Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN tư DUY của ĐẢNG TA về đổi mới và NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG của hệ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.53 KB, 20 trang )

TƯ DUY CỦA ĐẢNG TA VỀ ĐỔI MỚI VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Thành tựu của sự nghiệp sau hơn 30 năm đổi mới đất nước, Đảng ta đã
khẳng định: “ với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, công
cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tự to lớn và có ý nghĩa lịch sử”.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta không những lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
thành công sự nghiệp đổi mới kinh tế, mà còn thực hiện đổi mới và từng bước
nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Trên cả hai lĩnh vực
trọng yếu này thành quả mà chúng ta thu được là to lớn, những bài học kinh
nghiệm tích lũy được là sâu sắc và quý báu xét cả về lý luận và thực tiễn. Thành
tựu mà chúng ta thu được, phải xem xét, đánh giá một cách khách quan, khoa
học để thấy hết những nỗ lực và tiềm năng sáng tạo của nhân dân ta dưới sự tổ
chức và điều hành hoạt động của hệ thống chính trị.
Một trong những thành tựu nổi bật của sự nghiệp đổi mới mà nước ta đã
giành được là xây dựng và đổi mới hệ thống chính trị. Thành tựu đó không
chỉ là điều kiện, tiền đề cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao
động trên mọi lĩnh vực, tác động tích cực đến đổi mới kinh tế - xã hội, mặt
khác nó còn là nền tảng để nước ta thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằn, dân chủ, văn minh”.
Song, bên cạnh những thành tựu, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ
nhiều yếu kém, bất cập cả khâu tổ chức và cơ chế vận hành. Đảng ta đã chỉ
rõ: “Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, nhất là bộ máy hành chính nhà
nước có quá nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng,
chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp…”. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đổi mới hiện nay, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở cần phải
được đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động trước sự vận động, phát triển
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.



2
1. Tư duy của Đảng ta về đổi mới hệ thống chính trị từ Trung ương
đến cơ sở
Trong xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp, những quan hệ chính trị
xuất hiện là một tất yếu. Chính trị là hoạt động đặc thù nhằm điều tiết quan hệ
giữa các thành viên của xã hội được tập hợp thành những tập đoàn xã hội và
các giai cấp nhằm duy trì, phát triển và hoàn thiện một cấu trúc và tổ chức xã
hội nhất định phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. ở nước ta, hệ thống
chính trị ra đời, hình thành và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển
của chế độ xã hội mới, trong các thời kỳ, xây dựng hệ thống chính trị luôn
được Đảng ta quan tâm, nhằm phát huy vai trò động lực cách mạng của các tổ
chức chính trị và quần chúng nhân dân.
Hệ thống chính trị là hệ thống các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã
hội và các mối quan hệ giữa chúng với nhau, hợp thành cơ chế chính trị của
một chế độ, cơ chế đó đảm bảo việc thực thi quyền lực chính trị của giai cấp
cầm quyền trong quan hệ với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội khác.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hệ thống chính trị của chủ nghĩa
xã hội là hệ thống các tổ chức chính trị - xã hội, mà nhờ đó nhân dân lao động
thực thi quyền lực của mình trong xã hội. Hệ thống chính trị không chỉ là hệ
thống các tổ chức (thiết chế) mà còn là hệ thống các mối quan hệ trong hoạt
động chính trị theo chức năng, nhiệm vụ, đồng thời còn là hệ thống các cấp
độ (Trung ương - địa phương - cơ sở) nhằm tác động và điều chỉnh mọi quan
hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, giữa các dân tộc trong cộng đồng xã hội,
giữa các yếu tố xã hội, tập thể và cá nhân, về vấn đề quyền lực, về định
hướng, chủ trương, đường lối, chính sách quy định, phương hướng, nội dung,
mục tiêu phát triển xã hội. Hệ thống chính trị là cột trụ của nền chính trị xã
hội ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. ở thời kỳ trước và trong
một số năm đầu thời kỳ đổi mới, Đảng ta chưa dùng khái niệm hệ thống chính
trị, mà vẫn dùng một cách phổ biến khái niệm “chuyên chính vô sản” để chỉ
hệ thống và cơ cấu các cơ quan quyền lực lãnh đạo và quản lý xã hội.



