Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận cao học triết triết học ấn độ cổ trung đại”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.97 KB, 27 trang )

MỞ ĐẦU
Mác từng nói rằng, lịch sử phương Đông là lịch sử tôn giáo. Điều này
đặc biệt với trường hợp Ấn Độ. Ở Ấn Độ đã có nhiều hệ thống tôn giáo tồn tại
và các hệ thống triết học thường gắn liền với tôn giáo. Đã gắn bó với tôn giáo
thì khó tránh khỏi duy tâm và hữu thần, dẫu có lúc nhà triết học đã cố tách
khỏi hay quên mình là nhà tôn giáo. Nhưng phải chăng, do gắn với tôn giáo,
các nhà triết học Ấn Độ cổ có một hoạt động tâm linh sâu sắc và nhạy bén,
khiến họ có thể phân tích một cách tế vi và sâu sắc mọi ngõ ngách của tinh
thần, của các tâm, cái thức…Câu hỏi về tồn tại không-tồn tại luôn làm các nhà
triết học Ấn Độ khắc khoải. Nếu toán học cổ Ấn Độ đã đóng góp cho nhân
loại con số không mà Bertrand Russel đã đánh giá rất cao, thì phạm trù không
cũng đã được triết học cổ Ấn Độ hết sức chú ý. Nếu niềm hạnh phúc và nỗi
bất hạnh của con người đã được triết học Ấn Độ quan tâm, thì bản thân nền
triết học này cũng đã có những bất hạnh và may mắn do xã hội Ấn Độ thời cổ
quy định. Và phải chăng là sự phát triển trì trệ của xã hội Ấn Độ thời cổ trung
đại đã dẫn đến tình trạng đó? Nền triết học Ấn Độ cổ là một nền triết học đã
phát triển liên tục nhưng chậm chạp trong một bối cảnh xã hội như Mác đã
nhận xét là tính chất “ phương thức sản xuất Châu Á”. Chính Mác đã xây
dựng khái niệm này trên các tài liệu về xã hội Ấn Độ. Vì vậy có thể coi xã hội
Ấn Độ trung đại là “ phương thức sản xuất Châu Á” điển hình.
Với tất cả các quy định đó, các đặc điểm đó, nhìn chung triết học Ấn
Độ cổ đã hiện ra trước mắt ta như một lâu đài đồ sộ, chứa đầy những kho báu
của tư duy nhân loại mà chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu. Vì vậy, trong
học phần lịch sử triết học em đã lựa chọn đề tài “ Triết học Ấn Độ cổ trung
đại”, làm đề tài nghiên cứu của mình. Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu tìm hiểu
song không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự giúp đỡ của
các thầy cô để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.

1



NỘI DUNG
Chương 1
HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC
ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI
1.1 Vài nét về điều kiện tự nhiên
Ấn Độ là một bán đảo lớn- một tiểu lục địa, nằm ở miền Nam châu Á.
Hai miền Đông Nam và Tây Nam của Ấn Độ giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc án
ngữ là dãy Hymalaya hùng vĩ, với vòng cung dài 2600km ( có 4 ngọn núi cao
hơn 7km vì thế chúng trở thành sứ sở của tuyết). Cực Bắc Kasơmia có những
ngọn núi hũng vĩ dưới chân núi là vùng khí hậu ôn đới, có thung lũng
Kasơmia rộng lớn có tên gọi “ thiên đường nơi trần thế”. Có 5 con sông lớn
trong đó nổi tiếng là sông Indu, sông Hằng, lưu vực của chúng tạo nên những
vùng đồng bằng phì nhiêu. Ấn Độ cũng có vùng là xa mạc khô cằn. Yếu tố địa
lý như vậy ảnh hưởng mạnh đến sự hình thành văn hóa, tôn giáo và tư tưởng
triết học của người Ấn Độ.
1.2 Vài nét về lịch sử xã hội
ảnh hưởng lớn nhất tới toàn bộ các mặt của lịch sử Ấn Độ là nhân tố xã
hội. Xã hội cổ đại Ấn Độ ra đời sớm. Vào khoảng thế kỉ XXV trước công
nguyên ( tr. CN) đã xuất hiện nền văn minh sông Ấn, sau đó bị tiêu vong chưa
rõ nguyên nhân.
Từ thế kỉ XV trước CN các bộ lạc du mục Arya từ Trung á xâm nhập
vào Ấn Độ. Họ định cư rồi đồng hóa với người bản địa Dravida tạo thành cơ
sở cho sự xuất hiện quốc gia, nhà nước lần thứ hai trên đất Ấn Độ.
Từ thế kỉ thứ VII trước CN, đất nước Ấn Độ phải trải qua hàng loạt
biến cố lớn, đó là những cuộc chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các vương
triều trong nước và sự xâm lăng của các quốc gia bên ngoài. Vào thế kỉ
XVIII, Ấn Độ bị đế quốc Anh đô hộ, từ đó Ấn Độ bước sang thời kì thống
nhất về chính trị, thúc đẩy sự kết hợp giữa văn hóa cổ truyền với văn hóa
phương Tây.
2



Đặc điểm nổi bật của điều kiện kinh tế xã hội của Ấn Độ cổ, trung đại
là sự tồn tại rất sớm và kéo dài kết cấu kinh tế xã hội theo mô hình “công xã
nông thôn”, trong đó chế độ công hữu về ruộng đất là cơ sở để tìm hiểu toàn
bộ lịch sử Ấn Độ cổ đại. Từ hai đặc điểm trên dẫn đến hệ quả là các bước
phát triển của lịch sử xã hội Ấn Độ không mạch lạc như lịch sử xã hội các
nước Châu Âu. Thực sự ở Ấn Độ không có quan hệ phong kiến giống như ở
các nước Tây Âu. Ở Ấn Độ, nô lệ chưa bao giờ là lực lượng sản xuất chủ yếu,
họ chưa bao giờ trở thành nông nô như ở Tây Âu phong kiến…Mặt khác quan
hệ đẳng cấp ở Ấn Độ càng làm cho kết cấu xã hội giai cấp thêm phức tạp.
Trong xã hội có 4 đẳng cấp:
1. Bràhman ( Tăng lữ) là đẳng cấp cao quý nhất
2. Ksattrya ( quý tộc)
3. Vaisya ( bình dân tự do)
4. Ksudra ( cùng đinh, nô lệ)
Ngoài ra còn có sự phân biệt chủng tộc, dòng dõi, nghề nghiệp, tôn giáo.
1.3 Điều kiện về văn hóa
Người Ấn Độ cổ đại tích lũy được nhiều kiến thức về thiên văn, sáng
tạo ra lịch pháp, giải thích được hiên tượng nhật thực…Toán học xuất hiện rất
sớm: phát minh ra số thập phân, tính đươc trị số , biết về đại số lượng giác,
phép khai căn, giải phương trình bậc 2, 3. Trong lĩnh vực y học đã xuất hiện
những danh y nổi tiếng, chữa bệnh bằng thuật châm cứu, thuốc thảo mộc.
Nét nổi bật của văn hóa Ấn Độ cổ, trung đại là mang dấu ấn sâu đậm về
tín ngưỡng, tôn giáo và tâm linh.
Văn hóa Ấn Độ cổ trung đại được chia làm 3 giai đoạn:
- Khoảng từ thế kỉ XXV – XV tr.CN gọi là nền văn minh sông ấn:
Hay còn gọi là nền văn minh Harappa là một nền văn minh thành thị đã
xuất hiện tư khoảng 2500 tr. CN. Từ năm 1924, các nhà khảo cổ học tiến hành
khai quật các thành thị cổ Harappa và Mohenjo – Daro đã tìm thấy dấu vết của

một nền văn minh kĩ thuật cao: đường phố thẳng tắp, nhà hai tầng, bể bơi…Đây là
3


