông tin và sự tương tác với bạn học” trên trang mạng xã hội
có mối quan hệ đồng biến với việc ghi chép của thanh niên.
Nhìn chung lại thì hoạt động giải trí của thanh niên dù là
mang tính tích cực hay hoạt động giải trí mang tính tiêu cực không
phải bị ảnh hưởng hay tác động hầu hết từ những yếu tố tham gia
vào các trang mạng xã hội Facebook. Một phần nào đó từ sự tham gia
vào trang mạng xã hội, cụ thể là từ “mục đích cập nhập thông tin và

từ những mục đích khác”; từ “sự tương tác với bạn học” có tác động
tới hoạt động giải trí của thanh niên. Như vậy, thanh niên cần phải nỗ
lực hết sức để không bị ảnh hưởng tiêu cực từ những hoạt động khác
đến hoạt động giải trí của mình.
4.3. Ảnh hƣởng của trang mạng xã hội Facebook tới định hƣớng
giá trị của thanh niên
Định hướng giá trị mang tính hiện đại:
Về sự trinh tiết và quan hệ tình dục trước hôn nhân:
Định hướng giá trị về sự trinh tiết và quan hệ tình dục trước
hôn nhân = 4,790 – 0,484* thời lượng mỗi lần truy cập + 0,279* bạn
học + 0,269* cập nhập thông tin.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “mục đích cập
nhập thông tin và sự tương tác với bạn học” trên trang mạng xã hội
có mối quan hệ đồng biến với định hướng giá trị này của thanh niên.
Định hướng giá trị về xây dựng gia đình:

20


Định hướng giá trị về xây dựng gia đình = 4,711 – 0,447*
thời lượng mỗi lần truy cập + 0,291* bạn học + 0,280* mục đích
khác + 0,266*cập nhập thông tin – 0,120* tần suất.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “mục đích cập
nhập thông tin, mục đích khác và sự tương tác với bạn học” trên
trang mạng xã hội có mối quan hệ đồng biến với định hướng giá trị
này của thanh niên.
Định hướng giá trị về con cái:
Định hướng giá trị về con cái = 5,677 – 0,500* thời lượng
mỗi lần truy cập + 0,199* bạn học + 0,159*cập nhập thông tin –
0,150* tần suất - 0,082*thời gian có tài khoản Facebook.

Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “mục đích cập
nhập thông tin và sự tương tác với bạn học” trên trang mạng xã hội
có mối quan hệ đồng biến với định hướng giá trị này của thanh niên
Định hướng giá trị về quyền lực:
Định hướng giá trị về quyền lực = 5,773 + 0,381*thời
lượng mỗi lần truy cập - 0,262*tần suất + 0,230*bạn học.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “thời lượng mỗi
lần truy cập và sự tương tác với bạn học” trên trang mạng xã hội có
mối quan hệ đồng biến với định hướng giá trị này của thanh niên
Định hướng giá trị về hoạt động xã hội:
Định hướng giá trị hoạt động xã hội = 5,606 – 0,361*giao
dịch mua bán sản phẩm – 0,333*thời lượng mỗi lần truy cập –
0,321*mục đích khác + 0,136*người thân trong gia đình - 0,124*cập
nhập thông tin - 0,088*thời gian có tài khoản Facebook - 0,081*tuổi.
Theo phương trình hồi quy ở trên cho thấy “sự tương tác với
người thân trong gia đình” trên trang mạng xã hội có mối quan hệ
đồng biến với định hướng giá trị này của thanh niên
21


