Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG của các mác và PH ĂNG GHEN về CÁCH MẠNG vô sản TRONG tác PHẨM hệ tư TƯỞNG đức, ý NGHĨA của nó TRONG THỜI đại NGÀY NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.44 KB, 21 trang )

1

TƯ TƯỞNG CỦA C.MÁC, PH.ĂNGGHEN VỀ CÁCH MẠNG VÔ SẢN
TRONG TÁC PHẨM: “ HỆ TƯ TƯỞNG ĐỨC”
Ý NGHĨA CỦA NÓ TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY

Karl Heinrich Marx (05/5/1818 - 14/3/1883)

Friedrich Engels (28/11/1820- 05/8/1895)

Với quan niệm duy vật về lịch sử, trong “Hệ tư tưởng Đức”, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã xây dựng cơ sở lý luận vững chắc cho sự phát triển tư tưởng về cách
mạng vô sản. Theo các ông, cách mạng vô sản là một quy luật tất yếu mà lịch sử phải
trải qua trong tiến trình vận động, phát triển của nó. Những tiền đề vật chất của cuộc
cách mạng đó là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự hình thành giai cấp vô sản.
Về tính chất, nó là cuộc cách mạng triệt để, toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử
nhân loại. Có thể khẳng định rằng, cho đến nay, những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen trong “Hệ tư tưởng Đức” về cách mạng vô sản vẫn còn nguyên giá trị lý
luận và ý nghĩa thực tiễn.
Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
Hệ tư tưởng Đức là một trong những tác phẩm do C.Mác và Ph.Ăngghen viết
chung vào cuối năm 1845 đầu năm 1846, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá
trình hình thành và phát triển của triết học Mác. Đây không chỉ là tác phẩm lý luận
quan trọng trong thời kỳ hình thành triết học Mác, mà còn là tác phẩm đầu tiên thể
hiện sự trưởng thành đến độ chín muồi của chủ nghĩa Mác.


2

Lần đầu tiên, C.Mác gặp Ph.Ăngghen vào cuối tháng Mười Một 1842, khi
Ph.Ăngghen trên đường sang Anh và ghé thăm ban biên tập tờ Rheinische Zeitung


(Nhật báo tỉnh Ranh). Mùa hè năm 1844, Ph.Ăngghen đến thăm C.Mác ở Pari. Hai
ông đã trở thành những người bạn cùng chung lý tưởng và quan điểm trong tất cả mọi
vấn đề lý luận và thực tiễn. Theo yêu cầu của Chính phủ Vương quốc Phổ, Chính phủ
Pháp đã trục xuất C.Mác. Ngày 3 tháng 2 năm 1845, C.Mác rời Pari đến Brúcxen, ít
lâu sau Ph.Ăngghen cũng đến đây và hai ông lại tiếp tục cộng tác chặt chẽ với nhau.
Ph.Ăngghen kể lại rằng: “ Khi tôi đến thăm Mác vào mùa hè năm 1844 ở Pari, thì
thấy rằng chúng tôi hoàn toàn nhất trí với nhau trong mọi lĩnh vực lý luận, và từ đó
trở đi đã bắt đầu sự cộng tác giữa chúng tôi” 1. C.Mác đến Pari là để tìm kiếm một thế
giới quan mới. Tại Pari, ông đã chuyển hẳn sang lập trường của chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa cộng sản. Khi rời khỏi Pari, mục đích trước mắt của C.Mác là: phải hoàn
thành việc luận chứng và đề xuất học thuyết cách mạng mới, tuyên truyền và phổ biến
những tư tưởng đó trong phong trào vô sản.
Trong thời gian ở Brúcxen, C.Mác đã đề xuất những cơ sở khoa học của một
thế giới quan mới trên lập trường của giai cấp vô sản. Đồng thời, ông đã tiến hành các
hoạt động thực tiễn nhằm thành lập một chính đảng vô sản cách mạng. Tại đây,
C.Mác đã trình bày quan niệm duy vật về lịch sử trong Luận cương về Phoiơbắc. Thế
giới quan mới - những luận điểm cơ bản được Mác nêu ra một cách cô đọng trong bản
sơ thảo này, đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày rõ ràng và chi tiết hơn trong tác
phẩm Hệ tư tưởng Đức.
Trong thời kỳ này, những người ủng hộ C.Mác và Ph.Ăngghen vẫn còn là
thiểu số trong phong trào công nhân. Trong khi đó, các phe phái đủ màu sắc của
chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản đang chiếm ưu thế. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho
C.Mác và Ph.Ăngghen là phải chứng minh một cách khoa học những cơ sở hệ tư
tưởng của giai cấp vô sản, tuyên truyền hệ tư tưởng đó để tranh thủ những người
vô sản tiên tiến trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản. Nhiệm vụ
1

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 21, tr.220 (tiếng Nga)



3

đó đòi hỏi phải phê phán triệt để những quan điểm duy tâm của nền triết học Đức
và chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản Đức lúc đó; đồng thời trình bày một cách chính
diện những nguyên lý cơ bản của một thế giới quan triết học mới và đặt cơ sở lý
luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học. Đầu tháng 8 năm 1846, C.Mác viết:
“ Tôi thấy rằng, điều hết sức quan trọng là trước khi tôi trình bày vấn đề một
cách chính diện, thì cần phải có một tác phẩm luận chiến nhằm chống lại nền triết học
Đức và chống lại chủ nghĩa xã hội Đức xuất hiện hồi bấy giờ. Điều đó là cần thiết để
chuẩn bị cho công chúng tiếp thu quan điểm của tôi trong lĩnh vực kinh tế - chính trị,
quan điểm này trực tiếp đối lập với khoa học Đức tồn tại cho đến ngày nay”2.
“điều cực kỳ quan trọng là phải đưa ra trước một tác phẩm luận chiến trước khi
có sự trình bày chính diện của tôi về đề tài ấy, tác phẩm luận chiến ấy là nhằm chống
lại triết học Đức và chống lại chủ nghĩa xã hội Đức đã ra đời trong thời gian đó. Điều
đó là cần thiết để chuẩn bị cho công chúng tiếp cận quan điểm của tôi trong lĩnh vực
chính trị- kinh tế học, quan điểm ấy trực tiếp đối lập mình với khoa học Đức từng tồn
tại trước đó”3.
Trong thời gian chuẩn bị và viết tác tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, ở nhiều nước
Tây Âu, quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản diễn ra khá mạnh mẽ. Những mâu
thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản ngày càng gay gắt. Mâu thuẫn cơ bản của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã trở lên không thể điều hoà được. Những mâu thuẫn
giai cấp vốn có của xã hội tư bản mà trước hết là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và
giai cấp tư sản ngày càng gay gắt. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thời kỳ này ở
Tây Âu đã tạo ra những tiền đề khách quan chín muồi cho việc khái quát lý luận về
vai trò lịch sử của giai cấp vô sản và đề xuất các quan điểm duy vật về lịch sử. Phong
trào công nhân ở Tây Âu nói chung, ở Đức nói riêng đã phát triển mạnh, nhưng nó chỉ
tiếp tục phát triển được khi nó thoát khỏi sự phụ thuộc vào hệ tư tưởng của các giai
cấp khác, tự mình xây dựng được hệ tư tưởng độc lập trên cơ sở tiếp thu một thế giới
2
3


