Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở từ thực tiễn các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.53 MB, 188 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN PHI LONG

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOÀ GIẢI CƠ SỞ
TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
THUỘC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 9 38 01 02

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Minh Đoan

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa
từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

NGUYỄN PHI LONG


BẢNG VIẾT TẮT

- HGCS:



Hoà giải ở cơ sở

- THPL:

Thực hiện pháp luật

- UBND:

Uỷ ban nhân dân

- HĐND:

Hội đồng nhân dân

- MTTQ:

Mặt trận Tổ quốc

- ĐBSH:

Đồng bằng Sông Hồng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI........................ 9
1.1. Tình hình nghiên cứu về hoà giải cơ sở, pháp luật hoà giải cơ sở ............................. 9
1.2. Tình hình nghiên cứu về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật hoà giải cơ sở ... 17
1.3. Tình hình nghiên cứu về thực hiện pháp luật hoà giải cơ sở ở các tỉnh thuộc vùng

đồng bằng sông Hồng ...................................................................................................... 22
1.4. Đánh giá về tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài và những vấn đề cần
tiếp tục nghiên cứu .......................................................................................................... 24
1.5. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu ............................................................................. 26
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA
GIẢI CƠ SỞ................................................................................................................... 30
2.1. Hòa giải cơ sở và pháp luật hòa giải cơ sở ............................................................... 30
2.2. Khái niệm, vai trò, nội dung, hình thức, chủ thể thực hiện pháp luật về hoà giải ở
cơ sở ................................................................................................................................ 45
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở ................................. 64
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ
TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH THUỘC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ....... 70
3.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở các tỉnh
thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng .................................................................................. 70
3.2. Tình hình thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ở các tỉnh thuộc vùng đồng bằng
Sông Hồng trong những năm qua................................................................................... 78
3.3. Đánh giá chung:...................................................................................................... 102
Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HÒA GIẢI CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
THUỘC VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ........................................................ 120
4.1. Quan điểm bảo đảm thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở .................................... 120
4.2. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về hòa giải cơ sở ...................................... 127
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 151


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hòa giải là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Công tác HGCS góp phần giữ ổn định trật tự xã hội, giữ gìn tình làng nghĩa xóm,

tình đoàn kết, tương thân tương ái trong cộng đồng, tập thể, hàn gắn, vun đắp
sự hòa thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Nhiều vụ việc mâu thuẫn giữa hàng
xóm, láng giềng, giữa những người thân trong gia đình, dòng họ nhờ được kịp
thời can thiệp, dàn xếp của những cán bộ hòa giải mà giải tỏa được những bức
xúc, giữ được "tình làng, nghĩa xóm" và sự bình yên trong mỗi mái ấm gia
đình. Hơn nữa việc thực hiện tốt công tác HGCS sẽ có tác dụng tích cực trong
việc xây dựng xã hội bình yên, giàu mạnh, tăng cường tình đoàn kết trong nhân
dân và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân, góp phần thực hiện công cuộc xây
dựng nông thôn mới ở nước ta. HGCS thể hiện tính dân chủ trong giải quyết
tranh chấp; thông qua HGCS, nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình. Với
phương châm giải quyết "thấu tình, đạt lý", HGCS là sự kết hợp nhuần nhuyễn
giữa lý và tình, giữa đạo đức và pháp luật, là phương thức thể hiện dân chủ và
sự thể hiện tư tưởng "lấy dân làm gốc".
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: "Xét xử đúng là tốt, nhưng
không phải xét xử thì càng tốt hơn". Lời dạy của Người đã cho thấy công tác
HGCS có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội. Hòa giải giúp các
bên có tranh chấp tìm được hướng giải quyết tích cực, biến những vấn đề phức
tạp thành đơn giản, trên cơ sở thỏa thuận, tự nguyện với tinh thần "chín bỏ làm
mười", nhằm hướng tới sự đoàn kết gắn bó bền vững, lâu dài trong mỗi cộng
đồng dân cư và toàn xã hội.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến công tác
hoà giải. Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám (khóa VII)
đã chỉ rõ: "Coi trọng vai trò hòa giải của chính quyền kết hợp với Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể ở cơ sở". Hiến pháp năm 1980, tại điều 128, Hiến pháp

1


1992, tại Điều 127, chương X, phần Toà án nhân dân đều quy định: "Ở cơ sở,
thành lập các tổ chức thích hợp của nhân dân để giải quyết những việc vi phạm

pháp luật và tranh chấp nhỏ trong nhân dân theo quy định của pháp luật".
Cụ thể hoá Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), trên cơ
sở tổng kết 15 năm thực hiện Pháp lệnh về Tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở
năm 1998, ngày 20/6/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Hoà giải ở cơ sở. Đây
là một sự kiện quan trọng đánh dấu bước phát triển mới của chế định hoà giải ở
cơ sở, một mặt vừa đáp đáp ứng được yêu cầu điều chỉnh những quan hệ xã hội
phát sinh trong điều kiện mới, chứng minh sự tồn tại cần thiết của hoà giải ở cơ
sở trong đời sống xã hội, một mặt vừa thể hiện sự bắt nhịp với xu thế của thế
giới khi hoà giải đã và đang được quan tâm nghiên cứu và tổ chức thực hiện
như một phương thức hữu hiệu trong giải quyết các tranh chấp ngoài toà án
Phương thức giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột trong xã hội
thông qua con đường hoà giải đã và đang có chiều hướng trở thành xu thế của
thời đại. Nhận thức rõ vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác HGCS, Đảng
và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, pháp luật về lĩnh vực này. Tuy
nhiên, nếu pháp luật ban hành mà không được thực thi trong cuộc sống thì vai
trò, ý nghĩa của nó sẽ không được phát huy. Do đó, việc THPL về HGCS có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác lập và tạo dựng sự đồng thuận xã hội thông
qua việc giải quyết những tranh chấp, xích mích trong nhân dân. Nghiên cứu
THPL về HGCS là một yêu cầu cần thiết, những kết quả nghiên cứu có thể là
một nội dung tham vấn cho các cơ qua tư pháp và cơ quan hành chính các cấp
trong việc tổ chức và THPL về HGCS, qua đó khẳng định THPL về HGCS là
một biện pháp quan trọng góp phần duy trì, đảm bảo giá trị của HGCS trong
đời sống xã hội .
Là một vùng đất rộng lớn nằm quanh khu vực hạ lưu sông
Hồng thuộc miền Bắc Việt Nam, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về chính trị,
kinh tế, văn hoá xã hội đối với cả nước, các tỉnh thuộc vùng vùng đồng bằng

