Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Tiểu luận cao học triết vấn đề bản THỂ LUẬN và TRIẾT học HY lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.22 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Triết học Hy Lạp ngay từ khi mới ra đời đã quan tâm đến những vấn đề
bản thể luận về thế giới. Câu hỏi “thế giới bắt đầu từ đâu và quay về đâu?” trở
thành điểm xuất phát cho các cuộc tranh luận, nhưng ngay vì hướng đến thần
linh như trước đây đã nỗ lực truy tìm “nguyên nhân cuối cùng”, bản nguyên
của vạn vật ngay trong long vạn vật. Bản nguyên không chỉ đơn giản là một
thứ vật chất như cách hiểu của vật lý học hay hóa học hiện đại, mà là một cái
gì đó làm cơ sở cho sự xuất hiện giới tự nhiên và sự sống. Một khuynh hướng
nghiên cứu mới, nghiêm túc đã mở ra - dung lý trí xét đoán mọi thứ. Khuynh
hướng ấy xuất phát từ xứ Ionie, nơi khai sinh ra nhiều trường phái triết học
tiêu biểu của Hy Lạp cổ đại. Bản thể luận với tư cách bộ phận quan trọng nhất
của siêu hình học có nhiệm vụ phải luận chứng cho sự tồn tại của mẫu lý
tưởng ấy về mặt lôgíc. Do vậy, nội dung, cách thức tiếp cận bản thể luận là
phải chỉ ra được các nguyên tắc của tồn tại văn hoá, trong đó bộ phận hạt
nhân là phải chỉ ra được cấu trúc tồn tại người với tư cách một thực thể văn
hoá. Theo chúng tôi, cách tiếp cận bản thể luận không phải là cách tiếp cận
mới, nhưng là một trong nhiều cách tiếp cận có tính gợi mở cao, cho phép
chúng ta có “cách nhìn” khác và tỏ ra hữu dụng trong việc nghiên cứu lịch sử
triết học.

1


NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG HIỂU BIẾT CHUNG VỀ VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN VÀ
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Khái niệm bản thể luận
Thuật ngữ bản thể luận có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, nó là sự kết hợp
giữa hai từ on (ỹv) - “cái thực tồn”, cái đang tồn tại và logos (ởỹóùũ) - lời lẽ,
học thuyết, tạo thành “học thuyết về tồn tại”.


Chúng ta cần phân biệt hai bộ phận của siêu hình học để có thể thấy rõ
hơn được vị trí, đối tượng và cách tiếp cận của bản thể luận và qua đó, cũng
thấy được vai trò hết sức quan trọng của bản thể luận với tư cách bộ phận
căn bản nhất của siêu hình học. Siêu hình học được phân thành siêu hình học
chung (metaphysica generalis), hay còn gọi là siêu hình học đại cương và
siêu hình học chuyên ngành (metaphysica specialis). Siêu hình học đại
cương có đối tượng nghiên cứu là những cơ sở sâu xa, những quy tắc, cấu
trúc cơ bản của tồn tại, như Arixtốt nói, nó nghiên cứu “cái thực tồn như là
cái thực tồn” hay “cái gì là tồn tại của cái thực tồn”; còn siêu hình học
chuyên ngành có đối tượng nghiên cứu là Thượng đế (Thần học tự nhiên),
linh hồn (Tâm lý học tự nhiên) và thế giới (Vũ trụ học). Như vậy, bản thể
luận chính là bộ phận siêu hình học chung (đại cương) của siêu hình học.
Nói chung, theo nghĩa cổ điển thì bản thể luận có nhiệm vụ lý giải cấu trúc
cơ bản của tồn tại và do vậy, bản thể luận (siêu hình học đại cương) mang
tính trừu tượng cao nhất. Các câu hỏi, như: Con người là gì? Có Thượng đế
không? hay: Thế giới có điểm khởi đầu không?... là lĩnh vực thuộc về siêu
hình học chuyên ngành chứ không phải là của bản thể luận. Chính vì đặc
trưng trừu tượng nhất của nó mà học giả Uwe Meixner đã coi bản thể luận
chỉ có “tính chất mô tả thuần tuý” (3). Theo ông, bản thể luận có nhiệm vụ mô
2


tả cấu trúc nền tảng của “tất cả những cái hiện thực và những cái không hiện
thực”, tức là của tất cả những cái thực tồn.
Từ thời Cổ đại, các nhà triết học đã phân biệt tồn tại (Sein) với thực
tồn (Seiendes, hiện hữu). Cái thực tồn là tổng thể những cái có thực và
không có thực, kể cả những cái đang ở dạng khả năng. Nhưng, ở tổng thể
những cái đa dạng ấy, có thể tìm thấy một điểm chung, một dấu hiệu “trung
tính” thể hiện ở chỗ, thế giới nói chung là đang thực tồn. Khái niệm “tồn tại”
biểu thị điều đó. Tại sao một vật nói chung lại thực tồn, sự thực tồn đó căn

cứ trên cái gì? Cái gì là nguyên nhân của nó? Tồn tại là cái tối hậu mà con
người có thể đặt câu hỏi về nó, song nó lại không thể xác định theo cách
thức thông thường.
Khái niệm “tồn tại” lần đầu tiên được triết gia Hy Lạp - Pácmênít bàn
tới. Ông cho rằng, bản chất của mọi sự vật trong thế giới là tồn tại, không thể
có cái không-tồn tại, bởi chúng ta không thể hình dung được cái không-tồn tại
là cái gì. Tồn tại là cái chỉ có thể nhận thức được bằng lý tính. Mọi tư duy bao
giờ cũng là tư duy về tồn tại. Tư duy, do vậy, đồng nhất với tồn tại.
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, thuật ngữ “siêu hình học” không phải
do Arixtốt đưa ra, mà do nhà triết học Andronikos Rhodos, trong quá trình
phân định các tác phẩm của Arixtốt, đưa ra vào khoảng năm 70 sau CN., tức
là sau khi Arixtốt đã qua đời. Nghĩa ban đầu của thuật ngữ “siêu hình học” là
nghiên cứu “những cái sau vật lý”, tức là những nguyên nhân sâu xa (vô hình,
siêu hình), cơ sở của hiện thực mà chúng ta không thể đạt được bằng kinh
nghiệm, cảm tính, mà chỉ có thể đạt được nhờ vào lý tính, vào tư duy.
Vậy, bản thể luận cung cấp cho chúng ta những hiểu biết về cấu trúc cơ
bản của tất cả những cái thực tồn bằng cách nào? Nói chung, nó có thể thực
hiện điều ấy bằng hai cách thức khác nhau. Một mặt, chúng ta có thể xem xét