C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, tập 27, tr.308- 309 (tiếng Nga).
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.27. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.651


4

quan mới, một học thuyết cách mạng mới. Điều đó càng thôi thúc C.Mác và
PH.Ăngghen quyết tâm nghiên cứu để đề xuất thế giới quan mới ấy.
Mùa thu năm 1845, hai ông đã có đề cương cụ thể hơn để viết một tác phẩm triết
học gồm hai tập nhằm phê phán hệ tư tưởng Đức qua những đại biểu của nó như:
Phoiơbắc, Bauơ, Stiếcnơ và những người “chủ nghĩa xã hội chân chính” Đức. Một
nguyên nhân trực tiếp là mùa hè năm 1845, Phoiơbắc đã viết một bài báo công khai
tuyên bố mình là người cộng sản; đến tháng 9 năm 1845, một loạt tác phẩm cơ bản của
những người “chủ nghĩa xã hội chân chính” đã được công bố; đặc biệt là việc xuất bản
tập III tạp chí Wigand’s Vierteljahrsschrift vào giữa tháng 10 với những bài của Bauơ
và Stiếcnơ nhằm chống lại chủ nghĩa cộng sản.
Hệ tư tưởng Đức được dự kiến như là một tác phẩm tập thể do C.Mác chủ biên.
Nhưng dự định đó không thành, cuối cùng chỉ có C.Mác và Ph.Ăngghen cộng tác chặt
chẽ với nhau để hoàn thành tác phẩm này, đặc biệt là tập đầu. Tháng 11 năm 1845
C.Mác và Ph.Ăngghen bắt tay vào viết tác phẩm Hệ tư tưởng Đức và về cơ bản hoàn
thành vào tháng 4 năm 1846. Sau đó được hoàn thiện, bổ xung tiếp trong khoảng một
năm và kết thúc bằng bài báo của Ph.Ăngghen với nhan đề: “Những người chủ nghĩa
xã hội chân chính”. Song do chế độ kiểm duyệt thời bấy giờ, khi tác phẩm ra đời, các
ông đành phải chấp nhận để nó “cho sự phê phán gặm nhấm của chuột”. Mặc dù,
trong thời gian các ông còn sống, tác phẩm này đã không được công bố, nhưng việc
soạn thảo nó đã góp phần không nhỏ trong việc giúp các ông trao đổi và thống nhất
với nhau những nhận thức đã có, đồng thời vận dụng những quan điểm này vào nghiên
cứu nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Do vậy, Hệ tư tưởng Đức đã thực sự
trở thành một tác phẩm, mà như sau này các nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác đánh giá,

hàm chứa những tư tưởng quan trọng đánh dấu sự ra đời của một thế giới quan mới.
Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, sau này bị những người xã hội dân chủ Đức tìm
cách dấu đi. Mãi đến 1932, “Hệ tư tưởng Đức” mới được Viện Nghiên cứu Chủ nghĩa
Mác - Lênin của Trung ương Đảng Cộng sản (Bônsêvich) Liên Xô xuất bản toàn văn
bằng tiếng Đức và đến 1933 thì xuất bản bằng tiếng Nga.


5

Tóm lại: Tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” là tác phẩm thứ 2 mà C.Mác và
Ph.Ăngghen viết chung, là thời kỳ các ông đã chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ
nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản. Trong khi
đó phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa tuy mới phát triển trên cơ sở cách mạng tư
sản mới giành thắng lợi ở Châu Âu nhưng nó đã bộc lộ những mâu thuẫn vốn có và
phải được phát triển thông qua cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản. (Cách mạng tư sản ở
Châu Âu tuy thắng lợi nhưng cách mạng tư sản ở Đức chưa giành thắng lợi. Giai cấp tư
sản Đức hèn yếu bạc nhược về chính trị, sợ cả phong kiến và sợ cả sự lớn mạnh của
giai cấp công nhân cho nên thể hiện tính hai mặt của nó). Đây là tác phẩm kế thừa tư
tưởng của các ông trong các tác phẩm: Bản thảo kinh tế triết học năm 1844, Gia đình
thần thánh năm 1845, Luận cương về Phoiơbắc năm 1845,... và là bước ra đời của tác
phẩm: Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, ... cho nên nghiên cứu phải đặt trong tiến trình phát
triển tư tưởng của các ông.
Kết cấu và tư tưởng cơ bản của tác phẩm
“Hệ tư tưởng Đức” là một tác phẩm lớn gồm hai tập (C.Mác-Ph.Ăngghen: toàn tập.
Nxb Chính trị Quốc gia, Sự Thật, Hà Nội, Tập. 3, tr. 15-793) đăng trọn vẹn.
Tên tác phẩm: “Hệ tư tưởng Đức”, nhưng còn có phụ đề là “ Phê phán triết học
Đức hiện đại qua các đại biểu của nó là Phoiơbắc, B.Bauơ, Stiếcnơ và phê phán chủ
nghĩa xã hội Đức qua các nhà tiên tri khác nhau của nó”.
Kết cấu của tác phẩm: tác phẩm gồm 2 tập
Tập I: với tiêu đề là “ Phê phán triết học mới nhất ở Đức” với 3 chương:

Chương I: Về Phoiơbắc.
Chương II: Brunô thần thánh ( biệt danh của Bauơ).
Chương III: Maxơ thần thánh (biệt danh của Stiếcnơ).
Tập II: gồm 5 chương.
Chương I: Phê phán những cơ sở triết học của chủ nghĩa xã hội chân chính.
Chương II và Chương III đến nay không còn.


