Tải bản đầy đủ (.docx) (223 trang)

VỐN đầu tư CHO PHÁT TRIỂN KINH tế xã hội đảo PHÚ QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 223 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

NGÔ VĂN THIỆN

VỐN ĐẦU TƯ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ
XÃ HỘI ĐẢO PHÚ QUỐC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 62 34 02 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lê Thị Tuyết Hoa

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2017


1

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU
Để có cơ sở vững chắc cho đề tài nghiên cứu, chương này sẽ trình bày một số
nội dung cơ bản có liên quan đến đề tài như tính cấp thiết, mục tiêu, phạm vi, quy
trình và phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa của nghiên cứu mang lại sau khi nghiên
cứu là gì? Đồng thời thông qua các lược khảo nghiên cứu có liên quan đến đề tài sẽ
giúp tác giả có định hướng chính xác hơn về hướng nghiên cứu của mình.
1.1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Phú Quốc là huyện đảo thuộc tỉnh Kiên Giang nằm ở phía Tây Nam của tổ
quốc và là trung tâm của khu vực Đông Nam Á, có lợi thế quan trọng trong mối liên
kết giao thông hàng hải, hàng không với các quốc gia trong khu vực và thế giới; có
tiềm năng to lớn trong phát triển kinh tế nhất là lĩnh vực du lịch, có vị trí đặc biệt
quan trọng về an ninh, quốc phòng. Do sở hữu những tiềm năng đặc biệt, năm 2004,


Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 178/2004/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng
thể phát triển đảo Phú Quốc đến 2010, tầm nhìn đến 2020. Tháng 9/2005, Thủ tướng
Chính phủ có Quyết định 1197/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt điều chỉnh Quy
hoạch chung xây dựng đảo Phú Quốc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội đảo Phú Quốc đến năm
2020 đã xác định mục tiêu xây dựng Phú Quốc trở thành đặc khu kinh tế -hành chính
vào năm 2020 với vai trò là trung tâm du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, giải trí cao cấp
quốc gia và quốc tế; trung tâm tài chính tầm cỡ khu vực; là đầu mối quan trọng về
giao thông vận tải nội vùng và hàng không quốc tế; là trung tâm nghiên cứu khoa học
công nghệ chuyên ngành; bảo tồn đa dạng sinh học rừng và biển của quốc gia và khu
vực; có vị trí đặc biệt về an ninh và quốc phòng.
Để thực hiện được đề án như trong quy hoạch đòi hỏi Phú Quốc cần phải phát
triển một cách đồng bộ cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống cảng biển, sân
bay, nhà hàng, khách sạn đủ tầm cở và một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao để
đảm bảo cho nhu cầu phát triển. Tuy nhiên sau gần mười bốn năm triển khai đề án,
mặc dù sân bay quốc tế đã sớm hoàn thành đưa vào sử dụng, nhiều


2

khu nghỉ dưỡng cao cấp tầm quốc tế đã được thực hiện nhưng còn nhiều hạng mục cơ
sở hạ tầng vẫn chưa triển khai hoặc có triển khai nhưng còn chậm chưa đáp ứng được
cho nhu cầu phát triển. Một số dự án điển hình như tuyến đường quanh đảo vẫn chưa
được hoàn thiện, hệ thống cảng biển chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách cũng
như là trung tâm trung chuyển hàng hóa của khu vực và quốc tế, nhiều dự án đầu tư
của các doanh nghiệp còn dở dang và chậm hoàn thiện làm ảnh hưởng chung đến mỹ
quan và kế hoạch phát triển KTXH của Đảo. Tất cả những tình trạng trên đều xuất
phát từ nguyên nhân thiếu vốn cho đầu tư phát triển.
Để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế, nhất là vào giai đoạn đầu của quá trình
phát triển, vốn đầu tư là một nhân tố không thể thiếu đòi hỏi Phú Quốc cần phải có

các biện pháp huy động vốn một cách hiệu quả từ nhiều nguồn khác nhau, cả vốn
ngân sách nhà nước, vốn trong và ngoài nước, khơi dậy nguồn lực to lớn trong dân và
các doanh nghiệp từ nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Để thực hiện được điều đó
đòi hỏi Phú Quốc cần phải có một giải pháp hoàn chỉnh ngay từ ban đầu để huy động
vốn đầu tư, có như vậy mới tạo ra được một tầm nhìn trong dài hạn giải quyết vấn đề
về vốn đáp ứng cho nhu cầu phát triển. Về các công trình nghiên cứu mang tính khoa
học về vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương thì từ trước đến nay
cũng có một số đề tài nghiên cứu như huy động vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Trà Vinh, Tây Nguyên, Vùng núi Phía Bắc…Tuy nhiên nghiên cứu về vốn
đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội tại địa phương có định hướng phát triển trở thành
đặc khu như Phú Quốc thì chưa được đề cập. Xuất phát từ yêu cầu đó, tôi đã chọn đề
tài: “Vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội đảo Phú Quốc” để thực hiện luận án
tiến sỹ của mình nhằm tìm ra giải pháp thiết thực tăng cường vốn đầu tư đáp ứng cho
phát triển KTXH của Phú Quốc thời gian tới.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
 Mục tiêu chung

Mục tiêu chung của đề tài là tìm ra các giải pháp nhằm tăng cường vốn đầu tư
đáp ứng cho phát triển KTXH tại đảo Phú Quốc thời gian tới.


3

 Mục tiêu cụ thể
-

Đánh giá được thực trạng vốn đầu tư cho phát triển KTXH tại đảo Phú Quốc trên cả hai
mặt huy động và sử dụng vốn.

-


Đánh giá được tác động của vốn đầu tư đối với phát triển KTXH tại đảo Phú Quốc.

-

Định lượng được các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào đảo Phú Quốc dựa
trên số liệu thu thập được.

-

Đề xuất được các giải pháp tăng cường vốn đầu tư cho phát triển KTXH tại đảo Phú
Quốc trong thời gian tới.
1.3. Câu hỏi nghiên cứu

-

Thực trạng vốn đầu tư cho phát triển KTXH thời gian qua tại Phú Quốc như thế nào?
- Tác động của vốn đầu tư đối với phát triển KTXH tại đảo Phú Quốc ra sao?
- Những yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào Phú Quốc là gì?

-

Chiều hướng và mức độ ảnh hưởng của những yếu tố này đến thu hút vốn đầu tư tại đảo
Phú Quốc như thế nào?

-

Giải pháp gì để tăng cường vốn đầu tư cho phát triển KTXH đảo Phú Quốc trong thời
gian tới, bao gồm tăng cường huy động và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả cho phát
triển KTXH?