2



sông Hồng bao gồm 11 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương [109]. Đây
cũng là vùng đất có lịch sử lâu đời của người Việt, nơi khai sinh của các vương
triều Đại Việt, đồng thời cũng là cái nôi hình thành văn hóa, văn minh Việt từ
buổi ban đầu và hiện tại cũng là vùng văn hóa bảo lưu được nhiều giá trị truyền
thống. Các tỉnh thuộc vùng ĐBSH đang nỗ lực đẩy mạnh các giải pháp để thực
hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội phấn đấu mục tiêu "thực sự là
địa bàn tiên phong của cả nước thực hiện các “đột phá chiến lược”, tái cấu
trúc kinh tế, đổi mới thành công mô hình tăng trưởng, trở thành đầu tàu của cả
nước về phát triển kinh tế, đảm đương vai trò to lớn đối với sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với
bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân và trật tự an toàn xã hội"[109]. Một trong những giải pháp đó là tạo sự ổn
định về tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội để làm cơ sở phát
triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh thực hiện các thiết chế dân chủ ở cơ sở trong
đó tập trung vào các hoạt động tăng cường đồng thuận xã hội là một yêu cầu
cần thiết. HGCS chính là một trong những giải pháp để thực hiện được điều đó.
Trong những năm qua, các tỉnh thuộc vùng ĐBSH đã quan tâm, đẩy
mạnh THPL về HGCS. HGCS đã và đang được các cấp uỷ Đảng quan tâm chỉ
đạo, MTTQ, chính quyền và các đoàn thể chính trị, xã hội nỗ lực thực hiện.
Quá trình tổ chức THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH cho thấy ở
những nơi nào làm tốt thì tình hình an ninh, trật tự được giữ vững, tạo đà cho
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống người dân. Ngược lại, ở những
nơi còn coi nhẹ công tác hòa giải, tình hình mâu thuẫn, tranh chấp có chiều
hướng tăng, dẫn đến mất trật tự, trị an xã hội. Thông thường, những mâu thuẫn,
va chạm trong cuộc sống, lúc đầu đơn giản, nhưng do không được quan tâm
giải quyết kịp thời cho nên đã nhanh chóng trở thành phức tạp, thậm chí là

3



nguyên nhân xuất hiện những "điểm nóng" về tranh chấp, khiếu kiện, có thể trở
thành nguyên nhân của những vi phạm nghiêm trọng về pháp luật hình sự.
Có thể thấy rằng, pháp luật về HGCS đã được ban hành, triển khai thực
hiện và đã đạt được những kết quả nhất định, song bên cạnh đó vẫn còn tồn tại
những tồn tại, hạn chế dẫn tới hiệu quả thực hiện còn chưa cao,... Để Luật Hoà
giải ở cơ sở thực sự đi vào cuộc sống (thúc đẩy sự tham gia của toàn xã hội,
bảo đảm tính linh hoạt, mềm dẻo, giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp
nhỏ trong nhân dân ở cơ sở, tiết kiệm thời gian, kinh phí cho nhà nước và nhân
dân,...) cần có những nghiên cứu sâu để tổng kết và nhân rộng các mô hình
THPL có hiệu quả trong thực tiễn.
Cho đến nay, trong phạm vi các tư liệu đã được công bố chưa có một
công trình nghiên cứu độc lập nào về "Thực hiện pháp luật về hoà giải cơ sở từ
thực tiễn các tỉnh thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng". Do vậy, Đề tài đã được
lựa chọn với mục đích nghiên cứu đầy đủ, thấu đáo hơn dưới góc độ lý luận và
thực tiễn việc THPLvề HGCS tại các tỉnh thuộc vùng ĐBSH nhằm đánh giá
những kết quả đạt được, tồn tại hạn chế và nguyên nhân, qua đó đề xuất các
giải pháp nâng cao nâng cao hiệu quả THPL hòa giải trên phạm vi cả nước,
góp phần thực hiện dân chủ hóa mọi mặt của đời sống xã hội, duy trì, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và phát triển đất nước thực sự giàu đẹp,
dân chủ, văn minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về THPL về HGCS, đánh
giá thực trạng hoạt động THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH, Luận
án đề xuất các giải pháp bảo đảm THPL về HGCS ở nước ta trong điều kiện
hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận án đề ra các nhiệm vụ cụ thể sau:


4


- Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án.
- Làm rõ những vấn đề lý luận THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng
ĐBSH.
- Đánh giá thực trạng việc THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng
ĐBSH; những kết quả, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân, những yếu tố ảnh
hưởng đến THPL về HGCS.
- Đề xuất các giải pháp bảo đảm THPL về HGCS trên phạm vi cả nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Về đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở nhiệm vụ nghiên cứu, luận án xác định đối tượng nghiên
cứu là việc THPL và những yếu tố ảnh hưởng đến THPL về HGCS trong phạm
vi các tỉnh thuộc vùng ĐBSH, bao gồm:
+ Các quy định pháp luật về HGCS, các văn bản hướng dẫn thực hiện
pháp luật HGCS của trung ương và của các tỉnh thuộc vùng ĐBSH.
+ Nội dung/thực tiễn THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: Luận án tiến hành nghiên cứu THPL về
HGCS ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH (11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
gồm Hà Nội, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Hải
Dương, Hưng Yên, Ninh Bình).
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2009 - 2017.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
- Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trong đó nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến được vận dụng để nghiên cứu sự chi phối của các điều kiện
kinh tế-xã hội với chế định hòa giải ở cơ sở và thực hiện pháp luật hòa giải ở

