Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở việt nam hiện nay (tóm tăt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (357.61 KB, 27 trang )

HC VIN CHNH TR QUC GIA H CH MINH

CAO TH H

nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức ở việt nam hiện nay

TểM TT LUN N TIN S
CHUYấN NGNH: CH NGHA DUY VT BIN CHNG
V CH NGHA DUY VT LCH S
Mó s: 62 22 03 02

H NI - 2017


Công trình được hoàn thành
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: 1. GS.TS TRẦN THÀNH
2. TS. MAI THỊ THANH

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi giờ



ngày tháng

năm 2017

Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia
và Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể
đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện
thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những đề xuất cụ thể, sắc bén, sáng tạo,
thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người. Sự phát triển của năng lực tư duy lý luận là kết
quả tổng hợp của sự tương tác giữa nhiều nhân tố. Trong đó, mỗi nhân tố
giữ vị trí không ngang bằng nhau, song chúng đều góp phần quy định sự
tồn tại, phát triển của năng lực tư duy lý luận.
Năng lực tư duy lý luận có vai trò quan trọng trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn, đặc biệt là đối với đội ngũ giảng viên; là vũ khí sắc bén
trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên.
Năng lực ấy thể hiện ở khả năng nắm bắt bản chất, linh hồn của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách pháp luật của nhà nước trong mối quan hệ với nhiệm vụ của họ,
khả năng nắm bắt thực tiễn và xác định phương hướng, giải pháp tối ưu để
giải quyết các vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, trong thực thi nhiệm vụ.
Thực tiễn cho thấy, năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên là giá trị

định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của họ. Cùng với
việc nắm vững lý luận cách mạng, đội ngũ giảng viên còn phải biết vận
dụng, cụ thể hoá hệ thống lý luận đó trong các bài giảng của mình cho có
chất lượng.
Trong những năm qua, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã đạt
được những kết quả đáng khích lệ: việc vận dụng linh hồn của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước vào bài giảng đã thường xuyên thực hiện. Tuy
nhiên, giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức được
tuyển dụng với các chuyên ngành đào tạo khác nhau, số lượng giảng viên
chưa qua đào tạo về lý luận chính trị còn nhiều. Do đó, trong các bài giảng
của giảng viên của đội ngũ này cũng còn một số hạn chế: Đó là bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, chủ quan, kinh nghiệm thực tiễn... Với vị trí
đặc thù là giảng viên trong các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức, đối tượng học viên là những người đã làm việc trong các cơ quan
nhà nước, đã có nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Do vậy, để đáp ứng chất


2

lượng giảng dạy thì đỏi hỏi đội ngũ giảng viên cần phải có trình độ và
năng lực tư duy lý luận nhất định mới hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Vì vậy, việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên
các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là vấn đề hết sức cần
thiết. Việc nghiên cứu đề tài: "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay" không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận, còn có ý nghĩa thực tiễn
hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ năng lực tư duy lý luận và
phân tích thực trạng nâng cao nâng cao năng lực tư duy lý luận đối với đội
ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, từ đó đề
xuất các giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
này ở nước ta hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Tổng quan tình hình nghiên cứu về năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt
Nam hiện nay.
+ Làm rõ cơ sở lý luận về nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội
ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
+ Điều tra, khảo sát, đánh giá thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong
thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án chỉ đi vào nghiên cứu về nâng cao
năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án chỉ tập trung khảo sát năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ giảng viên tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng: Học viện Hành
chính Quốc gia; Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Trường Đào
tạo cán bộ Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội từ năm 2012 đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng,



3

chính sách, pháp luật của nhà nước, của ngành và các tài liệu khoa học có
liên quan đến vấn đề nghiên cứu để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng phương pháp của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra còn sử
dụng một số các phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: Phương pháp
điều tra xã hội học, thống kê, so sánh, thu thập và xử lý thông tin.
5. Những đóng góp về khoa học của luận án
Luận án góp phần làm rõ quan niệm về năng lực tư duy lý luận và
nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên các trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức; đặc điểm, vai trò và nội dung đánh giá năng lực
tư duy lý luận cho giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; phân tích, đánh giá thực trạng về năng lực tư duy lý luận của giảng
viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn từ 20122016, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy
lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Kết quả nghiên cứu có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc xây
dựng, hoạch định chiến lược, kế hoạch xây dựng đội ngũ giảng viên các
trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay và tiếp theo.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI
ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN


Ở Việt Nam, vấn đề về tư duy, tư duy lý luận và vai trò của tư duy lý
luận nói chung và đối với đội ngũ cán bộ, giảng viên nói riêng đã được nhiều
lãnh đạo Đảng, Nhà nước, quân đội và các ngành khoa học, các nhà khoa học
quan tâm nghiên cứu; đặc biệt từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đến
nay. Nhiều công trình khoa học, tạp chí, luận án, kỷ yếu hội thảo khoa học
lĩnh vực này đã được công bố, xuất bản thành sách. Điển hình trong đó là các
cuốn sách, công trình khoa học:"Đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội
qua thực tiễn Việt Nam" của Nguyễn Đức Tài; "Vai trò của triết học Mác-


4

Lênin trong đổi mới tư duy lý luận ở Việt Nam hiện nay" của Lê Văn Quang;
"Đổi mới tư duy lý luận - khâu đột phá trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ta"
của Trần Sỹ Phán; “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986
đến nay” của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh; "Vai trò của tư duy
lý luận đối với việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên trẻ" của Vũ Văn
Ban; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy lý luận Mác Lênin ở các trường Chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình Trãi...
1.2. NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO CÁN BỘ,
GIẢNG VIÊN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Tiêu biểu các công trình nghiên cứu như: "Phát triển năng lực tư duy
lý luận của cán bộ chính trị cấp trung đoàn Quân đội nhân dân Việt Nam
hiện nay" của Nguyễn Văn Dũng; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận của
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ở đồng bằng Bắc Bộ hiện nay" của
Dương Minh Đức; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng
dạy lý luận Mác - Lê nin ở các trường Chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình
Trãi; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp
huyện ở nước ta hiện nay" của Nguyễn Đức Quyền; "Nâng cao năng lực tư
duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp huyện người dân tộc

thiểu số Tây Nguyên" của Nguyễn Văn Lý; "Nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện ở tỉnh Lạng Sơn hiện nay" của
Nguyễn Đức Quyền; "Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và tiếp cận
thực tế của giảng viên: cách tiếp cận và giải pháp" của Nguyễn Xuân
Minh; "Nâng cao tri thức chính trị của đội ngũ giảng viên ở Trường Chính
trị tỉnh Nghệ An" của Trần Duy Rô Nin; "Nâng cao năng lực tư duy lý
luận của giảng viên trẻ trong các Học viện, Trường sĩ quan Quân đội nhân
dân Việt Nam" của Vũ Văn Ban; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
giảng viên lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay - Một vài khuyến nghị"
của nhiều tác giả; "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
người dân tộc thiểu số ở tỉnh Tuyên Quang hiện nay" của Ma Phúc Dự...
1.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA
CÁN BỘ, GIẢNG VIÊN

Các công trình như: "Giải pháp nâng cao năng lực tư duy biện
chứng, chống bệnh giáo điều, bệnh kinh nghiệm và chủ quan duy ý chí"
của Trần Văn Phòng; "Nghiên cứu các giải pháp xây dựng đội ngũ giảng
viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ mới" của Nguyễn Tiến Đạo; "Phát triển đội ngũ giảng
viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu,
nhiệm vụ mới nhân lực ngành Nội vụ" của Vũ Thanh Xuân...