3


các kinh nghiệmcủa mình về những cái thực tồn và từ đó, tìm cách xác định
những đặc trưng, tính chất cơ bản của chúng. Đây là con đườngtrực tiếp tiếp
cận tới cấu trúc cơ bản của tất cả những cái thực tồn. Nhưng trên thực tế, các
nhà triết học thường ít chọn con đường này, mà họ sử dụng “con đường
vòng”, gián tiếp thông qua ngôn ngữ. Chẳng hạn, Arixtốt đã đi theo hướng
này với học thuyết về phạm trù của ông. Các phạm trù chính là nội dung của
tồn tại, được phân cấp thành “thực thể” (Substanz, hay “bản chất”) và “tuỳ
thể” (Akzidenz, các dạng thức thể hiện “bản chất”, phụ thuộc vào “bản chất”).

Trong triết học phương Tây hiện đại, vấn đề bản thể luận văn hoá đã
được đặt ra. Bản thể luận văn hoá quan tâm đến tính đặc thù của tồn tại
người như một thực thể văn hóa và tìm cách xác định những cấu trúc cơ bản
của nó. Theo đó, triết học, ngay từ đầu, đã đóng vai trò hết sức quan trọng với
tư cách sự kết tinh tinh thần của văn hoá nhân văn thời đại. Do vậy, không
phải ngẫu nhiên mà triết học, theo nghĩa ban đầu của nó, là philosophia- “tình
yêu sự thông thái”. Bởi “sự thông thái” là hình mẫu lý tưởng của con người
Hy Lạp cổ đại. Hình mẫu lý tưởng (nguyên mẫu) là khái niệm hay quan niệm
chung nhất về cái có tính người nơi con người và mỗi một thời đại văn hoá
đều được phản tư về mặt triết học để xây dựng một mẫu lý tưởng cho bản
thân mình.
1.2. Những hiểu biết chung về triết học Hy Lạp cổ đại
1.2.1.Hoàn cảnh ra đời
Những tư tưởng triết học đầu tiên tại Hy Lạp cổ đại xuất hiện vào thời
kỳ diễn ra những diễn biến sâu sắc trong quan hệ xã hội, trước hết là sự tan rã
chế độ thị tộc và sự thiết lập chế độ chiến hữu nô lệ, chế độ xã hội có giai cấp
đầu tiên trong lịch sử loài người. Đó là một quá trình lâu dài, phức tạp, với
những cuộc chiến tranh và xung đột triền miên.
Lãnh thổ Hy Lạp xưa rộng lớn hơn so với hiện nay gấp nhiều lần, bao
gồm phần đất liền cùng vô số hòn đảo trên biển Egie, vùng duyên hải Balcan

4


và tiểu Á. Từ cuộc di thực ồ ạt vào các thế kỷ VIII - VI TCN, người Hy Lạp
chiếm thêm miền nam Ý, đảo Sicile, vùng ven biển Đen, lập nên Đại Hy Lạp.
Những cuộc viễn chinh toàn thắng của Alexandre xứ Macedoine vào cuối thế
kỷ IV TCN đã đưa đến sự ra đời các cuốc gia Hy Lạp hóa trải rộng từ Sicile ở
phía tây Ân Độ ở phía đông, từ biển Đen ở phía bắc đến khu vực tiếp giáp
sông Nil ở phía nam. Tuy nhiên trung tâm của Hy Lạp cổ đại, trải qua bao

thăng trầm, vẫn là vung biển Egie, nơi nhà nước và nền văn hóa Hy Lạp đạt
tới sự phồn thịnh cao nhất của mình.
Vào thời đại Homère (thế kỷ XI- IX TCN), ở Hy Lạp, đã chớm bắt đầu
quá trình tan rã của công xã thị tộc, được thú đẩy bởi sự phân công lao động,
diễn ra trong nông nghiệp giữa trồng trọt và chăn nuôi. Đồng tiền kim khí
chưa xuất hiện, thương nghiệp và nghề thủ công chiếm tỷ trọng không đáng
kể trong đời sống. Đọc Homère, người ta dễ dàng nhận thấy rằng, những nhân
vật trong trường ca sử thi Iliade và Odyssei không phải là nhưng lực sĩ trên
đồng ruộng, giỏi khẩn hoang, làm cỏ, cày xới, mà thiên về phô trương sự
thiện chiến của mình. “Chiến tranh” và “xung đột” là những từ ngữ thường
thấy trong các sang tác thần thoại, nghệ thuật thời kỳ này. Đằng sau những
câu chuyện về chiến tranh giữa các vị thần đã ẩn chứa các sự kiện lịch sử đầy
bi kịch. Chiến tranh tạo ra và tôn vinh thủ lĩnh, thủ lĩnh khẳng định quyền lực
của mình bằng cách dấn thân vào những cuộc phiêu lưu bằng máu.
“Polis”, khái niệm chung để lối tổ chức nhà nước độc đáo của người
Hy Lạp xuất hiện từ rất sớm, nhưng vào thời Homere, nó chưa được hiểu như
thị quốc, mà chỉ như một cụm dân cư, sống có tổ chức, được thành lũy kiên
cố xung quanh bao bọc(1). Chữ viết chưa ra đời, truyền thống công xã còn khá
mạnh với uy lực gần như tuyệt đối của các tộc trưởng. Tuy nhiên, trong nội bộ
công xã đã bắt đầu diễn ra những xung đột từ việc hôn nhân đến việc phân
chia tài sản giữa các thế hệ. Cuối cùng là sự việc phân định quyền lực. Biểu
1. Xem thêm Nguyễn Mạnh Tường: Aiskhylos (Eschyle) và bi kịch cổ đại Hy Lạp, NXB giáo dục, 1996, tr
25-28.

5


hiện đầu tiên của phân hóa xã hội là xuất hiện hai loại người có địa vị và
quyền lợi đối lập nhau - những người được chia nhiều đất (policler) và những
người không có đất canh tác (acler).

