Tải bản đầy đủ (.doc) (128 trang)

Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.24 KB, 128 trang )

1

Më ®Çu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, nhân loại đang đứng trước những vấn đề phức tạp cần phải
giải quyết như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, vũ khí hạt nhân, hiểm hoạ thiên tai
do sự tàn phá môi trường, nạn suy thoái đạo đức, bùng nổ dân số.... Để giải
quyết các vấn đề đó, cộng đồng quốc tế phải tiến hành đồng bộ nhiều giải
pháp và sử dụng các công cụ, phương tiện khác nhau, một trong số những
công cụ đó chính là pháp luật. Vì vậy, việc trang bị những kiến thức pháp luật
nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho mọi đối tượng, trong đó trang bị kiến
thức pháp luật cho thế hệ trẻ là một trong những điều kiện cơ bản nhất để bảo
đảm cho an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phục vụ mục đích xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời ổn định để phát triển bền vững, thực hiện có
hiệu quả quá trình hội nhập quốc tế.
Phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tạo điều kiện và cơ
hội để con người phát triển mọi mặt, đề cao trách nhiệm của cá nhân, hình
thành tính tự chủ, tự lập, rèn luyện ý thức lao động, bản lĩnh, năng động, dễ
thích nghi và sáng tạo. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực của nền
kinh tế thị trường ảnh hưởng đến ý thức pháp luật của sinh viên thì mặt trái
của nó là lối sống chạy theo đồng tiền, coi giá cả thị trường là giá trị chân
thực duy nhất dùng để đo các giá trị khác, họ định giá trị của con người căn
cứ vào của cải của người đó… Sinh viên là đối tượng tiếp cận và chịu ảnh
hưởng lớn nhất đối với sự biến động của cơ chế thị trường và xu thế hội nhập
của đất nước. Họ thuộc lứa tuổi đang hình thành và phát triển nhân cách dễ bị
chi phối và tác động bởi những yếu tố bên ngoài, bởi vậy việc nâng cao ý thức
pháp luật cho sinh viên là rất cần thiết và góp phần tác động to lớn đến việc
chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật và sự phát triển của đất nước.


2



Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI có nêu “Chú trọng xây
dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng, trí tuệ, đạo đức, lối sống,
thể chất, lòng tự tôn dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức chấp hành pháp luật,
nhất là trong thế hệ trẻ”.
Ninh Bình là một tỉnh nằm ở cực Nam đồng bằng Bắc bộ, Phía Đông
giáp với hai tỉnh Hà Nam và Nam Định, phía Bắc giáp tỉnh Hoà Bình, phía
Nam là biển Đông. Quy mô dân số gần 900 nghìn người, so với khu vực đồng
bằng Sông Hồng, dân số tỉnh Ninh Bình chiếm 5,6% và bằng 1,2% dân số cả
nước. Du lịch của tỉnh tương đối phong phú, đa dạng với các di tích lịch sử,
danh lam, thắng cảnh nổi tiếng là nơi có thiên nhiên ưu đãi vừa có giao thông
thuận lợi tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế. Ninh Bình cũng là một
trong những tỉnh hội tụ nhiều trường cao đẳng, đại học và có nhiều sinh viên
từ các tỉnh, thành phố trên cả nước đến học tập và sinh sống. Cả tỉnh có 01
trường Đại học và 04 trường cao đẳng với 10.964 sinh viên[70]. Tuy nhiên,
trước sự mở rộng hội nhập của đất nước nói chung và của tỉnh nói riêng đã tác
động rất nhiều đến lối sống, suy nghĩ của sinh viên ở Ninh Bình. Tình trạng vi
phạm pháp luật, lối sống buông thả, thực dụng, hưởng thụ... đã xuất hiện ở
một bộ phận không nhỏ trong sinh viên.
Do đó, việc đánh giá đúng thực trạng và đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa
bàn tỉnh Ninh Bình giúp cho các em có tri thức cần thiết và hành trang vững
vàng bước vào cuộc sống, xây dựng một xã hội lành mạnh, trật tự, kỷ cương,
góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là
một yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay. Nhận thức được tầm quan trọng
của vấn đề, tôi lựa chọn đề tài: " Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình " làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học,
chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật của mình.



3

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Việc nâng cao ý thức pháp luật cho người dân nói chung và sinh viên
nói riêng có ý nghĩa to lớn, tạo nội lực cho việc xây dựng thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay. Do vậy, chủ đề này đã được
nhiều công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể kể
đến một số công trình, bài viết sau:
2.1. Những tài liệu nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về ý
thức pháp luật
- Viện Nhà nước và pháp luật, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc
gia Hồ Chí Minh (2009), Giáo trình Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật,
NXB Chính trị - Quốc gia.
- Chính phủ (2007), Nghị quyết 61/2007/NQ-CP ngày 07/12/2007 về việc
tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ
biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của cán bộ, nhân dân.
- Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 37/2008/QĐ-TTG ngày
12/03/2008 ban hành Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm
2008 đến năm 2012.
- Nguyễn Đình Đặng Lục (2005), Vai trò của pháp luật trong quá trình
hình thành nhân cách, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.
- Đào Duy Tấn (2008), Sự hình thành ý thức pháp luật và giải pháp nâng
cao ý thức pháp luật ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
- Nguyễn Minh Đoan (2011), Ý thức pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Minh Đoan (2001), Nâng cao hiệu quả của pháp luật Việt Nam



4

trong giai đoạn hiện nay, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học Luật Hà Nội.
- Nguyễn Ngọc Mai (2009), Vi phạm pháp luật trong học sinh, sinh viên,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh.
2.2. Những tài liệu nghiên cứu ý thức pháp luật trong nhà trường
- Nguyễn Văn Động (2003), Một số ý kiến về đổi mới nội dung,
phương pháp giảng dạy môn Lý luận nhà nước và pháp luật, Tạp chí Luật học
số 12/2003.
- Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số: 1928/QĐ-TTg ngày
20/11/2009 phê duyệt Đề án "Nâng cao chất lượng công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật trong nhà trường".
- Vụ Phổ biến, giáo dục pháp luật, Bộ Tư pháp (2011), Hướng dẫn
nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường, Nhà xuất bản Tư
pháp, Hà Nội.
- Lê Thị Thắm (2011), Giáo dục pháp luật cho sinh viên các trường
cao đẳng và đại học trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Trần Thị Hải Yến (2011), Giáo dục pháp luật cho sinh viên các
trường Đại học khối kỹ thuật trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn Thạc
sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Thị Phương Dung (2011), Giáo dục pháp luật cho sinh viên
trong các trường đại học không chuyên luật ở Việt Nam hiện nay, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh.
2.3. Những tài liệu nghiên cứu về giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức.
- Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương (2004), Giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