Đã bắt đầu xuất hiện những dấu hiệu về một xu hướng biến
đổi các định hướng giá trị của thanh niên về xu hướng biến đổi các
định hướng giá trị “truyền thống”, trong thanh niên bắt đầu xu hướng
không thích kết hôn, thích sinh con ít, thậm chí “không muốn có con
khi lập gia đình”. Dường như thanh niên có xu hướng ủng hộ và có
những quan niệm mang tính “hiện đại” hơn. Ở mức độ nào đó, có thể
nói đã tạo ra một sự thay đổi những quan niệm sống mang tính truyền
thống. Cho dù sự thay đổi đó chưa phải là thực sự rõ nét. Và như vậy
có thể thấy rằng sẽ nhiều yếu tố góp phần làm xuất hiện sự biến đổi
đó, thanh niên cần phải nỗ lực nhiều hơn để không bị ảnh hưởng tiêu

cực từ những hoạt động khác đến định hướng giá trị của mình.
Tiểu kết chƣơng 4
1. Đối với các hoạt động học tập: duy nhất giả thuyết “tương
tác với bạn học” là được chấp nhận, cụ thể là ở dạng hoạt động “tuân
thủ giờ giấc và ý thức tập trung” của thanh niên. Tất cả các giả thuyết
đều đã được kiểm định phù hợp.
2. Đối với hoạt động giải trí: Sau quá trình phân tích cho
thấy: chỉ có biến “mục đích cập nhập thông tin, mục đích truy cập
khác, tương tác với bạn học” là có mối quan hệ đồng biến hay nói cách
khác là có tác động tới các dạng hoạt động giải trí như: đi thăm họ
hàng, thể dục thể thao và việc uống rượu, bia, chơi đánh bài của thanh
niên. Tất cả các giả thuyết đều đã được kiểm định phù hợp.
3. Đối với định hướng giá trị: Cũng với các giả thuyết đã
đặt ra với định hướng giá trị của thanh niên: định hướng giá trị hiện
đại (sự trinh tiết và quan hệ tình dục trước hôn nhân; xây dựng gia
đình; quan niệm về con cái); định hướng giá trị về quyền lực; định
hướng giá trị về hoạt động xã hội thì sau quá trình phân tích cho
thấy: các biến “mục đích cập nhập thông tin; mục đích khác; tương
22


tác với bạn học” có tác động cùng chiều hay nói cách khác là quan
hệ đồng biến với quan điểm về sự trinh tiết và quan hệ tình dục
trước hôn nhân; quan điểm về xây dựng gia đình; quan điểm về con
cái; quan điểm về quyền lực. Và biến “tương tác với người thân
trong gia đình” có tác động cùng chiều hay nói cách khác là quan
hệ đồng biến với quan điểm tham gia vào hoạt động xã hội. Còn lại
các giả thuyết khác đều không được chấp nhận. Tất cả các giả
thuyết đều đã được kiểm định phù hợp.
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận
(1) Với hoạt động học tập, việc phân tích ảnh hưởng của
trang mạng xã hội cho thấy có sự ảnh hưởng đa chiều, đa diện. Và
kết quả cuối cùng của sự phân tích ảnh hưởng của yếu tố ảnh hưởng
mạnh nhất tới hoạt động này chính là: sự tương tác trên trang mạng
xã hội với các thành viên khác. Cụ thể là “sự tương tác với bạn học”
ảnh hưởng tới “tuân thủ giờ giấc, ý thức tập trung” của thanh niên.
(2) Với hoạt động giải trí, thì hoạt động này trong thanh niên
khá đa dạng. Những hoạt động đó bao gồm những hoạt động mang
tính tích cực và những hoạt động mang tính tiêu cực. Và những yếu tố
có ảnh hưởng mạnh nhất tới hoạt động này là: mục đích truy cập và sự
tương tác trên trang mạng xã hội với các thành viên khác. Cụ thể là
“mục đích cập nhập thông tin và mục đích khác”; “sự tương tác với
bạn học” ảnh hưởng tới “hoạt động đi thăm họ hàng; hoạt động thể dục
thể thao; hoạt động uống rượu, bia, chơi đánh bài” của thanh niên.
(3) Với định hướng giá trị, thì các định hướng giá trị của
thanh niên càng ngày càng thể hiện sự thiên về những quan điểm
mang tính “mới, hiện đại” hơn. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là
23


×