một nền văn minh đã có nhà nước, có chữ viết. Trước kia một số người cho rằng
chủ nhân của nền văn hóa Harappa là người Dravida mà ngày nay còn tồn tại ở
Nam Ấn Độ. Sau đó người Arya, một bộ lạc du mục nói ngôn ngữ Ấn- Âu xâm
nhập và tàn phá nền văn minh này. Lịch sử phát triển của van hóa Ấn Độ, do vậy,
bị coi là đứt đoạn. Nhưng mới đây, các nhà khảo cổ học Ấn Độ đã đọc được các
văn tự cổ khắc trên các con dấu bằng sành trong các di tích văn hóa Harppa, đã
nhận ra rằng nhiều tên người, tên thần được khắc trên con dấu tương tự như trong
Rigveda. Như vậy, giữa thời kì văn minh sông ấn và thời kì Veda không có sự
cách tuyệt như trước kia người ta tưởng
- Từ thế kỉ XV – VII trCN gọi là nền văn minh Veda
Sau thời kì Harappa là thời kì Veda. Nó được phản ánh trong các tập
sách mà nay gọi là Veda. Tập cổ nhất là Riveda ( các khúc hát du mục). Các
tập Veda là nguồn suối của tư tưởng Ấn Độ. Nhiều trường phái triết học Ấn
Độ sau này đều tự coi bắt nguồn từ Veda. Các tập Veda phản ánh sinh hoạt và
tín ngưỡng của người Ấn Độ cổ đại, theo hệ đa thân. Qua các tập từ sớm đến
muộn, có thể thấy những thần tự nhiên dần biến thành những thần có chức
năng xã hội, chẳng hạn thần sấm biến thành thần chiến tranh, thần lửa biến
thành thần hiến tế…sự biến chuyển này phản ánh một quá trình biến chuyển
từ xã hội nguyên thủy lên xã hội có giai cấp.
- Từ thế kỉ VI – I tr.CN là thời kì hình thành các trường phái triết học tôn
giáo lớn gồm hai hệ thống đối lập nhau là chính thống và không chính thống.
Đây là thời kì hình thành các quốc gia ở Ấn Độ. Đầu thế kỉ thé VI
tr.CN Bắc Ấn Độ có nhiều quốc gia ( đế chế hay cộng hòa) nhỏ, độc lập hay
phụ thuộc. Đấu tranh giai cấp phát triển. Sức sản xuất cũng phát triển mạnh ở
vùng dọc sông Hằng. Thủ công và thương nghiệp phát triển. Thời kì này, Ba
Tư và sau đó là Hy Lạp đã nối liền Ấn Độ với thế giới Địa Trung Hải. Bọn

quý tộc Ấn Độ cần hàng hóa để trao đổi, chúng càng ra sức bóc lột. Thợ thủ
công và thương nhân tập trung quanh các vương quốc mạnh. Thành thị phát
triển. Cuối thế kỉ IV tr.CN hình thành đế quốc Maurya với vương triều
4


Chandragupta. Đây là thời kì tri thức khoa học Ấn Độ phát triển mạnh: đã biết
quả đất tròn và tự quay xung quanh trục của nó, biết làm lịch chính xác, biết
đến chữ số và hệ thống đếm thập phân, đại số, lượng giác, tính căn, đường
tròn, y học và hóa học phát triển. Đó là thời kì phát triển của tư duy trừu
tượng, thời kì tạo nên các hệ thống tôn giáo – triết học của Ấn Độ. Các hệ
thống đó đấu tranh gay gắt với nhau, thử đưa ra các cách giải thích thế giới,
đưa ra những con đường giải thoát khác nhau. Trong cuộc đấu tranh đó,
những vấn đề thuộc về thế giới quan, vũ trụ luận, bản thể luận chiếm vai trò
quan trọng.
Tóm lại: Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ, ngoài đặc trưng chủ
yếu là chế độ đẳng cấp nghiệt ngã và sự tồn tại dai dẳng của những công xã
nông thôn, thì chế độ nô lệ kiểu gia trưởng và Nhà nước quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền, trong đó các đế vương nắm quyền lực vô hạn về sở hữu
ruộng đất và thần dân, cũng đã ảnh hưởng mạnh mẽ tới tính chất khắc nghiệt
của tự nhiên và chế độ đẳng cấp, thể chế xã hội càng đè nặng lên đời sống
người dân Ấn Độ, làm cho cuộc sống của họ càng thêm khổ cực... Chính vì
phản ánh nhu cầu muốn thoát khỏi cuộc sống khổ đau… đó của người dân Ấn
Độ, mà mà các trường phái triết học Ấn Độ đều tập trung vào việc lý giải căn
nguyên nỗi khổ và tìm cách giúp con người thoát khỏi những những nỗi khổ
não, lo âu trong đời sống ngàn năm của họ…
Theo cách phân chia truyền thống, ở Ấn Độ cổ đại có chín hệ thống
triết học. Chín hệ thống này lại được chia làm 2 loại:
- Chính thống ( àstika) ( có 6 hệ thống)
- Tà giáo ( nàstika) ( có 3 hệ thống)

Theo nhà ngữ pháp Pàninin thì àstika là người tin vào thế giới bên kia,
còn nàstika là người không tin vào thế giới đó. Theo luật Manu thì Nàstika là
“ người làm ô nhục Veda”. Tiêu chuẩn chính thống của triết học Ấn Độ là sự
thừa nhận tính đúng đắn tuyệt đối của Veda. Những người Phật giáo và Jaina
giáo có kinh điển riêng nên bị coi là “ tà giáo”.
5


Tuy nhiên, có một số hệ thống được coi là chính thống nhưng không có
hay có rất ít điểm chung với Veda, theo tinh thần hay nội dung các nguyên lý
triết học.
Theo phái chính thống thì ba hệ thống tà giáo chống Veda là:
1. Lokaỳata: triết học duy vật
2. Phật giáo
3. Jaina giáo
Sáu hệ thống được coi là chính thống Veda là:
1. Mimànsà
2. Vedànta
3. Sàmkhuya
4. Yoga: chú trọng các vấn đề thực tiễn, không phải là lý luận triết học
5. Nyaya, hệ thống đầu tiên ngiên cứu phương pháp biện luận và các
vấn đề liên quan đến logic
6. Vaisêska nghiên cứu các phạm trù thực thể như vật chất, chất lượng…
Trong sáu thực thể đó, quyền uy của Veda chỉ có ý nghĩa quyết định đối
với Vedànta.
1.4 Những đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ, trung đại
- Triết học Ấn Độ cổ trung đại bị chi phối trực tiếp và sâu sắc bởi xu
hướng tín ngưỡng và tôn giáo truyền thống mạnh hơn nhiều so với các nền
triết học khác, ở nơi đây khó phân biệt tôn giáo và triết học. Tư tưởng triết
học ẩn giấu sau các lễ nghi huyền bí.

- Hầu hết các trường phái triết học Ấn Độ đều tập trung giải quyết vấn
đề nhân bản. Trong nhân sinh quan của triết học thường xoay quanh vấn đề “
giải thoát”, “ siêu thoát”.
- Bước phát triển của triết học Ấn Độ có những đặc điểm khác Châu
Âu, các nhà tư tưởng thay thế nhau, thường phát triển triết học với quan điểm
hoàn toàn mới, phê phán và gạt bỏ quan điểm của người đi trước. Còn ở Ấn
Độ, một loạt các quan điểm triết học hay hệ thống triết học đã được đặt cơ sở
6


từ thời cổ. Sự phát triển sau đó chỉ là phát triển các quan điểm ban đầu. Các
nhà triết học tiếp nhau, nói chung, không đặt mục đích tạo ra thứ triết học
mới. Mỗi người ủng hộ một hệ thống đã có, bảo vệ và hoàn thiện nó, thường
là tăng cường các chứng cứ cho người đi trước hơn là tìm các sai lầm. Các đại
biểu luôn luôn giới hạn mình trong việc làm sáng tỏ các học thuyết cũ và
không bao giờ mâu thuẫn với chúng”. Do vậy, phần lớn các tác phẩm triết học
Ấn Độ không có niên đại rõ ràng.
- Dù phong phú và đa dạng, có nhiều tư tưởng sâu sắc về bí ẩn thế giới
và đời sống con người, nhưng vận động chậm chạp.
- Khi bàn về vấn đề bản thể luận, có một số trường phái xoay quanh
vấn đề “ tính không”, đêm đối lập “ không” và “ có”, quy cái có về cái
“không”. Điều đó thể hiện tư duy trừu tượng cao.