1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tượng nghiên cứu: đối tượng nghiên cứu của đề tài là vốn đầu tư cho phát triển
KTXH đảo Phú Quốc trên cả hai mặt huy động và sử dụng vốn.

-

Phạm vi nghiên cứu: Để đạt được mục tiêu, đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng tình
hình vốn đầu tư cho phát triển KTXH của đảo Phú Quốc giai đoạn 2011-2016 trên cả 2
mặt huy động và sử dụng vốn; đánh giá tác động của vốn đầu tư đối với tình hình phát
triển KTXH cùng khoảng thời gian trên; nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình
thu hút vốn đầu tư, từ đó đề ra giải pháp nhằm tăng cường vốn đầu tư đáp ứng cho nhu
cầu phát triển KTXH đảo Phú Quốc thời gian tới. Về địa


4

giới hành chính đảo Phú Quốc thuộc huyện Phú Quốc tỉnh Kiên Giang được quy
hoạch theo Quyết định 178/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
1.5. Phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp thu thập số liệu + Thu
thập số liệu thứ cấp
Các thông tin, số liệu được thu thập từ các báo cáo khoa học, báo chí, internet, hội nghị, báo cáo của Phòng Thống kê huyện Phú Quốc, Cục Thống kê tỉnh Kiên
Giang, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Kiên Giang, Sở Tài chính tỉnh Kiên Giang, Ban
Quản lý phát triển đảo Phú Quốc...Các thông tin này được tổng hợp và phân tích cho
phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.

+ Thu thập số liệu sơ cấp
Đề tài dựa vào các phiếu điều tra từ 230 doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn,
sử dụng phần mềm SPSS 16.0 để phân tích số liệu. Thời gian khảo sát được tiến hành
từ 01/10/2016 đến 31/12/2016.
- Phương pháp nghiên cứu

+

Sử dụng phương pháp tổng hợp nhằm khái quát chung về vốn đầu tư, kinh nghiệm huy
động và sử dụng vốn đầu tư tại các vùng, miền tại Việt Nam và một số quốc gia.

+

Phương pháp phân tích được sử dụng để đánh giá thực trạng vốn đầu tư cho phát triển
KTXH đảo Phú Quốc giai đoạn 2011 – 2016 ở tất cả các mặt như: thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân của những hạn chế về vốn đầu tư tại Phú Quốc, từ đó đề ra giải pháp tăng
cường vốn đầu tư hiệu quả.

+

Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu những kết quả đã đạt được với thời
gian trước đó hoặc với các địa phương khác làm cơ sở cho việc đánh giá.
+

Phương pháp kế thừa được sử dụng để hệ thống hóa các kết quả nghiên cứu có liên
quan đến luận án. Kế thừa các kết quả điều tra, khảo sát, quan tâm nghiên cứu một
số yếu tố đặc thù (vị trí địa lý, điều kiện KTXH,) tác động đến quá trình huy động
và sử dụng vốn đầu tư cho phát triển KTXH của Phú Quốc.



5

+

Phương pháp chuyên gia: lấy ý kiến của các nhà khoa học, lãnh đạo các đơn vị, cán bộ
quản lý doanh nghiệp về một số nội dung liên quan.

+

Phương pháp điều tra: là khảo sát các doanh nghiệp trên địa bàn dựa trên bảng câu hỏi
được thiết kế trước về sự hài lòng của nhà đầu tư đối với môi trường đầu tư tại Phú
Quốc. Các doanh nghiệp được điều tra bao gồm các doanh nghiệp thuộc các ngành
nghề đang hoạt động, kể cả các tổ chức tín dụng. Các thông tin điều tra được là những
thông tin quan trọng về đối tượng cần cho quá trình nghiên cứu và là căn cứ quan trọng
để đề xuất những giải pháp khoa học hay giải pháp thực tiễn.

+

Phương pháp định lượng: sử dụng mô hình phân tích khám phá (EFA) kết hợp với hồi
quy đa biến được xử lý trên phần mềm SPSS 16.0 để định lượng các yếu tố ảnh hưởng
từ đó đưa ra một số đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư cho phát triển
KTXH đảo Phú Quốc.
1.6. Tổng quan về các nghiên cứu trước đó đã công bố
1.6.1. Các nghiên cứu ngoài nước
Robert Solow (1956) lấy hàm sản xuất Cobb-Douglas làm cơ sở để lập ra mô
hình tăng trưởng kinh tế trong điều kiện tiến bộ khoa học, kỹ thuật và đưa ra các tính
toán mức độ đóng góp của từng nhân tố lao động, vốn, công nghệ (thông qua tổng
năng suất các nhân tố - TFP) vào tăng trưởng kinh tế. Nghiên cứu chỉ ra rằng vốn có
vai trò quan trọng, là yếu tố trực tiếp tác động đến phát triển KTXH của quốc gia hay
địa phương. Trên cơ sở mô hình Solow, từ năm 1956 đến nay, có nhiều nhà khoa học

kế thừa nghiên cứu, đánh giá hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển.

Michael Regan (2016), nghiên cứu về vai trò của thị trường vốn đối với phát
triển kinh tế trong khu vực châu Á Thái Bình Dương. Bằng phương pháp tổng hợp
thống kê, so sánh tình hình thu hút vốn đầu tư các nước thuộc khu vực giai đoạn 2007
-2014, đồng thời đánh giá tình hình tăng trưởng kinh tế các nước trong cùng khoảng
thời gian trên, theo tác giả thị trường vốn có vai trò hết sức quan trọng trong việc thu
hút vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế các nước trong khu vực châu Á Thái


6

Bình Dương. Thông qua thị trường này có thể huy động vốn trên diện rộng từ bộ
phận tư nhân, các tổ chức tài chính trung gian và thị trường trái phiếu. Muốn làm
được điều này thì việc phát triển thị trường vốn và tăng cường thu hút đầu tư nước
ngoài có vị trí hết sức quan trọng gắn liền với việc phát triển kinh tế.
Lin Xiong (2010) nghiên cứu về mối quan hệ giữa hiệu quả đầu tư và phát
triển tài chính ở Trung Quốc đã dùng hệ số Icor để đánh giá hiệu quả của việc sử
dụng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế của Trung Quốc bằng việc phân tích hệ số Icor
qua các thời kỳ từ 1986 – 2005 cho 3 lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ
đồng thời phân tích cụ thể từng vùng cho từng địa phương. Để đánh giá tác động của
các nhân tố đến hiệu quả vốn đầu tư, tác giả dùng mô hình hồi quy đa biến để phân
tích, theo tác giả hiệu quả đầu tư chung chịu ảnh hưởng từ hiệu quả của các ngành
nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và tùy theo địa điểm đầu tư. Vì vậy, nhà đầu tư
cần phải nghiên cứu kỹ những nhân tố này trước khi đầu tư.
Dunning (1977), một doanh nghiệp chỉ thực hiện đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài (FDI) khi hội đủ 03 điều kiện: (1) Doanh nghiệp phải sở hữu một số lợi thế so
với doanh nghiệp khác như: quy mô, công nghệ, mạng lưới tiếp thị, khả năng tiếp cận
nguồn vốn có lãi suất thấp hay các tài sản vô hình đặc thù của doanh nghiệp; (2) Nội
vi hóa: việc sử dụng những lợi thế đó trong nội bộ doanh nghiệp có lợi hơn là bán hay