Bước sang thế kỷ VIII TCN, kinh tế ở các thị quốc Hy Lạp tiếp tục phát
triển với nhịp độ nhanh. Thủ công tách khỏi nghề nông nghiệp và tiến những
bước đáng kể. Nghành đóng tàu được khuyến khích nhằm phục vụ cho
thương nghiệp và chiến tranh. Sự hưng thịnh của kinh tế kích thích quá trình
vượt biển tìm đất mới, xâm chiếm lãnh thổ các xứ láng giềng, bắt người làm
nô lệ. Bên cạnh đó, công cuộc di thực cũng thúc đẩy khả năng giao lưu văn
hóa, khoa học giữa Hy Lạp và các dân tộc khác.
Tóm lại, sự tích lũy tư hữu, phát triển quan hệ hàng hóa, tiền tệ, sự tan
rã của nền kinh tế tự nhiên, sự phân hóa giàu nghèo, sự đối kháng giữa các
lực lượng xã hội, sự thôn tính đất đai, sử dụng lao động nô lệ… khiến cho chế
độ công xã thị tộc là chế độ lấy quan hệ huyết thống làm cơ sở, phải đi đến
chỗ suy vong, và bị thay thế bởi một thiết chế xã hội mới, phù hợp với những
quan hệ xã hội mới. Nói cách khác, nhà nước đã ra đời như một tất yếu trên
con đường phát triển lịch sử của nhân loại. Nhà nước chiếm hữu nô lệ phục
vụ cho thiểu số dân chúng đang ngày một giàu thêm, nhất là từ sau khi đồng
tiền kim khí được phát hành vào thế kỷ VII TCN. Bắt đầu từ đây những sung
đột xã hội mang dấu ấn của những trận chiến giai cấp, lúc âm ỉ, lúc quyết liệt
diễn ra liên tục.

6


Chương 2
NỘI DUNG VẤN ĐỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1. Trường phái Milet và phương án “nhất nguyên” trong chủ
nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại.
Milet là tên một thành phố vào loại phồn thịnh nhất của Hy Lạp, thuộc
xứ Ionie, miền Tiểu Á. Nơi đây vào thời kỳ hình thành nhà nước Hy Lạp đã
nổi lên một trường phái triết học xưa nhất, gắn liền với tên tuổi của Thalès,

Anaximandre và Anaximène. Các nhà triết học Milet là những nhà nhất
nguyên, vì họ xem một hành chất nào đó là bản nguyên của thế giới, cái vừa
mang tính vật thể, vừa mang tính trí tuệ, vừa thể hiện sức mạnh huyền bí,
siêu phàm.
Người sáng lập trường phái Milet là nhà toán học, nhà thiên văn, nhà
triết học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại Thalès (khoảng 624 - 547 TCN) sáng tác
của Thalès chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa và khoa học phương đông (Ai
Cập, Babylon… ) ông biết nhiều tác phẩm dưới dạng tản văn như “về bản
nguyên”, “về nhiệt trí”, “về tiết phân”, “chiêm tinh thuật đường biển”, nhưng
hầu hết đã được thất lạc, chỉ còn những giai thoại.
Với tính cách là nhà toán học, Thalès phát minh nhiều định lý cơ bản
liên quan đến hình học, số học. Cái mới ở đây không hẳn là bản thân những
định lý, vì người phương Đông đã biết đến từ lâu, mà là ý nghĩa của chúng;
Thalès dạy môn toán không bằng thực nghiệm, mà bắt đầu sử dụng những
công thức trừu tượng, đặt cơ sở cho sự ra đời toán học lý thuyết.
Trong lĩnh vực thiên văn, Thalès có những khám phá độc đáo. Nhờ tiên
đoán chính xác nhật thực toàn phần tại xứ lonie, diễn ra vào ngày 28 - 5 - 585
TCN Thalès đã kịp thời ngăn chặn cuộc chiến tranh giữa hai lân ban Lidis và
Mèdès. Ông có lẽ là đại biểu đầu tiên của thuyết địa tâm, vì lấy trái đất làm hệ
quy chiếu để xắp sếp trật tự Đại Thiên cầu thành ba dòng cách biệt; các vì tinh
7


tú, cách Mặt trăng, Mặt trời, Mặt trời có kích thước lớn hơn hai mươi lần so
với Mặt trăng và thực hiện những chu kỳ hành động quanh các hành tinh bất
động hết 365 ngày. Những giả thuyết của ông về thủy triều thuyết phân hạ chỉ
tỏ ra ngây thơ xét từ quan điểm hiện đại song đối với người xưa là một sự
ngạc nhiên thú vị.
Thalès thuộc về thế hệ các nhà triết học đầu tiên xem xét khởi nguyên
sự vật ở dạng hành chất, theo ông mọi cái đang tồn tại đều xuất phát từ một

chất ẩm ướt ban đầu - nước. Tất cả chỉ là biến thái của nước. Trái đất như cái
đĩa dẹt trôi bồng bềnh trên nước được bao quanh bởi nước, các đại dương, và
chia thành năm vùng:
1. Vùng bắc nhìn thấy được;
2. Vùng hạ chí;
3. Vùng xuân phân;
4. Vùng đông chí;
5. Vùng cực nam, không nhìn thấy.
Theo Aristote, Thalès đến với lý tưởng này có lẽ do ông thấy mọi đồ ăn
đều ở dạng ẩm. Nhiệt, cái mà nhờ đó các sinh thể mới tồn tại, cũng xuất hiện
từ vật chất ẩm. Cái gì mà từ đó một cái gì khác xuất hiện là khởi nguyên của
tất cả. Cây cối không có nước thì úa tàn, con người không có nước thì chết,
mặt trời và các vì sao cần sự bốc hơi nước làm thức ăn. Nước là khởi nguyên
của sự ẩm, còn sự ẩm thì hiện diện ở tất cả các mầm sống. Do đó, nước bao
trùm tất cả, chở che cho tất cả, đảm bảo sự sinh thành, biến hóa, làm cho
muôn vật phì nhiêu. Nước - bản chất đơn giản của sự vật, đồng thời là cội
nguồn của sự sống.
Chính những quan sát trực tiếp và sự xét đoán bằng lý trí đã đưa Thalès
đến những nhận định có tính khái quát cao về nước. Tính khái quát thể hiện ở
chỗ, một là, lần đầu tiên nước được hiểu như cái tuyệt đối, cái phổ biến đơn
giản, tức được nâng lên thành một khái niệm, hai là, Thalès chú trọng đến
khởi nguyên vật chất, chứ không phải khởi nguyên tinh thần. Có thể liên
8