6

Chương IV: Trào lưu chủ nghĩa xã hội ảnh hưởng ở Pháp, Bỉ.(trào lưu tư tưởng
của Gruyn).
Chương V: Phê phán các quan điểm chủ nghĩa xã hội tiểu tư sản của Cunman.
Trong 2 tập này, phần phê phán Phoiơbắc là phần các quan điểm triết học
mới của C.Mác và Ph.Ăngghen được thể hiện một cách tập trung nhất. Sở dĩ như
thế là vì: Trong các tác phẩm trước đây các ông đã phê phán Bauơ, Stiếcnơ, còn
đối với Phoiơbắc thì vẫn được ca ngợi. Đến nay, bằng phê phán Phoiơbắc, C.Mác
và Ph.Ăngghen làm rõ được quan điểm của mình khác với quan điểm của
Phoiơbắc ra sao và các ông đã xây dựng quan điểm mới đó như thế nào.
Nội dung thu hoạch tác phẩm
Trong sự hình thành và phát triển triết học Mác, Hệ tư tưởng Đức là tác phẩm
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng và mang một ý nghĩa lớn lao. Trong tác phẩm này,
những tư tưởng cơ bản về một thế giới quan mới - thế giới quan duy vật biện chứng đã được C.Mác và Ph.Ăngghen trình bày một cách tương đối hoàn chỉnh. Cũng ở đây,
một trong hai phát kiến vĩ đại tạo nên bước ngoặt lịch sử trong các học thuyết xã hội
và làm nên thực chất của cuộc cách mạng trong lịch sử tư tưởng triết học nhân loại quan niệm duy vật về lịch sử - lần đầu tiên đã được các ông trình bày một cách toàn
diện, chi tiết. Và, với việc đề xuất một thế giới quan triết học mới, với việc phát hiện
ra quan niệm duy vật về lịch sử, các ông đã bước đầu đặt ra cơ sở lý luận cho chủ
nghĩa cộng sản khoa học - chủ nghĩa duy vật thực tiễn. Chính vì vậy, 163 năm qua, kể
từ khi ra đời đến nay, Hệ tư tưởng Đức đã đi vào lịch sử hình thành và phát triển triết
học Mác với tư cách nền tảng, bước ngoặt cách mạng và cùng với nhiều tác phẩm

khác của C.Mác và Ph.Ăngghen, làm nên cơ sở lý luận, phương pháp luận khoa học
và trở thành vũ khí tinh thần không thế thiếu của giai cấp vô sản toàn thế giới trong
công cuộc cải tạo xã hội bằng thực tiễn cách mạng. Giờ đây, trong công cuộc đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, ý nghĩa lớn lao này của Hệ tư
tưởng Đức vẫn còn nguyên giá trị.


7

Thật vậy, cái làm nên ý nghĩa lớn lao đó của Hệ tư tưởng Đức, trước hết bởi tác
phẩm triết học này là một mẫu mực về sự kết hợp nhuần nhuyễn tính đảng vô sản với
tính khoa học trong nghiên cứu lý luận. Bằng bút pháp luận chiến tuyệt vời, trong tác
phẩm này, lần đầu tiên, C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất một thế giới quan triết học mới
dưới hình thức phê phán nền triết học sau Hêgen, trước hết là chủ nghĩa duy vật nhân bản
của Phoiơbắc và những quan điểm duy tâm chủ nghĩa của phái “Hêgen trẻ” (Bauơ,
Stiếcnơ). Vấn đề trung tâm mà các ông đặt ra trong cuộc luận chiến với các đại diện tiêu
biểu của nền triết học Đức sau Hêgen là làm thế nào để thay đổi hiện thực đang tồn tại,
để “cách mạng hoá thế giới hiện có”, “tấn công và thay đổi một cách thực tiễn trạng thái
sự vật hiện có”. Các ông cho rằng, việc Phoiơbắc và phái “Hêghen trẻ” phê phán cái hiện
tồn bằng lời nói và tiến hành sự phê phán đó một cách gián tiếp, dưới hình thức phê phán
tôn giáo chẳng qua chỉ là cuộc đấu tranh với “cái bóng của hiện thực”, chứ không phải
với bản thân hiện thực, và trên thực tế, họ thừa nhận cái hiện tồn ấy nhưng lại cố giải
thích nó một cách khác đi. Với đánh giá này, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đặt ra cho mình
nhiệm vụ làm rõ thực chất của cuộc đấu tranh triết học chống lại các ảo tưởng đó. Các
ông chứng minh rằng, để thay đổi hiện thực đang tồn tại mà chỉ phê phán thôi là không
đủ, điểm mấu chốt để thay đổi cái hiện tồn ấy là phải giải thích nó một cách đúng đắn và
hơn nữa, phải cải tạo nó, biến đổi nó bằng thực tiễn cách mạng.
Trong Hệ tư tưởng Đức, các ông đã đề cập đến một loạt vấn đề lý luận quan
trọng; đặc biệt, ở đây, lần đầu tiên, quan niệm duy vật về lịch sử - một trong hai phát
kiến vĩ đại của C.Mác, được trình bày một cách tương đối toàn diện và sâu sắc. Với

quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tạo cơ sở lý luận khoa học
vững chắc cho sự phát triển tư tưởng về cách mạng vô sản và đặt nền móng cho chủ
nghĩa cộng sản khoa học.
Học thuyết về chủ nghĩa cộng sản khoa học được C.Mác và Ph.Ăngghen trình
bày trong Hệ tư tưởng Đức là hệ quả trực tiếp của chủ nghĩa duy vật lịch sử do hai
ông phát hiện và xây dựng. Trong tác phẩm này, ngoài việc khẳng định vai trò quyết
định của sản xuất vật chất trong đời sống xã hội, chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa


8

lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăngghen còn luận chứng về tính
tất yếu, triệt để của cách mạng vô sản; về vai trò và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của
giai cấp vô sản; đồng thời, luận giải về vấn đề xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân,… Ngoài
các nguyên lý cơ bản trên, Hệ tư tưởng Đức còn đề cập tới một số nguyên lý khác
trong học thuyết chủ nghĩa cộng sản khoa học, như vấn đề giải phóng con người, phát
triển con người toàn diện, những đặc trưng của xã hội cộng sản chủ nghĩa…
Hơn 160 năm đã trôi qua kể từ khi C.Mác và Ph.Ăngghen cùng viết Hệ tư
tưởng Đức, cùng đặt những nguyên lý khởi đầu xây dựng nên nền tảng cho một học
thuyết vĩ đại, ngọn đuốc soi đường, kim chỉ nam định hướng cho toàn thể nhân loại
tiến tới tương lai. Thế giới quan và phương pháp luận mới được trình bày trong Hệ tư
tưởng Đức là quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử.
Trong Hệ tư tưởng Đức, thế giới quan mới được đề xuất dưới hình thức phê
phán những quan điểm triết học của phái “Hêghen trẻ”. Vấn đề đặt ra là, làm thế nào
để thay đổi hiện thực đang tồn tại? Phái “Hêghen trẻ” phê phán bằng lời nói cái hiện
tồn, tiến hành sự phê phán đó một cách gián tiếp, dưới hình thức phê phán tôn giáo.
C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định rằng, đó là cuộc đấu tranh không phải với bản thân
hiện thực, mà chỉ là cuộc đấu tranh với những cái bóng của hiện thực. Đồng thời, hai
ông cũng chứng minh rằng, chỉ phê phán không thôi thì chưa đủ, mà còn cần phải giải
thích một cách đúng đắn thế giới và quan trọng hơn hết là phải làm biến đổi thế giới,