cho các doanh nghiệp khác thuê; và (3) Sản xuất tại nước tiếp nhận đầu tư có chi phí
thấp hơn là sản xuất tại nước mẹ rồi xuất khẩu. Lợi thế địa điểm có thể có được nhờ
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, lao động, rào cản thương mại, chính sách khuyến
khích đầu tư và cả những tác động ngoại vi mà địa điểm có thể tạo ra cho doanh
nghiệp khi hoạt động tại đó.
Kinda (2010), nghiên cứu về tăng cường dòng vốn đầu tư tư nhân vào các nước
đang phát triển. Theo tác giả đầu tư tư nhân gồm có 3 nguồn chính là đầu tư tư nhân
trong nước, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư gián tiếp. Tác giả đã dùng phương
pháp phân tích hồi quy đa biến để xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến dòng vốn tư
nhân đầu tư ở 58 quốc gia đang phát triển. Kết quả nghiên cứu cho thấy


7

các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút dòng vốn đầu tư tư nhân vào các nước đang phát
triển gồm: cơ sở hạ tầng, chính sách đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc
gia, tỷ lệ lạm phát, độ mở của thị trường, giáo dục, tài nguyên thiên nhiên và sự ổn
định của nền kinh tế. Vì vậy, để tăng cường thu hút các dòng vốn trên thì các nước
phải quan tâm cải thiện các yếu tố có ảnh hưởng như đã phân tích.
Vidya Bhushan Rawat, Mamidi Bharath Bhushan, Sujatha Surepally (2011), cho
rằng Ấn độ đã có nhiều thành công trong việc nâng số lượng các SEZ và góp phần
vào tăng trưởng kinh tế của Ấn Độ từ khoảng năm 2000 đến nay. Một số chính sách
Ấn Độ đã áp dụng như có nhiều ưu đãi về thuế như miễn thuế nhập khẩu đối với các
mặt hàng cần thiết cho đầu tư, cần thiết cho nhu cầu phát triển của SEZ; giảm 100%
thuế thu nhập đối với các doanh nghiệp có hoạt động xuất khẩu trong 5 năm đầu,
50% cho 5 năm tiếp theo và giảm tiếp 50% trong 5 năm cuối; miễn thuế đối với lĩnh
vực công nghệ cao; liên kết với các khu vực lân cận để cung ứng nguồn nhân lực
phục vụ cho nhu cầu; thông tin nhanh chóng các chính sách của Chính phủ đến các
doanh nghiệp có nhu cầu; đơn giản hóa thủ tục hành chính, tất cả các thủ tục đều qua
bộ phận một cửa đó là văn phòng thương mại. Để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài,

Chính phủ Ấn Độ đã đầu tư cơ sở hạ tầng để hỗ trợ cho việc vận hành các đặc khu
kinh tế, nhiều đặc khu kinh tế có sân bay, hải cảng và ga tàu riêng
Tuy nhiên việc phát triển các SEZ ở Ấn độ cũng gặp không ít những hạn chế
nhất định như Chính phủ Ấn Độ đã dành các ưu đãi cho các đối tượng nằm ngoài đặc
khu kinh tế và rút bớt ưu đãi cho các đặc khu kinh tế khi ký các thỏa thuận mậu dịch
tự do (FTA); việc thực hiện các chính sách thương mại nước ngoài vào năm 2009 mà
thông qua đó trao một loạt các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cho các nhà đầu tư
ngoài khu vực đặc khu kinh tế chính là nguyên nhân khiến các đặc khu kinh tế không
còn là đích đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư.
1.6.2. Các nghiên cứu trong nước
Nguyễn Văn Hùng (2009), nghiên cứu về tăng cường huy động vốn đầu tư cho
phát triển kinh tế xã hội vùng Tây Nguyên. Qua phân tích thực trạng huy động vốn
đầu tư vùng Tây Nguyên và tác động của vốn đầu tư đối với các chỉ tiêu kinh tế


8

xã hội như tốc độ tăng GDP, thu nhập bình quân đầu người, thu ngân sách nhà nước,
tình hình xuất nhập khẩu, xóa đói giảm nghèo…từ đó rút ra một số thành tựu và hạn
chế và nguyên nhân về huy động vốn đầu tư cho phát triển KTXH. Theo tác giả muốn
tăng cường huy động vốn đầu tư cho vùng Tây Nguyên cần có một số giải pháp như
cải thiện môi trường đầu tư, chính sách thu hút đầu tư và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của vùng.
Nguyễn Văn Bình (2017), nghiên cứu về tăng cường nguồn vốn đầu tư phát
triển kinh tế biển, đảo Việt Nam. Qua phân tích thực trạng tình hình quản lý hoạt
động đầu tư, các chính sách có liên quan đến hoạt động đầu tư biển, đảo Việt Nam, từ
đó đề ra các giải pháp tăng cường vốn đầu tư hiệu quả. Các chính sách được tác giả
gợi ý gồm: tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách trung ương, tăng cường vốn từ
tư nhân, tăng cường vốn đầu tư từ nước ngoài, tăng cường sự hỗ trợ từ các TCTD và
cuối cùng là phải nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng vốn đầu tư.

Nguyễn Văn Dũng (2014), nghiên cứu về huy động vốn đầu tư cho phát triển
kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi của Việt Nam. Để đạt được mục tiêu
nghiên cứu tác giả đã dùng các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh để phân
tích tình hình huy động vốn đầu tư qua các năm để đánh giá tác động của việc huy
động vốn đầu tư đến phát triển kinh tế xã hội vùng dân tộc thiểu số miền núi ở Việt
Nam. Theo tác giả muốn tăng cường huy động vốn đầu tư cho phát triển KTXH vùng
dân tộc thiểu số và miền núi Việt Nam cần phải có chính sách thu hút đầu tư và môi
trường đầu tư phải hấp dẫn, ngoài ra các cấp chính quyền địa phương cần phải đổi
mới tư duy trong việc quản lý và điều hành kinh tế.
Nguyễn Hồng Hà (2015), nghiên cứu về các giải pháp tăng cường huy động
vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội tỉnh Trà Vinh. Tác giả đã dùng phương pháp
tổng hợp, so sánh để phân tích tình hình huy động vốn đầu tư của Trà Vinh giai đoạn
2007-2013, đồng thời sử dụng mô hình phân tích khám phá kết hợp với hồi quy đa
biến để xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư. Dựa vào các kết
quả nghiên cứu đã đạt được theo tác giả muốn tăng cường huy động vốn đầu tư vào
tỉnh Trà Vinh thì cần phải có các giải pháp như hoàn thiện cơ sở hạ tầng,