5

- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Quyết định số 50/2007/QĐ-BGDĐT
ngày 19/8/2007 ban hành quy định về bảo đảm công tác giáo dục phẩm chất
chính trị, đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên trong các trường đại học,
học viện, trường cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Quyết định số: 16/2008/QĐ-BGDĐT
ngày 16/4/2008 ban hành Quy định về đạo đức nhà giáo.
- Trịnh Duy Huy (2009), Xây dựng đạo đức mới trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Thọ (2010), Đạo đức gia đình trong điều kiện kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- PGS, TS Nguyễn Văn Phúc, PGS, TS Nguyễn Văn Thạo (2011), Những
giải pháp và điều kiện thực hiện phòng, chống suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Vũ Thanh Bình (2012), Vấn đề chất lượng đội ngũ giảng viên lý luận
chính trị trong các trường đại học, cao đẳng ở nước ta hiện nay, Luận án Tiến
sĩ Triết học, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Phạm Hồng Tung (2011), Thanh niên và lối sống của thanh niên Việt
Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nhà xuất bản chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
- TS Hoàng Anh (2012), Giáo dục với việc hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu của các tác giả từ trước đến nay đã
góp phần rất lớn cả về lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau về ý
thức pháp luật. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này
chưa nhiều, đối với vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên thì vẫn là một

khoảng trống để ngỏ, rất ít công trình nghiên cứu đề cập đến. Đặc biệt, đối với
tỉnh Ninh Bình trong những năm gần đây, tình hình kinh tế - xã hội có nhiều biến


6

đổi, phát triển, đời sống nhân dân không ngừng nâng cao. Bên cạnh mặt tích cực
đó thì trên địa bàn Tỉnh cũng xuất hiện nhiều vấn đề về trật tự, an ninh, xã hội.
Đặc biệt, tình trạng vi phạm pháp luật trong nhân dân trong năm qua mặc dù đã
giảm nhưng còn nhiều diễn biến phức tạp, trong đó xuất hiện ngày càng nhiều
đối tượng là sinh viên. Trước thực trạng đó đòi hỏi nhu cầu bức thiết được giải
đáp, định hướng về mặt lý luận, tuy nhiên vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu về vấn đề nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân trên địa bàn tỉnh nói
chung và cho sinh viên các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
nói riêng trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích
Luận văn được thực hiện nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên
các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài tập trung làm rõ:
- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến ý thức
pháp luật: Khái niệm, đặc điểm, vai trò, các thành phần, các yếu tố ảnh hưởng
đến ý thức pháp luật của sinh viên hiện nay và kinh nghiệm nâng cao ý thức
pháp luật cho sinh viên tại một số trường Đại học, cao đẳng ở nước ta.
- Phân tích thực trạng những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của
những thành tựu và hạn chế trong việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh
viên các trường đại học, cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình hiện nay. Từ đó, tác giả đề
xuất một số giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các
trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong giai đoạn hiện nay.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực


7

tiễn có liên quan đến việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên các trường
đại học, cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: chủ yếu nhằm vào thực trạng và
đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường
đại học, cao đẳng ở tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2009 - 2012.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Cơ sở lý luận: Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận là chủ
nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng Sản Việt
Nam và pháp luật của Nhà nước ta về công tác nâng cao ý thức pháp luật.
Đồng thời, kế thừa các kết quả nghiên cứu của các tài liệu có liên quan nêu
trong danh mục tài liệu tham khảo, các ý kiến đóng góp của các chuyên gia,
người được phỏng vấn.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể như:
phân tích, tổng hợp, khảo sát thực tế…
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn là đề tài đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về ý thức
pháp luật cho sinh viên các trường Đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.
- Về lý luận: Luận văn đã hệ thống hoá lý luận cơ bản về ý thức pháp
luật, phân tích đặc điểm, các yếu tố cấu thành, các yếu tố ảnh hưởng đến ý
thức pháp luật của sinh viên hiện nay.
- Về thực tiễn: Luận văn đã phân tích, đánh giá khách quan ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân của những ưu điểm, hạn chế của ý thức
pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh

Ninh Bình, đề xuất những giải pháp góp phần nâng cao ý thức pháp luật
của sinh viên các trường đại học, cao đẳng.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


8

- Luận văn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận về ý thức
pháp luật của sinh viên.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm cơ sở hình
thành nên các chính sách nhằm nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên hoặc
được dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy của các
giảng viên môn Luật trong các trường đại học, cao đẳng ở Ninh Bình hiện
nay.
- Luận văn góp phần nâng cao nhận thức và trách nhiệm chỉ đạo, tổ
chức hoạt động thực tiễn của các cấp uỷ Đảng và Nhà nước trong việc giáo
dục ý thức pháp luật cho sinh viên ở tỉnh Ninh Bình.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn được kết cấu thành 3 chương, 8 tiết.


9

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA Ý THỨC PHÁP LUẬT
CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC CAO ĐẲNG


1.1.1. Khái niệm ý thức pháp luật của sinh viên các
trường đại học, cao đẳng
a. Khái niệm ý thức pháp luật
Con người sống trong một thế giới khách quan vô cùng phong phú và
đa dạng, bao gồm nhiều yếu tố cấu thành như điều kiện tự kiên, hoàn cảnh
kinh tế - xã hội, phương thức sản xuất, dân cư….để tồn tại và cải tạo thế giới
khách quan con người phản ánh nó thông qua các hình thái ý thức xã hội
trong đó có ý thức pháp luật. Ý thức pháp luật có vai trò rất quan trọng trong
đời sống xã hội nói chung và đời sống pháp lý nói riêng, nó tác động đến quá
trình nhận thức, thái độ và hành vi ứng xử của con người. Ý thức pháp luật ra
đời, tồn tại và phát triển từ nhu cầu khách quan của đời sống xã hội, nó phản
ánh những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử cần được điều chỉnh
bằng pháp luật, được thể hiện thông qua những quan điểm, quan niệm, tình
cảm, niềm tin pháp lý, ở trình độ cao hơn là các học thuyết, các tư tưởng về
nhà nước và pháp luật.
Ý thức pháp luật là một hiện tượng tinh thần xã hội hết sức phức tạp.
Trong nghiên cứu lý luận cũng như trong thực tế xã hội có nhiều quan điểm
khác nhau về khái niệm ý thức pháp luật.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: ý thức pháp luật chính là ý thức chấp
hành những quy định pháp luật của con người. Vì thế, khi đánh giá ý thức
pháp luật của một tập thể, cá nhân nào đó người ta thường so sánh giữa hành
vi chấp hành của những đối tượng đó với yêu cầu của những quy định trong