5
1.4. KHÁI QUÁT KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CÓ
LIÊN QUAN VÀ NHỮNG HƯỚNG CHÍNH LUẬN ÁN CẦN TIẾP TỤC
NGHIÊN CỨU

1.4.1. Khái quát chung
Bước đầu tác giả luận án khái quát chung về những thành tựu cơ

bản của các công trình khoa học trên như sau: Một là, dù tiếp cận dưới
góc độ lý luận hay thực tiễn, các công trình khoa học trên đã nghiên cứu,
phản ánh nhiều góc độ khác nhau một cách khá toàn diện về tư duy lý
luận, năng lực tư duy lý luận; Hai là, đã phân tích vai trò, nguyên tắc
của việc đổi mới, nâng cao tư duy lý luận; đặc biệt là đối với cán bộ lãnh
đạo chủ chốt cấp huyện, cấp tỉnh và hoạt động giảng dạy của giảng viên
lý luận chính trị; Ba là, trên cơ sở nhận thức sâu sắc vai trò của tư duy lý
luận, một số công trình khoa học đã luận giải rõ quan niệm, vai trò, công
tác xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên của các cơ sở đào tạo; Bốn
là, phần lớn các công trình đã nghiên cứu, đánh giá về thực trạng năng
lực tư duy lý luận đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, cấp tỉnh; Năm là,
tùy vào cách tiếp cận khác nhau, tác giả của những công trình đã nêu
phương hướng và bàn về những điều kiện cơ bản hình thành, phát triển
năng lực tư duy lý luận, quan điểm và định hướng của Đảng, Nhà nước
về đổi mới năng lực tư duy lý luận ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế, chỉ rõ những thuận lợi, khó khăn trong đổi mới, nâng cao năng
lực tư duy lý luận ở Việt Nam.
1.4.2. Những định hướng chính cần tiếp tục nghiên cứu
Kế thừa những giá trị lý luận, thực tiễn và kết quả các công trình
nghiên cứu của các tác giả, các nhà khoa học, tác giả luận án tiếp tục làm
sâu sắc những vấn đề sau: Thứ nhất, trình bày khái quát cơ sở lý luận về
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho ngũ giảng viên các trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức; Thứ hai, điều tra, khảo sát, đánh giá thực
trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thuộc Bộ hiện nay; Thứ ba, đề xuất
các giải pháp nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng
viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức trong thời gian tới.


6


Chương 2
NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN
2.1. NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN - KHÁI NIỆM VÀ CÁC ĐẶC
TRƯNG CƠ BẢN

2.1.1. Thực chất tư duy lý luận, năng lực tư duy lý luận
Tư duy lý luận là tư duy ở cấp độ nhận thức cao nhất của con người,
có vai trò quan trọng trong nhận thức và trong chỉ đạo hoạt động thực tiễn
của con người; được thực hiện dựa trên nguyên tắc phương pháp luận biện
chứng duy vật và các thao tác tư duy lôgic để nắm bắt các mối liên hệ
mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động nội tại tiềm ẩn trong
khách thể nhận thức, từ đó có thể tạo ra những mô hình lý luận phù hợp
với hiện thực khách quan chỉ đạo thực tiễn ngày càng có hiệu quả.
Năng lực tư duy lý luận là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể
đáp ứng yêu cầu phát hiện, nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn đối với hiện
thực ở trình độ lý luận, nhờ vậy có những đề xuất cụ thể, sắc bén,sáng tạo,
thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người.
2.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tư duy lý luận
- Các nhân tố thuộc về tư chất của chủ thể tư duy
- Quá trình đào tạo và tự đào tạo, rèn luyện
- Môi trường kinh tế - xã hội, chính trị xã hội
- Hoạt động thực tiễn
- Nhu cầu và lợi ích
- Các yếu tố của tồn tại xã hội
2.2. VAI TRÒ VÀ NỘI DUNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ
LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG

CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.2.1. Đặc trưng của đội ngũ giảng viên trong các trường Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức
2.2.1.1. Thực chất của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Theo tác giả, có thể hiểu đào tạo, bồi dưỡng theo hai cách: Một là,
Đào tạo, bồi dưỡng vừa thực hiện những nhiệm vụ của giáo dục quốc dân tổ chức đào tạo các trình độ trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học;
vừa tổ chức cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc


7

cho cán bộ, công chức; Hai là, đào tạo, bồi dưỡng là một thuật ngữ không
tách rời, là hoạt động thường xuyên của các cơ quan, đơn vị quản lý và sử
dụng cán bộ, công chức nhằm cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng,
phương pháp làm việc...cho cán bộ, công chức.
2.2.1.2. Cơ cấu, tiêu chuẩn của đội ngũ giảng viên các trường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Về cơ cấu đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức. Theo Luật giáo dục Đại học: giảng viên trong cơ sở giáo dục
đại học là người có thân nhân rõ ràng; có phẩm chất đạo đức tốt; có sức
khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp; đạt trình độ về chuyên môn, nghiệp vụ
theo quy định. Trình độ chuẩn của giảng viên là: có bằng tốt nghiệp đại
học trở lên và có chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm đối với giảng
viên giảng dạy cao đẳng, đại học; có bằng thạc sỹ trở lên đối với giảng
viên giảng dạy chuyên đề, hướng dẫn luận văn thạc sỹ...
Về tiêu chuẩn đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng, được
quy định tại Thông tư liên tịch 06/2011/TTLT-BNV-BGDĐT ngày 06
tháng 6 năm 2011 của Bộ Nội vụ và Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2.2.1.3. Nhiệm vụ của đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Một là, nhiệm vụ giảng dạy.
Hai là, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học và công nghệ.
Ba là, nhiệm vụ tham gia công tác quản lý đào tạo, bồi dưỡng,
nghiên cứu khoa học, công tác đảng, đoàn thể và các hoạt động khác.
Bốn là, nhiệm vụ học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
2.2.2. Vai trò và nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ giảng viên trường các đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
2.2.2.1. Vai trò năng lực tư duy lý luận đối với hoạt động của đội
ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Một là: Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên các trường
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức không ngừng nâng cao trình độ lý
luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Hai là: Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên các trường
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức rèn luyện và không ngừng nâng cao
phương pháp đào tạo, bồi dưỡng.
Ba là: Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên các trường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học; hoàn thiện phẩm chất, nhân cách sư phạm.


8

Bốn là: Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên các trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tiếp thu và chuyển tải chương trình
đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng của đối tượng.
Năm là: Năng lực tư duy lý luận giúp đội ngũ giảng viên trường Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức học tập, rèn luyện nâng cao hơn nữa
phương pháp tư duy biện chứng duy vật.