9

có chính sách thuê đất thích hợp, cải thiện chính sách thuế, tăng cường xúc tiến
thương mại địa phương, nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nghề, bảo vệ môi trường
và thực hiện tốt việc liên kết vùng.
Bùi Mạnh Cường (2012), nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư
công tại Việt Nam đã hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển nguồn
ngân sách nhà nước về mặt xã hội là: nâng cao mức sống người dân, tạo việc làm,
giảm đói nghèo, bình ổn giá cả kiềm chế lạm phát, tăng năng suất lao động, phát triển
sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội. Về mặt môi trường: hạn chế mức độ gia
tăng ô nhiễm môi trường, cải thiện chất lượng môi trường và đảm bảo cân bằng môi
trường sinh thái. Về phát triển bền vững: đóng góp vào phát triển bền vững hệ thống

kinh tế, đảm bảo duy trì sự tăng trưởng đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà
nước và mức độ nợ công, quản lý bền vững tài nguyên, bền vững đa dạng sinh học,
đóng góp vào khoa học công nghệ.
Mai Văn Nam (2008), nghiên cứu việc đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển
Thành Phố Cần Thơ. Khi đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển ở Thành Phố Cần Thơ
tác giả đã sử dụng mô hình Slow bằng cách đánh giá mức độ đóng góp của vốn và lao
động vào tăng trưởng của thành phố, đồng thời đánh giá hiệu quả đầu tư thông qua
chỉ số ICOR. Ngoài ra để đánh giá hiệu quả đầu tư về mặt xã hội tác giả sử dụng chỉ
tiêu GDP bình quân đầu người để đánh giá mức sống của người dân.
Lê Vinh Danh (2004), nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách
nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh có mục tiêu nghiên cứu là phân tích hiện trạng
sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn
1993-2002; đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
tại thành phố Hồ Chí Minh; đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
đầu tư từ ngân sách nhà nước tại thành phố Hồ Chí Minh; từ những thông tin trong
quá trình phân tích, xây dựng một chương trình phần mềm giúp các nhà quản lý dự
án, Sở Kế hoạch và Đầu tư, các cơ quan chức năng có liên quan của thành phố có


10

thể thẩm định sơ bộ mức độ hiệu quả quản lý dự án đầu tư bằng ngân sách hiệu quả
đến đâu trong mỗi giai đoạn quản lý.
Phan Thanh Mão (2003), nghiên cứu giải pháp tài chính nhằm nâng cao hiệu
quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Nghệ An có
đối tượng nghiên cứu là vấn đề chi ngân sách và hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước. Công trình này tập trung vào khía cạnh tài chính của
đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước, giải pháp trọng tâm là hoàn thiện
chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ tín dụng đầu tư phát triển... các vấn đề về
quản lý đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước không được đề cập một cách cụ thể.


Nguyễn Đầu (2005), nghiên cứu tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư
phát triển kinh tế thành phố Đà Nẵng - Thực trạng và giải pháp có đối tượng nghiên
cứu là quá trình huy động, sử dụng có hiệu quả vốn tài chính là nguồn vốn đầu tư chủ
yếu và quan trọng nhất cho đầu tư phát triển kinh tế. Nguồn vốn này còn trực tiếp tạo
năng lực cho việc giải quyết vấn đề xã hội: giáo dục, y tế, việc làm, xoá đói giảm
nghèo...), trong một số trường hợp cần thiết, luận án đề cập đến khía cạnh của sự phát
triển kinh tế - xã hội nhưng không đi sâu vào lĩnh vực xã hội khác.
Nguyễn Thị Giang (2010), nghiên cứu tình hình huy động và sử dụng vốn đầu
tư để phát triển kinh tế khu vực Đồng bằng sông Cửu Long đã tập trung nghiên cứu
làm rõ một số vấn đề lý luận về huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế ở
Đồng bằng sông Cửu Long. Luận án đã đánh giá về huy động và sử dụng vốn đầu tư
để phát triển kinh tế khu vực Đồng bằng sông Cửu Long trong những năm qua. Trong
đó luận án phân tích tác động của huy động và sử dụng vốn đầu tư đến phát triển kinh
tế - xã hội khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trên cơ sở đánh giá thực trạng huy
động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, tác giả chỉ ra những thành công
và hạn chế trong huy động và sử dụng vốn để phát triển kinh tế khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long. Từ đó đề xuất các định hướng và các giải pháp


11

tiếp tục hoàn thiện huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển một cách hiệu quả trên
địa bàn khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Đinh Văn Phương (1999), nghiên cứu tình hình thu thút và sử dụng vốn đầu tư
phát triển kinh tế khu vực miền núi phía Bắc đã làm rõ những nội dung cơ bản về vốn
đầu tư - vấn đề huy động và sử dụng vốn đầu tư phát triển kinh tế, đặc biệt làm rõ vốn
đầu tư tăng cường và đầu tư phát triển, mối quan hệ giữa huy động và sử dụng vốn
đầu tư để phát triển kinh tế; đề xuất các giải pháp hoàn thiện huy động và sử dụng
vốn đầu tư có hiệu quả để phát triển kinh tế, trong đó có việc mở rộng mọi hình thức

liên doanh, liên kết để huy động vốn đầu tư, chính sách thu hút và sử dụng vốn đầu tư
để phát triển. Đây là một nội dung trong quá trình quản lý vốn đầu tư phát triển. Do
vậy, có thể tham khảo khi nghiên cứu quản lý vốn đầu tư phát triển. Tuy nhiên, công
trình này chỉ tập trung vào một khía cạnh của cơ chế quản lý vốn đầu tư phát triển.

