Tải bản đầy đủ (.docx) (59 trang)

PHÁP LUẬT GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG DOANH NGHIỆP VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.72 KB, 59 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
------------

PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG
DOANH NGHIỆP VIỆT NAM


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong quá trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay, đầu tư nước ngoài là hoạt động thu hút
được nhiều sự quan tâm chú ý của các quốc gia. Bởi lẽ, đầu tư nước ngoài góp phần
tích cực vào phát triển kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo việc làm cho người lao
động, nâng cao trình độ khoa học – kỹ thuật công nghệ của các nước đang phát triển…
Đối với các nước đi đầu tư, việc tìm kiếm một thị trường nước ngoài với sức tiêu thụ
lớn, nguyên liệu dồi dào và nhân công giá rẻ cũng đang là một sự lựa chọn nhận được
nhiều ưu ái.
Một quốc gia có sức hút khá lớn đối với các Nhà đầu tư nước ngoài nhờ vào ưu thế
về thị trường và nguồn nguyên liệu, nguồn nhân lực. Trong những năm gần đây, nguồn
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, đặc biệt là vốn đầu tư trực tiếp (FDI) đã tăng
trưởng nhanh chóng, cho thấy tầm quan trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước
ngoài với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Trong bối cảnh ấy, đòi hỏi các quy
định của pháp luật về hoạt động này phải được xây dựng một cách chặt chẽ và hợp lý :
đảm bảo thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài mà vẫn bảo vệ và phát triển các thành
phần kinh tế trong nước, cân bằng lợi ích giữa nhà nước và nhà đầu tư – tạo ra mối
quan hệ cân đối hai bên cùng có lợi.


Pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp
Việt Nam là một phần quan trọng trong tổng thể các quy định về đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Đây cũng là vấn đề thu hút nhiều sự quan tâm, chú ý của các thế hệ nghiên
cứu. Bởi lẽ, điều nhà đầu tư nước ngoài quan tâm khi tìm kiếm một thị trường đầu tư
không chỉ là các yếu tố tiềm năng mà còn là hành lang pháp lý. Mà với vấn đề này,
thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư
nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam đã ghi nhận lại rằng: văn bản rất nhiều
nhưng bất cập, hạn chế vẫn còn tồn tại và chưa được khắc phục. Nhiều công trình
nghiên cứu đi trước đã chỉ ra một số hạn chế tiêu biểu như: sự chồng chéo của hệ
thống pháp luật về đầu tư; thủ tục góp vốn, mua cổ phần còn vòng quanh đến mức
không khả thi; một số quy định về đầu tư không có sự thống nhất với các văn bản pháp
luật chuyên ngành khác v.v… Dễ dàng kết luận được rằng, việc làm quan trọng lúc này
là phải nhanh chóng khắc phục những tồn tại kể trên để phát huy hơn nữa vai trò của


3

pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt
Nam, sớm đưa nước ta nhanh chóng hòa nhập sâu rộng hơn nữa vào xu thế kinh tế
chung của toàn thế giới.
Trên cơ sở những kiến thức đã học về Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài, thông qua quá trình tìm hiểu các công trình nghiên
cứu đi trước và thực tiễn hiện nay, nhóm tác giả xin đưa ra những quan điểm mang
tính chủ quan của mình về hoạt động này xét riêng ở khía cạnh: Điều kiện góp vốn,
mua cổ phần và các biện pháp bảo đảm nghĩa vụ đối với nhà đầu tư nước ngoài thực
hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam không thông
qua thị trường chứng khoán. Trong phạm vi đề tài, nhóm tác giả sẽ phân tích các quy
định hiện hành có liên quan đến hai vấn đề này, đưa ra nhận xét về những ưu và nhược
điểm của các quy định kể trên và kiến nghị một số hướng hoàn thiện.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:


Góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam là
lĩnh vực được nhiều tác giả quan tâm khai thác. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu
nghiên cứu đã đạt được của những người đi trước, kết hợp với những kiến thức đã học,
nhóm tác giả sẽ phân tích sâu hơn về vấn đề này ở một khía cạnh khác, trong hoàn
cảnh và điều kiện mới hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
1.1.
Mục đích nghiên cứu:

Trên cơ sở tìm hiểu các quy định hiện hành điều chỉnh hoạt động góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam, nhóm tác giả đi sâu vào
phân tích các điều kiện để nhà đầu tư nước ngoài được phép thực hiện hoạt động này
và cơ chế đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài trong trường hợp
doanh nghiệp FDI bị giải thể, phá sản, từ đó chỉ ra được những ưu và nhược điểm,
kiến nghị một số hướng hoàn thiện.
1.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu:

Nghiên cứu các khái niệm góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong
doanh nghiệp Việt Nam; ý nghĩa của hoạt động đầu tư này đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của nước ta; khái quát về sự hình thành và phát triển của pháp luật điều chỉnh
hoạt động đầu tư nước ngoài; tìm hiểu, phân tích các quy định về điều kiện góp vốn,
mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam; trình tự, thủ tục