2.2.2.2. Nội dung nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ
giảng viên trường các đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Một là, nâng cao trình độ tư duy lý luận và chuyên môn nghiệp vụ
cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Hai là, nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương pháp biện
chứng trong nhận thức và thực tiễn.
Ba là, nâng cao khả năng tiếp nhận và xử lý nhanh nhạy, chính xác
thông tin trong nước và trên thế giới.
Chương 3
NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CHO
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC

3.1.1. Thực trạng về phẩm chất tư duy lý luận
3.1.1.1. Về trình độ của giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức
Một là, về trình độ chuyên môn, học vấn của giảng viên.
Hai là, về trình độ lý luận chính trị của giảng viên.
3.1.1.2. Về kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức
Theo điều tra, khảo sát tại Học viện Hành chính Quốc gia, Trường
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Trường Đào tạo cán bộ
Lê Hồng Phong thành phố Hà Nội cho thấy các Trường có đội ngũ giảng
dạy tham gia giảng dạy lâu năm, có kinh nghiệm trong giảng dạy, gắn lý
luận với thực tiễn, cập nhật kịp thời thông tin kinh tế xã hội, thực tiễn của thế
giới, của đất nước, của địa phương, của các đối tượng học viên, qua đó làm
bài giảng sinh động, giàu sức thuyết phục. Các giảng viên đã tự liên hệ trong

bài giảng và giúp cho học viên thấy được sự thể hiện trong thực tế cuộc sống


9

hoặc gợi mở, đàm thoại với học viên, dẫn ra những thực tiễn của địa
phương, đất nước, từ đó khái quát làm sáng tỏ về mặt lý luận.
3.1.1.3. Về phẩm chất sáng tạo của giảng viên Trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức
Phần lớn giảng viên tại Học viện Hành chính Quốc Gia, Trường Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ, Trường Đào tạo cán bộ Lê
Hồng Phong thành phố Hà Nội trước khi thi tuyển, tuyển dụng đều là học
viên, sinh viên tốt nghiệp loại khá, giỏi, xuất sắc ở các cơ sở đào tạo hoặc
là những giảng viên dạy khá, giỏi có kinh nghiệm từ các cơ sở đào tạo
khác. Cơ bản tư chất trí tuệ và phẩm chất sáng tạo đã được rèn luyện, trau
dồi từ khi còn là sinh viên hay giảng viên ở các cơ sở đào tạo khác. Khi trở
thành giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức lại
được tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn. Tư chất trí tuệ và
phẩm chất sáng tạo của giảng viên được nâng lên theo năm tháng công tác,
giảng dạy, được thông qua việc chiếm lĩnh những đỉnh cao tri thức khoa
học, sự trưởng thành trong hoạt động thực tiễn sư phạm, nghiên cứu khoa
học và thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao.
3.1.2. Việc nâng cao khả năng vận dụng nhuần nhuyễn phương
pháp biện chứng trong nhận thức và thực tiễn
- Về kinh nghiệm giảng dạy của giảng viên
- Về phẩm chất sáng tạo của giảng viên
3.1.3. Việc nâng cao ý thức, thái độ phát triển nghề nghiệp, phát
triển bản thân của chính đội ngũ giảng viên
- Việc giảng viên tự mình đáp ứng các tiêu chuẩn cao của việc giảng dạy
- Việc thiết lập các mục tiêu, sự gắn bó chặt chẽ giữa các chương

trình, chuyên đề đào tạo, bồi dưỡng và việc học tập của cán bộ, công chức.
- Về khả năng nắm bắt, đánh giá và tổng kết thực tiễn
3.2. NGUYÊN NHÂN CỦA THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ
DUY LÝ LUẬN CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chiến lược phát
triển nguồn nhân lực với những thành tựu quan trọng đã tác động đến nhận
thức, tư duy vừa đặt ra những yêu cầu đổi mới về năng lực tư duy lý luận
của đội ngũ giảng viên nói chung và đội ngũ giảng viên Trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức nói riêng. Công tác cán bộ và đặc biệt là
công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên đã có nhiều đổi mới, góp
phần quan trọng nâng cao năng lực tư duy, kiến thức văn hóa, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ lý luận chính trị của đội ngũ giảng viên
Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Sự quan tâm chỉ đạo sâu


10

sát của các cấp ủy Đảng, chính quyền đang từng bước hoàn thiện cơ chế,
chính sách, cơ sở hạ tầng trong công tác Đào tạo, bồi dưỡng, đẩy mạnh
việc nâng cao trình độ tri thức, trí tuệ, trình độ lý luận cho đội ngũ giảng
viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, tạo những điều
kiện tốt nhất cho đội ngũ giảng được phát triển năng lực của mình. Đại
bộ phận giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã có
sự nỗ lực, cố gắng trong học tập, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất đạo
đức, say mê nghề nghiệp, nêu cao tinh thần trách nhiệm vì học viên, tinh
thần phục vụ nhân dân...
3.2.1. Hạn chế, nguyên nhân về nguồn tuyển chọn và hoạt động
đào tạo, đào tạo lại cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi

dưỡng cán bộ, công chức
3.2.1.1. Về nguồn tuyển chọn giảng viên
Công tác tuyển chọn hay tuyển dụng là khâu đầu tiên có tính quyết
định đến chất lượng nguồn nhân lực của một cơ quan, tổ chức. Việc tuyển
chọn, tuyển dụng giảng viên của các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức trong thời gian qua còn khá nhiều bất cập, phương thức tuyển
dụng chủ yếu được thực hiện bằng hình thức xét tuyển và chuyển công tác,
một số trường do công tác tuyển dụng đội ngũ giảng viên chuyên ngành
đào tạo còn chưa phù hợp với yêu cầu. Một số trường tuyển dụng giảng
viên là sinh viên mới tốt nghiệp các trường đại học được nhận về làm hợp
đồng từ 5 đến 10 năm, sau đó tổ chức xét tuyển hoặc thi tuyển vào vị trí
giảng viên. Tuyển dụng giảng viên mới tốt nghiệp đại học có cả ưu điểm
và hạn chế song hành. Ưu điểm là có thể đáp ứng được sự kế thừa về thế
hệ giáo viên, tránh hụt hẫng, phát huy được tính năng động, nhiệt tình,
sáng tạo, nhạy bén của sức trẻ. Hạn chế có thể dễ dàng nhận thấy ở đội ngũ
giảng viên trẻ đó là thiếu các kiến thức chuyên ngành và kinh nghiệm thực
tiễn, về trình độ lý luận chính trị thì hầu hết giảng viên trẻ chưa được qua
những lớp đào tạo, bồi dưỡng, có chăng chỉ được xét tương đương trung
cấp lý luận chính trị đối với những chuyên ngành đại học đặc thù theo quy
định chứ chưa được cấp bằng. Nhưng nếu tiếp nhận giảng viên chuyển
công tác từ nơi khác về thì có thể bắt tay ngay vào công việc vì họ đã có
kinh nghiệm thực tiễn, lập trường tư tưởng vững vàng, tuy nhiên, cũng
phải mất thời gian để làm quen với môi trường công tác mới, một cản trở
nữa với đội ngũ này là do tuổi tác, hoặc chuyên ngành đào tạo chưa phù
hợp với yêu cầu của nhà trường.
3.2.1.2. Hoạt động đào tạo và đào tạo lại
Nhà trường, đặc biệt là Ban Giám hiệu (Ban Giám đốc) trường Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thường xuyên quan tâm chú trọng đầu