7


Chương 2
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA
CÁC TRƯỜNG PHÁI CHÍNH THỐNG
2.1. Những tư tưởng triết học cơ bản của các trường

phái chính thống.
2.1.1. Sàmkhya
Sàmkhya là số đếm. Ý nghĩa của thuật ngữ này không rõ và nguồn gốc
của triết học này cũng bí ẩn. Truyền thuyết cho rằng người sáng lập triết học
này là Kapila nhưng ta chỉ có những huyền thoại mâu thuẫn nhau về nhân vật
này. Chúng ta không biết gì hơn về những người đặt cơ sở cho triết học
Sàmkhya như Àsuri, Pancásikha, Vodhu, Sananka, Sanada. Nhưng rõ ràng tư
tưởng Sàmkhya có nguồn gốc rất cổ và ảnh hưởng của nó rất lớn.
Những người Sàmkhya gạt bỏ Bràhman, tinh thần vũ trụ và phủ nhận
sự tồn tại của thần. Họ đưa ra học thuyết Satkarya – vàda tức học thuyết tồn
tại của kết quả trong nguyên nhân trước khi nó xuất hiện và học thuyết
Parinàma- vàda tức học thuyết về sự chuyển hóa thực tế của nguyên nhân
trong kết quả. Trong nguyên nhân đã chứa cái gì nằm trong kết quả; trồng
Sali được Sali, trồng Vrihi được Vrihi. Như vậy từ tính chất của kết quả tìm
được chìa khóa để đi vào tính chất của nguyên nhân.
Nếu thế giới là vật chất thì nguyên nhân của nó cũng phải là vật chất.
Theo những người Sàmkhya, Pràkriti hay Pradhana là vật chất đầu tiên, nó
không phải là vật chất ở dạng thô hay rõ ràng có thể nhận thức bằng cảm giác
được, mà là vật chất ở dạng tinh tế, tiềm ẩn, không thể cảm giác được trực
tiếp nhưng không biểu hiện, không hình, không thu biệt, không giới hạn.
Bất kì vật thể nào của thế giới vật chất cũng là thể thống nhất không ổn
định gồm 3 yếu tố:
1. Sattva: nhẹ, sáng, vui tươi
2 Rajas: Động, kích thích
8


3. Tamas: nặng, khó khăn
Ở vật chất đầu tiên, Sattva là trí tuệ, trí năng tiềm ẩn, Rajas là năng
lượng, Tamas là khối lượng quán tính. Nếu Pràkriti ở trạng thái Avyakta thì nó

cân bằng ổn định. Sự phá hoại thăng bằng là điểm xuất phát của tiến hóa thế
giới từ Avyakta. Vật chất này là vĩnh hằng nhưng không đứng yên, biến đi
không ngừng từ dạng này sang dạng khác. Như vậy là từ rất sớm, đã hình
thành rõ ràng tư tưởng vật chất vận động không ngừng. Sàmkàra nhà triết học
Vedànta đã gọi học thuyết của Sàmkhya là acetanakàrana – Vàda ( học thuyết
vật chất phi ý thức, là nguyên nhân đầu tiên).
Nhưng Sàmkhya hậu kì, nhất là với Sàmkhya – Kàrikà đã thừa nhận
Purusa là linh hồn bên cạnh Prakrti. Những người Sàmkhya hậu kì đã đề cao
Purusa. Ta biết rằng trong Caraka – Samhita ( thế kỉ II) Caraka cho rằng
Purusa là sản phẩm của Prakrti chứ không phải là song song tồn tại như ý kiến
của những người Sàmkhya hậu kỳ. Trong khi đó, tác giả Sàmkhya – Kàrikà
lại ví dụ Purusa như người què và mù.
Như vậy sàmkhya sơ kì là duy vật. Chính vì thế mà phái Vedànta và coi
Sàmkhya là kẻ đối lập nguy hiểm. Sự đối lập giữa Sàmkhya và Vedànta có thể
biểu hiện bằng sơ đồ dưới đây.
Sàmkhya

Đối lập với

Pradhana – Vafda hay

Vedànta

Brahma – Vàda hay Brahma Kàrana

Pradhana – Kàrana – Vàda ( học thuyết Vàda ( học thuyết Brahman là
Vật chất là nguyên nhân đầu tiên)

nguyên nhân đầu tiên)


Acctana – Kàrana – Vàda

Cetana – Kàrana – Vàda

( học thuyết vật chất phi ý thức là

( học thuyết ý thức là

Nguyên nhân đầu tiên)

nguyên nhân đầu tiên)

9


2.1.2 Mimànsà
Mimànsà là một trong những trường phái chính thống của triết học Ấn
Độ cổ đại, do Jaimini sáng lập vào khoảng thế kỉ II tr.CN. Xuất phát điểm của
Mimànsà chủ yếu dựa vào Véda và Upanishad. Về sau tạo ra kinh điển riêng,
kinh điển đầu tiên là Mimànsà – sutra. Mục đính cơ bản của Mimànsà là diễn
giải, chú giải ( Mimànsà nghĩa là thẩm vấn, khảo cứu) các phương pháp cúng
bái, lễ nghi, tế lễ và thực hiện các quy tắc xã hội theo bổn phận mỗi người
một cách chặt chẽ.
Về mặt triết học, Mimànsà chỉ thừa nhận sự tồn tại của những bản
nguyên tinh thần trong thế giới, trong đó “ tinh thần thế giới vô ngã” là thực
thể duy nhất, có trước, sáng tạo và chi phối thế giới hiện thực vật chất. Linh
hồn chỉ là sự hiện thân của tinh thần vũ trụ vĩnh cửu và bất diệt. Linh hồn
luôn luôn bị ràng buộc bởi thể xác, nhục dục và thế giới hiện tượng, vật chất,
trần tục.
Mimànsà thừa nhận sự tồn tại của thế giới vật chất. Thế giới này tồn tại

vĩnh viễn, do những nguyên tử tạo nên. Những nguyên tử này bị các quy luật
Karma điều khiển. Đến đây Mimànsà lại nghiên sang chủ nghĩa duy tâm, biểu
hiện rõ tinh thần nhị nguyên luận. Mimànsà không thừa nhận sự tồn tại của
thần. Trường phái này lập luận đơn giản là không có bằng chứng đầy đủ về sự
tồn tại của thần, vì cảm giác không nhận ra thần, nguồn gốc của tri thức suy
cùng là dựa trên cảm giác.
Những người Mimànsà chống chủ nghĩa duy tâm vì nếu tin rằng tất cả
đều không tồn tại thì nghi lễ và hiệu quả của nó trở nên vô nghĩa. Ngay
Vrtikàra đã chống chủ nghĩa duy tâm. Vrtikàra khẳng định cái được cảm giác
không thể chỉ là ý thức. Nếu như đặt tấm vải trước con người thì ta cảm
nhận được rằng đó là vải chứ không phải là bình gốm. Như vậy, vật được
cảm nhận nằm ngoài ý thức và không phải là ý thức. Prabhàkàra và
Kumàrila phát triển các luận điểm của Vrtikàra . Kumàrila đã tóm tắt lập
luận của chủ nghĩa duy tâm như sau: “ Cảm giác về cái cột là giả vì đó là
10