4

giải thể, phá sản doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cơ chế bảo đảm nghĩa vụ

trong những trường hợp này. Trên cơ sở đó, chỉ ra được những điểm đã làm được và
những mặt còn tồn tại, xác định nguyên nhân và định hướng giải quyết, hoàn thiện các
quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầy tiềm năng này.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1.
Đối tượng nghiên cứu của công trình

Công trình này tập trung vào nhóm các quy định điều chỉnh điều kiện góp vốn, mua
cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam không thông
quan thị trường chứng khoán; quy định về trình tự, thủ tục giải thể, phá sản các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Luật Đầu tư 2005, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật
Phá sản 2004, Nghị định 69/2007/NĐ –CP, Thông tư 131/2010/TT – BTC, Quyết định
55/2009/QĐ – Ttg, Quyết định 88/2009/QĐ – Ttg, v.v...
2.2.

Phạm vi nghiên cứu của công trình

Trong phạm vi đề tài, nhóm tác giả chỉ tập trung phân tích các quy định cơ bản nhất
về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp
Việt Nam không thông qua thị trường chứng khoán (đầu tư trực tiếp); các quy định về
thủ tục giải thể, phá sản các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và cơ chế đảm
bảo nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài trong những trường hợp này; phân tích thực
trạng với những rủi ro thường gặp và kiến nghị một số giải pháp hoàn thiện.
3. Phương pháp nghiên cứu:

Để thực hiện công trình, nhóm tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp,
duy vật biện chứng và phương pháp so sánh để khái quát, đánh giá và đưa ra các nhận
xét về các vấn đề pháp lý có liên quan đến điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà
đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam và cơ chế đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài khi doanh nghiệp FDI bị giải thể, phá sản – những

điều đã làm được và những tồn tại cần thiết phải khắc phục trong thời gian tới, đảm
bảo khả năng thu hút mà vẫn quản lý có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
4. Những đóng góp mới của công trình

Đây là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên về pháp luật góp vốn, mua cổ phần
của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam không thông qua thị
trường chứng khoán đi sâu vào phân tích điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu


5

tư nước ngoài, về sự cần thiết phải thành lập tài khoản vốn đầu tư và trình tự, thủ tục
thành lập, quản lý tài khoản này;
Công trình cũng là một trong những bài viết đầu tiên bàn về cơ chế bảo đảm nghĩa
vụ của nhà đầu tư nước ngoài khi doanh nghiệp FDI bị giải thể, phá sản trong bối cảnh
và điều kiện mới: khi Việt Nam đã gia nhập WTO và bị ràng buộc bởi những cam kết
về tự do hóa thương mại và cấm phân biệt đối xử
Công trình đã đưa ra những hướng giải quyết mới, phù hợp với tình hình hiện nay:
vừa đảm bảo quản lý hiệu quả hoạt động đầu tư mà vẫn phù hợp với các cam kết của
WTO về tự do hóa thương mại.
5. Cấu trúc của công trình

Ngoài phần mở đầu, kết luận và doanh mục tài liệu tham khảo, công trình này gồm
hai chương:
Chương 1: Khái quát về hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
trong doanh nghiệp Việt Nam
Chương 2: Pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh
nghiệp Việt Nam



6

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................2
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI..........................................................................9
1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.1.3.

Các khái niệm cơ bản.................................................................................9
Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài .............................................................9
Phân loại nhà đầu tư nước ngoài..............................................................10
Góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt

Nam.........................................................................................................12
1.1.4. Doanh nghiệp Việt Nam...........................................................................13
1.2.
Ý nghĩa của hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong
1.3.

doanh nghiệp Việt Nam...........................................................................13
Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hoạt động góp vốn, mua cổ phần

của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam.......................15
1.3.1. Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời..........................................................15
1.3.2. Sau khi Luật Đầu tư 2005 ra đời..............................................................19
CHƯƠNG II: PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA NHÀ ĐẦU
TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM.......................23

2.1.

Pháp luật về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong doanh nghiệp
Việt Nam..................................................................................................24

2.1.1. Quy định hiện hành về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN không
thông qua thị trường chứng khoán...........................................................24
2.1.2. Bất cập trong quy định về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong
doanh nghiệp Việt Nam...........................................................................26
2.1.3. Một số đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về việc thành lập,
quản lý tài khoản vốn đầu tư trực tiếp......................................................29
2.2.