10

văn bản pháp luật để đánh giá ý thức pháp luật của họ cao hay thấp. Quan
điểm này đồng nhất ý thức pháp luật với hình thức biểu hiện cụ thể của nó,
như vậy sẽ quá hẹp, thiếu toàn diện, chưa thể hiểu rõ được bản chất, vai trò
năng động, sáng tạo của ý thức pháp luật [31, tr.11-12].

Quan điểm thứ hai cho rằng: ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức
chính trị, và vì như thế, nếu một người có ý thức chính trị thì người đó có ý thức
pháp luật. Quan điểm này không đúng với thực tiễn, bởi vì tư tưởng, quan điểm
chính trị của Đảng cầm quyền bao giờ cũng mang tính định hướng chung cho sự
phát triển của toàn xã hội và được nhà nước thể chế hoá thành pháp luật. Do đó,
không thể nói, nếu có ý thức chính trị thì có ý thức pháp luật [11, tr.259].
Quan điểm thứ ba đề cập toàn diện và đầy đủ hơn về các yếu tố cơ
bản, đặc trưng nhất của ý thức pháp luật, nguồn gốc, mối liên hệ phổ biến,
tất yếu của ý thức pháp luật với đời sống xã hội: Ý thức pháp luật là một
hình thức độc lập tương đối của ý thức xã hội được quyết định bởi các nhu
cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Nó bao gồm hệ thống các tư
tưởng, quan điểm và các quan niệm của cá nhân hoặc của các giai cấp về
pháp luật, pháp chế, trật tự pháp luật và vai trò của chúng trong đời sống xã
hội. Khái niệm ý thức pháp luật cũng bao gồm cả những cảm giác pháp lý,
những tình cảm, xúc cảm và việc đánh giá của con người về các hành vi
hợp pháp và hành vi trái pháp luật, đòi hỏi của sự hiểu biết pháp luật và sự
cần thiết hoàn thiện hoặc thay đổi pháp luật hiện hành [31, tr.12].
Có rất nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên theo quan điểm chung
của nhiều nhà khoa học đã đưa ra khái niệm ý thức pháp luật như sau: ý thức
pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, bao gồm tổng hợp tất cả những học
thuyết, quan điểm, tư tưởng, tình cảm của con người, thể hiện thái độ, sự
đánh giá về tính công bằng hay không công bằng, đúng đắn hay không đúng
đắn của pháp luật hiện hành, pháp luật trong quá khứ, pháp luật cần có, về


11

tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi xử sự của con người, trong
hoạt động của các cơ quan nhà nước hay tổ chức xã hội và của các chủ thể
khác [11, tr.259-260].

Giữa ý thức pháp luật, ý thức chính trị, ý thức đạo đức có mối quan hệ
tác động lẫn nhau, vì chúng cùng phản ánh và chịu sự quy định của tồn tại xã
hội, nhất là sự quy định của chế độ kinh tế. Quan hệ giữa ý thức pháp luật, ý
thức chính trị, ý thức đạo đức là mối quan hệ hữu cơ, làm tiền đề cho nhau.
Nếu ý thức chính trị tác động chi phối ý thức pháp luật, nhất là thông qua hệ
tư tưởng chính trị thì ngược lại ý thức pháp luật phản ánh những yêu cầu
chính trị dưới góc độ pháp luật. Chính mối quan hệ chặt chẽ này làm cho một
số người lầm tưởng ý thức pháp luật là một bộ phận của ý thức chính trị. Ý
thức pháp luật và ý thức đạo đức đều cùng hướng vào việc điều chỉnh hành vi
con người nên chúng chịu ảnh hưởng và hỗ trợ nhau rất lớn.
b. Khái niệm ý thức pháp luật của sinh viên các
trường Đại học, cao đẳng.
Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên các trường đại học, cao đẳng là
một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Vấn đề này được Đảng và Nhà nước ta quan tâm thể hiện qua việc nhà
nước ban hành nhiều văn bản pháp luật về công tác tuyên truyền giáo dục pháp
luật, quy định đây là một môn học bắt buộc đối với tất cả các cấp giáo dục.
Xuất phát từ vai trò, tầm quan trọng của việc nâng cao ý thức pháp
luật của người dân nói chung và sinh viên các trường đại học, cao đẳng nói
riêng. Trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương,
chính sách, ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo cơ sở chính trị - pháp lý
cho công tác nâng cao ý thức pháp luật cho các đối tượng là học sinh, sinh
viên như: Chỉ thị số 32/CT-TW ngày 9/12/2003 của Ban bí thư Trung ương


12

Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân; Chỉ

thị số 33/2006/CT-TTg ngày 8/9/2006 của Thủ tướng Chính phủ về chống
tiêu cực và khắc phục bệnh thành tích trong giáo dục; Quyết định số
5836/QĐ-BGD&ĐT ngày 17/10/2006 của Bộ trưởng Bộ giáo dục và đào
tạo phê duyệt chương trình công tác PBGDPL giai đoạn 2006 -2010 của
ngành giáo dục; Chỉ thị 45/2007/CT-BGD&ĐT ngày 17/8/2007 về việc
tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành giáo dục;
Chỉ thị số 71/2008/CT-BGD&ĐT ngày 23/12/2008 của Bộ trưởng Bộ giáo
dục và đào tạo về việc phối hợp Gia đình, nhà trường, xã hội trong công tác
giáo dục trẻ em, học sinh, sinh viên; Quyết định số 1928/QĐ-TTg ngày 20
tháng 11 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Nâng cao
chất lượng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhà trường”, Thông
tư liên tịch số 30/2010/TTLT- BGD&ĐT - BTP ngày 16/11/2010 hướng dẫn
việc phối hợp thực hiện công tác PBGDPL trong nhà trường…
Nước ta có tỷ lệ dân số trẻ, trong đó lực lượng học sinh, sinh viên
chiếm tỷ lệ ¼ dân số cả nước. Đa số các em đều đã được tiếp cận các kiến
thức về pháp luật qua nhiều kênh thông tin như: sách báo, ti vi, các tạp chí…
điều quan trọng các em đã được học tập môn học pháp luật đại cương trong
nhà trường. Tuy nhiên quá trình tiếp cận các kiến thức pháp luật của các em
chưa nhiều, chưa đầy đủ, chưa đồng bộ. Vì vậy ta có thể gặp trong đời sống
xã hội những tình huống sinh viên coi thường pháp luật, lợi dụng kẽ hở của
pháp luật, chống đối pháp luật… trước thực trạng này cho thấy, việc nâng cao
ý thức pháp luật cho sinh viên là yêu cầu cần thiết đáp ứng yêu cầu của công
cuộc đổi mới đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
Từ sự phân tích trên, có thể hiểu khái niệm ý thức pháp luật của sinh
viên các trường Đại học, cao đẳng như sau:


13

Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đaị học, cao đẳng là một

hình thái của ý thức xã hội phản ánh trực tiếp đời sống pháp luật thông qua
những quan điểm, tư tưởng, tình cảm của sinh viên đối với pháp luật, thể hiện
sự hiểu biết, thái độ và sự đánh giá về pháp luật, về quyền lợi và nghĩa vụ của
con người trong xã hội, về hành vi hợp pháp hay không hợp pháp của cá
nhân, các cơ quan nhà nước, các tổ chức trong xã hội.
1.1.2. Đặc điểm ý thức pháp luật của sinh viên
các trường Đại học, cao đẳng
Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng mang đầy
đủ những đặc điểm của ý thức pháp luật nói chung như:
Thứ nhất: Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, nó phản ánh
tồn tại xã hội, chịu sự quy định của tồn tại xã hội, nhưng vẫn có tính độc lập
tương đối, biểu hiện như sau:
- Ý thức pháp luật thường lạc hậu so với tồn tại xã hội. Ý thức pháp luật
phản ánh tồn tại xã hội nên nó luôn là cái có sau tồn tại xã hội. Thực tế cho
thấy tồn tại xã hội cũ mất đi nhưng ý thức nói chung trong đó có ý thức pháp
luật cũ vẫn còn tồn tại dai dẳng trong một thời gian khá dài. Nhiều quan điểm,
quan niệm, tư tưởng và những thói quen pháp luật của quá khứ vẫn tồn tại
trong suy nghĩ và hành động của nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội.
- Mặc dù ý thức pháp luật thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
nhưng trong những điều kiện nhất định những tư tưởng pháp luật tiến bộ,
mang tính khoa học có thể vượt trội so với tồn tại xã hội, có tính chất định
hướng cho sự phát triển của xã hội. Đây là những tư tưởng, quan điểm pháp
luật có tính tiên phong, chúng là mầm mống, định hướng cho sự hình thành ý
thức pháp luật mới trong tương lai.
- Ý thức pháp luật luôn phản ánh tồn tại xã hội của thời đại sinh ra nó,
nên có kế thừa một số yếu tố nhất định của ý thức pháp luật của các thời đại


14


trước nó. Do vậy, trong ý thức pháp luật luôn giữ lại những tư tưởng, quan
điểm pháp luật của các thế hệ trước, các thời đại trước của nhân loại.
- Ý thức pháp luật một mặt chịu sự quy định của tồn tại xã hội nhưng
mặt khác nó lại tác động trở lại đối với tồn tại xã hội, chính trị, đạo đức và các
yếu tố khác của thượng tầng kiến trúc như nhà nước và pháp luật. Tuỳ thuộc
vào ý thức pháp luật tiến bộ hay lạc hậu, đúng đắn hay sai lầm mà sự tác động
của nó có thể là thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
Thứ hai: ý thức pháp luật luôn mang tính giai cấp
Trong xã hội có các giai cấp khác nhau thì ý thức pháp luật của các giai
cấp cũng khác nhau, thậm chí ý thức pháp luật của một giai cấp cũng không
hoàn toàn thuần nhất. Trong một quốc gia chỉ có một hệ thống pháp luật
nhưng có thể tồn tại một số hệ thống ý thức pháp luật: ý thức pháp luật của
giai cấp thống trị, ý thức pháp luật của giai cấp bị trị, ý thức pháp luật của các
tầng lớp khác trong xã hội…Tuy nhiên, chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp
thống trị là tiền đề tư tưởng để xây dựng các giá trị, chuẩn mực pháp luật của
quốc gia, và chỉ có ý thức pháp luật của giai cấp thống trị mới có điều kiện
được thể hiện đầy đủ trong pháp luật.
Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, ý thức pháp luật thống trị là ý thức pháp
luật của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ý thức pháp luật của giai
cấp công nhân với tư cách là giai cấp tiến bộ nhất ngày càng có ảnh hưởng
sâu rộng đến ý thức pháp luật của các tầng lớp, giai cấp khác trong xã hội.
Trong ý thức pháp luật xã hội chủ nghĩa ngoài tâm lý pháp luật và hệ tư tưởng
pháp luật của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, còn bao gồm cả tâm lý,
tình cảm, thói quen, tập quán, ước muốn… của dân tộc, phản ánh những điều
kiện sinh hoạt chung thấm sâu vào mọi lĩnh vực đời sống tinh thần của dân
tộc, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Bên cạnh tính giai cấp thì ý thức pháp luật còn mang tính xã hội, trong
ý thức pháp luật còn có cả những tư tưởng, quan điểm liên quan đến sự tồn