cải tạo thế giới.
Như chúng ta đã biết, cho đến trước khi triết học Mác ra đời, lĩnh vực đời sống
xã hội vẫn là nơi “ẩn náu”, là địa hạt chịu sự chi phối, thống trị của chủ nghĩa duy tâm,
tôn giáo. Tất cả mọi vấn đề xã hội, con người đều được nhìn nhận và giải thích qua lăng
kính duy tâm và đầy mầu sắc thần bí. Một số nhà triết học duy vật có tư tưởng tiến bộ,
chẳng hạn như L.Phoiơbắc, rốt cuộc cũng không lý giải được một cách chính xác, khoa
học về lịch sử. Phái “Hêgen trẻ” đã hiểu lệch lạc rằng, ý thức tôn giáo là nguyên nhân
của những áp bức xã hội, coi thủ tiêu tôn giáo và “sự phê phán có tính phê phán” là con
đường giải phóng xã hội. Phê phán một cách quyết liệt quan niệm duy tâm về xã hội


9

nói chung, về động lực phát triển của xã hội nói riêng trước đó, trong Hệ tư tưởng Đức,
xuất phát từ quan niệm duy vật về lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định rằng, cần
phải xoá bỏ một cách thực tiễn những quan hệ xã hội hiện thực đã sản sinh ra những
điều nhảm nhí, duy tâm; rằng, “không phải sự phê phán mà cách mạng mới là động lực
của lịch sử, của tôn giáo của triết học và của mọi lý luận khác”4.
Theo các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác, cơ sở nền tảng của xã hội là sản xuất vật
chất. Sự sản xuất ra đời sống biểu hiện ra là một quan hệ kép, “song trùng”: một mặt, là
quan hệ giữa con người với tự nhiên - biểu đạt qua khái niệm lực lượng sản xuất; mặt
khác, là quan hệ giữa con người với con người - biểu đạt qua khái niệm quan hệ sản xuất
(trong Hệ tư tưởng Đức, các ông gọi đó là những hình thức giao tiếp). Giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng và sự tác động qua lại. Khi quan
hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất, nó tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của lực lượng sản xuất và do vậy, thúc đẩy sự phát triển của xã hội; ngược lại, khi quan
hệ sản xuất không còn phù hợp với lực lượng sản xuất, tức là giữa chúng đã xuất hiện
mâu thuẫn, nó sẽ trói buộc, kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, cản trở sự phát
triển của xã hội. Phân tích sự tiến triển theo khuynh hướng đi lên của lịch sử, các ông cho
rằng, quá trình đó bao hàm một chuỗi có sự gắn bó chặt chẽ những hình thức giao tiếp

mà mối liên hệ giữa chúng là ở chỗ: người ta thay thế hình thức giao tiếp cũ đã trở thành
một trở ngại bằng một hình thức mới phù hợp với những lực lượng sản xuất đã phát triển
hơn, và do đó phù hợp với phương thức hoạt động tiên tiến hơn của cá nhân; hình thức
này đến lượt nó lại trở thành trở ngại và lại được thay thế bằng một hình thức khác. Như
vậy, sự phát triển của lịch sử đồng thời là sự thay thế kế tiếp nhau của các quan hệ sản
xuất, được quy định bởi trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
Trong Hệ tư tưởng Đức, khi phân tích mối quan hệ và tác động biện chứng của
lực lượng sản xuất với “hình thức giao tiếp”, C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng, mâu
thuẫn giữa chúng là nguồn gốc sâu xa của cách mạng xã hội. Các ông khẳng định:
“Theo quan điểm của chúng tôi, tất cả mọi xung đột trong lịch sử đều bắt nguồn từ
4

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 54.


10

mâu thuẫn giữa những lực lượng sản xuất và hình thức giao tiếp” 5. Khi lực lượng sản
xuất mâu thuẫn với “hình thức giao tiếp”, người ta phải tiến hành “thay thế hình thức
giao tiếp cũ... bằng một hình thức mới phù hợp...” thông qua cuộc cách mạng xã hội.
Thực vậy, như C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết, trong tiến trình phát triển của lịch
sử từ trước đến nay, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã xảy ra
nhiều lần và kết cục đều phải nổ ra thành một cuộc cách mạng. Với nghĩa như vậy, có
thể nói, cách mạng xã hội là giá đỡ cho sự ra đời của một quan hệ sản xuất mới, một
phương thức sản xuất mới và một hình thái kinh tế - xã hội mới.
Theo lôgíc trên thì sự ra đời, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa không phải là đỉnh cao nhất, càng không phải là điểm tận cùng trong tiến
trình vận động, phát triển của lịch sử loài người. Trái lại, đến một lúc nào đó, cũng
giống như hiện tượng đã từng xảy ra trong các hình thái xã hội trước đây, quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ trở nên chật hẹp so với sự phát triển của lực lượng sản

xuất xã hội và mâu thuẫn giữa chúng bắt đầu xuất hiện. Thực tế, khi vận dụng quan
điểm duy vật về lịch sử để phân tích xã hội tư bản, các nhà kinh điển của chủ nghĩa
Mác đã chỉ rõ rằng: “cho đến nay, xã hội luôn luôn phát triển trong khuôn khổ đối
lập: thời cổ đại là sự đối lập giữa người tự do và người nô lệ, thời trung cổ là sự
đối lập giữa quý tộc và nông nô, thời cận đại là sự đối lập giữa giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Điều đó, một mặt, nói lên phương thức “phi nhân” không bình
thường mà giai cấp bị áp bức dùng để thoả mãn những nhu cầu của mình; mặt khác
nói lên phạm vi nhỏ hẹp mà trong đó sự giao tiếp và cùng với nó toàn bộ giai cấp
thống trị phát triển...” 6; rằng, “[Sự phát triển của nó] đã tạo ra một khối lượng lớn
những lực lượng sản xuất mà [sở hữu] tư nhân đã cản trở, cũng như trước kia chế
độ phường hội đã cản trở công trường thủ công và kinh doanh tiểu nông đã cản trở
thủ công nghiệp đang phát triển. Dưới sự thống trị của sở hữu tư nhân, những lực
lượng sản xuất ấy chỉ phát triển phiến diện...” 7. Cũng như trước đây, mâu thuẫn
5
6
7