3
Khái niệm “hệ thống chính trị” được Đảng ta chính thức sử dụng từ Hội
nghị Trung ương 6 khóa VI (tháng 3 - 1989), từ đó khái niệm này được các
văn kiện của Đảng và Nhà nước, các tài liệu khoa học, sách báo sử dụng rộng
rãi thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản” trước đây. Trên tinh
thần đổi mới của Đại hội VI, đổi mới hệ thống chính trị trở thành nội dung
trọng yếu và trực tiếp của đổi mới chính trị. Nhìn lại quá trình đổi mới, hoàn
thiện quan niệm của Đảng về hệ thống chính trị nước ta những năm qua có thể
nhận thấy một số vấn đề lớn.
-Việc sử dụng khái niệm hệ thống chính trị đưa lại những nhận thức mới:
nhận rõ và nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh thể và mối quan hệ giữa các
bộ phận cấu thành hệ thống-điều mà trước Đại hội VI “chưa được cụ thể hóa
thành thể chế”3; có sự tách biệt tương đối giữa hệ thống tổ chức bộ máy với
các yếu tố khác của nền chính trị; định hình rõ ràng các tổ chức quần chúng,
trong đó xác định Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội thuộc hệ
thống chính trị. Điều này không chỉ khắc phục tính chất chung, nặng về bản
chất giai cấp và mặt chuyên chính của khái niệm “hệ thống chuyên chính vô
sản”, mà còn thoát khỏi sự lúng túng trong việc cụ thể hóa cơ chế tổng thể
“Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân lao động làm chủ tập thể” được
xác định từ Đại hội VI của Đảng.
Về mục tiêu tổng quát của hệ thống chính trị, chỉ hơn hai năm kể từ Hội nghị
Trung ương 6 khóa VI, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội do Đại hội VII thông qua có ghi rõ: “Toàn bộ tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng
và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân”4. Văn kiện Đại hội VII của Đảng cũng đồng thời xác định: “Thực
hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực chất của việc đổi mới và kiện toàn hệ thống
3


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxbấự thật,
Hà nội. 1986, tr110
4

Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
CTQG. H 1991. tr 19


4
chính trị. Đây vừa là mục tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi mới.” 5. Như
vậy, trước hết, đổi mới hệ thống chính trị không phải là thay đổi chế độ chính
trị, mà là làm cho chế độ chính trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng bền
vững hơn, thể hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa của nó,
phát huy tính ưu việc và vai trò tích cực của chính trị là nhằm làm cho các bộ
phận cấu thành hệ thống hoạt động có hiệu lực và hiệu quả hơn, khắc phục
bệnh quan liêu, hình thức, trên cơ sở xác định rõ, thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành thông suốt, chặt chẽ
của cả hệ thống, theo sự lãnh đạo của “hạt nhân” là Đảng Cộng sản Việt Nam.
-Quá trình đổi mới hệ thống chính trị, tức hệ thống các tổ chức đại diện
nhân dân, gắn liền với quá trình bảo đảm quyền lực chính trị thật sự thuộc về
nhân dân, từng bước hoàn thiện và nâng cao trình độ nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Phải xuất phát từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng về dân chủ của dân;
căn cứ vào trình độ giác ngộ và năng lực thực hành dân chủ của dân mà tiến
hành đổi mới hệ thống chính trị; cuối cùng, phải từ sự tiến bộ trong việc nhân
dân nắm và sử dụng quyền làm chủ của mình đối với xã hội, cộng đồng mà đánh
giá kết quả của đổi mới hệ thống chính trị. Từ Đại hội VI, Đảng ta xác định:
“Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là…thể hiện chế độ nhân dân lao
động tự quản lý nhà nước của mình”6. Chỉ khi nhân dân-với tư cách là người chủ
và người làm chủ, là chủ thể gốc của quyền lực chính trị-trực tiếp tham gia xây

dựng, thực hiện kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của tổ chức trong hệ
thống chính trị thì mới có thể xem đổi mới là thành công.
-Công việc đầu tiên trong đổi mới hệ thống chính trị là xác định rõ vị trí,
chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và mối quan hệ lẫn nhau giữa các tổ
chức đó trong một thiết chế chung thống nhất, khắc phục tình trạng trùng lặp,
lấn sân hoặc đùn đẩy lẫn nhau, không thực hiện đầy đủ tránh nhiệm của mình.
5

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật,
Hà nội. 1986, tr90
6
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật,
Hà nội. 1986, tr112


5
Từ Đại hội VII, Đảng ta xác định rõ: Đảng là bộ phận của hệ thống chính trị;
nhưng là bộ phận hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống ấy; Nhà nước đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng, có chức năng thể ché hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực
hiện đường lối của Đảng, quản lý toàn diện xã hội; Mặt trận Tổ quốc là liên
minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu biểu của các giai
cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, có vai trò quan trọng trong củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, phản biện
và giám sát xã hội, góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
-Trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị là trong những năm qua tập
trung đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các bộ phận cấu thành
hệ thống. Sở dĩ khẳng định như vậy là vì, các vấn đề khác của nền kinh tế vẫn
cần đổi mới, nhưng đã đảm bảo các yêu cầu cơ bản và sẽ đổi mới từng bước;
trong khi đó, vấn đề bức xúc nhất là tình trạng bộ máy cồng kềnh, chồng