Cơ chế bảo đảm nghĩa vụ trong trường hợp doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài bị giải thể, phá sản.........................................................................42

2.2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục thanh lý các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.............................................................................42
2.2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định nêu trên và những bất cập.....................45


7

2.2.3.Một số giải pháp mang tính hoàn thiện các quy định về bảo đảm nghĩa vụ áp
dụng với nhà đầu tư nước ngoài khi doanh nghiệp FDI bị giải, phá sản....50
KẾT LUẬN......................................................................................................59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................60


8


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4

Từ viết tắt
NĐTNN
NĐTTN
FDI
DNVN

Từ được viết tắt
Nhà đầu tư nước ngoài
Nhà đầu tư trong nước
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Doanh nghiệp Việt Nam


9

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment) có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển nói chung
và Việt Nam nói riêng. Về mặt bản chất, đầu tư nước ngoài là hành vi của nhà tư bản
đem tài sản của mình ra khỏi biên giới quốc gia để kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi
nhuận. Lý giải cho hoạt động đầu tư nước ngoài có nhiều nguyên nhân khác nhau: Xét

trên phương diện kinh tế quốc tế, đó là sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các
quốc gia và những trở ngại trong hoạt động thương mại quốc tế 1. Dưới góc độ của một
nhà đầu tư, đó là nhu cầu về một thị trường có trình độ thấp hơn với nguồn nguyên liệu
dồi dào, sức tiêu thụ lớn và nhân công giá rẻ - làm giảm đến mức thấp nhất chi phí sản
xuất. Trên cơ sở đó, một xu hướng đã trở nên phổ biến trên phạm vi toàn cầu là việc
các doanh nghiệp chuyển vốn, tài sản và công nghệ ra những nước có môi trường đầu
tư kém hơn để thu được lợi nhuận cao hơn.
Ở Việt Nam, đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra dưới nhiều hình thức, nhưng
phổ biến nhất là NĐTNN thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần của các doanh
nghiệp Việt Nam.
1.1.
Các khái niệm cơ bản
1.1.1. Nhà đầu tư nước ngoài

Theo quy định tại khoản 4 Điều 3 Luật Đầu tư 2005: “Nhà đầu tư (NĐT) là tổ
chức, cá nhân thực hiện hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam”.
Như vậy, sẽ có hai đối tượng “thực hiện hoạt động đầu tư”:
-

Đối tượng 1: đối tượng đã bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư
Đối tượng 2: là pháp nhân mới được hình thành để thực hiện dự án đầu tư (đối với
trường hợp dự án đầu tư có thành lập pháp nhân mới)
Luật Đầu tư 2005 cũng quy định về khái niệm NĐTNN tại khoản 5 Điều 3 như
sau: “NĐTNN là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư
tại Việt Nam”. Theo đó, NĐTNN chỉ là những chủ thể tham gia góp vốn để thực hiện
hoạt động đầu tư, trường hợp dự án sử dụng nguồn vốn FDI nhưng có thành lập pháp
nhân mới thì không xem pháp nhân đó là NĐTNN vì theo khoản 20 Điều 4 Luật
Doanh nghiệp “Quốc tịch của Doanh nghiệp là quốc tịch của nước, vùng lãnh thổ nơi
doanh nghiệp thành lập, đăng kí kinh doanh”. Như vậy, doanh nghiệp FDI được thành
1 Phạm Đắc Duyên, 1997, Những nội dung kinh tế - tài chính của đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trang 48



10

lập theo quy định của pháp luật Việt Nam nhằm mục đích thực hiện dự án đầu tư thì
được xem là NĐTTN. Tuy nhiên, các văn bản khác và thực tiễn đều ghi nhận những
doanh nghiệp FDI loại này vẫn được xác định là NĐTNN. Cụ thể là Nghị định
102/2010 Hướng dẫn luật Doanh nghiệp, Quyết định 55/2009, Quyết định 88/2009 xác
định tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài trên 49% là NĐTNN. Quy định tại khoản 5
điều 3 Luật Đầu tư và khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp là hạn chế của nhà lập
pháp trong quá trình soạn thảo, cần thiết phải được sửa đổi, bổ sung sao cho phù hợp
và thống nhất với các văn bản hướng dẫn và thực tiễn, đảm bảo quản lý hiệu quả hoạt
động đầu tư.
1.1.2. Phân loại nhà đầu tư nước ngoài:

NĐTNN là tổ chức, cá nhân bỏ vốn để thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam.


Tổ chức nước ngoài:

Pháp luật hiện hành tồn tại nhiều quy định khác nhau về NĐTNN là tổ chức kinh
tế, tuy nhiên chưa có sự thống nhất khi xác định đối tượng này. Cụ thể:
Điều 1 Quyết định 55/2009/QĐ – BTC quy định tổ chức được xác định là NĐTNN
gồm “Tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật nước ngoài và chi nhánh của
các tổ chức này tại nước ngoài và tại Việt Nam.
Nghị định 69/2007/NĐ – CP và Thông tư 131/2010/TT – BTC xác định “ tổ chức
nước ngoài là tổ chức được thành lập theo pháp luật nước ngoài và hoạt động theo
quy định của pháp luật nước ngoài hoặc pháp luật Việt Nam”. Theo đó, tổ chức nước
ngoài không bao gồm chi nhánh, văn phòng đại diện của tổ chức kinh tế nước ngoài ở
nước ngoài và ở Việt Nam. Quy định như vậy là không hợp lý, bởi trên thực tế chi