15

tại, phát triển, sự thịnh vượng của đất nước và của nhân loại nói chung. Trong
những thời điểm lịch sử - xã hội nhất định, ý thức pháp luật ở khía cạnh nào
đó còn bao hàm cả tính chất, đặc điểm chung của trí tuệ quốc gia mà trong đó
có nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau chung sống vì những lợi ích chính đáng,
cơ bản và lâu dài của toàn xã hội.
Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng cũng mang
những đặc điểm của ý thức pháp luật nói chung, ngoài ra còn có những đặc điểm
riêng thể hiện đúng với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, bắt nguồn từ vị trí, vai trò
của họ với xã hội, trong việc học tập, lao động và cuộc sống hàng ngày. Ý thức
pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng được xác định trong mối
tương quan với ý thức pháp luật của các bộ phận, cá nhân khác ở trong cùng một
môi trường xã hội, cùng một điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội ở nước ta hiện nay
như: ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ công chức, ý thức pháp luật của nhân
dân... Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng có những đặc
điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng
là một bộ phận quan trọng trong ý thức chung của xã hội. Ý thức pháp luật
của sinh viên là sự hoà quyện, đan xen gắn bó khăng khít giữa ý thức pháp
luật cá nhân và ý thức pháp luật của nhóm xã hội trong nhà trường.
Thứ hai, Sinh viên là một trong những bộ phận có ý thức pháp luật khá
năng động, sáng tạo. Họ là tầng lớp trí thức tiến bộ, được tiếp thu có hệ thống
những tri thức tinh tuý của nhân loại nói chung và của dân tộc, đất nước nói
riêng. Họ là những người có khả năng, sáng tạo, tích cực, nhạy bén, ham hiểu
biết, chịu khó học hỏi cái mới, năng động trong học tập nghiên cứu, ứng dụng
những tri thức đã học vào cuộc sống phục vụ bản thân, gia đình và xã hội, góp
phần nhỏ bé của mình vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Với đặc điểm tâm
sinh lý này của sinh viên ta thấy, sinh viên là đối tượng có khả năng tiếp thu
các kiến thức pháp luật nhanh, vận dụng khá linh hoạt vào thực tiễn cuộc



16

sống.
Thứ ba, Về tình hình hiểu biết pháp luật của sinh viên: tình trạng thiếu
hiểu biết pháp luật hoặc có hiểu biết nhưng chưa đầy đủ, chưa toàn diện, sâu
sắc. Đa số nhân cách của sinh viên phát triển chưa hoàn chỉnh, còn nông nổi,
bồng bột, dễ bị kích động, khó kiềm chế, đôi khi tự cao tự đại, thích tự do
phóng khoáng, thể hiện trước đám đông, hay đua đòi. Đây là tầng lớp trẻ tuổi
đang trong quá trình học tập và rèn luyện, họ chưa có điều kiện và khả năng
để có những tư tưởng, quan điểm, quan niệm về các hiện tượng pháp luật
trong đời sống xã hội một cách hệ thống và chính xác như đội ngũ cán bộ,
công chức trong bộ máy nhà nước hay đội ngũ nghiên cứu khoa học pháp lý.
Thứ tư, Sự hiểu biết pháp luật của sinh viên mới đang từng bước được
hình thành, bồi đắp và ngày càng sâu sắc thêm qua quá trình học tập, sinh
hoạt, lao động dưới sự tác động của các yếu tố gia đình, nhà trường và xã hội.
1.1.3. Vai trò của ý thức pháp luật đối với sinh viên
các trường đại học, cao đẳng
Pháp luật là công cụ để quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi công dân, bảo vệ trật tự pháp luật xã hội
chủ nghĩa. Do vậy, nâng cao ý thức pháp luật đóng vai trò quan trọng trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong đời sống pháp luật, nhằm giữ
gìn trật tự xã hội và xã hội đó lại tạo điều kiện thuận lợi để ý thức pháp luật
phát triển và được nâng cao. Quan hệ biện chứng đó làm cho ý thức pháp luật
và tồn tại xã hội của đời sống pháp luật cũng phát triển. Đây cũng chính là
nhân tố quan trọng, cần phải có trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở
nước ta hiện nay. Tất cả những điều này nói lên vai trò của ý thức pháp luật
trong mọi hoạt động thực tiễn của cá nhân, tổ chức và toàn xã hội. Khi tổ
chức, cá nhân trong xã hội đều có ý thức pháp luật cao, thể hiện trong hoạt



17

động thực tiễn, đó là những điều kiện cần và đủ cho nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa hình thành, phát triển.
Sinh viên chiếm một số lượng đông đảo trong xã hội (cả nước có 419
trường đại học, cao đẳng với tổng số 2 208 000 sinh viên). Số lượng sinh viên
đông sẽ kéo theo nhiều hiện tượng xã hội phức tạp, chúng ta có thể thấy được
tình trạng đạo đức, lối sống của một bộ phận sinh viên đang có nhiều bất ổn,
hành vi lệch chuẩn về đạo đức ngày càng gia tăng như: thái độ học tập, ý thức
chấp hành nội quy, kỷ luật của nhà trường, đến những hành vi tiêu cực trong
học tập, thi cử, bạo lực học đường, tụ tập băng nhóm, cờ bạc, ma túy, mại
dâm, vi phạm giao thông, đua xe trái phép, tội phạm công nghệ cao… Một số
hành vi lệch chuẩn khác về đạo đức như: bất kính với thầy cô, cha mẹ và
người thân, đua đòi, vị kỷ… Đó là hậu quả của sự giáo dục không đồng bộ
giữa gia đình, nhà trường, xã hội và sự nỗ lực vươn lên của mỗi sinh viên.
Nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên hiện nay giúp cho các em có
những tư tưởng, quan điểm đúng đắn đi đúng với những chuẩn mực, những
đòi hỏi của xã hội, từ đó có tri thức, tình cảm, thói quen xử sự theo pháp luật,
để tự các em đánh giá được tính đúng đắn hay không đúng đắn trong hành vi
xử sự của bản thân và của những người khác. Ý thức pháp luật của sinh viên
có vai trò trò quan trọng, được thể hiện như sau:
Một là: Ý thức pháp luật của sinh viên được nâng cao góp phần xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đấu tranh chống lại các hành vi vi
phạm pháp luật. Chúng ta chỉ có thể xây dựng được một hệ thống pháp luật
hoàn chỉnh khi ý thức được đầy đủ hiện thực khách quan của đời sống chính
trị xã hội, đời sống pháp luật. Mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật cao
hay thấp, tính ổn định nhiều hay ít phụ thuộc vào các hoạt động nhận thức,
đánh giá, tổng kết, hệ thống hoá và sáng tạo pháp luật trong từng thời điểm cụ

thể. Mỗi sinh viên hiện nay muốn đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm


18

pháp luật cũng cần phải có sự nhận thức pháp luật đầy đủ, chính xác. Một khi
sinh viên có ý thức pháp luật đúng đắn họ sẽ là những người mực thước trong
cuộc sống, đi đầu trong xã hội, trong tương lai có thể là những người lãnh
đạo, người quản lý cuốn hút người khác trong học tập và lao động… Ngược lại
nếu sinh viên có ý thức pháp luật thấp thì trong xã hội họ có thể là những người
nông cạn, bất cần, ở họ có nhiều nguy cơ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.
Do đó, ý thức pháp luật tốt là một trong những nhân tố giúp mỗi sinh viên tự
điều chỉnh hành vi của mình một cách hợp lý, hợp pháp, để từ đó hình thành
nên một cộng đồng xã hội luôn sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật.
Hai là: Ý thức pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng góp
phần vào việc tuân thủ, tôn trọng và áp dụng pháp luật. Ý thức pháp luật của
sinh viên thể hiện kiến thức và thái độ của họ đối với các quy định của pháp
luật, từ đó xác định mục đích, động cơ, lựa chọn phương án xử sự phù hợp,
thực hiện hành vi pháp luật. Do vậy, thông thường ý thức pháp luật càng cao
thì tinh thần tuân thủ, tôn trọng và áp dụng pháp luật càng được bảo đảm và
chính xác. Cần phải nhìn nhận một thực tế rằng, không phải tất cả sinh viên
hiện nay đều có thái độ, tình cảm đúng đắn đối với pháp luật. Thái độ, tình
cảm với pháp luật chỉ có thể được hình thành, phát triển trên cơ sở có kiến
thức về pháp luật. Chỉ khi sinh viên nắm được các kiến thức pháp luật thì ở họ
sẽ tôn trọng, tuân thủ, biết vận dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết
những khó khăn, vướng mắc trong cuộc sống.
Ba là: Ý thức pháp luật của sinh viên được nâng cao là cơ sở hình
thành những thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước, những lực lượng lao
động mới có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã
hội phát triển. Đây là biện pháp cơ bản có ý nghĩa chiến lược trong việc xây

dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của xã hội
hiện tại và tương lai.


19

Bốn là: Ý thức pháp luật của sinh viên góp phần quan trọng trong việc
giữ vững an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc. Ý thức pháp luật của sinh viên
không chỉ có vai trò trong viện tôn trọng và áp dụng pháp luật, sự phát triển
kinh tế - xã hội mà còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc, giữ
vững chủ quyền quốc gia, an ninh, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt là trong xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay, việc sinh viên nắm vững pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế là việc làm cần thiết và tất yếu.
Năm là, Sinh viên có ý thức pháp luật tốt sẽ lan toả, ảnh hưởng đến
những người xung quanh, bởi họ là những người có trình độ, được đào tạo bài
bản nên họ sẽ là những tấm gương tốt cho gia đình, cho hàng xóm... Đồng
thời, họ cũng là những người truyền đạt những kiến thức pháp luật hữu ích,
thông qua đó động viên, khích lệ những người xung quanh chấp hành pháp
luật có hiệu quả.
Có thể nói, vai trò của ý thức pháp luật đối với sinh viên các trường
đại học, cao đẳng nhằm hình hình thành ở họ tri thức pháp luật, lòng tin,
tình cảm đối với pháp luật từ đó có hành vi xử sự hợp pháp khi tham gia
vào các mối quan hệ xã hội cụ thể, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình và của người khác.
1.2. CÁC BỘ PHẬN CẤU THÀNH Ý THỨC PHÁP LUẬT CỦA SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC, CAO ĐẲNG

Ý thức pháp luật được hình thành từ những quan niệm của con người
về sự cần thiết của các quy tắc xử sự mà nhà nước cần bảo đảm thực hiện, về
tính hợp pháp hay không hợp pháp của các thiết chế, chế định pháp lý. Nếu

như pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự chung thì ý thức pháp luật là
những quan niệm, quan điểm, tâm lý, cảm xúc, tâm trạng, nguyện vọng của con
người về pháp luật. Ý thức pháp luật được cấu thành từ hệ tư tưởng pháp luật và
tâm lý pháp luật.
1.2.1. Hệ tư tưởng pháp luật của sinh viên các trường


20

đại học, cao đẳng
Hệ tư tưởng pháp luật là một bộ phận của ý thức pháp luật được hình
thành từ những quan niệm, quan điểm và học thuyết pháp luật trong xã hội
phản ánh các khía cạnh khác nhau của đời sống nhà nước và pháp luật như:
nhu cầu điều chỉnh của pháp luật, bản chất, vai trò, chức năng, các yếu tố và
cơ chế vận hành của nhà nước và pháp luật; hoạt động xây dựng, thực hiện và
bảo vệ pháp luật; quyền và nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức; hoạt động phổ biến,
giáo dục pháp luật; nhận thức về các hiện tượng pháp lý của con người; đánh
giá về tính hợp pháp hay không hợp pháp trong hành vi của các chủ thể pháp
luật; những giải pháp nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, chất lượng pháp
luật; tăng cường xử sự đúng pháp luật … Hạt nhân của hệ tư tưởng pháp luật là
tri thức pháp luật ( nhận thức, hiểu biết khoa học trong lĩnh vực pháp luật). Hình
thức thể hiện của hệ tư tưởng pháp luật có thể là các quan niệm, quan điểm, yêu
cầu về pháp luật của các tổ chức, cá nhân, cũng có thể là những tri thức pháp lý
được hệ thống hoá dưới dạng lý luận thành các tổng kết pháp lý, các học thuyết
pháp lý [22, tr.43].
Hệ tư tưởng pháp luật tồn tại trong xã hội thường phong phú và đa dạng
bao gồm tư tưởng, quan niệm, quan điểm pháp luật chính thống (là những
quan niệm, quan điểm, học thuyết pháp luật được lực lượng thống trị thừa
nhận, công khai, mang tính áp đặt đối với toàn xã hội), quan điểm pháp luật
không chính thống (đó là những quan niệm, quan điểm, tư tưởng của những

người bị cầm quyền, ít có điều kiện được phổ biến và chuyển hoá thành các
quy định của pháp luật). Hệ tư tưởng pháp luật là bộ phận chủ yếu của ý thức
pháp luật, nó có ảnh hưởng đến tâm lý pháp luật của các tầng lớp khác nhau
trong xã hội. Do được hình thành một cách tự giác nên bao giờ cũng phản ánh
tồn tại xã hội sâu sắc, khách quan mang tính hệ thống và khoa học, có tác
dụng soi sáng, định hướng cho tâm lý pháp luật. Các chủ thể có tri thức pháp