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.107.
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.633
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.87


11

giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa, mà biểu
hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản - đại diện cho lực lượng sản
xuất đang lên và giai cấp tư sản - đại biểu cho quan hệ sản xuất thống trị, chỉ có
thể được giải quyết thông qua một cuộc cách mạng xã hội mới - cách mạng vô sản.
Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quy luật tất yếu, xét cả từ phương
diện lý luận lẫn phương diện thực tiễn, mà lịch sử phải trải qua trong tiến trình vận

động, phát triển của mình.
Một điểm khác cần lưu ý là, trong Hệ tư tưởng Đức, khi luận chứng cho quan
điểm về cách mạng vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhắc nhở những người cộng sản
rằng, cần phải làm cho ý thức cộng sản chủ nghĩa nảy sinh trong đông đảo quần chúng
lao động, tức là tạo nên một sự biến đổi của chính lực lượng xã hội đó. Sự biến đổi ấy
chỉ có thể được thực hiện trong thực tiễn phong trào đấu tranh, trong cách mạng. Điều
đó một lần nữa chứng minh rằng, sự tất yếu của cách mạng vô sản không những thể
hiện ở chỗ, nó là phương thức duy nhất để giai cấp vô sản và nhân dân lao động lật đổ
“thế lực của phương thức sản xuất và của sự giao tiếp trước đó và cả của cơ cấu xã
hội cũ..., phát triển tính phổ biến của giai cấp vô sản và nghị lực mà giai cấp vô sản
cần có...”, mà còn vì “cuộc cách mạng này sẽ làm cho giai cấp vô sản trút bỏ được
mọi cái rơi rớt lại từ địa vị xã hội cũ của mình” 8 và chỉ có trong cuộc cách mạng đó,
giai cấp vô sản “mới có thể quét sạch mọi sự thối nát của chế độ cũ đang bám chặt lấy
mình và trở thành có năng lực xây dựng cơ sở mới cho xã hội”9.
Không dừng lại ở việc luận chứng cho tính tất yếu của cách mạng vô sản trên
phương diện lý luận, trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ rõ những
tiền đề vật chất, nghĩa là chỉ rõ những cơ sở thực tiễn, những điều kiện hiện thực,
khách quan của cuộc cách mạng ấy. Các tiền đề đó là:
1- Sự phát triển của lực lượng sản xuất
2- Sự hình thành giai cấp vô sản cách mạng.
Các ông khẳng định rằng:
8
9

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.98.
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.100- 101.


12


“nếu không có những yếu tố vật chất ấy của một cuộc cách mạng toàn diện
- những yếu tố bao gồm một mặt là những lực lượng sản xuất hiện có và
mặt khác là sự hình thành một khối đông đảo quần chúng cách mạng đang
nổi dậy không những chống lại những điều kiện riêng biệt của xã hội cũ mà
còn chống lại bản thân “sự sản xuất ra đời sống” trước đây, chống lại “toàn
bộ hoạt động” làm cơ sở cho xã hội cũ đó, thì lịch sử của chủ nghĩa cộng
sản đã chứng tỏ, ý niệm về cuộc cách mạng này dù có được phát biểu hàng
trăm lần đi nữa, cũng hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì đối với sự phát triển
thực tế cả”10.
Như chúng ta đều biết, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất đã
phát triển đến trình độ xã hội hoá rất cao, song chế độ sở hữu tư nhân trong quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng đã trở thành xiềng xích cản trở sự phát triển hơn nữa
của lực lượng sản xuất xã hội. Sự “giải phẫu” một cách khoa học hiện thực xã hội tư
bản chủ nghĩa đã dẫn C.Mác và Ph.Ăngghen đến kết luận khái quát rằng, dưới sự
thống trị của sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, những lực lượng sản xuất chỉ phát triển
một cách phiến diện; rằng, sự phát triển thành một tổng thể xác định của lực lượng
sản xuất chỉ tồn tại trong khuôn khổ của sự giao tiếp phổ biến. Như vậy, sự phát triển
của lực lượng sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa đặt ra nhu cầu khách quan là
phải xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ, hay theo cách diễn đạt của C.Mác và Ph.Ăngghen,
thay thế hình thức giao tiếp cũ bằng một “sự giao tiếp phổ biến” có tính chất hiện đại;
trong đó, việc chiếm hữu lực lượng sản xuất “...không thể bị lệ thuộc vào từng cá
nhân bằng bất cứ cách nào, mà chỉ bằng cách lệ thuộc vào mọi cá nhân” 11, tức là vào
toàn thể xã hội. Với sự phát triển ngày càng trở nên gay gắt của mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, tiền đề thứ nhất của cách mạng
vô sản đã được xác lập.
Gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất là sự xuất hiện của một giai cấp
mới trong xã hội. Giai cấp đó, theo nhận định của C.Mác và Ph.Ăngghen, buộc phải chịu
10
11


C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.55.
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.98.