tưởng nước của Thalès với Hỗn mang (chaos) của Hésiode, nhưng ở Thalès
nước trước hết là sức mạnh vật lý.
Tuy nhiên, công bằng mà nói, Thalès chưa thể ngay lập tức chấm dứt
sự ràng buộc với thân thoại. Đặc tính của nước được nâng lên cấp độ thần
linh. Thế giới chứa đầy thần linh. Các thần là những lực lượng vận động trong

thế giới, đồng thời cũng là những linh hồn - nguồn gốc vận động của thể xác.
Nước và tất cả những gì phát sinh từ mước đều có linh hồn, thần tính.
Để chứng minh thế giới có thần tính và sống động Thalès dẫn ra hai
bằng chứng: thanh nam châm hút được sắt, hổ phách lung linh muôn sắc
dưới ánh Mặt trời. Khi người ta hỏi: tại sao ông biết điều đó, ông trả lời: vì
ta là bậc thông thái, cái ta biết, người khác không biết. Xét cho cùng nước là
khởi nguyên của vạn vật, nhưng thần là sinh lực tạo ra tất cả từ nước.
Những yếu tố vật hoạn luận (hylozoisme) và vật linh thuyết (animisme)
ở tư tưởng Thalès báo hiệu sự phân liệt của triết học Hy Lạp cổ đại. Dẫu sao
chủ nghĩa duy
Vật tự phát Thalès về căn bản đưa tới sự kết thúc vai trò thống trị của thần
thoại. Lý trí thay thế thần Zeus, giới tự nhiên dần dần cởi bỏ lớp vỏ siêu nhiên.
Con người bắt đầu giải thích nguyên nhân của thế giới từ chính thế giới.
Thalès đã tiến gần đến khái niệm bản nguyên, cố gắng trình bày dưới
hình thức ấu trĩ tính thực thể của nước (nước lưu chảy ở mọi vật, còn ở nó
mọi vật lưu chảy). Nhưng công lao to lớn trong việc giải thích toàn bộ thực tại
từ khái niệm “bản nguyên” (archè), thực thể, cơ sở tồn tại của sự vật, thuộc về
Anaximandre (khoảng 610 đến 546 TCN), học trò và người kế tục Thalès.
Bản nguyên bấy giờ không còn là nước, mà là cái có ý nghĩa phổ quát hơn.
Nếu các hành chất (đất, nước, lửa, khí) chuyển hoá vào nhau, thì điều này có
nghĩa ở chúng có một cái gì đó chung làm nền. Cái chung này không thể là
những hành chất, mà là cái vô hạn, vô cùng, bất định, bất tử, cái mà nhờ đó
mọi vật sinh ra - thực thể apeiron. Anaximandre giải thích các đặc tính của
apeiron như sau:
9


-

Apeiron vô hạn, vì nó là một bản nguyên, không thể bị tiêu hao, cạn kiệt;


-

Apeiron vô cùng, để có thể làm cơ sở cho mọi sự chuyển hoá lẫn nhau của sự
vật;

-

Apeiron không xác định, để liên kết những cái xác định;

-

Apeiron trường tồn, bất tử, để làm nên nguồn suối vô biên của sự sống.
Tất cả những đặc tính ấy cùng quy về đặc tính chung nhất là vận động.
Sự vận động của thực thể apeiron quyết định quá trình hình thành của vũ trụ
và con người. Apeiron tự nó và từ nó sinh ra hết thảy. Khi vận động theo soáy
ốc, apeiron tạo nên những cực đối kháng - ẩm và khô, lạnh và nóng. Kết hợp
cặp đôi những tính chất ấy sẽ dẫn đến hình thành đất (khô và lạnh), nước (ẩm
và lạnh), khí (ẩm và nóng), lửa (khô và nóng). Từ trung tâm, những kết cấu
vật chất dần dần cô đọng lại, trước tiên là đất như cái nặng nhất được bao
quanh bởi nước, khí và lửa. Sau đó diễn ra những tác động lẫn nhau giữa
nước và lửa, khí và lửa. Dưới tác động của lửa, một phần nước bốc hơi, còn
đất thì tụ lại giữa đại dương. Trái đất, đã hình thành như vậy. Bầu trời phân
chia ra ba vòng, do khí bao quanh. Nó tương tự như ba vành của bánh xe rỗng
bên trong, bơm đầy lửa. Vành dưới nhiều lỗ hổng, chứa lửa, là các vì sao.
Vành giữa một lỗ hổng là Mặt trăng. Vành trên cùng một lỗ hổng là Mặt trời.
Sự sống phát sinh ở chỗ ráp ranh giữa đại dương và đất liền tức bùn lầy,
dưới tác động của ánh nắng mặt trời. Những sinh thể đầu tiên sống ở đại
dương; một số sau đó dời đại dương lên đất liền, cỏi bỏ lớp vảy, trở thành
động vật trên cạn. Con người có thể chất yếu đuối, không có vỏ cứng bảo vệ,

nên sinh ra và phát triển trong bụng một loài cá khổng lồ. Đến lúc trưởng
thành, cứng cáp, con người mới lên đất liền sinh sống.
Bức tranh về thế giới và sự sống do Anaximandre xây dựng quả là ấu
trĩ, nhưng đã đánh dấu bước tiến trong tư duy triết học. Cái vĩ đại của tư
tưởng có vẻ nghèo nàn, trừu tượng này thể hiện ở sự toan tính dũng cảm giải
thích thế giới từ nguyên nhân tự thân, gạt bỏ yếu tố vật linh thuyết, vật hoạt
luận, ở tư tưởng biện chứng về tính phổ biến của vận động, biến đổi, về sự
10