11

tư cho hoạt động đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giảng viên. Đã có các chế
độ, chính sách hỗ trợ và động viên giảng viên trong trường đẩy mạnh việc
nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn, học vấn, nghiệp
vụ sư phạm, quản lý nhà nước, ngoại ngữ, tin học và đặc biệt là các kỹ
năng, phương pháp nghiên cứu khoa học... Nhiều trường đã thành lập
được Quỹ khuyến học, có những quy định khá rõ ràng cụ thể về đối
tượng, tiêu chuẩn, chế độ được hưởng. Từ đó đã nâng cao được ý thức tự
giác chủ động học tập nâng cao năng lực tư duy lý luận của từng giảng
viên trong trường. Các trường cũng chú trọng xây dựng được tiến trình
đào tạo và đào tạo lại, có kế hoạch thực hiện cụ thể cho các chương trình,
từ đó giúp hoàn thiện được công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng
viên của nhà trường.
3.2.2. Nguyên nhân về môi trường
Chế độ, chính sách đối với giảng viên là một trong những yếu tố
quyết định đến tạo môi trường kích thích đội ngũ giảng viên nâng cao
năng lực tư duy lý luận, nó sẽ tạo điều kiện để thu hút giảng viên nhất là
giảng viên có trình độ và kinh nghiệm giảng dạy. Để thu hút được những
giảng viên dạy giỏi, có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm thực
tiễn và kinh nghiệm giảng dạy đòi hỏi phải có cơ chế, chính sách hấp
dẫn của các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
3.2.3. Nguyên nhân về ý thức tự giác nâng cao và phẩm chất sáng
tạo của bản thân đội ngũ giảng viên
Ý thức tự giác nâng cao của bản thân đội ngũ cán bộ, giảng viên là
biện pháp quan trọng hơn cả bởi thuộc về chủ quan của đội ngũ giảng viên.
Chỉ khi bản thân đội ngũ giảng viên có ý thức phát triển nghề nghiệp, hoàn
thiện nhân cách và xác định được mục tiêu trong công việc thì lúc đó các
biện pháp khác mới phát huy được hiệu quả, quá trình nâng cao chất lượng
của chính họ mới đạt mục tiêu như mong muốn. Ý thức phát triển nghề

nghiệp không chỉ dừng lại ở việc trau dồi chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực
nghề nghiệp mà cần mở rộng cả ở việc lập kế hoạch tự học tập, học tập
suốt đời, chủ động trong công tác nghiên cứu khoa học. Đội ngũ giảng
viên cần chủ động tham gia học tập, trau dồi, bồi dưỡng các kỹ năng mềm:
công nghệ thông tin, ngoại ngữ, làm việc nhóm... Đặc biệt, trong bối cảnh
hội nhập sâu rộng như ngày nay, ngoại ngữ và tin học có vai trò quan trọng
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập, nghiên cứu. Giảng
viên cần nâng cao trình độ ngoại ngữ để có thể tiếp cận với các nguồn tài
liệu phong phú trên thế giới, tự học tập và nghiên cứu, tham gia nhiều loại
hình đào tạo, (đào tạo - học tập trực tuyến, tích hợp phương tiện truyền
thông, năng động, sáng tạo).


12

Chương 4
GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN
CHO ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI
DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1. NHÓM GIẢI PHÁP TUYỂN CHỌN, ĐÀO TẠO, ĐÀO TẠO LẠI ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC

4.1.1. Giải pháp tuyển chọn đội ngũ giảng viên các trường đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Thực tế hiện nay, giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức có những điểm khác biệt bởi đối tượng người học phần lớn đã
có kinh nghiệm công tác chuyện môn hoặc đang là cán bộ lãnh đạo, quản
lý. Vì vậy, các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần xây dựng
chiến lược phát triển về nguồn giảng viên:
Một là, giảng viên được tuyển dụng (tuyển chọn) từ giảng viên có

học hàm, học vị: thạc sỹ, tiến sỹ, phó giáo sư, giáo sư đang giảng dạy,
nghiên cứu các chuyên ngành sư phạm, kỹ thuật, kinh tế, tâm lý học, triết
học, giáo dục học, văn hóa... ở các học viện, các trường đại học, cao đẳng.
Hai là, giảng viên được tuyển chọn từ những từ các nhà quản lý giáo
dục thực đã và đang được đào tạo thạc sỹ, tiến sỹ chuyên ngành trong và nước
ngoài. Những cán bộ, công chức có trình độ thạc sỹ, tiến sỹ đang công tác
trong ngành.
Ba là, giảng viên được mời từ những nhà lãnh đạo, chuyên gia có kinh
nghiệm đã và đang công tác trong các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội.
Năm là, giảng viên ở các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức các tỉnh, thành phố... trực tiếp đảm nhiệm việc trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Việc tuyển dụng đi đôi cam kết tạo điều kiện
cho giảng viên được đi đào tạo sau đại học.
Sáu là, có chính sách ký hợp đồng sau khi nghỉ hưu với các giảng
viên học hàm, học vị giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ, giảng viên cao cấp
4.1.2. Giải pháp đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên các
trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Nâng cao năng lực tư duy biện chứng, lý luận chính trị giúp cho
giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có khả năng nhận
thức sâu sắc và giải quyết thành công những vấn đề của thực tiễn đặt ra. Vì
vậy, tăng cường học tập, trau rồi phương pháp tư duy biện chứng duy vật
là một trong những giải pháp cơ bản và quan trọng nhất để nâng cao năng
lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức. Trong quá trình đào tạo đại học, người giảng viên


13

(không thuộc chuyên ngành khoa học Mác - Lênin) được học lịch sử triết
học rất sơ sài, nếu giảng viên được cử đi học trung cấp lý luận và cao cấp

lý luận chính trị thì trong chương trình đó cũng không có môn học lịch sử
triết. Thực tế cho thấy, nếu con người biết học tập những kinh nghiệm lịch
sử thì hoạt động lý luận cũng như thực tiễn sẽ tránh được những vòng vo
không cần thiết. Nghiên cứu lịch sử triết học cũng chính là nghiên cứu lịch
sử phát triển của tư duy, sẽ giúp con người học tập, rèn luyện và trau rồi
phương pháp tư duy khoa học, qua đây phát triển năng lực và trình độ của
người giảng viên. Qua nghiên cứu, giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức có thể vận dụng sáng tạo vào những môn học mình
được phân công giảng dạy một cách linh hoạt, mềm dẻo và phù hợp.
Việc nắm vững những tri thức khoa học là cơ sở quan trọng để rèn luyện
phương pháp tư duy biện chứng nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Thông qua quá trình giảng dạy và học tập, giảng viên Trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức sẽ có điều kiện tốt nhất để tiếp thu hệ
thống tri thức triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Những tri
thức lý luận này nếu được giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức nắm vững và vận dụng nhuần nhuyễn trong nhận thức và
hoạt động thực tiễn sẽ góp phần quan trọng đặc biệt vào việc phát triển
năng lực tư duy lý luận.
Nâng cao năng lực tư duy biện chứng thông qua việc học tập để nắm
được bản chất của phương pháp tư duy biện chứng thì bên cạnh việc trang
bị những kiến thức cơ bản về văn hóa xã hội nói chung thì thường xuyên
học tập, nghiên cứu các môn học Mác - Lênin, các môn khoa học khác có
liên quan như lôgíc học, tâm lý học.. là một điều kiện để qua đó giúp giảng
viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nâng cao năng lực
tư duy lý luận. Để thực sự có được phương pháp tư duy biện chứng duy
vật thì người giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cũng cần đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu tổng kết thực tiễn. Tổng
kết thực tiễn là phương thức cơ bản gắn lý luận với thực tiễn, gắn hoạt
động nhận thức, tư duy với hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội. Căn
cứ để phát triển lý luận chính là thực tiễn. Lý luận bám rễ trong thực tiễn