cơ sở; về mối liên hệ giữa thực hiện pháp luật về hòa giải với việc thực hiện

5


các quy tắc xã hội khác như các chuẩn mực đạo đức, hương ước, luật tục, giáo
lý... Nguyên lý về về sự phát triển được vận dụng để làm rõ hơn quá trình phát
triển của chế định hòa giải ở cơ sở trước và sau thời kỳ đổi mới, những thay đổi
trong nhận thức của xã hội về vai trò của thực hiện pháp luật hòa giải ở cơ sở
trong quá trình giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp trong nhân dân. Bên cạnh
đó, quy luật mâu thuẫn và đấu tranh giữa các mặt đối lập được vận dụng để
xem xét, đánh giá kết quả thực hiện các quy định pháp luật về giải quyết mâu
thuẫn, tranh chấp theo hướng ôn hòa, bền vững, không có bên thắng bên thua.
Một số phạm trù như nguyên nhân và kết quả, khả năng và hiện thực, nội dung
và hình thức, cái chung và cái riêng cũng được vận dụng khi xem xét, đánh giá
thực tiễn THPL về HGCS với đặc thù của ĐBSH.
Luận án vận dụng các lý thuyết sau:
+ Lý thuyết về dân chủ và quyền con người trong xã hội hiện đại.
+ Lý thuyết về vai trò của các thiết chế xã hội.
+ Lý thuyết về nhà nước pháp quyền.
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
HGCS và dân chủ ở cơ sở.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được tác giả sử dụng trong
quá trình nghiên cứu:
- Phương pháp lịch sử: Xem xét quá trình hình thành và phát triển của
chế định hoà giải trong lịch sử tại ĐBSH trong mối liên hệ với các hiện tượng
văn hoá khác trong xã hội đương đại.
(Sử dụng chính trong Chương 2: Những vấn đề lý luận về thực hiện
pháp luật về hoà giải cơ sở).

- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu, so sánh:
+ Phân tích những vấn đề lý luận về HGCS; THPL về HGCS.
+ Tổng hợp các nghiên cứu có liên quan.

6


+ Tổng hợp các tài liệu lý thuyết, lý luận của một số nước thế giới
về lĩnh vực hoà giải.
+ Tổng hợp các tài liệu thực tiễn, các quy định pháp luật về HGCS được
thực hiện ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH và trong phạm vi cả nước, phân tích kết
quả theo những định hướng nghiên cứu.
(Sử dụng chính trong Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về đề
tài và Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoà giải cơ sở ở các tỉnh
thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng).
- Phương pháp điều tra xã hội học: Xác định các chủ thể tham gia (trực
tiếp, gián tiếp) vào quá trình THPL về HGCS; xây dựng bộ công cụ, cỡ mẫu và
tiến hành khảo sát trên một số địa bàn thông qua khảo sát bằng bảng hỏi, phỏng
vấn sâu, tổ chức họp nhóm chuyên đề (nếu thấy cần thiết) để xác định vai
trò, động cơ hành động và nguyện vọng/mong muốn của các nhóm
chủ thể tham gia/cũng có thể để giải quyết/làm sáng tỏ câu hỏi nghiên cứu đã
đặt ra; từ đó củng cố vấn đề nghiên cứu nhằm đạt được mục đích nghiên cứu
của luận án.
(Sử dụng chính trong Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoà
giải cơ sở ở các tỉnh thuộc vùng Đồng bằng Sông Hồng).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Luận án vận dụng lý luận THPL để tiến hành một nghiên cứu chuyên
biệt về THPL về HGCS với những đặc thù của vùng ĐBSH.
- Luận án đánh giá thực trạng THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng
ĐBSH trên cơ sở nội dung của pháp luật về HGCS; nêu rõ những kết quả đạt

được; những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, những vấn đề đang đặt ra đối với
hoạt động THPL về HGCS.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp bảo đảm THPL về HGCS ở các
tỉnh nói trên và cả nước đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội trong
tình hình mới.

7


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Từ những vấn đề có liên quan, Luận án làm rõ thêm, phong phú thêm
những vấn đề lý luận về THPL về HGCS: khái niệm HGCS, pháp luật HGCS;
khái niệm, vai trò, nội dung, hình thức, chủ thể THPL về HGCS; các yếu tố
ảnh hưởng đến THPL về HGCS.
6.2. Về mặt thực tiễn
Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên, có hệ thống lý luận và thực
tiễn về THPL về HGCS ở các tỉnh thuộc vùng ĐBSH. Những kết quả nghiên
cứu của Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
giảng dạy, tập huấn, bồi dưỡng cho cán bộ làm công tác quản lý và cán bộ trực
tiếp làm công tác HGCS, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả THPL về
HGCS.
Kết quả nghiên cứu của Luận án có thể là cơ sở để tham vấn cho các cơ
quan quản lý nhà nước trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, phổ biến, giáo
dục pháp luật, tổ chức THPL, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN.
Luận án cũng mở ra các hướng nghiên cứu chuyên sâu như: THPL về
HGCS ở các vùng, địa bàn khác trên cả nước, đảm bảo bình đẳng giới trong
THPL về HGCS, những tác động cá nhân tới các quá trình xã hội, vấn đề phát
huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân để thực hiện các mục tiêu xã hội,....

7. Kết cấu của luận án
Ngoài Phần mở đầu và Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận
án gồm 4 Chương và 13 tiết.

8


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ ĐỀ TÀI
1.1. Tình hình nghiên cứu về hoà giải cơ sở, pháp luật hoà giải cơ sở

1.1.1. Tình hình nghiên cứu về hoà giải cơ sở
Trên thế giới hiện nay, nghiên cứu về HGCS đã được quan tâm hơn bởi
những chứng minh về giá trị bền vững cũng như những hiệu quả mà nó mang
lại. Xu hướng chung của thế giới hiện nay là muốn định chế hoà giải phải được
tăng cường hơn nữa, thâm nhập sâu hơn nữa vào đời sống, đặc biệt là trong
lĩnh vực kinh tế, xã hội thể hiện ở việc ngày càng (đặc biệt là những năm đầu
thế kỷ XXI) có nhiều nghiên cứu về phương thức giải quyết tranh chấp ngoài
toà án - giải quyết tranh chấp thay thế (Alternative Dispute Resolution- ADR)
trong đó hoà giải được nhìn nhận là một phương thức hữu hiệu. Những nghiên
cứu đã tập trung theo ba hướng sau: Thứ nhất, nghiên cứu về phương thức hoà
giải trong giải quyết tranh chấp nói chung; Thứ hai, nghiên cứu về các phương
thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án; Thứ ba, nghiên cứu so sánh về hoà giải
và xu hướng phát triển của hoà giải trên thế giới [149].
Nhóm nghiên cứu thứ nhất về phương thức hoà giải trong giải quyết
tranh chấp nói chung đã có nhiều công trình nghiên cứu đã được xuất bản như
Mediation: Principles and Practice (Hoà giải: Các nguyên lý và thực tiễn) của
tác giả Kimberlee Kovach (NXB West, tháng 5/2004), Mediation: Theory and
Practice (Hoà giải: Lý thuyết và thực tiễn) của tác giả Suzanne McCorkle và
Melanie J.Reese (NXB Allyn & Bacon, tháng 5/2004), .... Nhóm nghiên cứu

thứ hai, nghiên cứu về các phương thức giải quyết tranh chấp ngoài toà án có
các công trình đã công bố như: Quyển ADR: Law and Practice (ADR: Pháp
luật và thực tiễn) tác giả Edward A.Dauer (NXB Juris Net, LLC tháng 8/2003),
Quyển Alternative Dispute Resolution in a nushell (Sơ lược về giải quyết tranh
chấp ngoài toà án) tác giả Jacqueline M.Nolan - Haley (NXB Thomson West,
tháng 4/2008), ... Nhóm nghiên cứu thứ 3, so sánh về hoà giải và xu hướng
phát triển của hoà giải trên thế giới có một số nghiên cứu của GS Nadja
Alexander - thành viên Hội đồng cố vấn quốc gia về giải quyết tranh chấp