thống nhất các mặt đối lập, những tuyên đoán về quá trình hình thành sự sống
từ thế giới vô cơ, con người từ loài vật.
2.2. Trường phái, hay liên minh Pythagore
Pythagore (570 - 496 TCN) sinh tại Samos, thuộc xứ Ionie, vùng cận
Đông, sau di cư sang Crotone, miền Nam nước Ý. Là nhà toán học, Pythagore
đưa ra nhiều định lý có giá trị. trong triết học, Pythagore là nhà duy tâm tôn
giáo, xây dựng những tư tưởng huyền bí về ý nghĩa cuộc sống và bản nguyên
vũ trụ, mang đậm dấu ấn huyền học phương Đông. Bản tính con người, theo
ông, có tính chất nhị nguyên - thể xác khả tử, linh hồn bất tử. Ý nghĩa cao cả
của cuộc đời là xuất hồn, thanh tẩy những cái nhơ bẩn, những điều ác trong
lòng, hòa mình vào linh hồn vũ trụ, tránh kiếp luân hồi. Triết lý, vì vậy, là
hành trình của sự giải thoát. Trong tư tưởng ở Pythagore những con số đóng
vai trò chủ đạo. Cái gì đo được thì tồn tại, cái gì tồn tại thì đo được, vì thế
chính những con số định hình nên thế giới, diễn đạt sự vật, thậm chí là bản
chất và chuẩn mực của chúng. Triết lý là nhận thức quy luật vận động của vũ
trụ thông qua những con số. Khi ta nói “linh hồn hòa điệu” thì đó chính là
quan hệ hòa điệu của các con số. Pythagore dung tương quan chẵn - lẻ, bộ
mười và bộ tứ để giải thích tính thống nhất và đa dạng của tự nhiên, xã hội,
con người, trong đó số 1 là đơn vị cơ sở. Sau số 1 (lẻ) là mặt đối lập của nó số 2 (chẵn). Các yếu tố của con số là chẵn và lẻ; lẻ là cái hữu hạn, chẵn là cái
vô hạn. Số 1 là con số năng động nhất, “bản nguyên hoạt động”, chi phối tất

cả, nhưng con số kỳ diệu nhất là số 10 bao gồm 10 tương quan các mặt đối
lập: giới hạn - vô hạn, chẵn - lẻ, đơn - đa, phải - trái, nam - nữ, động - tĩnh,
thẳng - cong, sáng - tối, tốt - xấu, tứ giác - đa diện. Đây chính là những phạm
trù đầu tiên của tư tưởng trong cố gắng lý giải mọi thực tại, nhưng theo Hegel,
đó là cố gắng vô vọng, không vượt qua khuôn khổ của sự liệt kê đơn giản,
ngây thơ, ngẫu hứng và thiếu sâu sắc. Cái đáng trận trọng là ở chỗ Pythagore
đã nâng cao con số lên trình độ của khái niệm, hiểu nó như tồn - tại - tự - thân
- trong - nó, cho - nó và cho - cái - khác.
11


Tương quan các con số thể hiện rõ nhất trong tương quan không gian.
Khi xem xét không gian chúng ta bắt đầu từ điểm - sự phủ định đầu tiên cái
trống rỗng. Điểm tương ứng với đơn vị không phân chia, và là sự bắt đầu của
đường như quan hệ giữa hai điểm. Sau đó quan hệ hai chiều giữa những con
số lần lượt tạo ra mặt phẳng, khối lập thể. Từ các con số hình thành nên
những vật thể, những hành chất (nước, khí, lửa) và toàn thể vũ trụ nói chung.
Vũ trụ được cấu thành từ mười thiên hà - con số 10 hoàn thiện. Ngoài 9 thiên
niên hà nhìn thấy được, gồm giải ngân hà (“chòm sao bất động”), sao Thổ,
sao Mộc, sao Kim, sao Hỏa, sao Thủy, Mặt trời, Mặt trăng, Trái đất, còn có
một đối cực với Trái đất, hay “một Trái đất khác” do Pythagore nghĩ ra. Quan
hệ các con số cũng tạo ra những cung bậc khác nhau của sự hòa điệu trong vũ
trụ. Sự hòa điệu của những con số còn là âm nhạc cuộc sống. Tri giác của
chúng ta về hòa âm và nghịch âm không chỉ là phép so sánh toán học, mà còn
hàm chứa ý nghĩa đạo đức. Tuy vậy không thể đưa lẽ công bằng, tự do về
những con số, vì đó là những khái niệm trừu tượng, không bao giờ trở nên cụ
thể hoàn toàn trong hiện thực. Chúng không đo đếm được nhờ những con số.
Quan điểm triết học của Pythagore thể hiện sự liên hệ giữa những mầm
mống của tư duy khoa học với thế giới quan tôn giáo, thần thoại.
2.3. Quan niệm của Đêmôcrit

Nguyên tử luận được xây dựng trên cơ sở thừa nhận nguyên tử (tồn tại)
và khoảng không (hư vô) là những bản nguyên thế giới. “…Leucippe và
người kế tục ông, Démocrite, thừa nhận cái đầy đặn - nén chặt và cái trống
rỗng - phân tán như những bản nguyên, một gọi là tồn tại, một gọi là không
tồn tại…(rằng cái tồn tại tồn tại không nhiều hơn cái không tồn tại, cũng do
vậy nên vật thể tồn tại không nhiều hơn khoảng không), còn nguyên nhân vật
chất của cái đang tồn tại thì họ quy về cái này lẫn cái kia”.
Nguyên tử và khoảng không đối lập nhau: khoảng không thiếu một kết
cấu bền vững, tồn tại có tính chất bền vững; khoảng không thống nhất, đâu
đâu cũng vậy, tồn tại đa dạng, mỗi nơi một vẻ; khoảng không vô định, tồn tại
12


xác định; khoảng không bất động, tồn tại vận động. Tồn tại là tổng thể số
lượng lớn vô hạn những nguyên tử cực bé, không phân chia, siêu cảm tính,
không xuyên thấu, vĩnh cửu, bền vững, bất biến. sự thống nhất tồn tại và
không tồn tại như những mặt đối lập tạo nên cơ sở của mọi sự vật. Thử đặt
câu hỏi: lấy đâu ra ý tưởng lạ lùng, táo bạo về nguyên tử? ý tưởng đó xuất
phát từ chính những chiêm nghiệm về những hiện tượng thường ngày - sự
đông đặc và nóng chảy, sự khác nhau về trọng lượng của các vật thể cùng
khối lượng…có những biến đổi ta không thấy ngay được, nhưng nó vẫn xảy
ra, không tức thời, mà từ từ, như hiện tượng ăn mòn, sự bốc hơi, sự phân
hủy…mắt ta không thấy chúng, nhưng chúng vẫn hiện diện khắp nơi, quy
định sự tồn tại của thế giới này. Chúng - những cái bé nhất, không phân chia,
không chuyển hóa vào nhau, không phẩm tính, khác nhau về hình dáng, kích
thước, trật tự và vị trí. Tính đa dạng của các nguyên tử là sự lý giải đầy đủ và
xác đáng nhất tính đa dạng của thế gới vật chất. Các nhà nghiên cứu lịch sử
triết học không so sánh nguyên tử luận của Démocrite với quan điểm về hành
chất của Thalès (nước), Anaximène (khí), Héraclite (lửa), vì sự khác nhau
giữa họ quá rõ ràng. Thời sơ khai Anaximandre là người nêu ra quan điểm