và chỉ có thường xuyên tổng kết thực tiễn thì mới phát hiện và khái quát
thành lý luận. Chúng ta chỉ đạo tổng kết thực tiễn bằng tư duy lý luận khoa
học và thông qua tổng kết thực tiễn khái quát lý luận mà nâng cao hơn nữa
năng lực và trình độ tư duy lý luận. Tổng kết thực tiễn là quá trình vận
dụng tư duy lý luận để phân tích, đánh giá thực tiễn, khái quát lý luận để
chỉ đạo thực tiễn. Tổng kết thực tiễn không phải là việc làm đơn giản,
không phải là sự liệt kê các sự kiện riêng lẻ để đưa ra những nhận xét và


14

đánh giá chủ quan, tùy tiện. Tổng kết thực tiễn phải xuất phát từ một
phương pháp tư duy biện chứng, nhìn nhận sự vật theo một quan điểm toàn
diện: vừa thấy mặt này nhưng không bỏ qua mặt kia, vừa phân tích mặt
chủ yếu nhưng không thể bỏ qua mặt thứ yếu của sự biến đổi.
Thực tiễn cần lý luận để soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo định hướng cho
mọi hoạt động, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực
tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh chủ
quan, duy ý chí. Thực tiễn luôn phát triển không ngừng đòi hỏi lý luận
cũng phải biến đổi, phát triển để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đặt
ra. Thông qua hoạt động thực tiễn sẽ cho phép giảng viên Trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức có cái nhìn biện chứng, khoa học hơn, tạo
nên niềm tin, củng cố, trau rồi, rèn luyện và phát triển năng lực tư duy lý
luận của giảng viên. Tổng kết thực tiễn giúp giảng viên phát hiện những
vấn đề, những mâu thuẫn nảy sinh trong thực tiễn và thông qua đó vận
dụng sáng tạo, góp phần bổ sung và phát triển lý luận.
Nếu như quá trình học tập ở trường có vai trò hết sức quan trọng đối với
việc hình thành phương pháp tư duy thì nghiên cứu thực tiễn tại các cơ quan
nhà nước, tại địa phương trong và ngoài nước… lại có ý nghĩa quyết định đối
với việc tu dưỡng, rèn luyện phương pháp tư duy của giảng viên, điều ấy tạo

điều kiện gắn bó giữa lý luận với thực tiễn, tạo cầu nối giữa lý luận và thực
tiễn. Điều này có tác dụng tích cực, trực tiếp nâng cao nâng cao năng lực tư
duy lý luận và tư duy thực tiễn của giảng viên. Sở dĩ như vậy là vì phương
pháp tư duy dù có khoa học đến đâu thì tự nó cũng không quyết định được
nội dung, kết quả của tư duy. Được học tập, trang bị phương pháp tư duy
khoa học là một chuyện, nhưng mỗi người có biến nó thành phương pháp
nhận thức, phương pháp tư duy của mình hay không lại là chuyện khác. Trên
thực tế, cùng những người học tập, được trang bị một phương pháp tư duy
như nhau, nhưng khả năng nhận thức, kết quả tư duy lại rất khác nhau. Điều
ấy chứng tỏ, ngoài việc được học tập, nghiên cứu về phương pháp tư duy
khoa học, năng lực và trình độ tư duy lý luận của con người còn phụ thuộc
vào đặc tính bẩm sinh (dù chỉ là một phần nhỏ) và quá trình tu dưỡng, rèn
luyện của mỗi con người (có vai trò quyết định). Chính tổng kết thực tiễn là
một trong những cách thức, biện pháp rèn luyện phương pháp tư duy rất tốt,
qua đó giúp nâng cao năng lực tư duy biện chứng và năng lực tư duy lý luận
cho người giảng viên các Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
4.1.3. Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Với tư cách là nhà giáo dục, giảng viên nói chung và giảng viên các
trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải có phương pháp sư


15

phạm tốt, năng lực và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của giảng viên cũng
được thể hiện đậm nét ở phương pháp sư phạm. Nó đòi hỏi sự thống nhất
hài hòa, kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và khả năng diễn đạt tư
tưởng, hay nói đơn giản là sự thống nhất giữa ý nghĩ và lời nói. Tất nhiên,
giữa tư duy và ngôn ngữ thể hiện, trong mỗi con người bình thường, cơ
bản là thống nhất, đồng nhất, nhưng không phải là không có sự khác biệt,

độ "lệch pha" nhất định, thậm chí là mâu thuẫn với nhau. Trên thực tế,
không ít người có năng lực tư duy trừu tượng, có khả năng nghiên cứu
khoa học, nhưng lại không có khả năng diễn đạt tư tưởng bằng lời nói một
cách rõ ràng, không có khả năng thuyết phục người khác, không có năng
khiếu sư phạm. Ngược lại, có những người có tài diễn thuyết, nói năng
hoạt bát và bay bướm, nhưng năng lực tư duy khoa học rất hạn chế. Mặt
khác, nghề sư phạm không chỉ đòi hỏi người giảng viên phải diễn đạt một
cách rõ ràng, chính xác, ngắn gọn, xúc tích những tri thức khoa học trong
phạm vi môn học, mà còn phải truyền đạt đến người học những nội dung
đó một cách cảm xúc, hấp dẫn. Có như vậy mới thu hút được sự chú ý và
gây hứng thú cho người học hoạt động giảng dạy mới thực sự có chất
lượng và hiệu quả cao.
4.2. NHÓM GIẢI PHÁP TẠO MÔI TRƯỜNG ĐÒI HỎI GIẢNG VIÊN
PHẢI NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

4.2.1. Giải pháp về chế độ, chính sách cho đội ngũ giảng viên
Trước đòi hỏi của thực tiễn đất nước cũng như yêu cầu đổi mới công
tác giáo dục - đào tạo ở nước ta. Đổi mới và hoàn thiện cơ chế, chính sách
là một giải pháp không thể thiếu để góp phần nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Về lý luận cũng như trên thực tế, cơ chế quản lý và chính sách cán
bộ như thế nào thì sẽ trực tiếp tạo ra những mẫu người cán bộ như thế. Với
cơ chế quản lý hành chính tập trung, quan liêu bao cấp sẽ không thể có cơ
sở hiện thực để hình thành nên những cán bộ hăng say học tập, rèn luyện,
không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, năng lực tư duy của mình. Cho
nên, trong xu hướng hiện nay, chúng ta cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện
hơn nữa cơ chế quản lý và chính sách cán bộ, công chức theo hướng khuyến
khích mọi người thường xuyên phấn đấu, học tập và rèn luyện để không
ngừng nâng cao trình độ. Nếu như thiếu sự quan tâm chung của cộng đồng,
xã hội thì năng lực tư duy, trình độ nhận thức của các thành viên trong xã hội

nói chung và đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức nói riêng khó mà phát triển được, và như thế tức là trình độ lý
luận cũng như năng lực tư duy lý luận cũng không thể nâng lên được. Chính
sách đãi ngộ có tầm ảnh hưởng quan trọng đặc biệt đối với việc xây dựng đội