chéo, nhiều tầng nấc trung gian không cần thiết gây trở lực lớn cho sản xuất
và quản lý xã hội, các tổ chức của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân
hoạt động kém hiệu quả; làm tốt việc đổi mới này sẽ tạo điều kiện để đổi mới
các khâu khác. Những năm gần đây, những vấn đề cải cách hành chính; thực
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; đổi mới công tác cán bộ; làm trong sạch đội
ngũ cán bộ, đảng viên, công chức… được đặt ra và chú trọng tiến hành chính
là theo đòi hỏi của nhu cầu đổi mới phương thức tổ chức và hoạt động của hệ
thống chính trị trong những năm cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI.
Đổi mới phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, vấn đề mấu chốt
nhất và cũng không ít khó khăn là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng,
khắc phục cả hai khuynh hướng thường xảy ra trong thực tế của nền kinh tế
thị trường hiện nay: hoặc là bao biện, làm thay, hoặc là buông lỏng sự lãnh
đạo của Đảng. Để đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng Phải làm rõ, nhận
thức đúng vấn đề Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng trong điều kiện
chuyên chính, dân chủ hóa và thực hiện kinh tế thị trường định hướng xã hội


6
chủ nghĩa. Rất nhiều lý luận mà Đảng cầm quyền tưởng như đả rõ, nhưng thật
sự càng phải làm rõ hơn để phù hợp với tình hình mới trong xu thế hội nhận
nền kinh tế toàn cầu, không ít vấn đề cần nhận thức lại và nhận thức đầy đủ
hơn. Đảng lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện và trực tiếp, nhưng Đảng không làm
thay nhà nước, không được sử dụng quyền lực Nhà nước; Đảng lãnh đạo Nhà
nước ban hành luật pháp, nhưng Đảng phải hoạt động trong khuôn khổ của
Hiến pháp và pháp luật; Đảng giữ vững vai trò lãnh đạo chính trị đối với Nhà
nước và cả xã hội, nhưng lãnh đạo chính trị không có nghĩa là lãnh đạo chung
chung, chỉ dừng ở việc đề ra cương lĩnh, đường lối chung, không thể không
quyết định những chủ trương, chính sách lớn liên quan đến sự phát triển kinh
tế-xã hội và sự trường tồn của dân tộc, đến đời sống của nhân dân, an ninh
quốc gia. Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội, lần đầu tiên Đảng ta nêu ra quan niệm hoàn chỉnh về phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp,
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Đây là cơ sở để từng cấp xây
dựng phương thức lãnh dạo của Đảng, phương thức quản lý của chính quyền
và phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và từng đoàn thể nhân dân,
cụ thể hóa thành quy chế phối hợp công tác giữa các tổ chức trong hệ thống
chính trị của cấp mình.
Xét về phương diện hiệu quả lãnh đạo chính trị, có thể khái quát rằng, tư
duy lý luận của Đảng ta trong những năm qua về phương thức lãnh đạo của
Đảng tạo ra bước đột phá quan trọng vào khâu khó nhất, nhảy cảm nhất mà
nhiều năm trước đây chưa tháo gỡ được. Vì vậy, đó là một bước tiến trong tư
duy đổi mới về xây dựng hệ thống chính trị bổ sung tư duy của Đảng trong
điều kiện mới quản lý nhà nước, xây dựng theo nền kinh tế thị trường có định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta luôn coi trọng đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở, nhất là ở xã,
phường, thị trấn thể hiện nhận thức mới của Đảng về đổi mới chính trị. Trên
cơ sở giữ vững ổn định chính trị, xác định và thực hiện đúng phương hướng


7
đổi mới hệ thống chính trị nhằm phát huy cao độ vai trò của các tổ chức
trong cả hệ thống và quyền làm chủ của nhân dân, khi công cuộc đổi mới
ngày càng đi vào chiều sâu, Đảng ta chủ trương hướng mạnh về cơ sở, quan
tâm củng cố cơ sở xã hội chính trị, đề cao các sáng kiến, sáng tạo từ cơ sở.
Từ đó, Bộ chính trị khóa VIII ban hành chỉ thị xây dựng Quy chế dân chủ ở
cơ sở, trước hết là nông thôn; sau đó Quốc hội, Chính phủ ban hành các nghị
quyết, nghị định thực hiện chủ trương lớn này của Đảng. Đặt biệt là Hội
nghị Trung ương 5 khóa IX (tháng 3-2002) đã ra nghị quyết về đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn. Đây là
lần đầu tiên kể từ khi Đảng cầm quyền và cũng là lần đầu tiên hơn 15 năm