nhận thức. Tất cả các nhận thức đều giả giống như nhận thức của người nằm
trong mộng”. Và Kumàrila đã vạch ra sự vô lý của lập luận trên: Nếu như
coi nhận thức khi ngủ là giả thì phải coi nhận thức khi thức là chân và như
thế là mâu thuẫn với kết luận trên.
Những người Mimànsà hậu kì đã chuyển sang thừa nhận có thần.
2.1.3. Vêdànta
Theo nghĩa đen, Vêdànta tức là sự hoàn thiện kinh Veeda. Kinh điển
đầu tiên là Vedànta – sutra, được coi do Badarayna viết, nhằm hệ thống, thống
nhất hóa các quan điểm triết học của Upanisad. Vì vậy, Vêdànta còn có nghĩa
là “ kết thúc Vêda”. Cả Mimànsà và Védanta đều chú giải cho Upanisad, song
Mimànsà thiên về giải thích, hệ thống hóa và phát triển phần nghi lễ của
Véda, còn Vêdanta chú trọng chứng minh cho sự tồn tại của “tinh thần thế
giới” Brahman trong Upanisad.

Vêdànta thể hiện thế giới quan duy tâm tôn giáo. Trường phái này chỉ
thừa nhận có linh hồn con người ( Atman) và linh hồn vũ trụ, hay tồn tại tuyệt
đối ( Brahman) là tồn tại có thật. Còn thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh ( Maya),
sinh ra do vô minh ( Avidya).
Linh hồn ( Atman) chỉ là biến thể hay hiện thân của Brahman nơi thể
xác con người. Để đưa Atman trở về hợp nhất với Brahman, con người phải
từ bỏ mọi ham muốn nhục dục do thể xác con người và thế giới vật chất do ảo
ảnh gây nên. Điều này đòi hỏi con người phải sức tu luyện, tư duy, chiêm
nghiệm nội tâm, thực nghiệm tâm linh. Vì Vêdànta không thừa nhận bất cứ
cái gì ngoài “ tinh thần thế giới” Brahman hay ý thức thuần túy nên nó trở
thành cơ sở lý luận của đạo Hindu.
2.1.4. Yoga
Yoga theo tiếng phạn có nghĩa là “ sự liên kết” hay hợp nhất tâm thể về
một khối”. Nó là một hệ thống lý luận về phương pháp tu luyện mà người tu
hành thực hiện nhằm giải thoát linh hồn khỏi sự ảnh hưởng của các giác quan
và mọi sự ràng buộc với các cơ thể xác thịt, với thế giới vật chất là nguồn gốc
11


của vô minh và đau khổ. Khi người tu hành giải thoát Atman ra khỏi cơ thể
thể có thể tự điều khiển được bản thân mình, tiến tới làm chủ được môi
trường và vạn vật xung quanh.
Trong Yoga có sự kết hợp tư tưởng triết học của Sàmkhya. Nhưng lại
coi Purusa là thượng đế. Thượng đế ở đây không có ý nghĩa về mặt triết học,
mà chỉ được hiểu là sự vượt qua thế giới vật chất hữu hình để nhập vào đại
giác- đến với Brahman.
Phái này đề cao khả năng của con người mà họ cho rằng vô hạn. Muốn
phát huy khả năng vô hạn đó, phải tập trung tư tưởng và rèn luyện, kích thích
các huyệt đạo để có thể khai mở khả năng tiềm ẩn của con người.
2.1.5 Trường phái Nyàya- Vai’sêsika

Hai hệ thống Nyàya- Vai’sêsika tuy khác nhau nhưng có nhiều quan
điểm triết học tương đồng nhất là vào giai đoạn hậu kì đã gắn liền với nhau,
nên có thể gọi chung là Nyàya- Vai’sêsika.
Lý thuyết nguyên tử
Cả hai trường phái Nyàya- Vai’sêsika đều thừa nhận sự tồn tại của thế
giới vật chất, thế giới ấy rất phong phú đa dạng.Phương pháp luận của họ là
quy toàn bộ sự đa dạng của tồn tại vào bốn yếu tố vật chất: Đất, nước, lửa và
không khí. Những yếu tố này lại được quy vào bản nguyên duy nhất, bất biến,
vĩnh hằng, được phân biệt ở chất lượng, khối lượng và hình dáng, tồn tại
trong môi trường đặc biệt, trong không gian, thời gian được gọi là Anu
( nguyên tử).
Ngoài việc thừa nhận sự tồn tại của Anu, phái này còn thừa nhận có vô
số những linh hồn tồn tại trong vũ trụ, những linh hồn đó được gọi lag Ya mà
đặc tính của nó được thể hiện ra như ước vọng, ý chí, vui buồn, giận hờn…
Để điều khiển sự kết hợp giữa các nguyên tử với nhau và giữa các
nguyên tử với linh hồn, hoặc giải thoát các linh hồn khỏi nguyên tử, hai phái
này tìm đến lực lượng thứ ba mang tính chất siêu nhiên đó là thần Isvara.
Lý thuyết nhận thức và Logic học
12


Các trường phái Nyàya- Vai’sêsika thừa nhận sự tồn tại khách quan của
đối tượng nhận thức. Nhận thức có thể tin cậy, cũng có thể không tin cậy. Vì
vậy, phải kiểm tra đúng sai của nhận thức một cách thực tế.
Việc kiểm tra đúng sai của nhận thức dựa vào lý thuyết “ngũ đoạn
luận”, gồm năm vấn đề:
1. Luận đề: đồi có lửa cháy
2. Nguyên nhân: vì đồi bốc khói
3. Minh họa: tất cả cái bốc khói đều có lửa cháy
4. Suy đoán: Đồi bốc khói thì không thể không có lửa

5. Kết luận: do đó đồi có lửa cháy
Như vậy, nhũ đoạn luận gần giống tam đoạn luận của Arítxtốt nhưng
thêm vào đó 2 phần: đó là kết luận được đưa ra trước và nhắc lại sau cùng.
2.2. Những tư tưởng triết học cơ bản của các trường phái không
chính thống
2.2.1 Đạo Jaina
Jaina là một trường phái triết học tôn giáo được xác lập cùng thời với
Phật giáo. Tên của Jaina bắt nguồn từ tên người sáng lập Mahavira có hiệu là
Jaina (chiến thắng).
Về triết học, phái này theo học thuyết tương đối, dung hòa hai phái cực
đoan. Một mặt tiếp nhận ở Upanisad tư tưởng tồn tại đầu tiên là bất biến, vô
thủy, vô chung. Mặt khác tiếp nhận ở Phật giáo quan điểm biến chuyển là
không ngừng. Vì vậy, theo thuyết này, tồn tại vừa bất biến vừa chuyển hóa.
Cái vĩnh hằng là bản thể ví như đất sét, cái luôn biến đổi là các dạng của bản
thể như các vật thể làm từ đất sét.
Thực thể đầu tiên tạo nên thế giới theo trướng pháp Jaina là Giva và
Atgiva. Vật chất chỉ là một trong những biến thể của Atgiva, có những đặc
tính như sờ mó được, có âm thanh, mùi vị và màu sắc. Các vật thể mà con
người cảm giác được cấu thành từ các nguyên tử. Nguyên tử cực kì nhỏ bé,
không thể phân chia, không do ai sáng tạo ra.
13


Những người Jaina cho rằng có thể chia thực thể tồn tại ra làm 2 loại
sống và không sống. Thực thể sống có lý trí, linh hồn. Còn thực thể không
sống gồm không gian, thời gian, vận động, nghỉ ngơi…Các yếu tố sống và
không sống liên kết với nhau. Cũng như vật chất, linh hồn không do ai sáng
tạo ra, nó cũng tồn tại ngay từ đầu với một số lượng rất lớn và cố định, được
thể hiện trong các cơ thể sống. Linh hồn có tính toàn năng, nhưng nó bị hạn
chế bởi thể xác mà nó sống trong đó.