9


ngoài Toà án Ôxtraylia: "Mediation on Practice: Common law and Civil law
Perspectives Compared", "What's law got to do with it? Mapping Modern
Mediation movement), Mediation and the Art of Regulation,... sách chuyên
khảo "Global Trends in Mediation" (Các xu hướng toàn cầu về hoà giải) (NXB
Kluwer Law International, 2006),...[94].
Bên cạnh đó, các học giả phương Tây cũng dành nhiều thời gian cho các
hình thức nghiên cứu về hoà giải: Sternberg, Robert J .; Dobson, Diane M.
(1987). "Giải quyết xung đột giữa các cá nhân: Một phân tích về sự nhất quán
trong phong cách", Tạp chí Nhân cách và Tâm lý xã hội (American
Psychological Association) [169]. Theo đó, tác giả đã thí nghiệm về phương
thức giải quyết xung đột trên 3 nhóm chủ thể với 3 loại xung đột khác nhau (từ
những xung đột cá nhân với cá nhân đến những xung đột giữa cá nhân với tổ
chức và giữa các tổ chức với nhau, theo nội dung xung đột từ đơn giản đến
phức tạp), thông qua đó để tìm ra tính chung nhất trong cách giải quyết xung
đột của các chủ thể.
Các tác giả SB Goldberg; ED Xanh; FEA Sander, trong nghiên cứu của
mình ADR (Alternative Dispute Resolution) Problems and Prospects Looking
to the Future (Nghị quyết tranh chấp thay thế - Các vấn đề và triển vọng nhìn

về tương lai) đã phân tích những hình thức của ADR, những ưu điểm, giá trị
tích cực của nó mang lại, đồng thời đưa ra quan điểm "ưu tiên cho đối thủ
thách thức trong bối cảnh đối lập, và luật sư quen với các bên tranh chấp và
ưu đãi cho các quá trình tòa án". Theo nhóm tác giả, nội dung nghiên cứu về
các hình thức giải quyết tranh chấp thay thế: ADR, trong đó tập trung chủ yếu
vào hình thức hòa giải, nghiên cứu nhu cầu phát triển một mạng lưới ADR,
chẳng hạn như một trung tâm giải quyết tranh chấp, mà sẽ hướng dẫn các bên
trong việc lựa chọn phương thức/cách thức giải quyết tranh chấp phù hợp với
tranh chấp của họ. Con đường sự nghiệp phải được phát triển cho những người
quan tâm đến dịch vụ ADR, trong đó hàm ý sự phát triển của các bộ luật và
tiêu chuẩn, chứng nhận và đào tạo [168]. Tania Sourdin, Giáo sư luật và giải
quyết tranh chấp, Đại học Monash, Oxtraylia, một chuyên gia về giải quyết

10


tranh chấp thay thế đã công bố hàng chục công trình nghiên cứu về vấn đề
ADR, hoà giải. Trong các công trình của mình, Tania Sourdin đã từng đưa ra
những quan điểm khẳng định vị trí, vai trò của hòa giải với tư cách là một hình
thức chủ đạo, độc đáo trong các hình thức ADR cần nghiên cứu và phát triển
[170]. Jonh J.Wilkinson từng viết về hoà giải: "Trước tiên và trên hết, các
phương pháp này tiết kiệm đáng kể chi phí của các bên tranh chấp. Rõ ràng là
chi phí kiện tụng có thể giảm đi đáng kể nếu như các bên có thể giải quyết
những bất đồng của mình trong vòng 6 tháng thay vì kiện tụng kéo dài hàng
năm" [160].
Trong nghiên cứu về những hình thức giải quyết tranh chấp thay thế ADR, theo tác giả Robert Mnookin, Trường Luật Harvard, ADR bao gồm: hòa
giải, trọng tài và một hoạt động có tính "lai" giữa hoà giải và trọng tài, hoạt động
hỗ trợ giải quyết các tranh chấp pháp lý mà không cần xét xử chính thức. Theo
tác giả, lợi ích tiềm năng của hoạt động này được cho là bao gồm việc giảm các
chi phí giao dịch, quy trình ADR có thể rẻ hơn và nhanh hơn so với thủ tục tố

tụng bình thường; việc tạo ra các nghị quyết đó là phù hợp hơn với lợi ích cơ
bản và nhu cầu của các bên; và cải thiện sự tuân thủ tự nguyện với các điều
khoản của nghị quyết. Tập trung nghiên cứu về hoà giải trong giải quyết tranh
chấp, xích mích giữa các cá nhân trong xã hội, tác giả cho rằng hoà giải cùng
những hình thức khác sẽ tạo ra những điều kiện cho sự ổn định xã hội [164].
Trong cuốn "Party-Directed mediation: Facilitating dialogue between
individuals" (Hòa giải theo định hướng của Đảng: Tạo thuận lợi cho đối thoại
giữa các cá nhân) của tác giả Gregorio BillikoPF, Đại học California đã tiến
hành nghiên cứu hoà giải dưới góc độ các phương pháp tiến hành để đạt được
mục đích của hoà giải: họp riêng - "họp kín", họp chung, lắng nghe - đồng
cảm,.... Theo tác giả, hoà giải để đạt được mục đích đặt ra cần có phương pháp,
biện pháp làm giảm những áp lực tâm lý của các bên xung đột thông qua các
trung gian hoà giải - hoà giải viên, việc đưa hình ảnh kênh đào Panama - một
ẩn dụ cho hình ảnh một hoà giải viên với vai trò trung gian làm giảm áp lực
của dòng nước - sự cáu giận, bực tức của các bên tranh chấp bằng việc lắng