lãnh đạo đổi mới đất nước, Đảng ra một nghị quyết về đổi mới hệ thống
chính trị ở cơ sở. Nghị quyết không chỉ đáp ứng yêu cầu trước mắt là giải
quyết các vướng mắc trong tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ
sở, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu
dài. Củng cố vững chắc và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ
thống chính trị cấp cơ sở, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở và phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” là đảm bảo chắc chắn nhất
cho việc giữ vững ổn định chính trị, thức đẩy đổi mới cả kinh tế và chính trị
từ cơ sở, phòng ngừa và giải quyết từ sớm các mâu thuẫn nội bộ nhân dân,
hạn chế tiêu cực trong nội bộ và làm thất bại âm mưu lối kéo quần chúng
của các phần tử xấu. Chúng ta thực hiện tốt nội dung đổi mới hệ thống chính
trị làm cho các tổ chức Đảng; chính quyền, đoàn thể ở cơ sở luôn gần dân,
sát dân, tin dân, trọng dân, nghe dân; cán bộ, đảng viên ở cơ sở nêu cao tinh
thần trước nhân dân bằng lời nói và việc làm, từ đó làm cho dân tin và cũng
cố lòng tin vào Đảng và chính quyền ở cơ sở, tạo sự đồng thuật Đảng, chính
quyền và nhân dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ ở cấp cơ sở góp phần
phát triển đất nước. Mặt khác, chính từ đổi mới trong tổ chức và hoạt động
của hệ thống chính trị ở cơ sở mà bộc lộ yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị
ở cấp trên cơ sở. Nhìn tổng quát, đổi mới để củng cố vững chắc và phát huy


8
cao độ vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở là thiết thực sát với nguyên lý
của chủ nghĩa Mác-Lênin cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chính trị
là ý chí và cuộc sống của hàng chục triệu quần chúng, từng bước nâng cao
vai trò tự quản của cộng đồng trong quản lý xã hội. Là làm theo lời dạy của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: đem chính trị vào giữa dân gian, cơ sở là nơi Đảng
và chính quyền trong lòng dân, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với dân.
2. Thực trạng và phương hướng, giải pháp cơ bản đổi mới, nâng cao
chất lượng của hệ thống chính trị trong nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
*Thực trạng hệ thống chính trị trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Thực tiễn sự nghiệp đổi mới sau 20 năm qua, trong đó có đổi mới hệ
thống chính trị nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật trên một số nội
dung sau:
Trước hết thành tựu đầu tiên của đổi mới hệ thống chính trị nói riêng và
đời sống chính trị nói chung ở nước ta là ở chỗ, Đảng đã nhận thức và giải
quyết đúng vấn đề vị trí, vai trò, tác dụng của chính trị và hệ thống chính trị
đối với phát triển và đã xác lập đúng quan điểm, nguyên tắc, bước đi của đổi
mới hệ thống chính trị, gắn bó mật thiết, hữu cơ giữa kinh tế với chính trị,
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, hệ thống chính trị. Đây là phương
diện lý luận chính trị trong tư duy đổi mới của đảng, dựa trên hai điểm tựa rất
căn bản và thực chất là nhân dân và dân chủ. Quá trình đổi mới hệ thống
chính trị đã giũ vững sự ổn định chính trị, tạo ra sức mạnh để Đảng tích cực
hóa vai trò của chính trị, của các thực thể cấu thành hệ thống chính trị để tác
động tới sự phát triển dân chủ, nhằm thực hiện và đảm bảo dân chủ với dân,
phát huy quyền làm chủ, vai trò làm chủ của dân. Đây là sự khai thông và
không ngừng bồi đắp động lực sâu sa, căn bản nhất của phát triển xã hội, của
đổi mới, đó là sức dân và lòng dân.


9
Đảng Cộng sản Việt Nam là một Đảng luôn có bản lĩnh chính trị vững
vàng trước mọi thử thách, là hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng ta đã đề ra
đường lối đổi mới đất nước nhờ nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của đất nước, phù
hợp với xu thế vận động của thế giới, đưa nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử
thách tạo nên những tiền đề cần thiết cho thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Đảng đã đề ra được những chủ trương, giải pháp củng

cố Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Công tác xây dựng
chỉnh đốn Đảng thường xuyên được chú trọng; mọi tầng lớp nhân dân đều tin
tưởng và thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo
cách mạng Việt Nam. Mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước và nhân dân ngày
càng được tăng cường, phân định rõ chức năng và nhiệm vụ, quyền lợi các bộ
phận trong hệ thống chính trị; đội ngũ đảng viên được nâng cao cả về số
lượng và chất lượng.
Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam từng bước trưởng thành
trong thực hiện vai trò chức năng, nhiệm vụ của mình đối với tổ chức, quản
lý, điều hành nền kinh tế - xã hội, nhất là vai trò của Nhà nước ta trong tổ
chức, quản lý, điều hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ngày càng được tăng cường; mở rộng quan hệ hợp tác hữu nghị đa phương
với các nước trên thế giới với các thể chế chính trị khác nhau trong quá trình
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần “Việt Nam muốn làm
bạn với tất cả các nước”; xây dựng Nhà nước ta là một Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước của dân, do dân, vì dân, có sự thống nhất
chặt chẽ giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc
sâu sắc. Tổ chức bộ máy của Nhà nước từ trung ương đến cơ sở thường
xuyên được kiện toàn và phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, có sự thống
nhất chặt chẽ trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế -xã hội, quốc phòng,
an ninh, trật tự an toàn xã hội.