Jaina tin vào thuyết luân hồi và nghiệp. Để giải thoát khỏi luân hồi cần
hoàn thiện đạo đức, bằng hình thức tu khổ hạnh, không có của riêng, ăn chay,
bất sát, bất bạo, không mưu hại các sinh linh. Khi thực hành tu luyện, đạo
Jaina chia thành 2 phái: phái không mặc quần áo để hòa mình vào tự nhiên,
phái kia mặc quần áo trắng để tỏ ra đạo đức trong sạch.
2.2.2 Phái Lokàyata
Lokàyata là trường phái duy vật triệt để nhất trong số các trường phái
triết học duy vật Ấn Độ cổ, trung đại. Tên Lokàyata hay Carvaka thường
được hiểu là thứ triết học phổ biến trong dân chúng, hay là triết học lấy vật
chất làm cơ sở. Trường phái này ra đời trong cuộc đấu tranh lâu dài chống chủ
nghĩa duy tâm, phê phán chế độ phân biệt đẳng cấp, đòi hỏi tự do tư tưởng và
bình đẳng xã hội.
Khi luận giải về nguồn gốc thế giới, trường phái Lokàyata bác bỏ sự
tồn tại của Brahman ( linh hồn thế giới) và Atman ( linh hồn của mỗi cá nhân
con người). Phái này cho rằng thế giới được tạo thành từ bốn yếu tố: đất,
nước, lửa, không khí tạo thành và ý thức cũng được tạo ra từ các yếu tố đó.
Những yếu tố này có khả năng tự tồn tại, tự vận động trong không gian và cấu
thành vạn vật. Tính đa dnagj của vạn vật do sự kết hợp khác nhau những yếu
tố ấy.
Bản thân con người cũng là kết quả sự kết hợp của các yếu tố đất,
nước, lửa, không khí. Sự hợp thanh hay tan rã của các nguyên tố làm cho con
người hay các sự vật khác tồn tại hay mất đi.
14


Linh hồn hay ý thức chỉ là một thuộc tính của cơ thể, ý thức do vật chất
sinh ra như gạo nấu thành rượu. Nhưng rượu lại có tính chất mà gạo không có
là làm cho người ta say. Con người chết đi thì linh hồn cũng mất đi, không có
linh hồn bất tử. Từ đó, Lokàyata phủ nhận thuyết “luân hồi” và “ nghiệp”,
chế giễu “sự giải thoát”.

Về lý luận nhận thức, phái bày có khuynh hướng duy vật theo lập
trường kinh nghiệm luận. Họ cho rằng cảm giác là nguồn gốc duy nhất của
nhận thức, đồng thời phủ nhận tính xác thực của tri thức gián tiếp.
Về logic học, Lokàyata không phủ nhận giá trị của biện chứng, chứng
minh và kết luận logic mà chỉ phủ nhận phương thức suy luận, chứng minh và
mở ra kết luận sai lầm của kinh Veda.
Về đạo đức, các đại biểu Lokàyata chê lý thuyết chấm dứt đau khổ
bằng sự kiềm chế ham muốn dục vọng, hạnh phúc ở thiên đường. Họ cho rằng
chỉ có thế giới con người đang sống mới là có thực. Vì vậy hãy để cho mọi
người sống và hưởng lạc tất cả những cái gì họ mong muốn.
Những tư tưởng trên đây cho thấy, Lokàyata là phái duy vật triệt để
nhất trong các trường phải triết học Ấn Độ cổ đại, nó xa lạ với tinh thần tôn
giáo truyền thống của Ấn Độ và đây có thể là một trong những nguyên nhân
khiến nó sớm mất đi.
2.2.3 Đạo Phật ( Phật giáo)
Phật giáo xuất hiện vào khoảng thế kỉ VI tr.CN, là một trào lưu tôn giáo
triết học. Nó nhanh chóng phổ biến, trở thành quốc giáo ở Ấn Độ rồi ảnh
hưởng mạnh mẽ đến đời sống văn hóa tinh thần của nhiều dân tộc cả phương
Đông lẫ phương Tây.
Đạo Phật ra đời trong làn sóng chống đối sự ngự trị của Đạo Bàlamôn,
chống lại nạn kì thị đẳng cấp, đòi tự do, bình đẳng. Nó chú trọng tìm cách lý
giải nguyên nhân của mọi nỗi khổ đau nhân thế và tìm cách loại trừ nỗi khổ
đau ấy, đưa nhân loại thoát khỏi nỗi khổ đau trong vòng luân hồi. Phương tiện
chủ yếu để giải thoát là sự hướng thiện và cuộc sống đức độ. Người sáng lập
15


ra đạo Phật là Thái tử Siddharta của một vương quốc ở phía Bắc Ấn Độ ( gần
Nêpan ngày nay). Ngài sinh khoảng năm 563 tr. CN, theo truyền thuyết có 32
tướng tốt, 80 dáng đẹp, thân cao trượng sáu, toàn thân đều màu vàng. Trên

đỉnh đầu có một khối thịt nhô ra như búi tóc. Hàm giống như sư tử. Lưỡi che
được mặt. Hào quang ở đỉnh đầu chiếu ra muôn dặm. Năm 16 tuổi lấy vợ là
nàng Yasodhará – một trong năm trăm thiếu nữ mà ngài có quyền lực chọn.
Ngài học đủ mọi môn võ bị, học nhiều vị minh triết, thấu hiểu mọi triết thuyết
đương thời. Mặc dù cống êm đềm, phú quý bên cạnh vợ con, được mọi người
trọng vọng, nhưng là người đa sầu đa cảm, thương xót cảnh đời nhân gian nên
quyết tìm cách giúp mình, giúp đời thoát khổ.
Sau bảy năm tìm thầy học đạo, theo đủ các phương thức của các giáo
phái truyền thống nhưng không thành, cuối cùng Ngài từ bỏ tất cả tự mình tìm
ra chân lý.
Theo truyền thuyết, một đêm ngồi trầm tư mặc tưởng dưới gốc cây bồ
đề, ngài đột nhiên đại ngộ- giác ngộ thành Phật ( giác ngộ= Phật). Người đới
đặt tên là Thích ca Mâu ni (Sakya – muni = nhà hiền triết của xứ Sakya). Phật
là âm hán Việt của Buddha, có nghĩa là giác ngộ. Phật giáo là hình thức giáo
đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức là từ biển lớn trí tuệ và
từ bi của Siddharta.
Ngay sau khi “Ngộ đạo”, thì Thích Ca đã quyết định thuyết giảng lại
hiểu biết của mình. 60 đệ tử đầu tiên là những người có quan hệ gần với Thích
Ca hình thành tăng đoàn (hay giáo hội) đầu tiên. Sau đó, những người này
chia nhau đi khắp nơi và mang về thêm ngày càng nhiều người muốn theo tu
học. Để làm việc được với một lượng người theo tu học ngày càng đông, Phật
đã đưa ra một chuẩn mực cho các đệ tử có thể dựa vào đó mà thu nhận thêm
người. Các chuẩn mực này phần chính là việc quy y tam bảo (Phật, pháp,
tăng), tức là chấp nhận theo hướng dẫn của chính đức Phật, những lời chỉ dạy
của Phật (Pháp), và cộng đồng Tăng đoàn. Đây là tổ chức thống nhất, bình
đẳng giữa mọi thành viên không phân biệt gíới tính, tuổi tác, điạ vị xã hội và
có mục tiêu tối cao là đem lại giác ngộ cho mọi thành viên.
16