1.6.3. Khoảng trống nghiên cứu và điểm mới của luận án
-

Khoảng trống của nghiên cứu: Nhìn chung các công trình nghiên cứu chủ yếu tập trung
vào đánh giá thực trạng tình hình huy động vốn đầu tư, đánh giá tác động của vốn đầu
tư đối với phát triển kinh tế xã hội của quốc gia, địa phương, khu kinh tế; ngoài ra việc
xác định các yếu tố tác động đến việc thu hút vốn đầu tư cũng được nhiều tác giả đề
cập…Tuy nhiên, việc nghiên cứu tình hình vốn đầu tư cho địa phương đặc thù sắp trở
thành đặc khu hành chính – kinh tế đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2020 như Phú Quốc
vẫn còn chưa được ngiên cứu làm rõ.
-

Điểm mới của nghiên cứu: Qua lược khảo các tài liệu nghiên cứu về vốn đầu tư cho
phát triển KTXH, luận án đã thể hiện được các điểm mới sau:
+ Thứ nhất, hầu hết các công trình nghiên cứu trước đây về vốn đầu tư cho
phát triển KTXH chủ yếu tập trung vào nghiên cứu định tính, rất ít tác giả sử dụng
mô hình phân tích định lượng. Đề tài đi sâu nghiên cứu về vốn đầu tư cho phát triển
KTXH đảo Phú Quốc là sự kết hợp giữa nghiên cứu định tính và định lượng


12

với hệ thống thang đo đặc thù riêng cho điều kiện của đảo Phú Quốc, mặc dù có sự kế
thừa từ một số công trình nghiên cứu trước đó.
+


Thứ hai, với nguồn tư liệu phong phú, tin cậy, luận án đã minh chứng, góp phần làm
sáng tỏ thêm thực trạng về huy động vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư, tác động của vốn
đầu tư đối với phát triển KTXH huyện đảo Phú Quốc những năm 2011-2016.

+

Thứ ba, trên cơ sở thực trạng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội huyện đảo Phú
Quốc qua nguồn số liệu thứ cấp, kết hợp với kết quả điều tra khảo sát 230 doanh nghiệp
trên địa bàn Phú Quốc, lượng hóa các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào Phú
Quốc, luận án đã rút ra được những kết luận khách quan về kết quả đạt được, đặc biệt là
phát hiện được nhiều hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế về vốn đầu tư cho
phát triển kinh tế xã hội.

+

Thứ tư, tác giả đã đề xuất được một hệ thống các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng
cường vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội trong những năm tới. Các giải pháp đưa
ra là có cơ sở khoa học, đồng bộ, phù hợp với thực tiễn và mang tính khả thi.
1.7. Ý nghĩa của nghiên cứu
- Về mặt lý luận: Đề tài góp phần hệ thống hóa và làm sâu sắc hơn cơ sở lý
thuyết về vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội.
- Về mặt thực tiễn: Giúp chính quyền địa phương có cơ sở để tăng cường vốn
đầu tư hiệu quả, đáp ứng được nhu cầu vốn cho phát triển KTXH của địa phương vốn
có nhiều tiềm năng nhưng thiếu vốn cho đầu tư phát triển. Ngoài ra, luận án cũng là
một tài liệu đáng tin cậy cho các nhà đầu tư tham khảo trước khi quyết định đầu tư
vào Phú Quốc.
1.8. Kết cấu của luận án
Luận án được kết cấu thành 5 chương:
Chương 1: Tổng quan đề tài nghiên cứu

Chương này giới thiệu về sự cần thiết cũng như mục tiêu nghiên cứu, phạm vi,
đối tượng, quy trình, ý nghĩa của nghiên cứu. Để tìm ra khoảng trống của


13

nghiên cứu, lược khảo tài liệu về các công trình nghiên cứu có liên quan cũng được
đề cập trong chương này.
Chương 2: Cơ sở lý luận về vốn đầu tư đối với phát triển kinh tế xã hội
Chương này trình bày những lý thuyết cần thiết liên quan đến vốn đầu tư cho
phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các khái niệm về đầu tư, vốn đầu tư, khu kinh tế
đặc biệt và tác động của vốn đầu tư đối với phát triển KTXH.
Chương 3: Thực trạng vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội đảo Phú
Quốc.
Nội dung chương này chủ yếu đi sâu phân tích thực trạng tình hình vốn đầu tư
cho phát triển KTXH của Phú Quốc trên 2 mặt: huy động và sử dụng vốn, đồng thời
qua đó rút ra được những thành công, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế về
thực trạng vốn đầu tư cho phát triển KTXH làm cơ sở đưa ra giải pháp tăng cường
vốn đầu tư để phát triển KTXH tại đảo Phú Quốc.
Chương 4: Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư tại đảo Phú
Quốc.
Trên cơ sở sử dụng phương pháp định lượng, chương này đi sâu phân tích các
yếu tố có ảnh hưởng đến tình hình thu hút vốn đầu tư vào Phú Quốc để có cơ sở đưa
ra giải pháp về thu hút vốn đầu tư hiệu quả.
Chương 5: Kết luận và giải pháp tăng cường vốn đầu tư cho phát triển KTXH
tại đảo Phú Quốc.
Chương này thể hiện các kết luận chính mà nghiên cứu đã đạt được, từ đó đưa
ra các giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường vốn đầu tư đáp ứng cho phát triển
KTXH tại đảo Phú Quốc thời gian tới.
1.9. Quy trình nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu về tăng cường vốn đầu tư cho phát triển kinh
tế xã hội đảo Phú Quốc, tác giả tiến hành lược khảo lý thuyết và các nghiên cứu có
liên quan đến đề tài nghiên cứu. Từ khung lý thuyết và các công trình nghiên cứu
trước đó, tác giả đã đưa ra được phương pháp nghiên cứu phù hợp, sau đó tiến hành
phân tích thực trạng, đánh giá tác động của vốn đầu tư đối với phát


14

triển KTXH, nhận diện các yếu tố ảnh hưởng đến thu hút vốn đầu tư vào đảo Phú
Quốc, từ đó rút ra những thành công, hạn chế và nguyên nhân để làm cơ sở cho việc
đề ra giải pháp tăng cường vốn đầu tư cho phát triển KTXH tại Phú Quốc.
Sơ đồ 1.1. Quy trình nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu
Vốn đầu tư cho phát triển KTXH đảo Phú Quốc
Cơ sở lý thuyết
Lý thuyết cơ bản về vốn đầu tư cho phát triển kinh tế xã hội
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu định tính kết
hợp với định lượng (mô hình EFA và
hồi quy đa biến)

Thực trạng, thành công, hạn chế, nguyên nhân và tác động
của các yếu tố đến phát triển KTXH tại đảo Phú Quốc
Giải pháp tăng cường vốn đầu tư cho phát triển
KTXH đảo Phú Quốc