16

ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Đó là đòn
bẩy, là động lực trực tiếp đối với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
đội ngũ cán bộ này. Chúng ta có thể khẳng định rằng, những phương
hướng, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực tư duy lý luận có đưa lại
hiệu quả hay không và mức độ đến đâu, tùy thuộc rất nhiều vào chế độ đãi
ngộ của Đảng, Nhà nước và trực tiếp các trường đối với họ.
Trong điều kiện hiện nay chất lượng đội ngũ giảng viên còn nhiều
bất cập, các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần chú trọng
xây dựng cơ chế, chính sách thu hút, trọng dụng giảng viên tài năng từ
nhiều nguồn khác nhau; Kết nối tạo dựng quan hệ hợp tác và có chế độ
chính sách đặc biệt với những giảng viên giữ những cương vị lãnh đạo,
quản lý, chuyên gia đầu ngành, các nhà chuyên môn giỏi chuyển công tác
về hoặc cộng tác lâu dài với các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức. Để làm được điều đó, trước hết, các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức phải đảm bảo lương và mọi chế độ khác theo quy định cho
giảng viên.
Thứ nhất, đẩy mạnh xây dựng chương trình, tài liệu, tham gia các đề
án, dự án và tổ chức các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng phù hợp với các
chức năng, nhiệm vụ của các trường và chuyên môn, nghiệp vụ của đội
ngũ giảng viên nhằm tạo công ăn việc làm, để tăng nguồn thu sự nghiệp
đảm bảo lương tăng thêm hàng tháng và các chế độ phúc lợi khác;
Thứ hai, thực hiện cơ chế hỗ trợ giảng dạy trên cơ sở chất lượng giờ

giảng và học hàm, học vị; quan tâm đến cơ sở vật chất, đảm bảo các điều
kiện, phương tiện làm việc, giảng dạy, nghiên cứu khoa học cho giảng viên.
Bên cạnh đó, các trường phải quan tâm, chăm lo đến đời sống tinh thần xây
dựng môi trường giáo dục lành mạnh, xây dựng văn hóa nhà trường;
Thứ ba, nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học, tri thức ngoài
chuyên ngành cho giảng viên lý luận chính trị. Hầu hết các giảng viên lý
luận chính trị chủ yếu mới có các kiến thức chuyên ngành lý luận chính trị,
còn thiếu những kiến thức cơ bản của các ngành khoa học xã hội - nhân
văn, khoa học tự nhiên. Vì vậy, phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao những tri thức khoa học ngoài chuyên ngành cho giảng viên lý luận
chính trị. Các đợt tập huấn, các khóa học ngắn ngày, các lớp bồi dưỡng…
là cơ hội tốt trong nâng cao tổng thể tri thức, nhận thức cho giảng viên lý
luận chính trị.
Thứ tư, cung cấp đầy đủ, kịp thời các thông tin, tăng cường các
phương tiện vui chơi giải trí, các điều kiện sinh hoạt văn hóa, văn nghệ thể dục thể thao cho cán bộ, giảng viên nhà trường;


17

Thứ năm, duy trì thường xuyên các sinh hoạt lành mạnh nhằm xây dựng
môi trường giáo dục, phòng chống các tệ nạn xã hội trong nhà trường;
Thứ sáu, quan tâm đến đời sống cá nhân của từng thành viên trong
nhà trường, làm cho mọi người biết chia sẻ với nhau những vui buồn, khó
khăn thuận lợi cả trong công việc chuyên môn và sinh hoạt gia đình;
Thứ bảy, xây dựng và giữ gìn cho nhà trường đạt các chuẩn mực của
một cơ quan văn hóa, một môi trường giáo dục lành mạnh;
Thứ tám, có chính sách thu hút nhân tài thông qua chính sách ưu đãi
đối với giảng viên, trong bổ nhiệm và trong đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện
công khai, minh bạch, dân chủ các hoạt động của nhà trường, kịp thời
thông tin đến giảng viên tình hình chính trị trong và ngoài nước, thực tế

nhà trường để giảng viên hiểu rõ thực trạng những khó khăn, thuận lợi của
nhà trường, tạo sự đồng thuận trong toàn trường để triển khai thực hiện
công tác phát triển giảng viên và phát triển nhà trường;
Thứ chín, duy trì và thực hiện tốt các phong trào thi đua trong nhà
trường, nhất là phong trào thi đua "dạy tốt - học tốt", khắc phục bệnh thành
tích trong đào tạo, bồi dưỡng. Thông qua chế độ sơ, tổng kết, các ngày lễ lớn
trong năm để kịp thời biểu dương, khen thưởng những điển hình tiên tiến,
những giảng viên có thành tích cao trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Quan tâm đến đời sống cá nhân của từng thành viên trong nhà trường. Có
chính sách thu hút nhân tài từ nơi khác đến thông qua chính sách ưu đãi
giảng viên trong bổ nhiệm cán bộ, đào tạo, bồi dưỡng, trong phát triển Đảng.
4.2.2. Giải pháp về đảm bảo điều kiện vật chất, trang thiết bị
công sở cho đội ngũ giảng viên
Việc trang bị các điều kiện vật chất, trang thiết bị cho các Trường Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
Một là, phải thích hợp với từng loại công việc: điều này đảm bảo các phương
tiện được trang bị sẽ giúp cho việc thực hiện các công việc được tiến hành
thuận lợi và có hiệu quả cao hơn. Hai là, tiết kiệm các phương tiện được
trang bị thích hợp với yêu cầu sử dụng, chú trọng đến hiệu suất sử dụng,
tránh xu hướng phô trương, lãng phí. Ba là, phải góp phần tạo ra môi trường
văn hóa cho cơ quan, trang thiết bị phải đảm bảo các yêu cầu về tính thẩm
mỹ, phù hợp với tính chất công việc, giúp giảng viên cảm thấy thoải mái khi
làm việc. Bốn là, không ngừng đổi mới và hiện đại hóa để đáp ứng tốt hơn
nữa yêu cầu của công cuộc cải cách hành chính và sự phát triển của xã hội.
4.2.3. Môi trường dân chủ trong đội ngũ giảng viên ở các trường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Không khí dân chủ, tinh thần đoàn kết, kỷ luật của tập thể cán bộ,
giảng viên nhà trường là điều kiện tốt nhất để phát huy khả năng hiện thực