11


nghe, đồng cảm để từ đó thiết kế các cuộc "họp kín" trước hoà giải sẽ đạt được
mục đích của hoà giải. Tác giả cũng nhận định, hoà giải - một hình thức của
ADR sẽ ngày càng phát triển bởi những giá trị tích cực của nó [158].
Đối với các nước châu Á, đặc biệt là những nước ASEAN, do ảnh hưởng
của văn hoá Phương Đông, hình thức hoà giải ra đời, phát triển và được thể chế
hoá thành những quy định pháp luật sớm hơn ở những nơi khác trên thế giới. Ở
Trung Quốc, chế độ hòa giải nhân dân của Trung Quốc bắt đầu hình thành
trong cuộc chiến cách mạng ruộng đất, đến năm 1921, Ủy ban hòa giải nhân
dân đầu tiên được hình thành, sau đó, hơn 2 vạn tổ chức hòa giải được thành
lập ở khắp cả nước. Đây là hình thức hoà giải những mâu thuẫn, tranh chấp
giữa nhân dân với nhau, do các Uỷ ban hoà giải tiến hành. Năm 2010, Trung

Quốc đã ban hành Luật Hoà giải nhân dân và cho đến nay lực lượng hoà giải
viên ở nước này đã phát triển mạnh mẽ (82.4 vạn tổ chức hòa giải nhân dân với
494 vạn hòa giải viên) đã đóng góp quan trọng trong việc giữ vững ổn định xã
hội của Trung Quốc. Tương tự như ở Trung Quốc, tại Nhật Bản, Lào, Thái
Lan, Xingapo đều phát triển những hình thức hoà giải kiểu này để giải quyết
những mâu thuẫn, xích mích trong nội bộ nhân dân dưới những phương pháp,
hình thức khác nhau nhưng cùng trên một nền quan điểm, đó là: đây là một
hình thức phi toà án, có thể và do những công dân có uy tín, năng lực, hiểu biết
đảm nhiệm.
Chính sự quan tâm, tập trung nghiên cứu về hoà giải đã đã cho thấy
phương thức giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn và xung đột trong xã hội
thông qua con đường hoà giải có chiều hướng trở thành xu thế của thời đại.
Với những ưu điểm so với những phán quyết của Toà án, tính hiệu quả, tiết
kiệm thời gian, kinh tế, tạo lập các giá trị bền vững và tạo điều kiện để giảm tải
công việc cho cơ quan Toà án đã tạo cho hoà giải - với tư cách là một hình thức
ADR hữu hiệu, ngày càng phát triển và đi sâu vào đời sống xã hội dù ở bất kỳ
quốc gia, châu lục nào.
- Trong nước cũng có nhiều công trình nghiên cứu về hoà giải, cụ thể:

12


+ Trong khuôn khổ dự án Phát triển Tư pháp và sự tham gia từ cơ sở
(JUDGE) do Cơ quan Phát triển quốc tế Canada (CIDA) tài trợ, Vụ Phổ biến,
giáo dục pháp luật - Bộ Tư pháp đã phối hợp với một số cơ quan liên quan tiến
hành dự án "Khảo sát xã hội học về hoạt động hoà giải cấp cơ sở" trên phạm vi
toàn quốc từ tháng 5 đến tháng 10 năm 2009 nhằm tìm hiểu, đánh giá hiệu quả
của công tác hoà giải tại cấp cơ sở, từ đó đưa ra những khuyến nghị mang tính
định hướng cho việc kiện toàn pháp luật về HGCS.
+ PGS. TS Bùi Quang Dũng với các bài viết "Giải quyết xích mích trong

nhóm gia đình: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định tính", "Giải quyết
xích mích trong nội bộ nhân dân: phác thảo từ những kết quả nghiên cứu định
tính" - đăng trên Tạp chí Xã hội học số 1 và số 3 năm 2002; "Hòa giải ở nông
thôn miền Bắc Việt Nam (giả thuyết dành cho một cuộc nghiên cứu)" đăng trên
Tạp chí Xã hội học, số 4 năm 2001. Thông qua việc nghiên cứu tại 3 tỉnh đặc
trưng (Sóc Trăng, Quảng Ngãi, Hải Dương) và nghiên cứu sơ bộ tại 01 xã
thuộc tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả nhận định "Hoà giải đã có thể coi là một xu
hướng trong giải quyết mâu thuẫn, xích mích" và đưa những quan điểm nhận
diện về những mâu thuẫn phát sinh, xu hướng giải quyết, người giải quyết, vai
trò của người đàn ông trong gia đình, xã hội ở nông thôn miền Bắc Việt Nam.
- Ngoài ra, còn có nhiều sách chuyên khảo viết về HGCS:
+ Tài liệu "Đánh giá năng lực cán bộ tư pháp cấp tỉnh về quản lý,
hướng dẫn công tác hoà giải cơ sở", trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ
trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010",
Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2005.
- Tài liệu "Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp luật" do Nhà
xuất bản Tư pháp, Hà Nội xuất bản năm 2006.
- "Công tác Hoà giải cơ sở" - Bộ tài liệu tập huấn thống nhất về công tác
HGCS dành cho cán bộ tư pháp và các hòa giải viên do Bộ Tư pháp xây dựng
trong khuôn khổ Dự án VIE/02/015 "Hỗ trợ thực thi Chiến lược phát triển hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010" do Chương trình phát triển của Liên
hợp quốc (UNDP), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Thụy

13


Điển (Sida), cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế của Chính phủ Đan Mạch
(DANIDA), Chính phủ Na Uy và Chính phủ Ai Len tài trợ.
Bên cạnh đó, còn có nhiều bài báo khoa học viết những vấn đề liên quan
đến HGCS như:

- Tác giả Nguyễn Thị Lan với bài viết: "Xây dựng sự đồng thuận xã hội
ở nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản số 23 năm 2007. Trong bài viết của
mình, tác giả cho rằng "Về cơ sở lý luận, xây dựng sự đồng thuận xã hội chính
là giải quyết mâu thuẫn giữa những mặt đối lập, giữa những sự bất đồng, khác
biệt. Nhưng đấu tranh ở đây không phải là bằng bạo lực, mà bằng hiệp
thương, thảo luận để đi đến sự thống nhất, tạo điều kiện cho sự nghiệp xây
dựng, phát triển đất nước thu được nhiều thắng lợi'. Trong một số bài viết sau
này về đồng thuận xã hội, tác giả tiếp tục đề cập đến việc giải quyết mâu thuẫn
giữa các mặt đối lập lập thông qua thoả thuận, hiệp thương là một biện pháp
tạo sự đồng thuận. Ở đây, thoả thuận, hiệp thương để đi đến thống nhất bản
chất chính là thương lượng, hoà giải.
- Tác giả Phạm Văn Đức với bài viết "Vai trò và cơ sở của đoàn kết xã
hội ở Việt Nam hiện nay", Tạp chí Triết học số 1 năm 2008 thì cho rằng: "Nếu
quan niệm giải quyết mâu thuẫn mới chính là động lực của sự phát triển xã hội
thì việc sớm phát hiện và giải quyết mâu thuẫn đóng vai trò quan trọng tạo ra
sự đoàn kết và đồng thuận xã hội. Để tạo ra sự đồng thuận xã hội, đoàn kết
hay thống nhất xã hội, chúng ta phải kịp thời phát hiện những mâu thuẫn và
giải quyết những mâu thuẫn đó".
- Tiến sĩ Chu Văn Tuấn, Viện Khoa học xã hội có bài viết "Đồng thuận
xã hội: một số vấn đề lý luận" đăng trên tạp chí Triết học số 7 năm 2009. Trong
bài viết của mình, tác giả Chu Văn Tuấn đã đề cập đến một trong những con
đường để tạo sự đồng thuận xã hội đó chính là "giải quyết mâu thuẫn giữa các
mặt đối lập" mà "không thể giải quyết mâu thuẫn giữa các mặt đối lập ấy,... bằng
bạo lực, mà phải thông qua sự thương lượng, thoả thuận để đi đến sự đồng tình,
nhất trí". Ở đây, tác giả gián tiếp nhắc đến hoà giải như một con đường tạo sự

14


đồng thuận xã hội - mà đồng thuận xã hội là một mục đích hướng đến của xã hội

dân sự hiện đại, do vậy hoà giải là một xu thế trong tình hình mới.
1.1.2 Tình hình nghiên cứu về pháp luật hoà giải cơ sở
- Các công trình nghiên cứu:
+ Tác giả Nadfa Alexander, Giáo sư Bộ môn Giải quyết xung đột, Trung
tâm Nghiên cứu Xung đột và Hoà bình Australia, Trường Đại học Queensland
Brisbane, Australia có công trình nghiên cứu với chủ đề "Tiến tới một hệ thống
quy định cho hoạt động hoà giải cơ sở tại Việt Nam" [15]. Trong nội dung
nghiên cứu, thông qua việc nghiên cứu điển hình tại 5 quốc gia (Papua New
Guinea, Sri Lanka, Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore) và giới thiệu khung
lý thuyết cho việc so sánh, phân tích thực tiễn quy định điều chỉnh hoạt động
hoà giải ở các hệ thống tài phán khác nhau, tác giả đã gợi mở nhiều vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về HGCS ở Việt Nam.
+ Đề tài khoa học cấp Bộ "Công tác Hoà giải cơ sở - những vấn đề lý
luận và thực tiễn" [104] do Trung tâm công tác lý luận, Uỷ ban Trung ương
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện. Đề tài đã hệ thống những vấn đề lý luận
về HGCS, những quy định của pháp luật về HGCS đến thời điểm nghiên cứu,
qua đó đánh giá thực trạng công tác HGCS, những vấn đề đặt và và đề xuất
những giải pháp nâng cao chất lượng HGCS.
+ Đề tài "Hòa giải tranh chấp đất đai tại Việt Nam: Phân tích pháp luật
hiện hành, các thực tiễn và khuyến nghị cho cải cách" [141] do Viện Nghiên
cứu Chính sách, Pháp luật và Phát triển (PLD) thực hiện. Đề tài đã tập trung
nghiên cứu về hoạt động hoà giải (trong đó có HGCS) đối với những tranh
chấp đất đai; trên cơ sở tổng quan các nguyên tắc và pháp luật liên quan đến
hòa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Việt Nam, đề tài đã đưa ra
những khuyến nghị để giúp cho hoạt động này có hiệu quả.
+ Đề tài khoa học độc lập cấp Nhà nước “Thể chế hòa giải ở Việt Nam –
Những vấn đề lịch sử và đương đại” [150] do PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn làm
Chủ nhiệm. Nội dung Đề tài đã tập trung nghiên cứu: Cơ sở lý luận về hoà giải,
làm rõ những giá trị xã hội nhân văn và vai trò của hoà giải trong giải quyết


15


tranh chấp, mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam; vai trò của thể chế hòa giải trong
điều chỉnh tổ chức và hoạt động hòa giải; Lịch sử hình thành và phát triển của
định chế hoà giải ở Việt Nam trước năm 1945; Thực trạng tổ chức và hoạt
động của các định chế hoà giải ở Việt Nam từ khi thành lập Nhà nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà (1945) đến thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước (năm
1986 đến nay); Dự báo xu hướng vận động và phát triển của thể chế hòa giải ở
Việt Nam trong bối cảnh xây dựng kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây
dựng nhà nước pháp quyền XHCN; Những tiền đề, đặc trưng, nhu cầu hoàn
thiện thể chế về hoà giải của Việt Nam và tác động của nó đến đời sống xã hội;
Nghiên cứu mô hình lý luận của đạo luật về hoà giải của Việt Nam, điểm nhấn
là Luật HGCS; Nghiên cứu về hòa giải và thể chế hòa giải ở một số nước và
khả năng vận dụng kinh nghiệm của các nước đó trong điều kiện Việt Nam.
- Các bài báo khoa học viết về pháp luật HGCS như:
+ Tác giả Trương Thế Côn với bài viết "Pháp luật về hòa giải cơ sở thực
trạng và giải pháp hoàn thiện", Tạp chí Dân chủ và pháp luật số 10/2008
(trang 17-22). Tác giả Phạm Thái Quý có bài viết "Việc ly hôn có bắt buộc phải
qua hoà giải cơ sở trước khi khởi kiện tại toà án?", Tạp chí Dân chủ và pháp
luật số 10/2009 (trang 48-50). Tác giả Trần Huy Liệu, Lưu Tiến Minh có bài
viết "Những nội dung cần điều chỉnh của dự án Luật Hoà giải cơ sở" đăng trên
tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 16/2011....
+ Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề năm 2012 có nhiều bài viết
về HGCS, cụ thể: PGS.TS Hà Hùng Cường có bài viết "Hoà giải cơ sở và vấn
đề hoàn thiện pháp luật về hoà giải cơ sở ở Việt Nam"; TS Nguyễn Thuý Hiền
có bài viết "Quan điểm xây dựng Luật Hoà giải cơ sở - các nguyên tắc của hoà
giải cơ sở"; tác giả Nguyễn Duy Lãm với bài viết "Tổ chức và hoạt động hoà
giải cơ sở theo quy định của Pháp lệnh năm 1998 - Thực trạng và giải pháp
hoàn thiện"; tác giả Nguyễn Văn Lâm có bài viết "Công tác hoà giải cơ sở ở

tỉnh Long An".... Ngoài ra, trên trang điện tử "duthaoonline.com" còn có rất
nhiều bài viết có nội dung phân tích, tham gia đóng góp ý kiến vào dự thảo
Luật Hoà giải ở cơ sở.