- Ngoài những người xuất gia, Phật còn có rất nhiều đệ tử tại gia (hay
cư sĩ). Giới cư sĩ cũng được Phật thuyết giảng và ngược lại tham gia ủng hộ
tăng đoàn về nhiều mặt…
- Khi Phật còn tại thế thì các giảng thuyết đều chỉ truyền miệng. Tuỳ
theo trình độ hiểu biết và khả năng tiếp thu, tùy theo hoàn cảnh và phưong
tiện, để có lời giảng và phương pháp thích hợp..., do đó, sự dị biệt khó tránh
khỏi trong các lời giảng.
- Ngay sau khi Phật nhập diệt đã có các đệ tử không chịu ràng buộc tâm
ý... Để tránh sự sai biệt, và bảo tồn các giáo pháp và luật lệ cho được toàn
vẹn, Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa) đã đề nghị kết tập và phân loại toàn bộ
lời dạy của Phật lại thành kinh điển để tránh chia rẽ, sai lầm về giáo pháp.
Qua nhiều lần “Kết tập”, các học trò của Phật đã tập hợp được một Bộ kinh
rất lớn, để truyền lại cho chúng sinh, với ba bộ phận gọi là “Tam tạng kinh”:
1. Tạng kinh: ghi lại những lời Phật dạy; 2. Tạng Luật: gồm các giới luật của
đạo Phật; 3. Tạng luận: gồm các bài kinh, các luận giải, bình chú về giáo pháp
của các cao tăng, học giả về các NDg của Đạo phật sau này.
Sau khi Thích ca Mâu ni chết, học trò tiếp tục phát triển tư tưởng của
Ngài, xây dựng thành học thuyết tôn giáo. Học thuyết này đã có ảnh hưởng
sâu rộng ở Ấn Độ và nhiều nước trên thế giới đến tận ngày nay.
KinhPhật khá đồ sộ gồm 3 bộ phận gọi là Tripitaka ( Tam tạng); Sutra
(kinh); Vinaya ( luật) : Saatra (luận). Nghiên cứu Phật giáo ở góc độ triết học
tập trung ở hai phương diện thế giới quan và nhân sinh quan.
Đạo Phật có 3 môn phái khác nhau giáo lý, tổ chức, giáo đoàn:
1. Phật giáo nguyên thủy ( Tiểu thừa = Hina – yana = Cỗ xe nhỏ). Chủ
trương tu cho bản thân giác ngộ thành La Hán ( Arhat), không thờ cũng cho
thần linh chỉ thờ Tích ca Mâu ni thôi. Tranh tượng Đức Phật chỉ là hành ảnh
tượng trưng chư cây Bồ Đề, hoặc con voi mà thân mẫu Người mơ trước khi
sinh ra người, hoặc bánh xe luân hồi.
Đạo Phật tiểu thừa nay thịnh hành ở các nước Đông Nam Á như
Srilanka, Thái Lan, Lào, Camphuchia và một vài tỉnh miền Nam Việt Nam

17


2. Phái Đại thừa ( Mahay – Yana = cỗ xe lớn) chủ trương tự giác và
giác ngộ cả chúng sinh. Các khía cạnh tôn giáo ở phái này phát triển mạnh
( sung tín, cầu nguyện sư gia của các Đức Phật và Bồ Tát). Phái Đại Thừa bớt
khắt khe và khổ hạn nên dễ được chấp nhận. Theo phái này thì thu tành Bồ
Tát trước khi thành Phật
Phật Thích ca dần dần mất tính cách là một nhân vật lịch sử, trở thành
đấng siêu việt. Các Phật tử theo Đại thừa không chỉ aung bài Phật Thích ca
mà còn sung bái nhiều vị Phật khác như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc ( người
Việt Nam gọi là ông vô lo) 3 vị này đều là Phật của tiền kiếp. Phật Thích Ca
là hiện thân của giác ngộ, thường cầm bông sen, Phật A Di Đà làm chủ thế
giới nên thường trụ thiền định, Phật Di Lặc là đấng từ tôn, hiện thân của mọi
người hạnh phúc nên thường béo tốt. Nét chung của tượng Phật là : trí tuệ và
niềm cảm thông, cứu độ.
Đại thừa phát triển mạnh ở các xứ bắc như: Trung Quốc, Nhật, Triều
tiên, Việt Nam.
3. Phái Tamtra – yana (phái Mật tong, có tính chất bí truyền, kết hợp
phù trú, bùa linh để tu giải thoát. Phổ biến ở Tây Tạng, Mông cổ, Xibia.
* Thế giới quan Phật giáo
Thế giới quan Phật giáo có những yếu tố duy vật và vô thần, chứa đựng
nhiều tư tưởng biện chứng sâu sắc. Tính duy vật và vô thần thể hiện rõ trong
quan niệm về tính tự thân sinh thành và biến đổi của vạn vật, không do một
lực lượng tinh thần hay thượng đế tối cao nào. Tính biện chứng sâu sắc thể
hiện trong luận giải về tính chất “vô ngã”, “ vô thường”, luật nhân quả “
duyên” của đạo này.
Cốt lõi trong triết lý bản thể luận ( thế giới quan thể hiên ở các phạm
trù: vô ngã, vô thường, duyên.
- Vô ngã

Theo kinh Bát Nhã ( một bộ kinh đầu tiên truyền bá tư tưởng Đại Thừa)
thì tạo hóa sinh ra con người gồm hai phần thể xác và linh hồn, cả thảy phân
thành ngũ uẩn ( năm nhóm):
18


1/ Sắc uẩn được tạo nên từ 4 thể chất (tứ đại): đất, nước, lửa, không khí.
2/ Thụ uẩn (cảm giác): các đồ vật thuốc tứ đại như là cơm ăn, nước uống…
được đưa vào cơ thể con người thì chúng trở thành tự thể ( cơ thể) của chúng ta.
Có người đến vuốt ve, nịnh hót thì tự thể có cảm giác vui. Có người đến đánh đạp
chửi rủa thì tự thể có cảm giác buồn. Thụ là toàn bộ các cảm giác.
3/ Tưởng uẩn (ấn tượng): sự sắp đặt và phân biệt giúp nhận ra các sự
vật khác nhau nhờ các tri giác khác nhau như âm thanh, màu sắc, mùi vị…
4/ Hành uẩn ( suy lý): sự quyết định làm, quyết định hành động. Đây là
bước tiến tiếp theo sau tưởng uẩn. Tưởng uẩn mới chỉ là ý nghĩ mờ nhạt, hành
đã là ý chí, sự cả quyết mặc dù nó vẫn chưa sâu sắc.
5/ Thức ( ý thức): bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ với sáu giác quan :
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Thức phụ thuộc váo sáu căn ( sáu giác quan nói
trên) tiếp xúc với sáu trần để tạo nên sáu thức.
Sáu trần gồm có:
Sắc trần: màu săc, hình tướng ( hình dáng), biểu sắc ( động tác biểu
hiện ra bên ngoài)
Thanh trần: tiếng động âm thanh
Hương trần: mùi
Vị trần: cảm giác phát sinh do vị: ngọt nhạt, chua cay, mặn, đắng chat.
Xúc trần ( cứng, mềm, ướt, khô, nóng lạnh)
Pháp trần ( những gì mà ý thức hình dung)
Quan điểm “ vô ngã” cho rằng vạn vật trong cũ trụ chỉ là sự giả hợp do
hội đủ nhân duyên nên thành ra “có” ( tồn tại). “ Vô ngã” là không có cái gì
mà là ta…, tất cả chỉ là giả trưởng không có thật. Như vậy là không có cái gọi

là “tôi” ( vô ngã)
* Vô thường:
Phật giáo cho rằng không có người sáng tạo đầu tiên ( vô tạo giả) và
cũng không có gì là vĩnh hằng tuyệt đối. Bản chất sự tồn tại của thế giới là
một dòng chuyển biến liên tục (vô thường).
19