10
Các tổ chức quần chúng và các tổ chức chính trị - xã hội có sự phát triển
mới về chất lượng tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Quyền làm chủ tập thể của nhân dân trên thực tế được hiện thực
hóa trong đời sống hàng ngày; khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức
không ngừng được củng cố vững chắc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cả nước,
cả dân tộc đều tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã

hội chủ nghĩa; các lợi ích cá nhân - tập thể - xã hội có sự kết hợp hài hòa, tạo
nên sự đồng thuận trong nhân dân phấn đấu vì mục tiêu độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá những thành tựu trong xây dựng, đổi mới hệ thống chính trị,
Đảng ta khẳng định: “Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được trú trọng, hệ
thống chính trị được củng cố. Nhiều nghị quyết Trung ương đã đề ra những chủ
trương, giải pháp củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, cán bộ, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng. Toàn Đảng tiến hành cuộc vận động xây
dựng chỉnh đốn Đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 6 (lần2) khóa VIII. Nhà nước tiếp tục xây dựng và hoàn
thiện, nền hành chính được cải cách một bước. Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể
nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động. Quyền làm chủ
của nhân dân trên các lĩnh vực được phát huy; một số chính và quy chế bảo
đảm quyền dân chủ của nhân dân, trước hết ở cơ sở, bước đầu được thực
hiện”7.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu Đảng ta cũng chỉ ra còn bộc lộ một
số khuyết điểm yếu kém sau:
Hoạt động của hệ thống chính trị còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong
công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình
trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ đảng viên đang diễn ra ở nhiều nơi là một nguy cơ đe
7

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà
nội. 2001, tr 71


11
dọa sự sống còn của chế độ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng. Vai trò là
hạt nhân lãnh đạo của tổ chức Đảng trong hệ thống chính trị nhất là một số hệ

thống chính trị cơ sở không được trú trọng. Nhà nước quản lý, điều hành kinh
tế - xã hội còn nhiều yếu kém, sơ hở, cơ chế, chính sách thiếu đồng bộ, chưa
tạo động lực mạnh mẽ để phát triển. Bộ máy hành chính còn nhiều tầng nấc,
kinh tế phát triển chưa vững chắc; một số vấn đề văn hóa - xã hội bức xúc và
gay gắt chậm được giải quyết; đời sống nhân dân một số vùng sâu, vùng dân
tộc còn thấp; cải cách hành chính ở một số cơ quan nhà nước tiến hành chậm,
hiện tượng quan liêu mất dân chủ, vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức còn
xảy ra ở nhiều nơi. Vai trò của các tổ chức quần chúng chưa được phát huy
đầy đủ; kỷ cương phép nước một bộ phận còn coi thường, vừa vi phạm quyền
làm chủ của nhân dân, vừa vi phạm pháp luật. Chức năng, nhiệm vụ của các
bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm
không rõ, nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, cơ chế tập trung
quan liêu, bao cấp vẫn còn tồn tại và biểu hiện trong các cơ quan hành chính,
kinh tế, tài chính…Công tác đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ trong một số cơ
quan ít được quan tâm, chính sách đãi ngộ với cán bộ chưa tương xứng với
khả năng và trách nhiệm của họ.
Những khuyết điểm, yếu kém của hệ thống chính trị nước ta trong thời
gian qua có những nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nguyên
nhân chủ quan là chính. Đảng ta đã nghiêm túc nhìn nhận thực tế những hạn
chế của hệ thống chính trị và chỉ ra các nguyên nhân: “Việc tổ chức thực hiện
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt; kỷ luật, kỷ cương
chưa nghiêm… Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức
thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành…Cải cách hành
chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp… Công tác tư tưởng,
công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ có nhiều yếu kém, bất cập”8.
8