13

đựng mọi gánh nặng của xã hội nhưng lại không được hưởng một chút gì, dù là nhỏ nhất,
từ những phúc lợi xã hội. Nó bị chủ nghĩa tư bản gạt ra ngoài xã hội, do đó, đối lập một
cách kiên quyết với các giai cấp khác; đồng thời, là giai cấp hợp thành từ đa số thành
viên của xã hội và là giai cấp sản sinh ra ý thức tất yếu của một cuộc cách mạng triệt để,
ý thức cộng sản chủ nghĩa. Giai cấp đó chính là giai cấp vô sản - con đẻ của nền sản xuất
đại công nghiệp. Các ông viết:
“Trong khi giai cấp tư sản của mỗi dân tộc còn duy trì những lợi ích dân tộc
riêng biệt thì công nghiệp lớn lại tạo ra một giai cấp cùng có những lợi ích
như nhau trong tất cả các dân tộc; một giai cấp không còn tính riêng biệt dân
tộc nữa, một giai cấp thật sự đoạn tuyệt với toàn bộ thế giới cũ và đồng thời
đối lập với thế giới cũ. Công nghiệp lớn làm cho người công nhân không
những không chịu đựng nổi mối quan hệ của họ với nhà tư bản, mà còn không
chịu đựng nổi cả bản thân lao động nữa”12.
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất, của đại công nghiệp trong chủ
nghĩa tư bản, một mặt, thúc đẩy nền sản xuất xã hội và mặt khác, tạo nên giai cấp vô
sản - giai cấp cách mạng nhất của xã hội. Công nghiệp lớn có thể không phát triển
đồng đều ngay trong một nước, song theo quan điểm của các ông, điều ấy “không
ngăn cản phong trào có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản”, vì trong cuộc đấu tranh
cách mạng, những người vô sản do công nghiệp lớn sản sinh ra sẽ “đứng đầu phong
trào đó và lôi cuốn tất cả khối đông đảo quần chúng theo mình”. Với ý nghĩa như vậy,
tiền đề vật chất thứ hai của cách mạng vô sản cũng trở thành một hiện thực không thể
phủ nhận.
Tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về những tiền đề vật chất, về mối quan hệ
giữa điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan của cách mạng vô sản đã được V.I.Lênin

sau này kế thừa, phát triển một cách sâu sắc và sáng tạo trong học thuyết về nhà nước và
cách mạng, mà cụ thể là về tình thế cách mạng và thời cơ cách mạng.

12

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.87- 88.


14

Trong Hệ tư tưởng Đức, C.Mác và Ph.Ăngghen còn chỉ ra sự khác nhau căn
bản giữa cách mạng vô sản và các cuộc cách mạng trước đó. Lịch sử cho thấy, tất cả
các cuộc cách mạng trước kia không làm thay đổi chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu
sản xuất, mà chỉ là sự thay thế hình thức của chế độ chiếm hữu tư nhân, thay thế hình
thức người bóc lột người. Trái lại, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng do giai cấp
công nhân lãnh đạo, mục tiêu của nó là nhằm lật đổ toàn bộ xã hội cũ, xây dựng xã
hội mới; giải phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi mọi sự áp bức, bóc
lột, xoá bỏ tình trạng tha hoá của lao động, biến lao động - vốn là một phương thức tồn
tại của con người - thành lao động tự giác. Do vậy, điểm khác biệt căn bản giữa chúng,
theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là ở chỗ, nếu trong hết thảy các cuộc cách mạng trước đây,
tính chất hoạt động bao giờ cũng vẫn nguyên như cũ, - và bao giờ vấn đề cũng vẫn chỉ
là phân phối hoạt động ấy một cách khác, chỉ là một sự phân phối lao động cho người
khác thì trái lại, cách mạng cộng sản chủ nghĩa “nhằm chống lại tính chất hoạt động
trước đây, nó xoá bỏ lao động và thủ tiêu sự thống trị của mọi giai cấp cùng với bản
thân các giai cấp”13 và “ở chỗ nó đảo lộn cơ sở của mọi quan hệ sản xuất và giao tiếp
trước kia...”14.
Với những đặc trưng căn bản đó và trong quan hệ so sánh với các cuộc cách
mạng khác mà loài người đã biết đến trước đây, cách mạng vô sản trở thành cuộc
cách mạng triệt để, toàn diện và sâu sắc nhất trong lịch sử nhân loại. Trong cuộc cách
mạng ấy, giai cấp vô sản “trước hết phải chiếm lấy chính quyền để đến lượt mình, có

thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ biến” 15; đồng thời, chứng tỏ
bằng thực tiễn cái “khả năng đạt tới sự tự mình hoạt động đầy đủ, không hạn chế, đó
là sự chiếm hữu tổng thể những lực lượng sản xuất và do đó, phát triển tổng thể các
năng lực”16.

13
14
15
16

C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.100
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.101
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 48
C.Mác và Ph.Ăngghen. Toàn tập, t.3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 98.


15

Thực tiễn phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân trong những
thập kỷ đầu thế kỷ XX, mà đỉnh cao là Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, đã
chứng minh tính đúng đắn, khoa học trong tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về tính
tất yếu của cách mạng vô sản. Như chúng ta đã biết, nước Nga - vào đêm trước của cuộc
cách mạng vô sản, đứng trước một thời điểm lịch sử: là khâu yếu nhất trong hệ thống đế
quốc chủ nghĩa, là nơi tập trung những mâu thuẫn xã hội và dân tộc gay gắt nhất; đồng
thời, là nơi hội tụ đầy đủ nhất những điều kiện khách quan và chủ quan cho một cuộc
cách mạng vô sản. Với những điều kiện hiện thực đó, cách mạng vô sản không còn thuần
tuý là một học thuyết lý luận, mà đã trở thành một nhu cầu bức thiết của thực tiễn. Được
soi sáng bằng học thuyết khoa học do C.Mác, Ph.Ăngghen xây dựng nên và được đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Nga, đứng đầu là V.I.Lênin, Cách mạng Tháng
Mười Nga đã thực sự làm “rung chuyển thế giới”, “mở ra một thời đại mới trong lịch sử

thế giới”17, và mang lại “con đường giải phóng cho các dân tộc và cả loài người…”18.
Mặc dù chỉ tồn tại hơn 70 năm, song với hàng loạt giá trị nhân văn sâu sắc, những
cống hiến vô giá, mang tầm vóc và ý nghĩa lịch sử toàn nhân loại, chủ nghĩa xã hội hiện thực
ở Liên Xô - con đẻ của Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng 10 Nga, đã và mãi mãi trở thành
niềm tự hào của nhân dân Xôviết cũng như của cả loài người tiến bộ.
Phải thừa nhận rằng, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và các
nước Đông Âu là một tổn thất to lớn đối với phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản thế
giới, là một sự đáng tiếc đối với nhân loại yêu chuộng hoà bình và tiến bộ xã hội. Nhưng,
nếu viện vào cái “khúc quanh” này của lịch sử để cho rằng lịch sử nhân loại đang tiến
theo một hướng khác, nếu viện vào sự đổ vỡ này để phủ nhận tính tất yếu của cách mạng
vô sản với tính cách một học thuyết khoa học, một phương thức duy nhất để thực hiện
bước chuyển lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội thì lại là một sai lầm
nghiêm trọng, cả về phương diện nhận thức lẫn thực tiễn.
Có thể nhận thấy rằng, sau khi chủ nghĩa xã hội với tính cách một hệ thống thế
giới được thiết lập và trở thành “đối trọng” trực tiếp, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tiếp thu
17
18

V.I.Lênin. Toàn tập, t. 44. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1978, tr. 155.
Hồ Chí Minh. Toàn tập, t. 12. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 301.