nhánh của các doanh nghiệp nước ngoài khi được thành lập ở Việt Nam có quyền thực
hiện một số hoạt động thương mại nhất định, bao gồm cả đầu tư kinh doanh nhằm tìm
kiếm lợi nhuận – điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật Thương mại 2005.
Sẽ là một thiếu sót rất lớn nếu chúng ta không xem chi nhánh của doanh nghiệp nước
ngoài là NĐTNN.
Quyết định 55/2009/QĐ – BTC , Quyết định 88/2009/QĐ – BTC và Thông tư
131/2010/TT – BTC quy định NĐTNN còn bao gồm “ tổ chức thành lập và hoạt động
ở Việt Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%. Quỹ đầu tư, công
ty đầu tư chứng khoán có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49%.2 Quy
2 Điểm b khoản 1 Điều 2 Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp việt
nam, Ban hành kèm theo Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg


11

định như vậy để đảm bảo quản lý tốt hoạt động đầu tư, có cách đối xử phù hợp với
những doanh nghiệp mà quyền kiểm soát, chi phối thuộc về bên nước ngoài. Tuy
nhiên, cũng với đối tượng này, Quyết định 121/2008/QĐ- BTC quy định như sau: tổ
chức nước ngoài bao gồm “các tổ chức thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt
Nam có 100% vốn góp nước ngoài và các chi nhánh của tổ chức này; Qũy đầu tư
thành lập theo pháp luật nước ngoài và pháp luật Việt Nam có 100% vốn góp nước
ngoài”3, sự bất đồng trong việc xác định như thế nào là NĐTNN giữa các văn bản
hướng dẫn là nguyên nhân gây nên những khó khăn và hạn chế cho việc quản lý và thu
hút vốn đầu tư nước ngoài.


Cá nhân nước ngoài:

Nghị định 69/2007/NĐ – CP và Quyết định 121/2008/QĐ – BTC xác định “ cá
nhân nước ngoài là người mang quốc tịch nước ngoài, cư trú ở nước ngoài hoặc tại

Việt Nam”. Hiểu theo quy định này, NĐTNN là cá nhân không bao gồm người không
quốc tịch4. Tuy nhiên, Quyết định 55/2009 và Quyết định 88/2009 thì lại thống nhất
rằng NĐTNN là cá nhân chỉ cần là “ người không mang quốc tịch Việt Nam”, bao gồm
cả người mang quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch 5. Quy định như vậy có
điểm hợp lý hơn so với cách hiểu cứng nhắc NĐTNN nhất định phải mang quốc tịch
của một nước nào đó. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện tại, các văn bản này vẫn đồng thời
có hiệu lực và việc áp dụng như thế nào để xác định NĐTNN là cá nhân vẫn còn chưa
rõ ràng, hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước về
đầu tư.
Sự không tương thích trong cách xác định tổ chức và cá nhân nước ngoài giữa các
văn bản pháp luật gây ra tình trạng lúng túng đối với cơ quan quản lý và đối tượng áp
dụng. Mặc dù phạm vi điều chỉnh của mỗi văn bản chỉ giới hạn trong từng ngành, lĩnh
vực cụ thể (Quyết định 88/2009/QĐ – BTC điều chỉnh về việc góp vốn, mua cổ phần
của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam; Quyết định 121/2008 và Quyết định
55/2009 về hoạt động của NĐTNN trên thị trường chứng khoán Việt Nam) nhưng thiết
nghĩ, nên có sự thống nhất giữa các quy phạm điều chỉnh hoạt động này. Bởi lẽ, khi
tham gia đầu tư vào thị trường Việt Nam, mong muốn của bất kì NĐT nào cũng là có
3 Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Ban
hành kèm theo Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC
4 Điểm a Khoản 1 Điều 2 Quy chế hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam,
Ban hành kèm theo Quyết định số 121/2008/QĐ-BTC
5 Điểm d khoản 1 Điều 2 Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp việt
nam, Ban hành kèm theo Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg


12

môi trường đầu tư ổn định, chính sách ưu đãi ít biến động, đem lại cho họ nguồn lợi
nhuận cao nhất. Mặt khác, NĐTNN không chỉ tham gia vào một lĩnh vực nhất định.
Những quy định không thống nhất sẽ khiến họ lúng túng và e ngại khi muốn mở rộng

hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
1.1.3. Góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh nghiệp Việt