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà
nội. 2001, tr 76,77



12
Từ thực trạng thành tựu và hạn chế xây dựng hệ thống chính trị nước ta
trong những năm qua cho thấy, hệ thống chính trị nước ta là nhân tố cơ bản,
quyết định đến sự phát triển của đất nước; không có một hệ thống chính trị
được xây dựng củng cố, đổi mới, đúng hướng, vững mạnh toàn diện thì dù hệ
tư tưởng và đường lối chính trị có đúng đắn vẫn không đi vào cuộc sống và
không thể giành thắng lợi trên thực tế. Đặc biệt hiện nay nước ta thực hiện
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh cuộc đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc trong nước và trên thế giới đang diễn ra hết
sức phức tạp, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, mở cửa hợp tác, toàn cầu hóa
đang đặt ra cả cơ hội và thách thức cho đất nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta
tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị; đó
là một quá trình đầy khó khăn, phức tạp cần phải tuân thủ nghiêm ngặt, nhất
quán những nguyên tắc đổi mới và đề ra những phương hướng, giải pháp thiết
thực, cụ thể trong đổi mới hệ thống chính trị nước ta, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
của thực tiễn đất nước, sự vận động sinh động của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
*Phương hướng, giải pháp cơ bản đổi mới và nâng cao chất lượng
của hệ thống chính trị trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
-Phương hướng đổi mới nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
nước ta hiện nay
Tổng kết sau 20 năm đổi mới, đảng ta xác định đổi mới hệ thống chính trị
đồng bộ với đổi mới kinh tế là một trong 7 định hướng cơ bản tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Thứ nhất, Đổi mới hệ thống chính trị đồng bộ với đổi mới kinh tế là trên
cơ sở đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt cần đẩy mạnh
đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động và cơ chế vận hành của hệ thống
chính trị cùng các bộ phận cấu thành của hệ thống đó, làm cho hệ thống chính



13
trị có tác động mạnh mẽ tới việc giải phóng lực lượng sản xuất, phát triển
kinh tế nhanh và bền vững. Đại hội X, Đảng ta chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới, kiện
toàn tổ chức bộ máy của Đảng và của cả hệ thống chính trị; xác định rõ hơn
chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, lề lối làm việc”9. Đồng
thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các thành tố dưới sự lãnh
đạo của Đảng; đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, hướng vào phục vụ
nhân dân, được nhân dân tin cậy.
Thứ hai, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thực sự là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; tiếp tục đổi mới và tăng cường
sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng lãnh đạo nhưng không làm
thay Nhà nước mà nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong hoạt động của Nhà
nước. Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp luật.
Thứ ba, Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị theo hướng đa dạng về hình thức, về chức năng, nhiệm vụ; nêu
cao tính thiết thực và hiệu quả, làm tốt chức năng phản biện, giám sát xã hội,
góp phần vào việc xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, phát huy quyền làm
chủ của nhân dân.
Thứ tư, cơ chế hóa, quy chế hóa mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận
cấu thành của hệ thống chính trị, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng
tác động thúc đẩy phát triển xã hội, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân. Có
cơ chế phù hợp để nhân dân thường xuyên tham gia đề xuất, kiến nghị với
Đảng, Nhà nước; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, nêu cao trách nhiệm
công dân đối với sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ năm, làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và trẻ hóa đội
ngũ cán bộ; giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với đội ngũ cán bộ.
Đảng ta đã chỉ rõ: nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các ngành của hệ

9

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà
Nội. 2006, tr 290


14
thống chính trị. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, trước hết của Ban
chấp hành Trung ương, Bộ chính trị, cần có kế hoạch chu đáo, giải pháp đồng
bộ, cụ thể có hiệu lực để thực hiện.
-Một số giải pháp đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị
trong nền kinh tế thị trường định nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Đổi mới hệ thống chính trị không phải là thay đổi chế độ chính trị, mà là
làm cho chế độ chính trị đã được kiến lập ở nước ta ngày càng bền vững hơn, thể
hiện đúng đắn và đầy đủ hơn bản chất xã hội chủ nghĩa, phát huy tính ưu việt và
vai trò tích cực của chính trị đối với sự phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới hệ thống chính trị
là nhằm làm cho các bộ phận cấu thành hệ thống hoạt động có hiệu lực và hiệu
quả hơn, khắc phục bệnh quan liêu hình thức, trên cơ sở xác định rõ, thực hiện
đúng chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức và xác lập cơ chế vận hành thông
suốt của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Một là, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng. Nâng cao
nhận thức và thực hiện đúng vai trò Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính
trị và toàn xã hội. Nắm vững nhiệm vụ phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung
tâm, xây dựng đảng là then chốt; chăm lo xây dựng Nhà nước, mặt trận tổ
quốc, các tổ chức quần chúng và đoàn thể nhân dân. Mọi đảng viên nêu cao
vai trò tiên phong, gương mẫu, vững vàng về chính trị, có đạo đức trong sáng
và lối sống lành mạnh, gắn bó với nhân dân; phấn đấu làm kinh tế giỏi, làm
giàu chính đáng và vận động quần chúng cùng làm giàu cho mình và đất
nước.