15


CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN ĐẦU TƯ
ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
Việc đưa ra các lý thuyết cơ bản phục vụ cho nghiên cứu là điều cần thiết, vì
vậy, chương này tác giả chỉ tập trung trình bày các lý thuyết cơ bản có liên quan đến
lĩnh vực nghiên cứu như đầu tư, vốn đầu tư phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội, khu
kinh tế đặc biệt và tác động của nó đến phát triển KTXH. Ngoài ra, để có nhiều kinh
nghiệm hơn về tăng cường huy động vốn đầu tư vào Phú Quốc, một số kinh nghiệm ở
một số quốc gia, địa phương cũng được tác giả đề cập trong chương này.
2.1. Đầu tư và đầu tư phát triển
2.1.1. Đầu tư
Từ các góc độ nghiên cứu khác nhau, các nhà kinh tế học đã đưa ra các khái
niệm khác nhau về đầu tư.
Paul A. Samuelson (2002) quan niệm “đầu tư là sự bổ sung vào tư liệu sản xuất,
ví dụ hàng hóa vốn. Hàng hóa vốn gồm các trang thiết bị, nhà xưởng, hay hàng hóa
vật tư lưu kho…“đầu tư” khi họ mua một miếng đất, hay chứng khoán cũ, hay một tài
sản nào đó. Trong kinh tế học, việc mua sắm này chỉ là các khoản chuyển giao tài
chính hay thay đổi cơ cấu tài sản, vì cái mà người này mua chỉ là cái mà ai đó bán.
Đầu tư chỉ thực sự xuất hiện khi tạo ra vốn thực tế”. Định nghĩa này nhấn mạnh ý
nghĩa kinh tế của đầu tư ở tầm vĩ mô.
Trung tâm từ điển Việt Nam (1995), định nghĩa đầu tư là hành động “bỏ vốn
vào một doanh nghiệp, một công trình hay một sự nghiệp bằng nhiều biện pháp như
cấp phát ngân sách, vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm thiết bị mới,
hoặc thực hiện sự hiện đại hóa, mở rộng xí nghiệp nhằm thu doanh lợi hay phát triển
phúc lợi công cộng”. Định nghĩa này nhấn mạnh vào đầu tư phát triển, vào hình thái
biểu hiện và động lực của đầu tư.
Trần Ngọc Thơ (2005), khi nghiên cứu về lĩnh vực tài chính doanh nghiệp theo
tác giả: “Đầu tư là sự hy sinh giá trị chắc chắn ở hiện tại để đổi lấy khả năng


16


giá trị không chắc chắn trong tương lai”. Khái niệm này xem xét đầu tư trên góc độ
rủi ro và thời gian. Một doanh nghiệp đầu tư hàng trăm ngàn đô la xây dựng nhà
xưởng mới. Một luật sư đầu tư hàng chục ngàn đô la xây dựng phòng tư vấn. Một
giáo sư đại học đầu tư hàng chục ngàn đô la mua cổ phần công ty IBM…Những hành
vi trên đều liên quan đến sự hy sinh hiện tại để đổi lấy triển vọng tương lai tốt đẹp.
Với ý nghĩa rộng nhất đó, chúng ta có thể cho rằng tất cả hành vi trên là đầu tư.
Theo Luật đầu tư của Việt Nam (2005), đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng
các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động
đầu tư. Khái niệm này còn chung chung, chưa cho thấy kết quả đầu tư mang lại lợi
ích kinh tế như thế nào nhằm thu hút đầu tư.
Đa số các nhà kinh tế học cho rằng, nội dung cơ bản của khái niệm đầu tư bao
hàm các khía cạnh sau đây:
Thứ nhất, đầu tư là hành động mang tính tích lũy. Để có vốn đầu tư, nhà đầu tư
phải hy sinh một phần tiêu dùng hiện tại, do đó họ luôn so sánh lợi ích giữa đầu tư và
tiêu dùng hiện tại khi quyết định đầu tư. Lợi ích từ đầu tư (lãi suất, lợi nhuận, tăng giá
của tài sản hình thành từ vốn đầu tư…) lớn hơn ích lợi của tiêu dùng hiện tại sẽ
khuyến khích họ đầu tư, còn ngược lại, tiêu dùng hiện tại sẽ được ưu tiên hơn.
Thứ hai, mục đích của đầu tư luôn là giá trị lớn hơn trong tương lai. Bất cứ
khoản đầu tư nào cũng chỉ được bỏ ra khi nhà đầu tư kỳ vọng sẽ thu hồi đủ vốn và có
lãi trong tương lai.
Thứ ba, quyết định đầu tư phụ thuộc vào tính toán của nhà đầu tư. Nhưng xét
trên tổng thể, việc bảo toàn vốn và tạo lãi cho nhà đầu tư phụ thuộc rất lớn vào tình
trạng chung của nền kinh tế quốc gia và thị trường thế giới. Trong nền kinh tế thị
trường, khi cơ chế tự phát còn quyết định trạng thái chung của nền kinh tế, tính bất ổn
của các chu kỳ kinh tế dẫn đến rủi ro đầu tư. Càng bất ổn, càng rủi ro, rủi ro quá cao
sẽ cản trở đầu tư.
Tóm lại, đầu tư là tiết kiệm tiêu dùng hiện tại để đưa một phần của cải xã hội đã
tích lũy được vào quá trình tái sản xuất xã hội nhằm tạo ra nhiều của cải hơn trong
tương lai. Đầu tư là chìa khóa của tăng trưởng kinh tế, đặc biệt tạo ra việc



17

làm. Lý thuyết đã chứng minh rằng tăng đầu tư sẽ bù đắp những thiếu hụt của “cầu
tiêu dùng”, từ đó tăng việc làm, tăng thu nhập, tăng hiệu quả biên của vốn đầu tư và
kích thích tái sản xuất mở rộng.
Căn cứ vào lý thuyết nêu trên, đầu tư luôn kỳ vọng giá trị lớn hơn trong tương
lai. Do vậy, nhà đầu tư luôn phải tính toán được giá trị kỳ vọng đó, tất nhiên cũng
phải chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định. Nhà nước, nhất là tại một địa phương
phải đảm bảo những điều kiện để nhà đầu tư tư nhân đạt được giá trị kỳ vọng mới có
thể thu hút được vốn đầu tư vào địa phương mình, ngành mình.
2.1.2. Đầu tư phát triển
Đỗ Phú Trần Tình (2009), cho rằng đầu tư phát triển là đầu tư tài sản vật chất và
sức lao động trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tăng
thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền kinh tế, từ đó làm tăng
tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều kiện chủ yếu
tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ
tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và
lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí
thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng
thêm tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại, bổ sung tài sản và tăng thêm tiềm
lực của mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.
Xét về bản chất đầu tư phát triển có một số đặc điểm sau:
-

Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển cần một lượng vốn lớn và thời gian kéo dài trong
suốt quá trình đầu tư.

-


Thứ hai, thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các thành quả của nó
phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm (thường từ 2 năm trở lên thậm chí 50 năm,
nhưng cũng không quá 70 năm) với nhiều biến động xảy ra.