Vậy thì “ có”, “ không” luân hồi bất tận; “ thoáng có”, “ thoáng
không”, cái còn thì chẳng còn, cái mất thì chẳng mất. Như vậy là Phật giáo
bác bỏ Brahman và Atman vì thế nó bị xếp vào một trong những phái không
chính thống.
- Duyên
Muôn loài sinh thành biến hóa và sự biến hóa này diễn ra rất nhanh
( tuân theo chu trình: sinh, trụ, dị diệt ), diễn ra theo quy luật nhân quả. Qủa
lại do duyên mà thành quả khác. Nhân khác lại có duyên mà thành quả mới.
Cứ như vậy nối tiếp nhau vô cùng, vạn vật biến hiện mãi mãi.
* Nhân sinh quan Phật giáo
Nhân sinh quan là phần trọng tâm của triết học Phật giáo. Phật giáo bác
bỏ Brahman và Atman, nhưng lại thừa nhận có Kalpa ( kiếp), Karma ( nghiệp)
trong Upanisad.
Luân hồi ( Samsara)= bánh xe quay tròn. Khi mọi người chết đi lại đầu
thai vào một thể xác khác, có thể là người, cũng có thể là loài vật khác như
chó ngựa, cây cỏ…chỉ những người tu hành đắc đạo, được vào cõi Phật mới
thoát khỏi sự luân hồi đó. Niềm tin này có cả ở phương Đông lẫn phương Tây
( cổ Ai Cập, phái Pytago).
Nghiệp ( Karma) là cái do hành động của ta gây ra. Mỗi người hiện tại
phải gánh chịu hậu quả của hành vi kiếp trước. Sự gánh chịu này gọi là
nghiệp báo. Nếu tu nhân tích đức tốt ở kiếp này thì có nghiệp báo tốt báo ứng
ở kiếp sau. Ngược lại, nếu đời này làm nhiều điều xấu, điều ác thì đời sau

phải chịu nhiều tai ương.
Không tin có một linh hồn vĩnh viễn. Nghiệp báo là do luật nhân duyên
tác động. Những yếu tố sinh lý ( thân) và tinh thần ( tâm) liên tục kết hợp và
ly tán, điều này dẫn đến chuyện có bản ngã từ đời này sang đời khác. Khi nào
tu giác ngộ mới thoát khỏi vòng luân hồi đó. Mục đích cuối cùng của Phật
giáo là tìm đường giải thoát ( Moksa) chúng sinh ra khỏi vòng luân hồi, quả
bào nhằm đạt trạng thái tồn tại Niết bàn ( Nirvara). Qua đó cũng có thể nói
20


rằng thực chất của Đạo Phật là học thuyết về nỗi khổ và sự giải thoát. Phật
Thích Ca nói rằng: “ Ta chỉ có dạy một điều khổ và diệt khổ”. Kinh Pháp cú
cũng chép lời Phật dạy rằng: “ Ta là người phát hiện ra chân lý chứ không
phải là người sáng tạo ra chân lý, ta chỉ có thể chỉ ra con đường giải thoát chứ
không có cách nào đi thay các người được”.
Phật giáo có tính quần chúng cao. Tôn giáo này đưa ra tinh thần “ bình
đẳng giác ngộ”, ai cũng có thể giải thoát được, kể cả các “chúng sinh”.. Như
vậy, Phật giáo mang tính nhân bản sâu sắc, vượt qua giới hạn đẳng cấp nghiệt
ngã của chính trị Ấn Độ cổ đại. Phật giáo thể hiện khát vọng “ tự do cho tất cả
mọi người”. Sự giải thoát không là độc quyền của một đẳng cấp nào, dù đó là
đẳng cấp tăng lữ hay quý tộc, bình dân hay tiện nô. Song đây chỉ là bình đẳng
trong mưu cầu cứu cánh giác ngộ, không phải là bình đẳng về chính trị.
Để giải thoát Phật nêu thuyết “ tứ diệu đế” đó là 4 chân lý mà con
người muốn giải thoát bể khổ cần nhận thức và thực hiện.
+ Khổ đế ( Dukkha = Du ( khó)+ Kha ( chịu) như vậy nghĩa gốc của
Dukkha là khó chịu, bứt rứt, dày vò đau đớn, khổ cực, buồn phiền. Phật cho
rằng, cuộc đời là bể khổ. Cái khổ của Phật giáo mang ý nghĩa triết lý sâu sa,
ngoài nghĩa thông thường còn chỉ sự không hoàn thiện, vô thường, xung đột,
trống rỗng, không bản chất. Có nhiều cách phân loại khổ: nhị khổ, tam khổ, tứ
khổ, ngũ khổ, bát khổ. Bát khổ được nói đến nhiều nhất; ngoài những nỗi khổ

thông thường như: sinh, lão, bệnh, tử còn có những nỗi khổ khác như:
Thụ biệt khổ ( yêu nhau mà phải xa nhau)
Oán tăng hội ( ghét nhau mà phải tụ hội với nhau)
Sở cầu bất đắc ( muốn mà không được)
Thụ ngũ uẩn ( sắc, thụ, tưởng, hành, thức – tất cả những thứ đó che lấp
trí tuệ của con người, làm cho con người không nhận thức được bản chất,
nguyên nhân sự vật, hiện tượng cũng gây ra khổ. Người nhà Phật nói: “ Nước
mắt chúng sinh nhiều hơn nước mắt đại dương”.
21


+ Tập đế ( hay nhân đế - Samudayya – satya ): nguyên nhân của những
nỗi khổ trên có 12 loại ( thập nhị nhân duyên): 1 Vô minh ( không nhận thức
được sự vật hiện tượng chỉ là giả, chỉ là ảo); 2, Hành ( tâm dao động); 3, Thức
( tâm mất thăng bằng); 4, Danh sắc ( sự hội tụ của yếu tố vật chất và yếu tố
tinh thần. Ở loai hữu tình, sự hội tụ này sinh ra lục căn, tức các cơ quan cảm
giác : nhãn căn, nhĩ căn, tỵ căn ( lưỡi), thiệt căn ( thân thể), ý căn ( ý thức); 5:
Lục nhập ( lúc căn tiếp xúc với thế giới xung quanh, thấy lục trần : sắc, thanh,
hương, vị, xúc, pháp); 6, Xúc ( tiếp xúc, phối hợp với lục trần và Thức); 7,
Thụ ( cảm giác- do tiếp xúc mà sinh ra yêu ghét, vui buồn); 8, Ái ( ham muốn
tình ái,mê đắm); 9, Thủ ( muốn chiếm giữ); 10, Hữu ( muốn có được, muốn
tồn tại lâu dài mãi mãi); 11, Sinh ( có rồi phải sinh để gây nghiện); 12, Lão –
tử ( đã có sinh ắt phải có già, chết).
Nói vắn tắt, nguyên nhân của mọi nỗi khổ đau có thể gộp lại thành:
tham, sân, si. Tham là tham lam, hướng ra ngoài cầu cho được cái mình muốn
như danh ,lợi, ái tình. Sân là giận dữ, đó là tâm trạng đau khổ, bất an, ghét bỏ
những cái trái ý, không ưa, không thích. Si là ngu si ( vô minh) lầm tưởng mọi
cái, không sáng suốt, thiếu “ giác ngộ chân lý”. Vô minh có 2 dạng: một là do
bẩm sinh, hai là do bị giáo dục sai lầm. Có thuyết giải thích vô minh gồm các
dạng: Mạn (kiêu ngạo, tự đề cao mình), Nghi ( hoài nghi tất cả, thiếu tự tin,