Thường xuyên chăm lo công tác phát triển Đảng cả về số lượng và chất
lượng, trong đó chú trọng phát triển những người lao động giỏi, có đạo đức,
có lối sống lành mạnh, có uy tín trong quần chúng, có lý tưởng cách mạng và
tích cực tham gia các hoạt động trong hệ thống chính trị các cấp. Đảng ta đã
chỉ rõ: “Việc kết nạp đảng viên phải coi trọng chất lượng, tiêu chuẩn, đặc biệt


15
tiêu chuẩn giác ngộ lý tưởng của Đảng, đạo đức lối sống, năng lực hoàn
thành nhiệm vụ; trọng tâm phát triển hướng vào thế hệ trẻ, công nhân, nông
dân, trí thức, quân nhân, cán bộ, con em các gia đình có công với cách
mạng”10.
Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, hoàn thiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng cho phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước; kết
hợp hài hòa sự phát triển kinh tế với bảo đảm sự tiến bộ và công bằng xã hội
trên phạm vi cả nước cũng như ở từng lĩnh vực, từng địa phương, từng chính
sách phát triển; phát huy dân chủ trong việc xác định quan điểm, đường lối
chủ trương, chính sách, huy động có hiệu quả nhân dân tham gia đóng góp
vào các văn kiện của Đảng; lắng nghe ý kiến của nhân dân.
Đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, làm trong sạch
đội ngũ, cán bộ, đảng viên ở bất kỳ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm
chỉnh cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật Nhà nước; thi
hành kỷ luật nghiêm với mọi hành vi vi phạm về nguyên tắc,về quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Trong các hoạt động kinh tế,
đảng viên phải chấp hành đúng pháp luật của Nhà nước quy định. Trong giai
đoạn hiện nay, phải tiếp tục xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất là chế độ tự
phê bình và phê bình; phải thấy rõ những tồn tại và khuyết điểm của mỗi cán
bộ, đảng viên, kiên quyết loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi
Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân, khắc phục những quan điểm
tư tưởng, chính trị mơ hồ, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, xây dựng

các tổ chức Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu của thời kỳ
mới.
Tăng cường tổng kết thực tiễn rút kinh nghiệm, thảo luận dân chủ, sớm
làm rõ những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn. Củng cố và nâng cao

10

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà
nội. 2006, tr 301


16
chất lượng hoạt động của các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước, thanh
tra nhân dân; coi trọng và làm tốt công tác bảo vệ an ninh chính trị nội bộ.
Hai là, đổi mới và nâng cao hiệu lực của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà
nước gắn liền với xây dựng chỉnh đốn Đảng; đổi mới nội dung, phương thức
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức
và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công
tác lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Quốc hội làm tốt chức năng quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước, phân bổ ngân sách. Nâng cao chất
lượng công tác của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp
thực hiện tốt quy chế dân chủ, nhất là dân chủ cơ sở. Xây dựng một nền hành
chính Nhà nước thực sự dân chủ, vững mạnh, từng bước hiện đại hóa; phát
huy vai trò chính phủ thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng và an ninh của đất nước theo pháp luật; phân công, phân cấp,
nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương và các ngành, các cấp,
các tổ chức kinh tế - xã hội. Thực hiện cải cách và tinh giảm biên chế trong
các cơ quan Nhà nước, tránh chệch hướng xã hội chủ nghĩa .
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong sạch, có năng lực, coi trọng cả

về năng lực và đạo đức, có chế độ chính sách đào tạo, bồi dưỡng đãi ngộ hợp
lý tăng cường cán bộ cho cơ sở. Xử lý nghiêm minh theo pháp luật và điều lệ
Đảng những cán bộ, đảng viên công chức ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào lợi
dụng chức quyền để tham những ức hiếp nhân dân; có chính sách khen
thưởng những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Cụ thể hóa và
thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức, trước hết là cán
bộ chủ chốt, quản lý, cán bộ lãnh đạo ở các cấp, các ngành.
Xóa bỏ các thủ tục hành chính phiền hà, nhất là ở những khâu, những
lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, sách nhiễu; cần có các cơ chế, chính sách, quy
chế, quy định của Đảng và Nhà nước về quản lý tài chính, tài sản công và


17
chống được kẻ xấu lợi dụng những sơ hở trong quản lý tài chính. Xem xét
trách nhiệm hình sự và có hình thức sử lý kỷ luật thích đáng đối với những
người đứng đầu cơ quan đơn vị ở nơi xảy ra những vụ tham nhũng lớn gây
hậu quả nghiêm trọng.
Ba là, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết các dân tộc, tôn
giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng
của đất nước, người trong Đảng và ngoài Đảng, người đang công tác và người
nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong
nước hay ngoài nước. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân gắn với việc phát
huy dân chủ trong đời sống xã hội. Thực hiện dân chủ trên các lĩnh vực kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Coi trọng phát triển giai cấp công nhân cả về số và chất lượng, nâng cao
giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, thực hiện trí
thức hóa giai cấp công nhân, tăng cường đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý và
kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú, tăng thành phần công nhân trong
đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành. Bồi dưỡng và phát huy vai trò

của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; giải quyết việc
làm cho nông dân, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và xây dựng nông
thôn mới. Tạo điều kiện thuận lợi để trí thức tiếp cận, thu nhận những thành
tựu mới của khoa học, công nghệ và văn hóa thế giới, nâng cao trình độ chính
trị, kiến thức chuyên môn khuyến khích tự do sáng kiến, phát minh, phát hiện
bồi dưỡng và sử dụng, dãi ngộ nhân tài phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng; chăm lo giáo dục bồi
dưỡng đào tạo thế hệ trẻ phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
lối sống, văn hóa, sức khỏe nghề nghiệp việc làm…thực hiện tốt luật pháp và
chính bình đẳng giới tính, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao trình độ