21

luật cao sẽ có khả năng nhận thức pháp luật chính xác và từ đó có thái độ
đúng đắn đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, tự giác thực
hiện các quy định của pháp luật vì lợi ích của bản thân và xã hội. Tri thức
pháp luật của các chủ thể pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp đến việc xây dựng
và hoàn thiện hệ thống pháp luật của đất nước. Muốn xây dựng được những
văn bản pháp luật có giá trị và tính khả thi cao thì các chủ thể tham gia xây
dựng pháp luật phải có tri thức pháp luật cao, từ đó họ phân tích hiện thực
khách quan, nhận thức đời sống xã hội trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
văn hoá, xã hội … định hướng tầm nhìn chiến lược về hệ thống văn bản pháp
luật, trong tương lai các nhà làm luật sẽ dự liệu được và dự liệu chính xác các
quan hệ xã hội mới sẽ phát sinh để tìm ra hướng điều chỉnh, tạo sự ổn định
trong xã hội. Có thể nói, mức độ hoàn thiện của pháp luật cao hay thấp, tính
ổn định nhiều hay ít phụ thuộc vào sự nhận thức, đánh giá tổng kết, hệ thống
hoá và sáng tạo pháp luật của các chủ thể có thẩm quyền.
Hệ tư tưởng pháp luật còn tác động tích cực đến khả năng nhận thức và
hành vi của các chủ thể thực hiện pháp luật, là tiền đề quan trọng bảo đảm
thực hiện pháp luật. Trên cơ sở nhận thức pháp luật, các chủ thể hình thành
thái độ đối với các quy định của pháp luật, xác lập động cơ, mục đích, lựa
chọn phương án xử sự và thực hiện hành vi pháp luật. Trên thực tế khi chủ thể
có được những tri thức pháp luật cần thiết, họ sẽ dễ dàng nhận thức các quy

định pháp luật, có niềm tin vào pháp luật, từ đó tự giác thực hiện pháp luật,
cũng như vận động mọi người cùng thực hiện, nếu nhận thức của chủ thể bị
hạn chế, không đầy đủ thì có thể dẫn đến thái độ coi thường hoặc hành vi
pháp luật sai lầm. Những chủ thể có ý thức pháp luật tốt sẽ luôn là những
người mẫu mực, có ý thức sống và làm việc theo pháp luật.
Đối với các chủ thể áp dụng pháp luật, nếu có tri thức pháp luật cao thì
khả năng áp dụng pháp luật mới chính xác và hiệu quả. Bởi áp dụng pháp luật


22

là hoạt động phức tạp có ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các tổ chức,
cá nhân, do đó phải được tiến hành thận trọng, chính xác trên cơ sở những
quy định chặt chẽ của pháp luật. Trong quá trình áp dụng pháp luật, tri thức
pháp luật giúp cho chủ thể có thẩm quyền hiểu rõ bản chất cũng như tình tiết
của vụ việc để giải quyết đúng đắn, chính xác vấn đề. Nếu không có tri thức
pháp luật phù hợp thì chủ thể áp dụng sẽ rất khó khăn để hoàn thành công
việc của mình, có thể áp dụng pháp luật không đúng, có khi là oan, sai.
Hệ tư tưởng pháp luật có vai trò quan trọng trong trường hợp các quy
phạm pháp luật hiện hành lạc hậu, không đáp ứng một cách đầy đủ, chính xác
những đòi hỏi của sự phát triển xã hội hoặc trong trường hợp cần giải quyết
những vụ việc không có pháp luật điều chỉnh. Lúc này chủ thể áp dụng pháp
luật sẽ dựa vào tri thức pháp luật của mình, kết hợp với các nguyên tắc của
pháp luật và niềm tin nội tâm để giải quyết cho phù hợp nhất.
Hệ tư tưởng của pháp luật quốc gia thường thể hiện trong cương lĩnh,
nghị quyết của Đảng cầm quyền, trong chính sách của nhà nước, các bài nói,
viết của các lãnh tụ của Đảng và nhà nước, trong nội dung và tinh thần của
các văn bản pháp luật đã ban hành. Hệ tư tưởng pháp luật của nước ta đó là
quan điểm về pháp luật của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
được cụ thể hoá trong đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước. Muốn

nâng cao được ý thức pháp luật chúng ta cần dựa trên quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản
Việt Nam về bản chất, vai trò, mục đích của pháp luật làm cho các quan
điểm đó trở thành hệ tư tưởng pháp luật chi phối đời sống pháp luật ở Việt
Nam hiện nay.
Hệ tư tưởng pháp luật của sinh viên được hình thành dựa trên một quá
trình học tập, rèn luyện và nó gắn liền với hệ tư tưởng đạo đức. Ngay từ khi
còn nhỏ, trẻ em đã được gia đình dạy những phép tắc, lễ nghĩa và thói quen cơ
bản về đạo đức, những điều nên làm và những điều không nên làm. Đến khi


23

học ở các bậc học các thói quen, lễ nghĩa về đạo đức ấy được truyền đạt thông
qua các bài học về lịch sử, đạo đức, văn học. Tất cả những kiến thức ấy chỉ
rời rạc, chưa có tính hệ thống, đồng bộ. Chỉ đến khi bước chân vào các trường
đại học, cao đẳng, với nền tảng tri thức đã được tích luỹ và những kiến thức
pháp luật có hệ thống do thầy cô truyền đạt, họ đã biết phân tích, đánh giá sự
phù hợp hay không phù hợp trong hành vi của mình cũng như của những
người khác thể hiện thông qua việc nhìn nhận, đánh giá các sự kiện, hiện
tượng diễn ra trong đời sống xã hội, từ đó hình thành nên các quan điểm, quan
niệm, tư tưởng của sinh viên một cách sâu sắc, có tính hệ thống. Đây là quá
trình hình thành, phát triển hệ tư tưởng pháp luật của sinh viên.
Như vậy, Hệ tư tưởng pháp luật của sinh viên là những tư tưởng, quan
điểm của sinh viên về pháp luật, bao gồm: tri thức của sinh viên về pháp luật
và những hiện tượng có liên quan đến pháp luật. Sinh viên là một lực lượng
đông đảo trong xã hội nên cũng tồn tại rất nhiều hệ tư tưởng khác nhau, có
những tư tưởng tích cực nhưng cũng có những tư tưởng mang tính tiêu cực.
Nhưng nhìn chung với đặc điểm riêng của đội ngũ sinh viên hiện nay là tuổi
trẻ, năng động, sáng tạo nên hệ tư tưởng của họ thường có xu hướng là hệ tư