16


+ Tháng 6 năm 2014, Bộ Tư pháp ban hành "Đặc san tuyên truyền pháp
luật số 06/2014 - Chủ đề Luật Hoà giải ở cơ sở". Với mục đích cung cấp cho
những người quan tâm đến công tác hoà giải đặc biệt là những người làm công
tác HGCS có một cái nhìn toàn diện, tổng thể về công tác HGCS ở Việt Nam,
Đặc san đã được Bộ Tư pháp biên soạn công phu với nhiều nội dung về HGCS,
cụ thể: i) Hoà giải và vai trò của HGCS trong đời sống xã hội; ii) Quá trình
hình thành và phát triển của pháp luật HGCS ở Việt Nam; iii) Giới thiệu Luật
Hoà giải ở cơ sở và các văn bản hướng dẫn thi hành; iv) Giới thiệu Luật Hoà
giải nhân dân ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và Luật về các trung tâm hoà
giải cộng đồng của Singapore. Đặc san cũng tổng hợp tình hình THPL về
HGCS trên phạm vi cả nước (những ưu điểm, hạn chế, tồn tại, vướng mắc,...),
phân tích sâu sắc những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc ban hành Luật
Hoà giải ở cơ sở.
+ Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề tháng 9 năm 2014 về Thể
chế hòa giải ở Việt Nam, có nhiều bài viết về HGCS, cụ thể: TS. Nguyễn Văn
Sáu với bài viết "Một số vấn đề chính sách và pháp luật về hòa giải trong thời
kỳ đổi mới"; GS.TSKH.VS. Nguyễn Duy Quý với bài viết "Bàn về một số yếu
tố tác động và chi phối thể chế hòa giải ở Việt Nam"; PGS.TS Nguyễn Tất
Viễn "Vai trò của hòa giải trong giải quyết xung đột xã hội".
1.2. Tình hình nghiên cứu về thực hiện pháp luật, thực hiện pháp luật hoà giải cơ sở

1.2.1. Tình hình nghiên cứu về thực hiện pháp luật
Vấn đề THPL đã được nhiều nhà khoa học, nhà luật học trên thế giới

nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau. Đối với các nhà khoa học pháp lý
Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu trước đây, thường nghiên cứu về THPL
dưới 2 góc độ: một mặt, tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về THPL: khái
niệm, đặc điểm, hình thức, vai trò, …mặt khác, nghiên cứu THPL dưới góc độ
bộ phận cấu thành của cơ chế điều chỉnh pháp luật trong quan hệ với xây dựng
và bảo vệ pháp luật, tăng cường pháp chế.
Theo tác giả Đỗ Xuân Lân, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu về
THPL, cụ thể: PGS.TS. Gorshunov D.N, trong nghiên cứu của mình “Những

17


yếu tố tâm lý xã hội trong thực thi pháp luật”, đã làm rõ những yếu tố tâm lý
xã hội trong thực thi pháp luật, đó là: i) Tâm lý và lợi ích cá nhân; ii) Nhận
thức cá nhân và sự trợ giúp; iii) mục tiêu đồng thuận với mục đích cá nhân; iv)
nền tảng và truyền thống. Ngoài ra, nghiên cứu về hệ quả THPL, Becker”s đã
phân tích mối liên hệ giữa nhận thức của chủ thể về hành vi có thể vi phạm
pháp luật với hậu quả đưa đến là bị phạt và tính tới giá trị xã hội của thi lợi bất
chính do vi phạm pháp luật đem lại. Ông đưa ra kết luận hình phạt tối đa và
thực thi tối thiểu là phương pháp tối ưu. S.Shavell, Đại học Harvard đã vận
dụng mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng để phân tích mối liên hệ giữa
THPL chung và THPL chuyên ngành. AM Polinskyn phân tích vai trò của cơ
quan nhà nước và các thiết chế khác trong thi hành pháp luật. Eric Ostrov đã
phân tích mối quan hệ giữa tâm lý với thi hành pháp luật của cảnh sát Mỹ.
Kulcsar Kalman trong công trình: “Cơ sở xã hội học pháp luật” đã dành 01/05
chương để nghiên cứu về tuân theo pháp luật; chính trị và sự áp dụng pháp
luật, chuẩn mực pháp luật và quyết định áp dụng pháp luật; nhân tố chủ quan
trong quyết định áp dụng pháp luật, ra quyết định và tính hiệu quả của pháp
luật; I.Ehrlich đã phân tích mối quan hệ giữa công lý với THPL tối ưu, còn
Heidenson đã bàn về vai trò của phụ nữ trong THPL [72].

Bên cạnh đó, còn có các nghiên cứu về THPL, so sánh giữa các nước,
các vùng, các hệ thống luật khác nhau - nghiên cứu của N.Garoupa trình bày
trong Hội thảo Báo cáo nghiên cứu xây dựng đề án triển khai nhiệm vụ theo
dõi chung về thi hành pháp luật (Hạ Long, Quảng Ninh, Việt Nam ngày 2830/5/2009).
Ở nước ta, những nghiên cứu về THPL rất phong phú, đa dạng và được
tiến hành ở nhiều lĩnh vực. Có nhiều công trình nghiên cứu về THPL, cụ thể:
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp):
“Luận cứ khoa học và thực tiễn triển khai nhiệm vụ theo dõi tình hình thi hành
Pháp luật” do PGS.TS Hà Hùng Cường làm chủ nhiệm [139].
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Điều tra cơ bản tình hình thực
hiện pháp luật ở nước ta hiện nay" do Viện Nghiên cứu Nhà nước và pháp luật