Nam
Theo quy định tại Điều 4 khoản 4 Luật Doanh nghiệp 2005: “tài sản góp vốn
có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá
trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kĩ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều
lệ công ty”. Luật Đầu tư 2005 ghi nhận “đầu tư là việc thực hiện một hoặc một số
công đoạn của quá trình kinh doanh nhằm tìm kiếm lợi nhuận”. 6 Nói như vậy, bản
chất của hoạt động đầu tư là một quá trình luân chuyển tư bản để tư bản đó sinh lời.
Đối với đầu tư nước ngoài, quá trình luân chuyển ấy diễn ra trên phạm vi quốc tế - từ
nước đầu tư đến nước tiếp nhận đầu tư. NĐTNN đưa tài sản của mình, theo quy định
của pháp luật Việt Nam và điều lệ của doanh nghiệp nhận phần vốn góp, kinh doanh
và thu lợi nhuận tương ứng với giá trị tài sản đã bỏ ra. Tuy nhiên, khác với NĐTTN,
việc góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN đòi hỏi phải có “tài khoản vốn đầu tư mở tại
ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần, chuyển
nhượng vốn góp, thu và sử dụng cổ tức, lợi nhuận được chia, chuyển tiền ra nước
ngoài và các hoạt động khác liên quan đến đầu tư vào doanh nghiệp Việt Nam đều
thông qua tài khoản này. Việc mở, đóng, sử dụng và quản lý tài khoản vốn đầu tư phải
phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan”. 7 Như vậy, NĐTNN phải thành lập
một tài khoản tại một tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam, tài sản dùng
để góp vốn, mua cổ phần sẽ được quản lý và sử dụng để đầu tư thông qua tài khoản
này. Từ khi được đưa vào tài khoản, tài sản dùng để đầu tư có một tên gọi mới – đó là
“tiền gửi vốn chuyên dùng” và theo quy định hiện hành thì sẽ không được hưởng lãi
suất tương ứng. Nói cách khác, số tiền này sẽ nằm yên trong ngân hàng như một bảo
đảm đầu tư, nhưng lại làm giới hạn khả năng đầu tư theo phương thức trừ nợ. Bên
cạnh đó thủ tục mở “tài khoản vốn đầu tư” khá phức tạp.
1.1.4. Doanh nghiệp Việt Nam:
6 Khoản 1 Điều 3 Luật Đầu tư 2005
7 Điểm 1.1 Điều 5 Thông tư 131/2010/TT-BTC ngày 06/9/2010 về Hướng dẫn thực hiện Quy chế góp vốn, mua

cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam


13

Hiện nay, chưa có khái niệm cụ thể về “doanh nghiệp Việt Nam”. Nhìn chung,
khi xác định một tổ chức kinh tế là doanh nghiệp Việt Nam thì chúng ta thường căn cứ
vào những đặc điểm sau:
-

Do tổ chức, cá nhân Việt Nam thành lập.
Thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật Doanh nghiệp Việt Nam.
1.2.
Ý nghĩa của hoạt động góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
trong doanh nghiệp Việt Nam:
FDI có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của mỗi
quốc gia. Đó là nguồn ngoại tệ chủ yếu để kích thích nền kinh tế, là cơ sở đảm bảo cho
sự tăng trưởng cao và ổn định. Riêng ở Việt Nam, sau 25 năm thực hiện chính sách mở
cửa, thu hút đầu tư nước ngoài, có thể nhìn thấy tầm quan trọng của FDI qua những
mặt sau:
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế8
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam không ổn định tính từ khi Luật Đầu tư
nước ngoài được ban hành (1988) cho đến nay. Thời kỳ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao nhất là từ năm 1992 cho đến 1997 với tốc độ tăng trưởng GDP là 8%. Sau đó, do
ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế- tài chính và tiền tệ khu vực giai đoạn 1997 –
1998, tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng giảm sút và thấp nhất là 4,8% năm 1999.
Tuy nhiên, từ năm 2002 trở lại đây, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao
hơn so với những năm trước đây và tương đối ổn định: 7,12% ( 2002), 7,6% (2004).
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, những năm gần đây (giai đoạn
2011 – 2013) tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của Việt Nam đạt 5,6%. Những con

số ấy có đóng góp rất lớn từ nguồn vốn FDI. Có thể nói, hoạt động FDI trong thời gian
vừa qua đóng vai trò quan trọng làm gia tăng sản lượng GDP. Từ mức đóng góp 2%
vào năm 1992 cho GDP lên 12,7% năm 2000; 16,98% (2006); 18,97% (2011) và 20%
năm 2013. Như vậy, có thể kết luận tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam cùng chiều
với đóng góp của hoạt động FDI và tỷ lệ đóng góp ngày càng tăng.
Thứ hai, đảm bảo trình độ công nghệ cao phù hợp với xu thế phát triển chung trên
toàn thế giới 9
Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực ĐTNN đã góp phần thúc
đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong
8 Số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
9 />

14

nhiều lĩnh vực. ĐTNN tạo mối liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài với doanh nghiệp trong nước, qua đó tạo điều kiện để doanh nghiệp trong nước
tiếp cận với những thành tựu khoa học – kỹ thuật tiên tiến.
Thứ ba, có vai trò tích cực trong việc tạo việc làm, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và thay đồi cơ cấu lao động 10
Hiện nay khu vực ĐTNN tạo ra trên 2 triệu lao động trực tiếp và khoảng 3- 4
triệu lao động gián tiếp, có tác động mạnh đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được
xem là tiên phong trong việc đào tạo tại chỗ và đào tạo bên ngoài, nâng cao trình độ
của công nhân, kỹ thuật viên, cán bộ quản lý, trong đó một bộ phận đã có năng lực
quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay thế chuyên gia nước ngoài. Ngoài
ra, ĐTNN đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng lao động thông qua
hiệu ứng lan tỏa lao động, cập nhật kỹ năng cho bên cung ứng và bên mua hàng.
Thứ tư, ĐTNN thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa điện đại hóa 11
Đầu tư nước ngoài đã góp phần nhất định vào việc chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp,
đa dạng hóa sản phẩm, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản xuất khẩu và tiếp thu một số