độc đáo nhất về bản nguyên (Apeiron). Apeiron thể hiện sự chuyển hóa không
ngừng của vũ trụ, nhưng hãy còn rất mơ hồ. Ngược lại, nguyên tử của
Démocrite là một yếu tố vật chất có tính quy định và tính tích cực nội tại.
“Trong nguyên tử luận, chúng ta tìm thấy ngay quan niệm về tồn tại tự nó của
giới tự nhiên”.
Démocrite xem vận động là thuộc tính của các nguyên tử, chúng vận
động không ở đâu khác ngoài không gian, chúng “bay lượn như những hạt bụi
li ti mà ta thường nhìn thấy dưới nắng sớm”, “chúng va chạm nhau, đẩy nhau,
rồi lại xoắn vào nhau, tan hợp hợp tan theo những trình tự nhất định, tạo ra
những hướng vận động khác nhau” (2). Vận động riêng lẻ là vận động có tính
ngẫu nhiên, nhưng vận động của tập hợp vô số các nguyên tử trong không
2

13


gian vĩ đại tuân theo tính tất yếu khách quan, định hình nên một vũ trụ sinh
động, biến hóa. Vận động có tính chất vĩnh cửu, vì đó là vận động của các
nguyên tử, không do ai sinh ra, không cần đến một sự tiền định nào.
Thế nhưng, suy cho cùng, nguồn gốc vận động ở đâu? Ở khoảng
không chăng? Không thể được, vì nếu vậy khoảng không phải tự mình vận
động đã, điều này trái với luận điểm xuất phát của nguyên tử luận. Ở chính
nguyên tử chăng? Démocrite không trả lời thẳng vào câu hỏi, mà lưu ý đến
lực đẩy giữa các nguyên tử. Song với câu hỏi “cái gì làm cho chúng đẩy
nhau?”, thì lời giải đáp của ông tỏ ra nửa vời, thiếu dứt khoát. Ông viết:
“Các nguyên tử về bản chất là bất động, đã vận động được nhờ va chạm” . Sự
ngập ngừng ấy bị Aristote chỉ trích: “Khi khẳng định rằng các vật thể đầu
tiên vận động vĩnh cửu trong không gian vô hạn, lẽ ra Leucippe và
Démocrite cần phải chỉ rỏ chúng vận động bằng thứ vận động nào, và vận
động nào là vận động tự nhiên của chúng. Bởi lẽ ngay cả nếu như mỗi phần

tử trong số chúng được một phần tử khác khởi động (có tính chất) cưỡng
chế, thì tuy vậy ở mỗi (phần tử) trong số chúng cần có vận động tự nhiên
nào đó đáp trả lại cái cưỡng chế. Thêm nữa, (nguyên nhân) khởi động đầu
tiên cần khởi động không (có tính chất) cưỡng chế, mà (có tính chất) tự
nhiên, vì nếu không có động cơ tự nhiên đầu tiên, mà bất kì động cơ nào
cũng…tự khởi động, thì sẽ có xu hướng dẫn tới vô cùng!”. Không chỉ
Aristote, mà nhiều nhà nghiên cứu sau này cũng không tán thành cách lý giải
thiếu thuyết phục của Démocrite về nguồn gốc vận động.
Bản thể luận của Démocrite ở một khía cạnh nào đó còn là sự dung hòa
giữa Héraclite và Parménide: thế giới các sự vật luôn tuôn chảy, nhưng đồng
thời là thế giới của các nguyên tử cấu thành sự vật, một thế giới vững bền,
hoàn thiện. Cách diễn đạt như vậy chưa hẳn chính xác, bởi lẽ trên thực tế các
sự vật biến đổi tuyệt đối, còn các yếu tố cấu thành sự vật thì bền vững tương
đối. Các “nguyên tử” tạo nên sự vật là bền vững và trường tồn, nhưng bản
thân sự vật biến đổi tự tại. Démocrite chưa đạt tới cách nhìn biện chứng về
14


quan hệ giữa vận động và đứng im, liên tục và gián đoạn. Ông chỉ mới chạm
phớt qua nó, đóng vai trò người hòa giải giữa Héraclite và trường phái Elée,
nhưng không biết kết hợp có chọn lọc những giá trị biện chứng của cả hai, và
khai thác tiếp những vùng đất mới của nhận thức thế giới.
2.4. Quan niệm của Platon
Nội dung cơ bản trong bản thể luận của Platôn là vấn đề tồn tại. Ông
đặt ra và giải quyết hàng loạt câu hỏi: Thế nào là tồn tại đích thực? Thế nào là
cái bòng của sự tồn tại đích thực, và thế nào là “tồn tại khác” ? Mối quan hệ
giữa chúng với nhau nên được hiểu như thế nào? “Theo tôi, - Platôn viết,trước tiên cần phân biệt cái gì luôn luôn tồn tại và không bao giờ sinh thành
và cái gì luôn luôn sinh thành nhưng không bao giờ tồn tại” (Platôn: Timeus,
đoạn 270). Tồn tại đích thực phải là tồn tại vĩnh cửu, bất biến, tự thân đồng
nhất, bền vững, siêu cảm tính, bất khả phân, vĩnh cửu. “Cái bóng” của tồn tại