18


thực hiện từ năm 1998 đến năm 2000; chủ nhiệm đề tài PGS.TS. Đào Trí
Úc. Đề tài xác định cơ sở khoa học và tiêu thức điều tra cơ bản; Điều tra việc
thực hiện Hiến pháp, các bộ luật, các đạo luật quan trọng và các văn bản dưới
luật quan trọng được ban hành trong những năm gần đây, cụ thể là kể từ khi
Hiến pháp 1992 được ban hành; Phân tích, tổng hợp đánh giá thực trạng THPL
trên cơ sở kết quả điều tra; Kiến nghị về cơ chế THPL, xây dựng chính sách
pháp luật trong chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2020.
- Về sách nghiên cứu:
+ Chuyên khảo “Áp dụng pháp luật ở Việt Nam hiện nay - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” do TS Nguyễn Thị Hồi (Chủ biên) [63] đã đề cập đến
những vấn đề lý luận về THPL và áp dụng pháp luật; thực tiễn áp dụng pháp
luật trong những lĩnh vực cụ thể ở nước ta hiện nay và những đề xuất, kiến
nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động trong từng lĩnh vực cụ thể
đó nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
+ Chuyên khảo "Thực hiện và áp dụng pháp luật ở Việt Nam" của

PGS.TS Nguyễn Minh Đoan [50] đã làm rõ khái niệm, mục đích, ý nghĩa, hình
thức, quy trình, các bảo đảm và tiêu chí đánh giá hiệu quả THPL ở Việt Nam,
thực trạng và đề xuất các giải pháp; làm rõ về áp dụng pháp luật (khái niệm,
đặc điểm, các trường hợp nguyên tắc, quá trình và quyết định áp dụng); áp
dụng pháp luật tương tự, giải thích pháp luật…
+ Chuyên khảo: "Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" của TS Nguyễn Hồng
Chuyên [35] đã chỉ rõ thực trạng THPL về dân chủ ở cấp xã ở Việt Nam (khảo
sát thực tiễn bằng Phiếu thu thập ý kiến đối với 1000 cán bộ công chức cấp xã
và 1.500 người dân ở các địa bàn trong cả nước), trên cơ sở đó, tác giả đã đề
xuất quan điểm, giải pháp bảo đảm THPL về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
* Một số công trình nghiên cứu về thực hiện pháp luật cụ thể:
+ Luận án “Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt
Nam” của Lê Thanh Bình, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia

19


Hồ Chí Minh năm 2012 [5] nghiên cứu tình hình THPL bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng ở một số nước trên thế giới và rút ra kinh nghiệm có giá trị tham
khảo đối với Việt Nam; nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng ở Việt Nam, phân tích, luận chứng các quan
điểm và giải pháp chủ yếu đảm bảo THPL bảo vệ quyền lợi của người tiêu
dùng ở Việt Nam hiện nay.
+ Luận án "Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam" của Trần
Thị Quốc Khánh, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí
Minh năm 2012 [69] nghiên cứu xây dựng những cơ sở lý luận và thực tiễn về
THPL bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay; Phân tích những đặc điểm của
THPL về bình đẳng giới ở Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng; đưa ra một số

quan điểm, giải pháp THPL về bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay.
+ Luận án " Thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Huỳnh Huyện,
bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012
[66] đã trình bày cơ sở lý luận THPL về trợ giúp pháp lý trong điều kiện xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, nghiên cứu thực trạng cùng các quan
điểm và giải pháp bảo đảm THPL về trợ giúp pháp lý trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền ở Việt Nam.
+ Luận án " Thực hiện pháp luật đối với người nghèo trong nhà nước
pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay" của Đỗ Xuân Lân, bảo vệ tại Học viện
Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2012 [72] đã trình bày cơ
sở lý luận, thực trạng, quan điểm, giải pháp bảo đảm THPL đối với người
nghèo trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Một số luận văn thạc sĩ luật học có nội dung nghiên cứu về THPL ở
những lĩnh vực, nội dung cụ thể, đó là: “Thực hiện pháp luật ở các tỉnh miền núi
phía Bắc nước ta hiện nay – thực trạng và các phương hướng, giải pháp” của Lê
Thanh Bình, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2002 [4]; “Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về Thực hiện pháp luật ở thành phố Hà Nội hiện nay” của Trần
Thị Xuân, , bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2004 [152]; “Nâng cao hiệu

20


quả thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay – từ thực tiễn của thành phố Hải
Phòng” của Đào Thị Mai, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm 2005 [82];
“Thực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
ở Hà Nam hiện nay” của Đinh Thị Huê, bảo vệ tại Đại học Luật Hà Nội năm
2011 [64],...
1.2.2. Các công trình nghiên cứu thực hiện pháp luật hòa giải cơ sở
- Năm 2012, Dự án Luật Hòa giải ở cơ sở được đưa vào Chương trình

xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội. Với mong muốn cung cấp những thông
tin từ thực tiễn THPL về HGCS cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội và các cơ
quan Nhà nước hữu quan nghiên cứu, tham khảo trong quá trình xem xét, thảo
luận về dự án Luật Hòa giải cơ sở, Trung tâm Nghiên cứu khoa học, Viện
Nghiên cứu lập pháp thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội đã tổ chức điều tra dư
luận xã hội về “Thực trạng thi hành Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà
giải cơ sở và việc xây dựng Luật Hòa giải cơ sở” [143]. Dự án điều tra được
tiến hành trên địa bàn 7 tỉnh thành phố trực thuộc trung ương (Hà Nội, TP. Hồ
Chí Minh, Cần Thơ, Nghệ An, Hà Tĩnh, Lạng Sơn, Bắc Ninh) với các nhóm
đối tượng điều tra là các cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia trong lĩnh
vực xã hội và pháp lý liên quan đến hòa giải cơ sở và các hòa giải viên, người
dân tại một số tỉnh, thành phố thực thuộc trung ương và địa phương trên phạm
vi toàn quốc. Kết thúc dự án, đơn vị thực hiện đã cung cấp kết quả điều tra có
tính thực tiễn cao và đưa ra một số khuyến nghị có giá trị tham khảo quan trọng
trong quá trình xây dựng dự Luật Hòa giải ở cơ sở.
- Năm 2016, Sở Tư pháp tỉnh Quảng Bình tiến hành Đề tài nghiên cứu
cấp tỉnh “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động hòa giải ở cơ sở từ thực tiễn
thi hành ở Quảng Bình” [101]. Trên cơ sở khảo sát các đối tượng liên quan đến
hoạt động HGCS (800 phiếu), đơn vị thực hiện đề tài đã có những đánh giá
khách quan về thực trạng THPL về HGCS trên địa bàn tỉnh Quảng Bình và đề
xuất 08 giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động HGCS.
- Luận án "Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế
đối với các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện nay ở nước ta" của

21


×