công nghệ tiên tiến, giống cây, giống con có năng suất, chất lượng cao đạt tiêu chuẩn
quốc tế, tạo ra một số phương thức mới, có hiệu quả cao, nhất là các dự án đầu tư vào
phát triển nguồn nguyên liệu, góp phần cải thiện tập quán canh tác và điều kiện hạ
tầng.
Khu vực đầu tư nước ngoài đã tạo nên bộ mặt mới trong lĩnh vực dịch vụ chất lượng
cao như khách sạn, văn phòng căn hộ cho thuê,ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán, tư vấn
luật, vận tải biển, lô-gi-stíc, siêu thị... Các dịch vụ này cũng góp phần tạo ra phương
thức mới trong phân phối hàng hóa, tiêu dùng, kích thích hoạt động thương mại nội địa
và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài có tác động nâng cao năng lực cạnh tranh ở cả ba cấp
độ quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm 12
Thứ sáu, đầu tư nước ngoài góp phần nâng cao năng lực quản lý kinh tế, quản trị
doanh nghiệp, tạo thêm áp lực đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh13
10
1110, 11,12, 13 />12
13


15

Thực tiễn đầu tư nước ngoài đã cho nhiều bài học, kinh nghiệm bổ ích về công
tác quản lý kinh tế và doanh nghiệp, góp phần thay đổi tư duy quản lý, thúc đẩy quá
trình hoàn thiện luật pháp, chính sách theo hướng bình đẳng, công khai, minh bạch,
phù hợp với thông lệ quốc tế; đào tạo được đội ngũ cán bộ quản lý phù hợp với xu thế
hội nhập.
Thứ bảy, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào hội nhập quốc tế14
Hoạt động thu hút ĐTNN đã góp phần phá thế bao vây cấm vận, mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại, tạo thuận lợi để Việt Nam gia nhập ASEAN, ký Hiệp định khung
với EU, hiệp định thương mại với Hoa Kỳ, Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
với 62 Quốc gia và vùng lãnh thổ, Hiệp định đối tác EPA với Nhật Bản và nhiều nước

khác.
1.3.

Quá trình phát triển của pháp luật Việt Nam về hoạt động góp vốn, mua cổ
phần của nhà đầu tư nước ngoài

1.3.1. Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời

Trước khi Luật Đầu tư 2005 ra đời, Việt Nam đã có những quy định điều chỉnh
về hoạt động đầu tư nói chung và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nói riêng. Cụ thể:
Nghị định số 115/CP ngày 18/4/1977 ban hành điều lệ đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam có đóng góp lớn nhất là quy định các vấn đề giải thể doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài; quy định về xử lý tranh chấp nhưng chỉ mang tính khái quát, chưa
được cụ thể. Tuy vậy, không thể phủ nhận ý nghĩa của Điều lệ đầu tư nước ngoài năm
1977, đây được xem là những chế định pháp lý đầu tiên của Việt Nam điều chỉnh về
hoạt động đầu tư nước ngoài, là cơ sở để cho ra đời những văn bản pháp luật hoàn
thiện hơn điều chỉnh hoạt động này.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 hoàn thiện những quy định
của pháp lệnh đầu tư năm 1977. Luật đầu tư nước ngoài 1987 đã bổ sung và chi tiết
hóa các lĩnh vực đầu tư, hoàn thiện các hình thức đầu tư một cách rõ ràng, cụ thể so
với pháp lệnh đầu tư 1977. Đặc biệt, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định
tương đối đầy đủ những nguyên tắc và biện pháp bảo đảm đầu tư. Khái niệm đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) chính thức được quy định trong văn bản này: “ FDI là việc
tổ chức, cá nhân nước ngoài đưa vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc bất kì tài
sản nào được Chính phủ Việt Nam chấp thuận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp
đồng hoặc thành lập xí nghiệp liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
14 />