đích thực là sự sinh thành, tính nhất thời, khả biến, có khả năng trở thành cái
khác (không đồng nhất tự thân), luôn chịu sự quy định của điều kiện không thời gian, cảm tính, khả phân, khả hủy. Tồn tại đích thực được Platôn quy về
thế giới các ý niệm, còn “ cái bóng của tồn tại” - thế giới các sự vật. Một bên
là thế giới bản chất, được lý trí nhận thức, bên kia là thế giới hiện tượng, tác
động lên các giác quan con người; một bên là thế giới lý tưởng, cái thiện, lợi
ích, bên kia là thế giới pha tạp, phân hủy. Ý niệm về cái thiện, hay lợi ích,
hạnh phúc, do đó, trở thành “ý niệm của mọi ý niệm”. “Cái thiện, - Platôn
viết,- không phải là bản chất, mà xét về đặc tính và phẩm hạnh thì nó đứng
cao hơn những bản chất” (Platôn, Nhà nước (Nền cộng hòa), quyển VI, 508e).
Sự khác nhau giữa hai thế giới được Platôn mô tả bằng phép ẩn dụ qua huyền
thoại về cái hang: triết gia khác với đại chúng là ở chỗ biết phân biệt đâu là
cuộc sống đích thực, đâu là cái bóng mờ nhạt, dơn điệu của nó, chỉ có triết gia
mới vượt lên ý thức đời thường, vươn đến chân lý, đồng thời chỉ ra sự khác
nhau giữa hai thế giới ấy (Platôn, Nhà nước (Nền cộng hòa), quyển VI, 509d,
quyển VII, 514a - 517). Khác với trường phái Elê, Platôn thừa nhận tính đa
15


dạng, muôn vẻ của tồn tại, làm sáng tỏ mối quan hệ giữa ý niệm và sự vật, từ
đó đi đến tiên đoán về quá trình vũ trụ nói chung. Theo ông, có bao nhiêu ý
niệm thì có bấy nhiêu phức hợp của các sự vật, hiện tượng, quá trình, các
quan hệ đồng nhất căn bản. Trong tác phẩm đối thoại Pácmênhít Platôn nêu ra
ba phương án quan hệ giữa ý niệm và sự vật, đó là mô phỏng, thông dự, hiện
diện. Thứ nhất, các sự vật hướng đến các ý niệm như khuôn mẫu của mình
(mô phỏng). Thứ hai, trong quá trình đó, sự vật gia nhập vào một chủng loại ý
niệm ý niệm nhất định để được mang một tên gọi (thông dự). Thứ ba, nhờ gia
nhập vào thế giới ý niệm mà các sự vật tương đồng với các ý niệm, thể hiện
diện mạo của mình (hiện diện).
Tóm lại, theo Platôn, ý niệm đóng vai trò vừa là khuôn mẫu của các sự
vật, vừa là mục đích mà các sự vật hướng đến, vừa là khái niệm về cơ sở

chung của các sự vật trong thế giới cảm tính.
2.5. Quan niệm của Arixtốt
Trong chương 9, quyền 1, các chương 4 và 5, quyển 13 của Siêu hình
học Arixtốt phê phán Platôn vì đã tuyệt đối hóa ý niệm, xem nó như một thế
giới lý tưởng, tồn tại độc lập (xem Arixtốt: Siêu hình học, quyển 1, chương
9, 10; quyển 13, chương 4; quyển 14, chương 1). Nhằm vượt qua Platôn,
Arixtốt xây dựng quan niệm mới về tồn tại trên cơ sở thừa nhận tính tuyệt
đối, tính phổ biến và tính đơn nhất của nó. Tồn tại, theo Arixtốt, là cái bao
hàm những đặc tính tạo nên bản chất của sự vật. Khi ta nói cái gì đó có, ta
nói trước hết đến các thuộc tính tạo nên nó. Đó là tồn tại đơn nhất, có cá
tính. Tồn tại cũng được xác định theo tính phổ biến, nghĩa là trong vô số các
sự vật khác nhau thuộc một hoặc nhiều chủng loại, ta vẫn tìm ra những nét
tương đồng của chúng. “Tồn tại, - Arixtốt viết, - tự nó quy cho tất cả những
gì được xác định thông qua những hình thức diễn đạt của các phạm trù, bởi
lẽ những diễn đạt ấy được tạo ra bằng bao nhiêu cách thức, thì tồn tại được
xác định trong bấy nhiêu ý nghĩa. Do chỗ một số diễn đạt quy định bản tính
sự vật, một số khác - chất, một số khác nữa - lượng, một số khác nữa - quan
16


hệ, một số khác nữa - vận động hay chịu tác động, một số khác nữa - “ở
đâu” (vị trí), một số khác nữa - “khi nào” (thời gian), nên tương tự mỗi thứ
trong số chúng đều hàm nghĩa tồn tại” (Arixtốt, sđd, quyển 5, chương 7,
1017a 23 - 27). Đó là tồn tại phổ biến, bao hàm những đặc tính chung nhất
của sự vật. Ngoài hai đặc tính vừa nêu Arixtốt dành nhiều quan tâm đến tồn
tại thuần túy tự thân, tuyệt đối, tách khỏi vậ chất, nghĩa là tồn tại như một
bản thể siêu việt, vượt khỏi thế giới khả giác hữu hình, hay Thượng đế. Vấn
đề này được làm sáng tỏ thêm trong học thuếyt về tồn tại như sự thống nhất
tiềm thể, hay khả năng (vật chất, hay thể chất) và hiện thể, hay hiện thực phi
vật chất (hình thức, hay mô thức). Cùng với hai mặt đối lập ấy Arixtốt còn

đưa ra yếu tố thứ ba, một thể nền (hypokeimenon) mà trên đó các quá trình
sinh thành, biến đổi diễn ra từ sự tương tác của các mặt đối lập. Như vậy có
thể hình dung một cấu trúc gồm ba thành tố:cái hiện hữu, cái đối lập với
hiện hữu, cái mà từ đó một cái khác xuất hiện. Cái hiện hữu bao giờ cũng là
cái được xác định, nghĩa là mang một diện mạo, dáng vẻ cụ thể. Sự khiếm
khuyết diện mạo có thể xem là mặt đối lập của nó.
Cái làm cơ sở cho sự xuất hiện chính là vật chất (thể chất). Arixtôt gọi
ba bản nguyên này lần lượt là mô thức (morphè), khiếm khuyết (steresis) và
thể chất (hyle). Vật chất là khả năng tồn tại (tiềm thể). Khối đồng trở thành
bức tượng bằng đồng là nhờ có một mô thức (hình Ảnh bức tượng) khoác
lên vật chất ấy (khối đồng), giúp nó có được diện mạo đặc trưng. Pho tượng,
quả cầu, hình vuông, hình tam giác, hình thoi … có thể phổ biến cho nhiều
chất liệu - đất, đá, sắt, đồng, gang …Điều này chứng tỏ tính năng động của
mô thức, khác với tính thụ động của vật chất, cái chỉ trở thành một hiện hữu
xác định khi tiếp nhận một mô thức nào đó. Mô thức được Arixtốt quy về
bản chất, hiện thực. Nguyên nhân đích thực, sơ khởi của tồn tại không phải
là những yếu tố vật chất, mà là cái đem lại một thiết định cho sự vật để sự
vật là chính nó (xem Arixtốt, sđd, quyển 7, chương 17, 1041a7 - 30, 1041b3
- 20). Nhưng, theo Arixtốt, vật chất xét trong những trường hợp khác nhau
17