-

Thứ ba, thời gian cần hoạt động để thu hồi đủ vốn đã bỏ ra đối với các công cuộc đầu tư
đòi hỏi nhiều năm, do đó không tránh khỏi những biến động tích cực và tiêu cực các
biến động về KTXH.


18

-

Thứ tư, thành quả do đầu tư phát triển mang lại biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài chính
và lợi ích kinh tế xã hội. Lợi ích kinh tế xã hội được gọi tắt là lợi ích kinh tế, lợi ích tài
chính ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư, còn lợi ích kinh tế ảnh hưởng đến
xã hội, cộng đồng.

-

Thứ năm, các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt động
ngay tại nơi mà nó tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện địa lý, địa hình cũng ảnh hưởng
đến quá trình đầu tư cũng như hoạt động sau này.
2.2. Vốn đầu tư
2.2.1. Khái niệm
Vũ Thị Ngọc Phùng (2005), định nghĩa vốn đầu tư là toàn bộ những chi tiêu để
làm tăng hoặc duy trì tài sản vật chất trong một thời kỳ nhất định. Tương ứng với sự

phân biệt chức năng của hai loại tài sản: sản xuất và phi sản xuất, vốn đầu tư cũng
được chia thành hai loại: vốn đầu tư sản xuất và phi sản xuất.
Vốn đầu tư sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí nhằm duy trì hoặc gia tăng
mức vốn sản xuất. Vốn đầu tư sản xuất được chia thành vốn đầu tư vào tài sản cố
định và vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Đến lượt mình, vốn đầu tư vào tài sản cố
định lại chia thành vốn đầu tư cơ bản và đầu tư sửa chữa lớn. Vốn đầu tư cơ bản làm
tăng khối lượng thực thể của tài sản cố định, bảo đảm bù đắp số tài sản cố định bị hao
mòn và tăng thêm phần xây lắp dở dang. Còn vốn sửa chữa lớn không làm tăng khối
lượng thực thể của tài sản. Vốn đầu tư phi sản xuất là toàn bộ các khoản chi phí
không tham gia vào quá trình sản xuất vì vậy không duy trì hoặc tăng vốn sản xuất.
2.2.2. Nguồn vốn đầu tư
2.2.2.1. Nguồn vốn đầu tư từ khu vực nhà nước
Nguồn vốn khu vực nhà nước bao gồm vốn NSNN, nguồn vốn tín dụng đầu tư
phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của DNNN.
Nguồn vốn NSNN: là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển
KT-XH của mỗi quốc gia và địa phương. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho
các dự án kết cấu hạ tầng KT-XH, an ninh quốc phòng, hỗ trợ các dự án của DN đầu


19

tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các
dự án quy hoạch tổng thể KT-XH vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông
thôn.
Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Cùng với quá trình đổi
mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng
kể trong chiến lược phát triển KT-XH.
Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát
triển ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược chung. Việc phân bổ và sử
dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn,

giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng
đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Nguồn vốn đầu tư của DNNN: từ khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại
tại DNNN và chủ yếu là đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất, đổi mới thiết bị, hiện đại
hóa dây chuyền công nghệ của DN.
2.2.2.2. Nguồn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân
 Nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng

Các TCTD có thể dùng nguồn vốn huy động từ nền kinh tế và dân cư hay
nguồn vốn nhận ủy thác để tài trợ trực tiếp các dự án đầu tư có hiệu quả, thường là tài
trợ trung dài hạn. Các TCTD còn có thể dùng một phần vốn chủ sở hữu của mình để
tài trợ gián tiếp các dự án đầu tư thông qua việc mua các chứng khoán – có hay
không có tham gia quản lý. Ở Việt Nam, trước mắt, nguồn này chưa dồi dào khi mức
tự tích lũy từ nền kinh tế còn thấp. Nguồn vốn này thường dành cho những dự án đầu
tư, phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, nguồn vốn này chưa chú trọng đầu tư vào cơ
sở hạ tầng nơi lợi ích xã hội giữ vai trò trọng tâm.
 Nguồn vốn từ các doanh nghiệp


20

Tiết kiệm của các doanh nghiệp được xác định trên cơ sở doanh thu và các
khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Doanh thu của doanh nghiệp (TR) là các khoản thu nhập do tiêu thụ hàng hóa
hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình sản xuất.
Tổng chi phí (TC) thường bao gồm các khoản: trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả
lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh.
Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận

(Pr) trước thuế.
Pr(trước thuế) = TR – TC
Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức (Tde) sẽ còn lại lợi nhuận sau
thuế
Pr(sau thuế) = Pr(trước thuế) - Tde
Đối với các công ty cổ phần thì lợi nhuận sau thuế còn phải chia cho các cổ
đông, do đó còn xuất hiện thêm khái niệm lợi nhuận để lại công ty (hay còn gọi là lợi
nhuận không chia). Lợi nhuận để lại cùng với quỹ khấu hao trở thành nguồn vốn tiết
kiệm của doanh nghiệp có thể huy động vào đầu tư.
 Nguồn vốn tiết kiệm của dân cư

Tiết kiệm của dân cư phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình. Thu
nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (DI) và các khoản thu nhập
khác. Chúng ta đã biết cách xác định thu nhập có thể sử dụng từ thu nhập quốc dân
sản xuất (NI).
DI= NI – Td + Sd
Trong đó: Td là thuế thu nhập (bao gồm cả thuế thu nhập của công ty - T de và
thuế thu nhập của dân cư -Tdh , Sd là các khoản trợ cấp của chính phủ).
Td = Tde+ Tdh
Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được viện trợ, thừa kế,
bán tài sản, trúng vé xổ số, thậm chí là các khoản đi vay.
Chi tiêu của hộ gia đình bao gồm: các khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ. Chi
mua hàng hóa đó là chi về lương thực, thực phẩm, quần áo, phương tiện đi lại và


21

các hàng hóa tiêu dùng lâu bền khác; chi cho hoạt động dịch vụ là chi cho du lịch, chi
cho các hoạt động văn hóa, thể dục, thể thao, chi trả lãi suất các khoản tiền vay
Khác với chi tiêu của chính phủ, tất cả các khoản chi tiêu của hộ gia đình đều

được coi là yếu tố cấu thành GDP. Mối quan hệ giữa các khoản thu nhập và chi tiêu
của hộ gia đình có thể được mô tả qua hàm chi tiêu.
Hàm chi tiêu C có dạng: C =a +b.DI
Trong đó: a là các khoản chi tiêu cố định, b là xu hướng tiêu dùng cận biên
(MPC) phản ánh độ dốc của hàm chi tiêu.
b = C = MPC
DI