16


theo quy định của luật này”15. Quy định này ra đời trong bối cảnh Việt Nam vừa xóa
bỏ chế độ bao cấp và thực hiện mở cửa nền kinh tế nên đầu tư nước ngoài vẫn còn bị
hạn chế, nhà nước chỉ cho phép NĐTNN đầu tư theo các hình thức nhất định gồm: kí
hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập xí nghiệp liên doanh với NĐTTN hoặc thành
lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Đặc biệt, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã quy định nguyên tắc chung nhất
về trường hợp giải thể doanh nghiệp (Điều 19) và Nghị định 139 ra đời sau đó đã cụ
thể thêm quy định này về trường hợp giải thể trước thời hạn và giải thể đúng thời hạn.
Điều 25 Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, cũng như Điều 53 Nghị định 139 quy định
rất rõ ràng nguyên tắc xử lý các tranh chấp. Đây là một trong những điểm mới và nổi
bật so với Điều lệ đầu tư 1977, đồng thời cũng là một quy định tiến bộ mà những văn
bản pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư hiện hành không kế thừa được, gây nhiều
khó khăn trong thực tiễn quản lý hoạt động ĐTNN.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 được ghi nhận là đạo luật đầu tiên về đầu tư
nước ngoài trên đất nước Việt nam, hơn thế nữa, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đã
mở đường cho sự thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thực sự phát huy có hiệu quả, tạo
đà cho sự phát triển kinh tế trong những giai đoạn khó khăn. Luật Đầu tư nước ngoài
năm 1987 làm cầu nối vươn ra bên ngoài và cùng với những nhân tố khác đưa vị thế
của Việt nam nâng lên tầm cao mới.
Sau giai đoạn khủng hoảng, kinh tế Việt Nam dần phục hồi và có nhiều khởi
sắc. Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần VII (7/1991) tiếp tục khẳng định xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, thực hiện mở cửa nền
kinh tế, khuyến khích đầu tư nước ngoài, tạo nhiều thuận lợi cho các NĐTNN. Với
phương hướng đó, Chính phủ đã tiến hành thay đổi hàng loạt các chính sách, tăng
thêm ưu đãi đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ, mở rộng các hình thức đầu tư để
NĐTNN tham gia thị trường Việt Nam. Sau khi Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 ra
đời đánh dấu mốc lịch sử hình thành cho đến nay, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
đã qua 4 lần sửa đổi, bổ sung: Lần thứ nhất vào năm 1990, lần thứ hai vào năm 1992
và đến năm 2000 đã được thay thế bằng Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mới và
luật này cũng đã được tiếp tục sửa đổi, bổ sung vào năm 2000.


15 Khoản 3 Điều 2 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987


17

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại việt nam
1990
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 1990 đã cho phép các tổ chức kinh tế Việt
nam có tư cách pháp nhân thuộc các thành phần kinh tế được hợp tác đầu tư nước
ngoài. Đồng thời hạn chế các tổ chức kinh tế tư nhân Việt nam chỉ được hợp tác kinh
doanh với tổ chức, cá nhân nước ngoài trong những lĩnh vực và điều kiện do Hội đồng
Bộ trưởng quy định. Bên cạnh đó còn quy định thêm vấn đề liên doanh nhiều bên16.
Sự sửa đổi, bổ sung của Luật Đầu tư nước ngoài năm 1990 đã làm môi trường đầu tư ở
Việt Nam ngày càng có sức hấp dẫn hơn với các NĐTNN. Những quy định rõ ràng,
thông thoáng cùng với việc mở rộng hành lang pháp lý đã cho thấy nhu cầu và sự ưu ái
của Việt Nam đối với nguồn vốn FDI. Tuy còn nhiều hạn chế nhưng không thể không
thừa nhận rằng, những sửa đổi, bổ sung này có ý nghĩa quan trọng trong việc tháo gỡ
những bế tắc về mặt pháp lý cho hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong giai
đoạn đó.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đầu tư nước ngoài tại việt Nam
năm 1992
Nhằm đáp ứng với các điều kiện kinh tế hiện tại, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992 đã tập trung vào những nội dung
chủ yếu như: doanh nghiệp tư nhân được tham gia hợp tác với nước ngoài, tăng dần tỷ
trọng góp vốn của Việt Nam …Đặc biệt là việc bổ sung hình thức đầu tư BOT vào
trong quy định của pháp luật17.
Qua hai lần sửa đổi, bổ sung nhưng quy định của pháp luật Việt Nam về đầu tư
nước ngoài vẫn còn nhiều nhược điểm: một số quy định quá chung, không đủ mức cụ
thể để dễ thi hành; thiếu tính đồng bộ, nhiều văn bản còn chồng chéo và thiếu tính cập

nhật; thủ tục hành chính quá phức tạp, rườm rà; chủ trương và quy hoạch chưa đủ mức
cụ thể, làm cho các nhà đầu tư mất nhiều thời gian tìm hiểu; các cơ quan quản lý Nhà
nước gặp nhiều khó khăn trong việc xử lý.
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996

16 Khoản 5 Điều 1 Luật của Quốc Hội số 41-lct/HĐNN8 ngày 30/06/1990 về sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987
17 Điều 4 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 23 tháng 12 năm
1992