16

và vận dụng, dù là tự giác hay không tự giác, một số giá trị hợp lý của chủ nghĩa xã hội
hiện thực; đồng thời, bản thân nó cũng có sự tự điều chỉnh nhất định để thích ứng với
điều kiện mới. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sở hữu, chủ nghĩa tư bản đang mở rộng hình
thức cổ phần hoá, một bộ phận công nhân đồng thời là những cổ đông; trong lĩnh vực xã
hội, nó cũng nới rộng cho người dân được hưởng một số quyền lợi, phúc lợi công cộng
nào đó... Tuy nhiên, những thay đổi như vậy hoàn toàn không có nghĩa là chủ nghĩa tư

bản đang trong quá trình “tự lột xác”; cũng không phải là chủ nghĩa tư bản phát triển
càng cao thì chủ nghĩa xã hội càng lớn dần lên trong lòng chủ nghĩa tư bản và do đó,
cách mạng xã hội đang dần trở thành “cái bướu thừa” của lịch sử. Những cuộc chiến
tranh đẫm máu ở Irắc, Apganixtan…, những bất ổn chính trị ở các nước cộng hoà thuộc
Liên Xô trước đây, những cuộc nội chiến tranh giành quyền lực tại một số nước hoặc
vùng lãnh thổ hiện nay bắt nguồn từ đâu nếu không phải là từ sự chủ động can thiệp dưới
nhiều hình thức của chủ nghĩa đế quốc? Vì sao Mỹ, một trong những nước tư bản phát
triển nhất, vẫn đẩy mạnh cuộc chạy đua vũ trang, thực hiện chiến lược “diễn biến hoà
bình” mà đối tượng trước hết là nhằm vào các nước phát triển theo con đường xã hội chủ
nghĩa?
Thêm nữa, cần nhớ là, trước đây, khi đấu tranh chống hai khuynh hướng thoát
ly chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân châu Âu (chủ nghĩa xét lại và chủ
nghĩa vô chính phủ), V.I.Lênin, một mặt, nhấn mạnh rằng, chủ nghĩa tư bản tự nó tạo
ra người đào huyệt chôn nó, tự nó tạo ra những nhân tố của một chế độ mới; mặt
khác, ông cảnh tỉnh những người cộng sản: “nếu không có một “bước nhảy vọt”, thì
những nhân tố riêng lẻ đó không làm thay đổi được một tí gì trong tình hình chung
của sự vật, không đụng chạm gì đến nền thống trị của tư bản” 19. “Bước nhảy vọt” đó
không thể là cái gì khác hơn sự bùng nổ và thắng lợi của cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa.
Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy giai cấp phong kiến không tự nguyện dâng
ngai vàng của nó bằng hai tay cho giai cấp tư sản, mặc dù vào giai đoạn cuối của chế
19

V.I.Lênin. Toàn tập., t.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr. 78.


17

độ phong kiến, giai cấp phong kiến đã suy tàn. Khi đó, giai cấp tư sản với tất cả sức
mạnh vật chất và tinh thần của nó đã phủ định giai cấp phong kiến và chủ nghĩa tư

bản là kết quả trực tiếp của cách mạng tư sản. Bởi vậy, sẽ là ảo tưởng, hão huyền nếu
nghĩ rằng giai cấp tư sản sẽ tự từ bỏ quyền lợi giai cấp của mình. Tính tất yếu của
cách mạng vô sản trong bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là lôgíc
phát triển tự thân của lịch sử được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác rút ra từ
chính sự vận động của lịch sử, chứ không phải là một “nguyện vọng chủ quan”. Và do
đó, dù người ta thừa nhận hay cố tình tìm cách phủ nhận, lịch sử vẫn tiếp tục vận
động theo những quy luật không thể đảo ngược. Mặc dù có nhiều biến động và thay
đổi nhanh chóng, song thời đại hiện nay vẫn là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là cả một quá
trình cải biến cách mạng lâu dài và không ít khó khăn, trong đó không loại trừ những
bước thụt lùi, dích dắc của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội, như khẳng định của C.Mác và
Ph.Ăngghen, không phải là một khuôn mẫu đúc sẵn, mà là một phong trào hiện thực.
Điều đó đòi hỏi giai cấp vô sản phải luôn tỉnh táo và ý thức rõ ràng về sứ mệnh lịch sử
của mình. Và, trong cuộc đấu tranh để cải biến xã hội, giai cấp vô sản không được
giáo điều, mà phải sáng tạo; đổi mới sách lược, hình thức và phương pháp đấu tranh
nhưng không xa rời những yêu cầu có tính nguyên tắc.
Bản chất của chủ nghĩa tư bản, của giai cấp tư sản là luôn tìm đủ mọi phương
kế, kể cả những cách phi nhân tính nhất; thậm chí sẵn sàng “chui vào giá treo cổ” để
có được lợi nhuận tối đa. Với bản chất cố hữu ấy, nó không bao giờ tự nguyện rời bỏ
vũ đài chính trị, hy sinh quyền lợi giai cấp của mình. Đó là điều mà các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác căn dặn giai cấp vô sản cần ghi nhớ để thực hiện trọng trách do
lịch sử trao cho. Lịch sử luôn vận động, phát triển theo các quy luật khách quan, theo
lôgíc tự thân của mình. Với mọi toan tính nào đó, những thế lực đi ngược lại với lợi
ích của quảng đại quần chúng nhân dân có thể làm chậm bước tiến, nhưng không bao
giờ có thể đảo ngược được quy luật vận động và phát triển của lịch sử. Nói cách khác,
cuộc cách mạng vô sản do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành luôn là