18
học vấn cho phụ nữ; tạo điều kiện để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào
các cơ quan lãnh đạo, quản lý ở các cấp, các ngành.
Đối với cựu chiến binh, phát huy bản chất truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”
tích cực tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, chính quyền và chế độ xã hội chủ
nghĩa; góp phần giáo dục chủ nghĩa và truyền thống anh hùng cách mạng cho
thế hệ trẻ.
Nêu cao vai trò, trách nhiệm của các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển kinh tế xã
hội khuyến khích và tạo điều kiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
và cạnh tranh theo pháp luật. Làm giàu chính đáng theo chủ trương, chính sách
của Đảng, pháp luật của nhà nước không vì lợi nhuận bất chấp bằng mọi giá.
Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng đoàn kết tương trợ giúp
đỡ nhau cung phát triển, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí, làm giàu và
phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thực hiện
công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi; ưu tiên đào
tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ dân tộc ở các vùng sâu, vùng xa,

chống kỳ thị, chia rẽ các dân tộc, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan, khắc
phục tư tưởng mặc cảm, tự ti dân tộc.
Thực hiện nhất quán chính sách, tôn trọng và bảo quản quyền tự do tín
ngưỡng theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền sinh hoạt tôn giáo bình
đẳng trước pháp luật, đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo khác nhau. Chống
lợi dụng mê tín dị đoan, làm những điều tổn hại đến đời sống tâm linh và tác
hại cho đất nước, chống địch lợi dụng tôn giáo để chống phá cách mạng.
Trên đây là những giải pháp cơ bản đối với việc nâng cao chất lượng của
hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải
pháp trên. Bởi vì, mỗi giải pháp đều có vị trí, vai trò riêng, nhưng chúng có
mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau không được tuyệt đối hóa


19
hoặc coi nhẹ một giải pháp nào. Tuy nhiên, đổi mới và nâng cao hệ thống
chính trị cần phải xem xét và tính đến vấn đề là đổi mới phải phù hợp với điều
kiện thực tiễn của xã hội Việt Nam như Đảng ta đã xác định một trong những
bài học rút ra sau 20 năm đổi mới là: “Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân,
dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất
phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới…từng bước tìm ra quy luật phát triển,
đó là chìa khóa của thành công”11.
*

*
*

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay, đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị là một tất yếu khách
quan, nó không chỉ là vấn đề có tính quy luật, mà còn là một vấn đề mang tính

cấp bách đối với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Sự vững mạnh hay
suy yếu của hệ thống chính trị nước ta có vai trò quyết đến sự thắng lợi hay thất
bại của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị nước ta hiện nay về
thực chất là chúng ta xây dựng hệ thống chuyên chính cách mạng của giai cấp
công nhân, đồng thời cũng là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; đó là
những giá trị chính trị xã hội chủ nghĩa cần được xác lập và hiện thực hóa
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự đúng hướng hay
chệch hướng trong đổi mới hệ thống chính trị nước ta chính là ở chỗ hệ thống
đó có phát huy được sức mạnh của mình hay không, các thành tố của hệ thống
đó có làm tốt chức năng, nhiệm vụ của mình hay không và có đáp ứng được
những yêu cầu mà thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đòi hỏi.
Vấn đề cốt lõi đổi mới và nâng cao hệ thống chính trị nước ta hiện nay là
giữ vững quyền độc tôn lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với hệ
thống đó, trên cơ sở nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
11

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, Hà
nội. 2006, tr. 71


20
tưởng Hồ Chí Minh, giải quyết một cách đúng đắn và sáng tạo các nhiệm vụ
của sự nghiệp cách mạng, xử lý kịp thời những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt
ra trong bước ngoặt lịch sử; đường lối đúng đắn của Đảng ta sẽ là nhân tố
quyết định thành công sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt khác thắng lợi của sự nghiệp đổi mới
có phần quyết định phụ thuộc vào việc chúng ta xây dựng được một nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân, trong sạch vững mạnh,
làm tốt vai trò tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động trên tất các mặt của

đời sống xã hội; đấu tranh để làm trong sạch bộ máy nhà nước, chống tệ tham
nhũng, quan liêu, đặc quyền đặc lợi trong toàn bộ máy nhà nước đang là vấn
đề bức xúc hiện nay.



×