18

nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên trong quá trình tác nghiệp.
Để hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn và các nhiệm vụ khác, giảng viên
phải tuyệt đối trung thành mọi nội quy, quy chế của nhà trường, của khoa,
phòng. Không khí dân chủ, tinh thần kỷ luật tạo nên sức mạnh bền vững
trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của giảng viên. Ý nghĩa của xây dựng
không khí dân chủ, tinh thần kỷ luật là tạo điều kiện tốt nhất cho giảng
viên xây dựng mối quan hệ giữa đồng chí, đồng nghiệp, giữa lãnh đạo và
nhân viên, giữa giảng viên và học viên một cách tốt đẹp. Chính ở môi
trường dân chủ, kỷ luật đó nhân tố con người được phát huy một cách tích
cực và chủ động hơn; mối quan hệ giữa cá nhân và tổ chức, giữa cá nhân
và tập thể được giải quyết hài hòa hơn. Trong điều kiện đó, con người nói
chung, giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói
riêng có điều kiện thể hiện và khẳng định được những phẩm chất, năng lực
của mình. Tính công khai, các quy chế dân chủ ở nhà trường tạo điều kiện
cho xây dựng tình đoàn kết, sự tin tưởng và sự quan tâm đến nhau. Năng
lực tư duy lý luận của người giảng viên xét về cấu trúc thì nó gắn liền với
đặc điểm cá nhân, được trải nghiệm với hoạt động thực tiễn và gắn với vị
trí, vai trò của mình trong thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Những đặc
điểm cá nhân đó được phát triển, nuôi dưỡng tốt nhất trong môi trường tập
thể có dân chủ, công bằng, công minh, quan tâm đến con người và liên kết
con người bởi hệ thống chuẩn mực giá trị tích cực và tiến bộ. Vì vậy, xây
dựng được không khí dân chủ thực sự, tinh thần đoàn kết, kỷ luật trong
nhà trường là mảnh đất ươm mầm tư duy và tư duy lý luận một cách tích
cực và hiệu quả nhất.
4.3. NHÓM GIẢI PHÁP KHUYẾN KHÍCH GIẢNG VIÊN TỰ NÂNG
CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN

4.3.1. Phát huy vai trò, trách nhiệm của các chủ thể trong việc

khuyến khích giảng viên tự nâng cao năng lực tư duy lý luận
Thứ nhất, Đảng ủy, tập thể Ban giám hiệu cần tiếp tục nâng cao năng
lực lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất thực hiện nhiệm vụ chính trị
của Trường, tạo môi trường hoạt động thuận lợi cho việc nâng cao chất
lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học, chất lượng đội ngũ giảng viên và
năng lực tư duy lý luận của giảng viên trong trường theo đúng yêu cầu,
định hướng và mục tiêu, phương hướng, nội dung đã đề ra.
Thứ hai, các cơ quan chức năng trong trường Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức làm tốt công tác tham mưu cho Đảng ủy, Ban Giám hiệu về
công tác chuyên môn; chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai kế hoạch đã
được phê duyệt. Tuyển dụng, bố trí sắp xếp và luân phiên nhân sự, tài chính,
cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho giảng viên


19

tích cực tham gia hoạt động thực tiễn. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng
giảng viên, nghiên cứu khoa học, hội thảo, hoạt động ngoại khóa đảm bảo tính
khoa học, thiết thực hiệu quả.
Thứ ba, các tổ chức đoàn thể, hoạt động theo đúng chức năng nhiệm
vụ, tăng cường vai trò, trách nhiệm trong tuyên truyền, vận động, tập hợp, lôi
cuốn các lực lượng tham gia và tổ chức phong trào thi đua, phong trào dạy tốt,
học tốt hướng tới các hoạt động nâng cao năng lực, kỹ năng, nghiên cứu khoa
học của giảng viên. Có kế hoạch, chương trình hành động thiết thực hiệu quả
để phát huy dân chủ, tinh thần sáng tạo của giảng viên trong Trường.
Thứ tư, các khoa, phòng, trung tâm là đơn vị trực tiếp quản lý, giáo
dục, bồi dưỡng, giám sát, kiểm tra việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên, cần phải quản lý toàn diện mọi mặt công tác, nắm chặt chất lượng đội
ngũ giảng viên; đánh giá đúng trình độ, năng lực chuyên môn, sở trường,
năng khiếu, mạnh mạnh, mặt yếu của từng giảng viên. Chủ động xây dựng

kế hoạch, xác định nội dung cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao phẩm
chất, năng lực tư duy lý luận đội ngũ giảng viên của đơn vị.
4.3.2. Tạo điều kiện cho giảng viên tiếp xúc với thực tiễn và khoa học
Thực tiễn xã hội và sự phát triển của khoa học tác động trực tiếp đến
quá trình học tập nâng cao trình độ trí tuệ, trình độ lý luận của giảng viên
Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Thực tiễn là hoạt động
sáng tạo của con người tác động vào thế giới khách quan, nhằm cải tạo nó,
phục vụ cho lợi ích của mình, vì vậy, hoạt động này hết sức phong phú, đa
dạng. Tạo điều kiện cho giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức thâm nhập thực tiễn, lấy thực tiễn soi chiếu, phân tích làm sâu
thêm, củng cố chắc chắn thêm những kiến thức đã có; đồng thời, khai thác,
tiếp thu những kinh nghiệm, những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn chính là
cách thức nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên Trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức một cách trực tiếp nhất. Những tri thức có
được từ thực tiễn “muôn màu, muôn vẻ” là “nguồn nguyên liệu” quan trọng,
tăng chất lượng cho các bài giảng, làm cho các bài giảng có ý nghĩa, giá trị
sâu sắc hơn, mài sắc thêm năng lực tư duy lý luận.
4.3.3. Nâng cao ý thức tự bồi dưỡng, tự đào tạo của giảng viên
Kiến thức, kỹ năng, phương pháp mà học viên được học trong trường
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là hết sức quý báu, song đó mới chỉ
những kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ mang tính cơ bản, làm cơ sở cho
sự tự vận động, tiến bộ trong nghề nghiệp sau này. Thực tiễn luôn vận
động, biến đổi không ngừng, các kiến thức, tri thức không ngừng sinh sôi,


20

phát triển. Để thực hiện tốt nhiệm vụ của giảng viên, mỗi giảng viên
trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải tiếp tục tự đào tạo, tự
bồi dưỡng thường xuyên, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, cập nhật tri thức,

tiếp thu các chương trình và phương pháp giảng dạy mới, đáp ứng yêu cầu
đổi mới của xã hội, của chính cá nhân. Trong quá trình tự học, tự đào tạo,
mỗi giảng viên phải luôn ý thức đặt trọng tâm vào rèn luyện tư duy, rèn
luyện phương pháp, cập nhật tri thức mới, cập nhật những phương pháp
giảng dạy, nghiên cứu mới, xây dựng phong cách tư duy khoa học và độc
lập… Giảng viên lý luận chính trị cần chú trọng rèn luyện phương pháp,
kỹ năng, trên cơ sở đề cao tính sáng tạo, trong đó chú ý đến hai kỹ năng
căn bản - kỹ năng sư phạm và kỹ năng nghiên cứu khoa học, đi kèm với
ngoại ngữ, tin học, hình thành nên hệ thống kỹ năng, khả năng chiếm lĩnh
tri thức khoa học.
4.3.4. Khuyến khích giảng viên tự nâng cao trình độ học vấn,
trình độ khoa học, tri thức ngoài chuyên ngành
Hầu hết các giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
chủ yếu mới có các kiến thức chuyên ngành của ngành mình, còn thiếu
những kiến thức cơ bản của các ngành, lĩnh vực ngoài ngành mình. Vì vậy,
phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao những tri thức khoa học
ngoài chuyên ngành cho giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức thông qua các đợt tập huấn, các khóa học ngắn ngày, các lớp
bồi dưỡng… là cơ hội tốt trong nâng cao tổng thể tri thức, nhận thức cho
giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cần tổ chức các khóa
học, các lớp đào tạo, bồi dưỡng phải được thực hiện trên nguyên tắc phù hợp,
kịp thời, có phân loại nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các nhóm đối
tượng, tránh đào tạo, bồi dưỡng đồng loạt, ồ ạt, bình quân. Cần vận dụng
nhiều hình thức bồi dưỡng phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của giảng
viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, cần có cơ
chế chính sách khuyến khích giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức thường xuyên nghiên cứu khoa học. Nghiên cứu khoa học là hoạt
động trí óc ở trình độ cao, có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát huy năng
lực sáng tạo, năng lực tư duy lý luận, là con đường ngắn nhất để nâng cao

năng lực chuyên môn. Giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức vừa phải là nhà sư phạm, vừa phải là nhà khoa học, gắn nghiên
cứu khoa học với giảng dạy, làm cho nghiên cứu khoa học trở thành đòn bẩy
trong nâng cao năng lực tư duy, chất lượng giảng dạy, vì thế, cần đặt ra yêu