Tại D1, mức thu nhập có thể sử dụng nhỏ hơn mức chi tiêu (DIđủ tiền chi tiêu dân cư phải sử dụng các khoản thu nhập khác a1.
Tại D0, mức thu nhập bằng mức chi tiêu (DI=C). Tại đó, thu nhập của dân cư đủ
để trang trải các khoản chi phí và không có tiết kiệm.
Tại D2, mức thu nhập có thể sử dụng lớn hơn mức chi tiêu (DI>C). Tại đây dân
cư mới có tiết kiệm S2.
Hình 2.1. Hàm chi tiêu của các hộ gia đình
C

0

S2
C = a + b.DI

a

a1

D1

Do


D2

DI

Qua Hình 2.1 có thể thấy rằng, khi thu nhập gia tăng, tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng dần,
có nghĩa là trong một nước những gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có tỷ lệ tiết


22

kiệm lớn hơn. Và tất nhiên, những nước giàu có sẽ có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư cao
hơn so với các nước có mức thu nhập thấp nhất.
2.2.2.3. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
Đó chính là các khoản đầu tư nước ngoài hay còn gọi là đầu tư quốc tế. Đầu tư
nước ngoài là phương thức đầu tư vốn, tài sản từ nước ngoài để tiến hành sản xuất,
kinh doanh hay dịch vụ với mục đích kiếm tìm lợi nhuận hoặc vì những mục tiêu
chính trị, xã hội nhất định, có thể tóm tắt qua sơ đồ sau:
Về bản chất đầu tư nước ngoài là hình thức xuất khẩu tư bản, một hình thức
cao hơn của xuất khẩu hàng hóa. Xuất khẩu tư bản và xuất khẩu hàng hóa luôn bổ
sung và hỗ trợ cho nhau trong chiến lược xâm nhập, chiếm lĩnh thị trường của các
công ty, tập đoàn lớn của nước ngoài hiện nay. Nhiều trường hợp việc buôn bán hàng
hóa ở nước sở tại là bước đi tìm hiểu thị trường, luật lệ để đi đến quyết định đầu tư.
Cùng với hoạt động thương mại quốc tế, hoạt động đầu tư nước ngoài ngày càng phát
triển mạnh mẽ, hợp thành những dòng trào lưu có tính quy luật trong liên kết kinh tế
toàn cầu hiện nay. Sự phát triển của đầu tư nước ngoài bắt nguồn từ một số nguyên
nhân chủ yếu sau:
Sơ đồ 2.2. Các kênh chính của nguồn vốn đầu tư nước ngoài
Vốn đầu tư quốc tế

Vốn đầu tư tư


Vốn trợ giúp phát triển chính

nhân

thức của chính phủ và VĐT
của các tổ chức quốc tế

Vốn

Vốn

Vốn

Vốn

Vốn

Vốn

đầu tư

đầu tư

tín

hỗ trợ

hỗ trợ


tín

trực

gián

dụng

dự án

phi dự

dụng

tiếp

tiếp

án


23

-

Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình tự do hóa thương
mại và đầu tư quốc tế.

-


Sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học công nghệ và những tiến bộ vượt
bậc trong lĩnh vực thông tin, truyền thông đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới cơ
cấu kinh tế của các nước, tạo nên sự chuyển dịch vốn giữa các quốc gia.

-

Sự thay đổi các yếu tố sản xuất, kinh doanh ở các nước sở hữu vốn tạo nên “lực đẩy”
đối với đầu tư quốc tế.

-

Nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển là rất lớn,
tạo “sức hút” mạnh mẽ với nguồn đầu tư nước ngoài.
Như vậy, vốn đầu tư quốc tế có hai dòng chính là đầu tư tư nhân (trong đó,
chủ yếu là đầu tư trực tiếp nước ngoài- FDI) và đầu tư của chính phủ và các tổ chức
quốc tế.
 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)

Nguồn vốn FDI là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài đề đầu tư cho
sản xuất, kinh doanh và dịch vụ nhằm mục đích thu lợi nhuận. Đây là một nguồn vốn
lớn, có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế ở các nước đang phát triển.
Trong lịch sử thế giới FDI đã tồn tại từ lâu, ngay từ thời tiền tư bản. Các công
ty của Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bồ Đồ Nha…là những công ty đi đầu trong lĩnh
vực đầu tư FDI dưới hình thức đầu tư vốn vào các nước châu Á để khai thác đồn điền
nhằm cung cấp nguồn nguyên liệu cho các ngành công nghiệp của chính quốc. Cùng
với các ngành khai thác đồn điền là các ngành khai thác khoáng sản, tài nguyên trong
lòng đất đưa về chính quốc.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, FDI đã có sự thay đổi rõ rệt với sự đầu tư



ạt của các nhà đầu tư Mỹ vào châu Âu theo kế hoạch Marshall để vực dậy phần lục địa
bị chiến tranh tàn phá này. Sau đó là sự đầu tư giữa các nước châu Âu, thực hiện sự liên
minh tư bản, tăng cường khả năng kinh tế, chống độc quyền của các nhà đầu tư Mỹ. Từ
đó, việc đầu tư trực tiếp nước ngoài trở nên thường xuyên hơn và được sử dụng phối
hợp với các hình thức xuất khẩu tư bản khác trở thành vũ khí


24

lợi hại của các nước tư bản phương Tây trong việc thực hiện chủ nghĩa thực dân mới,
nhất là với các nước đang phát triển.
Ngày nay, FDI trở thành một tất yếu kinh tế trong điều kiện quốc tế hóa sản
xuất và lưu thông. Không có một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa lại không cần đến nguồn vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài và tất cả đều coi đó là nguồn lực quốc tế quan trọng cần khai
thác để từng bước hòa nhập vào cộng đồng quốc tế. Ngay cả những quốc gia có tiềm
lực kinh tế mạnh như Mỹ, Nhật dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học công
nghệ hiện nay cũng không thể tự mình giải quyết được những vấn đề kinh tế, xã hội
đã, đang và sẽ tiếp tục đặt ra. Chỉ có con đường hợp tác, trong đó có FDI là loại hình
đầu tư, hợp tác có hiệu quả.
Đầu tư FDI tồn tại dưới nhiều hình thức, song những hình thức chủ yếu là hợp
đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài.
-

Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết giữa hai hoặc nhiều bên (gọi là bên hợp
doanh) quy định rõ trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến
hành đầu tư sản xuất kinh doanh ở nước tiếp nhận đầu tư mà không thành lập một pháp
nhân.


-

Doanh nghiệp liên doanh là loại hình doanh nghiệp do hai bên hoặc các bên nước ngoài
hợp tác với nước tiếp nhận đầu tư cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi
nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỉ lệ vốn góp. Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước
tiếp nhận đầu tư.

-

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước
ngoài (tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước
tiếp nhận đầu tư, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.
 Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FPI)


×