tưởng pháp luật tiến bộ, khoa học, đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của
đông đảo sinh viên trong xã hội.
1.2.2. Tâm lý pháp luật của sinh viên các trường đại học, cao đẳng
Ý thức pháp luật được tạo nên bởi hệ tư tưởng pháp luật (nhận thức
pháp lý) và tâm lý pháp luật. Nếu hệ tư tưởng pháp luật là kết quả của sự phản
ánh tự giác, có mục đích, có tính tổ chức cao của hoạt động tư duy lý luận, thì
tâm lý pháp luật chỉ là sự phản ánh những tâm trạng, cảm xúc, thái độ, tình
cảm của con người với pháp luật và quá trình điều chỉnh pháp luật. Tâm lý
pháp luật bị chi phối bởi hệ tư tưởng pháp luật, nó phụ thuộc vào đặc điểm và
trình độ nhận thức lý luận của cá nhân, và ngược lại, tâm lý pháp luật là tiền
đề thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển các tư tưởng, quan điểm pháp


24

luật phù hợp. Tâm lý pháp luật thường biểu hiện ở các dạng cơ bản sau:
- Tình cảm pháp luật: tình cảm pháp luật chứa đựng trong đó những
rung động về tâm hồn của con người như cảm giác, niềm tin, sự trân trọng,
định kiến, thù ghét, ác cảm… đối với pháp luật. Ví dụ cảm giác của nhân dân
về tính nhân đạo của pháp luật, cảm giác lo lắng, ác cảm, thái độ căm phẫn
trước những hành vi phạm pháp, mong muốn đấu tranh chống lại các hành vi
vi phạm pháp luật.
- Tâm trạng pháp luật: đây là yếu tố linh động của ý thức pháp luật, nó
chịu sự định hướng của hệ tư tưởng pháp luật và các yếu tố tác động khách
quan bên ngoài. Chẳng hạn, bằng nhiều hình thức thiết thực, các cơ quan chức
năng có thể hướng tâm trạng thờ ơ, lãnh đạm của người dân với các vi phạm
pháp luật, ở những nơi công cộng trở thành tâm trạng, tình cảm không khoan
nhượng đối với các hành vi ấy, từ đó thiết lập thái độ tôn trọng sự công bằng
trong nhân dân.
- Tự đánh giá cá nhân: là thái độ của mỗi người đối với hành vi của chính

mình hay cơ quan, đơn vị, gia đình… của mình. Tự đánh giá có thể biểu hiện
dưới dạng cảm xúc như tự hào, buồn lo, xấu hổ… Xấu hổ là ý thức bên trong
của thái độ không chấp nhận đối với một hành vi nào đó trước người khác. Cảm
xúc xấu hổ trong một mức độ nào đó có thể điều chỉnh cách hành xử của con
người. Chẳng hạn, vì xấu hổ người ta sẽ không tiến hành những hành vi mà họ
cho là xấu, có hại…
- Xúc động: là biểu hiện của lương tâm con người. Những xúc động
đúng đắn đối với pháp luật nhiều lúc có ý nghĩa phòng ngừa những hành vi
không phù hợp, đi lệch với chuẩn mực xã hội, chuẩn mực pháp luật.
Sự tồn tại của tâm lý pháp luật thường gắn với trạng thái tâm lý của con
người, là sự phản ánh trực tiếp của con người đối với các hiện tượng pháp lý
cụ thể. Tâm lý pháp luật là thái độ tình cảm của con người đối với pháp luật,
tình cảm đó có thể là sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, niềm tin vào pháp


25

luật, sự tôn trọng pháp luật hoặc là sự phản đối, sự thờ ơ, định kiến, ác cảm,
thiếu tôn trọng pháp luật. Ví dụ: tình cảm đối với sự công bằng; nỗi sợ hãi
trước hình phạt; sự đồng tình hay phản đối đối với bản án mà Toà án đã tuyên
cho bị cáo; thái độ quan tâm, phẫn nộ hay lãnh đạm, thờ ơ đối với các hành vi
vi phạm pháp luật… Tâm lý pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới việc thực hiện
hành vi pháp luật hợp pháp của chủ thể nói chung và của sinh viên các trường
đại học, cao đẳng nói riêng góp phần nâng cao phẩm giá, nhân cách con
người, từ đó hình thành trách nhiệm của mỗi người với bản thân, gia đình, lớn
hơn nữa là với quê hương, nhân loại.
Tâm lý pháp luật của sinh viên chịu sự tác động mạnh mẽ của hệ tư
tưởng pháp luật, khi sinh viên có quan điểm, tri thức pháp lý nhất định thì các
em sẽ có sự nhìn nhận, đánh giá tốt về các quy phạm pháp luật, cũng như các
sự kiện, hiện tượng đang diễn ra, từ đó sinh viên trạng thái, cảm xúc, thái độ,

tình cảm đối với những vấn đề xã hội mang tính chất pháp lý. Tâm lý pháp
luật được hình thành một cách tự phát dưới ảnh hưởng của hoạt động giao tiếp
hàng ngày với môi trường pháp lý xung quanh. Do là yếu tố mang tính tự
phát, chịu sự chi phối của phong tục, tập quán, nếp sống của mỗi sinh viên
nên tâm lý pháp luật của họ có thể bộc lộ dưới dạng tích cực hoặc tiêu cực
như: thái độ của sinh viên phản ứng lại với các hành vi vi phạm pháp luật, yêu
công lý, đề cao công bằng xã hội, đề cao trách nhiệm của mỗi người… cũng
có thể biểu hiện dưới dạng tiêu cực như: cổ vũ cho hành vi phạm pháp, chống
đối người thi hành công vụ, làm ngơ trước người bị hại… tâm lý pháp luật
của sinh viên chịu ảnh hưởng của các yếu tố như điều kiện sống, lao động,
sinh hoạt hàng ngày, từ đó các sinh viên tự đánh giá về hành vi ứng xử của
mình trong phạm vi điều chỉnh của pháp luật.
Mặc dù sinh viên đã được tiếp thu các kiến thức pháp luật, nhưng
một bộ phận sinh viên hiện nay có những quan điểm, tư tưởng lệch lạc với
chuẩn mực đạo đức và pháp luật như là coi thường pháp luật, lách luật,


×