21

cầu xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học cụ thể đối với giảng viên.
Để nghiên cứu khoa học của giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, công chức không hình thức, cần định hướng nghiên cứu khoa học của
giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức một cách hợp lý,
hướng đến những vấn đề lý luận, thực tiễn còn nhiều vướng mắc, hoặc giữa
lý luận và thực tiễn còn có mâu thuẫn.
4.3.5. Tạo động lực khuyến khích giảng viên không ngừng nâng
cao năng lực tư duy lý luận
Mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất
định nào đó về vật chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu. Khi được đáp
ứng đầy đủ những nhu cầu lợi ích chính đáng, giảng viên lý luận chính trị
sẽ có động lực to lớn thúc đẩy để bằng mọi hình thức, tự cố gắng vươn lên
để nâng cao trình độ năng lực trí tuệ, năng lực tư duy lý luận của mình. Vì
thế, cần có chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần phù hợp cho giảng viên
trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, để họ tích cực học tập, rèn
luyện, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực tư duy lý luận. Bố trí, sử dụng
giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải trên tinh
thần công bằng, tin tưởng, tạo điều kiện, đánh giá khách quan và coi trọng
năng lực sáng tạo thật sự về chuyên môn nghiệp vụ. Cần đãi ngộ đúng
công sức và tài năng với tinh thần ưu đãi và tôn vinh nghề dạy học.
4.3.6. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện nội dung, chương trình và
phương pháp giảng dạy theo hướng nâng cao năng lực tư duy lý luận

Để có được tầm cao trí tuệ, đòi hỏi giảng viên các trường Đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức không những có trình độ kiến thức khoa học
chuyên môn giỏi, lượng kiến thức và kinh nghiệm sự phạm cần thiết,
phương pháp tư duy biện chứng mà cần có lý luận chính trị và một lượng
kiến thức xã hội vững chắc thì mới có khả năng tư duy lý luận trong giảng
dạy. Trong các chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên
hiện nay, thời lượng, nội dung chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, gây
khó khăn trong việc hình thành và phát triển năng lực tư duy lý luận của
giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Vì vậy, thế
Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục nghiên cứu điều chỉnh, cập nhật bổ sung
các môn khoa học, lịch sử triết học, triết học Mác-Lênin, logic học, phương
pháp nghiên cứu khoa học… vào nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng
và chương trình đào tạo sau đại học. Có tiêu chí phân loại, tiêu chuẩn đối với
từng đối tượng để có cơ sở, căn cứ xác định rõ những nội dung, hình thức,
biện pháp bồi dưỡng nâng cao các yếu tố cấu thành năng lực tư duy lý luận


22

cho giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phù hợp,
tránh chồng chéo, lãng phí không cần thiết.
4.3.7. Phát huy và nâng cao tính tích cực, tính tự giác của bản
thân đội ngũ giảng viên trường đào tạo, bồi dướng cán bộ, công chức
trong nâng cao năng lực chuyên môn, rèn luyện nhân cách
Tinh thần trách nhiệm của giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức không chỉ xuất phát từ ý thức nghĩa vụ, mà còn từ niềm
tin và sự say mê nghề nghiệp, từ tình cảm gắn bó, trân trọng với nghề
nghiệp, từ lòng khát khao muốn truyền đạt tri thức, niềm tin của mình đến
với người học. Cần xây dựng củng cố môi trường công tác lành mạnh, tạo
động lực cho giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức an

tâm phấn đấu, không ngừng vươn lên. Tăng cường nhận thức cho đội ngũ
giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về sự cần
thiết của việc hình thành, củng cố những phẩm chất, tính cách cần có của
giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phù hợp với
đặc thù của hoạt động giáo dục mà họ thực hiện.
Phải coi việc xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình
độ, năng lực chuyên môn và phương pháp sư phạm cho đội ngũ giảng viên
các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ quan trọng,
thường xuyên. Chú trọng nâng cao nhận thức của giảng viên các trường
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về vị trí, vai trò của mình trong sự
nghiệp đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước nói
chung và mỗi bộ, ngành, địa phương trong giai đoạn cách mạng mới, cũng
như trách nhiệm kế thừa, phát huy sự nghiệp vẻ vang của thế hệ đi trước.
Mỗi giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cố gắng tự
giác rèn luyện, phấn đấu nâng cao trình độ vè mọi mặt để trở thành những
giảng viên trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giỏi, là tấm
gương sáng đối với học viên.


23

KẾT LUẬN
Tư duy lý luận có vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng lực
của đội ngũ giảng viên, đặc biệt là giảng viên các trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức. Tư duy lý luận về thực chất, đó là tư duy biện
chứng duy vật khoa học - một hình thái tư duy được hình thành trên cơ sở
tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức khoa học mà loài
người đã đạt được từ xưa cho đến nay và luôn luôn được vận dụng một
cách tiện lợi vào thực tiễn sinh động, phong phú để không ngừng bổ sung,
hoàn thiện và phát triển.Tư duy lý luận là hình thức cao nhất của tư duy,

nó chính là quá trình phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp,
mang tính trừu tượng và khái quát cao bằng các khái niệm, phạm trù, quy
luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn ngữ và các thao tác tư duy để
nắm bắt các mối liên hệ mang tính bản chất, tìm ra các quy luật vận động
nội tại tiềm ẩn trong khách thể nhận thức.
Luận án "Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên
các trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay" đã
làm rõ một số nội dung sau:
Một là, luận án đã hệ thống hóa lý luận về năng lực tư duy lý luận và
vai trò của đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở Việt Nam như: hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và
đặc điểm của đội ngũ giảng viên Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức; Vai trò, nội dung nâng cao tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các
Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Hai là, tác giả đã phân tích thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý
luận cho đội ngũ giảng viên các trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở Việt Nam (cụ thể là Học viện Hành chính Quốc gia, Trường Đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Bộ Nội vụ, Trường Đào tạo Cán bộ Lê
Hồng Phong thành phố Hà Nội); đánh giá khách quan ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân về thực trạng tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên ở Việt
Nam hiện nay..
Ba là, tác giả đề xuất một số nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
nâng cao tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên các Trường Đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay như: 1) Nhóm giải pháp
tuyển chọn, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ giảng viên các trường đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức; 2) Nhóm giải pháp tạo môi trường đòi hỏi giảng


×