vừa là khả năng, vừa là hiện thức. Chẳng hạn, việc xem khối đồng là “vật
chất” của quả cầu chưa phải là cách xem xét duy nhất. Có thể nói đơn giản
“khối đồng là một hiện thực”, còn các phân tử đồng là “vật chất” hợp nhất
thành “khối”. Theo trình tự đó có thể truy đến kỳ cùng, đến chỗ bản thân các
hành chất cơ bản của vũ trụ (đất, nước, lửa khí) cũng là những hiện thực (mô
thức) đặc biệt, kết hợp với “thể chất”, tức vật chất đặc biệt nào đó. “Vật
chất” với tính cách là nguồn gốc tự nhiên của bốn hành chất - vật chất đầu
tiên - có lẽ là hỗn mang không xác định, thứ “khả năng” thuần tuý, tự nó

chưa thể trở thành hiện thực.
Vật chất cũng vĩnh cửu như mô thức. Tất cả những gì tồn tại trong tự
nhiên đều được tạo thành từ vật chất và mô thức. Không có vật chất sẽ không
có tự nhiên và sự vật. Sự vật xuất hiện là nhờ có một mô thức được đưa vào
vật chất. Vật chất và mô thức là cơ sở của các sự vật đơn nhất, ban cho chúng
một chủng loại, một hình thức đặc trưng. Khác với mô thức, vật chất là nguồn
gốc của tính nhất thời, khả biến của vạn vật; chính nhờ nó có đặc tính đứng ở
ngưỡng cửa của tồn tại và không tồn tại, mà sự vật cũng có khả năng “tồn tại
hay không tồn tại”. Thế giới các sự vật do sự kết hợp vật chất - mô thức tạo ra
là thế giới vận động. Nhưng đâu là nguồn gốc của vận động? Theo Arixtốt, sự
tồn tại vĩnh cửu của thế giới và sự vận động vĩnh cửu tất yếu đưa đến sự thiết
định về nguyên nhân vĩnh cửu, tối hậu của thế giới. Theo trật tự nhân quả cần
truy tìm nguyên hnân đầu tiên của dòng chuyển biến vạn vật theo thời gian.
Trong chu kỳ nối tiếp nhau con gà - quả trứng - con gà vẫn có thể hình dung
con gà đầu tiên không sinh không diệt. Đó là hình Ảnh Động cơ đầu tiên mà
thiều nó sẽ không có bất kỳ động cơ nào khác, vận động nào khác.
Động cơ đầu tiên được phân tích từ ba khía cạnh: thứ nhất, Động cơ
đầu tiên không chịu sự tác động của bất kỳ yếu tố bên ngoài nào; nó vừa là
nguyên nhân đầu tiên, vừa là tồn tại đầu tiên. Thứ hai, Động cơ đầu tiên là cái
bất động, vì nó đã ngự ở đỉnh chóp, trở thành nguyên lý tối cao của mọi sự
chuyển dịch, biến đổi. Thứ ba, Động cơ đầu tiên là tồn tại tối thượng, tự thân,
18


phi vật chất, siêu tự nhiên, là trí tuệ thuần túy, mô thức thuần túy, mô thức của
những mô thức, khởi động và chi phối các quá trình vũ trụ. Như vậy nhị
nguyên luận dẫn đến chủ nghĩa duy tâm khách quan. Điểm xuất phát là sự phê
phán chủ nghĩa duy tâm Platôn trong học thuyết về ý niệm như cơ sở, khuôn
mẫu cũa thế giới các sự vật, điểm kết thúc lại là một thứ chủ nghĩa duy tâm
không triệt để dưới hình thức nhị nguyên vật chất - mô thức.


19


KẾT LUẬN

Nét nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học đó đã đặt ra và
giải quyết hầu hết các vấn đề về bản thể luận và nhận thức luận triết học- là
những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức- những vấn đề căn bản
mà sau này các học thuyết triết học sẽ từng bước giải quyết theo nội dung của
thời đại mình. Đó là nền triết học bao gồm mầm mống của tất cả các thế giới
quan sau này. Sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học, duy vật
và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và tôn giáo là nét nổi bật của
quá trình phát sinh, phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại, trong đó, điển hình
là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học duy vật của Đê mô crít và triết
học duy tâm của Pla tôn. Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học, nói chung,
còn ở trình độ trực quan, chất phác- đặc biệt đối với các hệ thống triết học duy
vật và biện chứng. Tuy vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã
đánh giá cao triết học Hy Lạp cổ đại "Từ các hình thức muôn hình muôn vẻ
của triết học Hy Lạp, đã có mầm mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại
thế giới quan sau này

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình Triết học Mác - Lê nin, Nhà xuất bản


2.

Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2006.
Nguyễn Thế Nghĩa, Doãn Chính (chủ biên), Lịch sử triết học, tập 1, Triết học
cổ đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002.

3.

Nguyễn Quang Thông, Tống Văn Chung, Lịch sử triết học cổ đại Hy La trong
2 tập, Tủ sách trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1990.

4.

Học viện Báo chí và tuyên truyền, Giáo trình Lịch sử Triết học, Nxb Chính trị
- hành chính, 2009.

5.

PGS.TS. Trần Văn Phòng, Triết học Hy Lạp cổ đại - Vấn đề bản thể luận, Hà
Nội, 2014.

6.

Trần Văn Phòng (chủ biên), Lịch sử triết học phương tây trước Mác, Nxb Đại
học sư phạm Hà Nội, 2003.

7.

Trần Văn Phòng (chủ biên), Triết học hy lạp cổ đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội, 2006.


21


MỤC LỤC



×