do dự), Thân kiến ( chỉ có ý kiến của ta là đúng), Biện kiến ( cố chấp những ý
kiến xung quanh), Kiến thủ kiến: ( thành kiến, định kiến), Tà kiến ( tin và làm
những điều trái quy luật, trái đạo pháp).
3 nguyên nhân này còn gọi là ba độc chúng chính là nguyên nhân thúc
đẩy bánh xe luân hồi. 3 nguyên nhân đó được thể hiện bằng các biểu tượng
con vịt ( tham), con rắn ( sân), con lợn ( si). Bông sen thể hiện cho sự thanh
cao, bánh xe thể hiện thuyết pháp.
+ Diệt đế ( Nirodha – Satya): là diệt trừ tất cả các nguyên nhân sinh ra
luân hồi. Phật khẳng định, có thể diệt trừ các nguyên nhân sinh ra nỗi khổ,
giải phóng con người ra khỏi vòng luân hồi số kiếp. Khi chết được lên Niết
22


bàn. Luận điểm này thể hiện thế giới quan tôn giáo của Đạo Phật. Nó cũng thể
hiện khát vọng nhân bản muốn đưa con người đến “ hạnh phúc tuyệt đối”.
+ Đạo đế ( Màrga – Satya): con đường giải thoát( diệt khổ) thực chất là
tiêu diệt vô minh, đó chính là con đường tu hành để giải thoát ( bát chính đạo là
con đường tu hành chính của đạo Phật). Thực chất của con đường này là hoàn
thiện đạo đức cá nhân, chứ không mang ý nghĩa của các phong trào cách mạng
hay cải cách xã hội. Nội dung chủ yếu gồm 8 nguyên tắc ( bát chính đạo):
+ Chính kiến: hiểu biết đúng đắn về đạo pháp, đúng sự thật nhân sinh
( 4 chân lý thánh).
+ Chính tư ( tư duy): suy nghĩ đúng đắn về đạo pháp để tăng thêm tin
tưởng, có trí tự luyện.
+ Chính ngữ: nói đúng đắn, chân thực, dịu dàng không vọng ngôn,
không ác khẩu.
+ Chính nghiệp: giữ nghề nghiệp chân chính, chống tà nghiệp ( trộm
cắp, tà dâm, giết hại chúng sinh).
+ Chính mệnh : gắn bó với chính nghiệp để tiết chế dục vọng, ham
muốn, sống thanh tịnh. Khiến cho tâm hồn được thư thái, nhẹ nhàng.

+ Chính tinh tấn ( tiến): sống theo đạo pháp ( hăng hái, tích cực, tìm kiếm
và truyền bá chân lý của đạo Phật), siêng làm điều thiện, diệt trừ điều ác.
+ Chính định : phải tĩnh lặng, tập trung tư tưởng, thiền định để đạt tới
nội dung trong sáng, thuần định.
Tám nguyên tắc hay “bát chính đạo” có thể thâu tóm vào ba điều học
tập và rèn luyện lớn đó là giữ giới luật, thực hành thiền định và khai thông trí
tuệ. Phật Giáo cho rằng, một khi người ta đã làm lắng dịu lòng tham ái, chấp
thủ, thì những nỗi lo âu, sợi hãi, bất an giảm dần, thâm tâm của bạn trở nên
thanh thản, đầu óc tỉnh táo hơn; lúc đó nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản hơn,
rộng lượng hơn. Đó là một hình thức hạnh phúc, cũng nhờ vậy tâm trí không
bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị nung nóng bởi các
ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ hãi mà tâm lý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt
23


hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc hơn, chính xác hơn, thâm
tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn với mọi người xung quanh rộng
lượng và bao dung hơn. Tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, vô minh đến
mức độ nào thì đời sống sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
Như vậy, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vô thần, phủ định đấng
sáng tạo, có tư tưởng biện chứng (vô thần, duyên khởi). Song triết học Phật
giáo lại có mầu sắc duy tâm chủ quan, cho sự vật, hiện tượng trong thế giới
đều là ảo giác, ảo ảnh, không có thực, do vô minh của con người tạo ra.
* Một số nhận định về triết học Ấn Độ cổ, trung đại
Triết học Ấn Độ cổ, trung đại đã đặt ra và bước đầu giải quyết nhiều
vấn đề của triết học.
+ Các nhà triết học Ấn Độ cổ đã có một tư duy phân loại đạt đến trình
độ cao và sự phân tích sâu sắc đến đáng kinh ngạc. Họ không dừng lại ở các
vấn đề nhân sinh quan mà đặc biệt quan tâm đến các vấn đề bản thể luận. Nếu
so với triết học Trung Quốc cổ, chúng ta thấy ở Ấn Độ các vấn đề bản thể

luận được chú ý nhiều hơn, logic cũng được phát triển hơn ở Trung Quốc.
Trong khi giải quyết những vấn đề thuộc bản thể luận, nhận thức luận
và nhân sinh quan, triết học Ấn Độ đã thể hiện tính biện chứng và tầm khái
quát khá sâu sắc, đã đưa lại nhiều đóng góp quý báu vao kho tàng di sản triết
học của nhân loại.
+ Quan tâm giải quyết những vấn đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm
linh, tôn giáo với xu hướng “ hướng nội”, đi tìm cái Đại ngã trong cái Tiểu
ngã của một thực thể cá nhân.
+ Sự phản tỉnh nhân sinh là một nét trội và có ưu thế của nhiều học
thuyết triết học Ấn Độ cổ, trung đại ( trừ trường phái Lokàyata), và hầu hết
các học thuyết triết học này đều biến đổi theo xu hướng từ vô thần đến hữu
thần, từ ít nhiều uy vật đến duy tâm hay nhị nguyên.
Những điều đó phản ánh trạng thái trì trệ của “ phương thức sản xuất
Châu á” ở Ấn Độ vào tư duy triết học; đến lượt mình, triết học lại trở thành
một trong những nguyên nhân của trạng thái trì trệ đó.
24


KẾT LUẬN
Lịch sử phát sinh và phát triển của các tư tưởng triết học Ấn Độ chứng
tỏ đó là một nền triết học có một truyền thống lâu đời. Hình thành từ cuối
thiên niên kỷ II đầu thiên niên kỷ I tr.CN, từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo,
người Ấn Độ đã sáng tạo nên triết học, dựa trên tư duy trừu tượng, lý giải căn
nguyên của vũ trụ, nhân sinh và cố gắng vạch ra bản chất đời sống tâm linh
con người, với các tác phẩm triết học, các trường phái tư tưởng nổi tiếng như:
Vêda, Upanisad, Jaina, Yoga, Samkhya, Vaisesika, Vedanta…Nền triết học ấy
ngay từ đầu đã diễn ra cuộc đấu tranh không kém phần gay gắt giữa thế giới
quan duy tâm, tôn giáo với tư tưởng duy vật, vô thần, giữa tinh thần lạc quan
với thái độ bi quan, giữa những quan điểm mang tính đa nguyên với những
quan điểm có tính nhất nguyên. Các trường phái triết học, tôn giáo đó vừa

“cạnh tranh” với nhau, lại vừa kế thừa tư tưởng của nhau, tạo nên những khái
niệm, phạm trù triết học tôn giáo có tính truyền thống, cơ bản nhưng cũng hết
sức phong phú, chịu sự chi phối mạnh mẽ của kinh Veda và các tôn giáo lớn
của Ấn Độ.
Tư tưởng triết học và nền văn hóa Ấn Độ là một thế giới kỳ
diệu, đầy sức quyến rũ, chưa hề tan lụi trong lịch sử. Tư tưởng ấy nảy sinh từ
đời sống và đi ngay vào đời sống, là hơi thở thậm chí là cứu cánh của nhân
dân Ấn Độ. Vì vậy, chúng ta thấy rằng những tư tưởng triết học, tôn giáo Ấn
Độ đã có từ hơn ba ngàn năm nay nhưng vẫn được truyền tụng sâu rộng trong
đời sống nhân dân Ấn Độ và nhân dân các dân tộc trên thế giới. Vì vậy, việc
nghiên cứu lịch sử triết học Ấn Độ nói riêng, văn minh Ấn Độ nói chung là
hết sức cần thiết.

25


×