18


một tất yếu để thực hiện bước chuyển lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới. Theo đó, những tư tưởng vượt thời đại của C.Mác và
Ph.Ăngghen về cách mạng vô sản trong Hệ tư tưởng Đức vẫn còn nguyên giá trị lý
luận và ý nghĩa thực tiễn đối với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản và quần chúng
nhân dân lao động hiện nay vì một xã hội tốt đẹp, nhân đạo hơn.
Hiện nay, toàn cầu hoá, mà cốt lõi là toàn cầu hoá kinh tế, đã trở thành một xu
thế khách quan, tất yếu của thời đại. Toàn cầu hoá, xét về bản chất, là quá trình tăng
lên mạnh mẽ những mối liên hệ, sự ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, phụ thuộc lẫn nhau
của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới, hay nói như
C.Mác, đó là quá trình lịch sử biến thành lịch sử thế giới, quá trình phát triển phổ biến
của lực lượng sản xuất và của sự giao tiếp có tính chất thế giới.
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu của sự phát triển nền kinh tế thế giới, bắt nguồn
từ nguyên nhân sâu xa là sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc của lực lượng sản xuất thông
qua các cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và cách mạng thông tin. Tuy nhiên, như
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức, lực lượng sản xuất và các hình
thức giao tiếp đã phát triển tới mức dưới sự thống trị của chế độ tư hữu, chúng trở thành
lực lượng phá hoại. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, những nghịch lý của sự phát
triển đã xuất hiện ngày càng nhiều, càng sâu sắc hơn.
Những mâu thuẫn vốn có của chế độ tư bản chủ nghĩa sẽ ngày càng sâu sắc
hơn, nghiêm trọng hơn trong thời đại toàn cầu hoá. Chúng không thể được giải quyết
bằng đấu tranh kinh tế, hoặc đấu tranh xã hội nữa mà phải dùng những biện pháp đấu
tranh chính trị, lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, đặc biệt là tầng lớp tư bản tài
chính, xoá bỏ tận gốc nguyên nhân tạo nên tình trạng đầy nghịch lý của toàn cầu hoá,
đúng như C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra trong Hệ tư tưởng Đức cách đây hơn 160
năm: xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, xoá bỏ
chế độ tư bản chủ nghĩa. Lúc đó, chúng ta sẽ có một toàn cầu hoá như mong đợi, một
toàn cầu hoá đi cùng với trật tự thế giới mới, công bằng, bền vững; một toàn cầu hoá


19


biến các tiềm lực lợi ích khổng lồ cho nhân loại trở thành hiện thực. Đó chính là chủ
nghĩa cộng sản hiện thực.
Đối với Việt Nam hiện nay công cuộc đổi mới diễn ra trong bối cảnh quốc tế có
nhiều biến đổi lớn, cuộc khủng khoảng kinh tế thế giới gây trở lực lớn đến quá trình
phát triển đất nước. Các thế lực thù địch, phản động đang điên cuồng chống phá.
Đảng Cộng sản Việt Nam xác định, đổi mới dựa trên lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không đổi màu, vẫn kiên trì mục tiêu, lý tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới vẫn giữ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát
huy nội lực kết hợp với sức mạnh của thời đại. Đổi mới kinh tế là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt, phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Đổi mới ở Việt
Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, tổ chức thực hiện. Đổi
mới ở Việt Nam là quá trình kết hợp biện chứng giữa đổi mới tư duy lý luận và chỉ
đạo hoạt động thực tiễn; là sự thống nhất hai chiều “dưới lên” và “trên xuống”; là sự
gặp gỡ giữa ý Đảng lòng dân. Điểm nổi bật của công cuộc đổi mới ở Việt Nam là luôn
lấy sự ổn định chính trị - xã hội làm tiền đề, làm điều kiện tiên quyết cho sự nghiệp
đổi mới phát triển và chính sự phát triển đã tạo ra sự ổn định mới ở cấp độ cao hơn.
Tiếp tục quán triệt chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng
con đường cách mạng Việt Nam trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đại hội X của
Đảng khẳng định: toàn Đảng, toàn dân tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, đổi
mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ phát triển nhanh, bền vững thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết khoa học và cách mạng, nó trang bị cho
chúng ta thế giới quan phương pháp luận tiến bộ, vì thế đây là vấn đề luôn luôn mới và
việc nhận thức nó không ngừng phải nâng lên ở những tầng bản chất và cao hơn. Thực
tiễn sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam đã chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin không thể
thiếu được và bao giờ nó cũng là ánh sáng soi đường, là nhân tố quyết định bảo đảm



20

thắng lợi cuối cùng. Có thể nói, nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh thì không có con đường giải phóng dân tộc, không có con đường cách mạng đúng
đắn của Việt Nam. Điều đó đặt ra cho những người cộng sản chân chính Việt Nam nhiệm
vụ không ngừng học tập, nghiên cứu để nắm vững, vận dụng, bảo vệ và phát triển tích
cực chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay.
Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là học viên cao học - học viện Chính trị không
những phải biết tự giáo dục, tự rèn luyện mình mà còn phải là một chiến sĩ tuyên
truyền, một nhà giáo dục; không những chỉ là người đầy tớ thật trung thành mà còn
phải là người lãnh đạo, người thày dẫn dắt quần chúng và cấp dưới; phải noi gương
tiền thân “Thầm lặng mà suy nghĩ. Học không biết chán. Dạy không biết mỏi”...
Tóm lại, Hệ tư tưởng Đức” là một trong những tác phẩm kinh điển xuất sắc của
chủ nghĩa Mác, là tác phẩm triết học rất quan trọng của C.Mác và Ph.Ăngghen viết
trong thời kỳ chủ nghĩa Mác đang được hình thành. Với sự ra đời của tác phẩm này, lần
đầu tiên quan niệm duy vật về lịch sử của C. Mác và Ph.Ăngghen được trình bày một
cách có hệ thống, nó chính là cơ sở lý luận quan trọng cho sự hình thành chủ nghĩa Mác
nói chung và triết học Mác nói riêng. Cũng nhờ đó, lần đầu tiên trong lịch sử triết học,
chủ nghĩa duy tâm đã bị “tống ra khỏi” lĩnh vực xã hội.
Hệ tư tưởng Đức ra đời nhằm mục đích chuẩn bị cơ sở lý luận, thế giới quan,
phương pháp luận mới để tiếp thu một học thuyết kinh tế mới, như C.Mác đã viết về
trình tự xuất bản những tác phẩm dự kiến của mình trong thời gian đó:
Với việc đề xuất một thế giới quan mới, C.Mác và Ph.Ăngghen đã bước đầu đặt
cơ sở lý luận cho chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Mặc dù được viết cách đây hơn 160 năm, song những tư tưởng cơ bản trong tác
phẩm vẫn đúng, vẫn giữ nguyên giá trị. Hiện nay nó vẫn là cơ sở lý luận, phương pháp
luận khoa học cho hoạt động của các đảng cộng sản trong lãnh đạo cách mạng.
Nghiên cứu tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” không những cho chúng ta thấy sự ra
đời của triết học Mác thực sự là cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học, mà còn cung



21

cấp cho mỗi người cơ sở lý luận để hình thành thế giới quan duy vật mác-xít và
phương pháp luận khoa học trong nhận thức và hoạt động thực tiễn./.



×