18

Quy định thêm các ưu đãi dành cho nhà đầu tư nước ngoài: chính sách ưu đãi
đặc biệt, hoàn thuế khi tái đầu tư, cho phép bên Việt Nam tham gia góp vốn bằng
quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật đất đai18.
Đặc biệt là sự bổ sung phương thức đầu tư BTO và BT đã mở rộng kênh thu hút đầu tư
nước ngoài.
Luật Đầu tư nước ngoài được sửa đổi, bổ sung năm 2000
Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, bổ sung năm 2000 đã đưa ra một định nghĩa mới về
FDI: “FDI là việc NĐTNN góp vốn bằng tiền hoặc bằng bất cứ tài sản nào để tiến
hành các hoạt động đầu tư theo quy định của Luật này”. Kể từ đây, NĐTNN đã có
nhiều thuận lợi hơn trong việc bỏ vốn nhằm tìm kiếm lợi nhuận ở Việt Nam, không
còn có sự phân biệt đối xử giữa NĐTNN và NĐTTN về hình thức đầu tư, NĐTNN
được thực hiện các hoạt động đầu tư phù hợp với quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi năm 2000 còn bổ sung thêm
nhiều quy định mới nhằm tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn, giảm thiểu rủi ro cho
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài liên quan đến các cơ chế, chính sách về
thuế, ngoại tệ, đất đai, thế chấp, xử lý tranh chấp, bảo đảm, bảo lãnh đối với các dự án
quan trọng.... Mở rộng quyền tự chủ trong tổ chức quản lý, kinh doanh của các doanh

nghiệp loại này: xoá bỏ sự can thiệp không cần thiết của cơ quan Nhà nước vào hoạt
động bình thường của doanh nghiệp, nhất là việc loại bỏ điều kiện chấm dứt hoạt động
của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và Hợp đồng hợp tác kinh doanh có tính
chất áp đặt, không bình đẳng giữa các bên. Bên cạnh đó còn phân định rõ trình tự giải
thể thanh lý và trình tự phá sản doanh nghiệp theo hướng: trong quá trình thanh lý tài
sản doanh nghiệp, nếu phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì việc giải
quyết phá sản của doanh nghiệp sẽ được thực hiện theo quy định trong pháp luật về
phá sản19.
Sự thay đổi của pháp luật điểu chỉnh đã có vai trò không nhỏ trong việc thúc
đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Năm 1996, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ước
đạt 8,497 USD, tăng 8 lần so với năm 1991. Giai đoạn 1997-2004, đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam có xu hướng giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế 20. Bên cạnh
đó, mặc dù đã có những thay đổi tích cực nhưng chính sách pháp luật về đầu tư của
18 Điểm b khoản 2 Điều 7, Điều 42, Điều 48 Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1996
19 Điều 53 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam số 18/2000/QH10 ngày
09 tháng 6 năm 2000
20 Số liệu của Bộ kế hoạch và Đầu tư


19

nước ta vẫn bộc lộ nhiều hạn chế, là nguyên nhân chủ yếu khiến cho lượng vốn FDI
vào Việt Nam không tăng trong một thời gian dài. Với một thị trường đầy tiềm năng về
nguyên liệu, mặt bằng, nguồn nhân lực, pháp luật Việt Nam cần thiết phải được sửa
đổi, bổ sung để kịp thời điều chỉnh và không hạn chế sự phát triển năng động của khu
vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
1.3.2. Sau khi Luật Đầu tư 2005 ra đời

Luật Đầu tư 2005 chính thức được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006. Cùng
với Luật Doanh nghiệp 2005, với mục đích cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và

môi trường pháp lý, tạo ra sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư, làm nên
"một sân chơi" bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử. Luật Đầu tư 2005 cùng những
văn bản hướng dẫn thi hành được thiết kế theo hướng chỉ quy định các nội dung liên
quan đến hoạt động đầu tư, còn các nội dung liên quan đến cơ cấu tổ chức và hoạt
động của doanh nghiệp thì do Luật Doanh nghiệp điều chỉnh, các mức ưu đãi về thuế
chuyển sang quy định tại các văn bản pháp luật về thuế và các nội dung mang tính chất
đặc thù được dẫn chiếu sang pháp luật chuyên ngành điều chỉnh. Trọng tâm là đơn
giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các
nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý
của nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Nhìn một cách tổng thể, Luật Đầu tư 2005 có
những mặt tích cực như sau:
-

Quy định thuận lợi hơn so với điều ước quốc tế thì nhà đầu tư có quyền lựa

-

chọn việc áp dụng theo điều ước quốc tế hoặc pháp luật Việt Nam.
Nghị định 108/2006/NĐ – CP đã bổ sung các thuật ngữ “dự án đầu tư mới” 21,
“dự án đầu tư mở rộng”22 để nhà đầu tư biết rõ trong quá trình thực hiện hoạt

-

động đầu tư của mình những nội dung có liên quan đến ưu đãi đầu tư.
Quy định rõ hơn các hình thức đầu tư. NĐTNN trong quá trình hoạt động được
tự do chuyển đổi giữa các hình thức đầu tư phù hợp với tình hình kinh tế và

-

điều kiện sản xuất của mình.

Cụ thể hóa những nội dung về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư
Điểm mới của pháp luật đầu tư năm 2005 là việc phân cấp cấp Giấy chứng nhận
đầu tư cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Ban quản lý và giảm bớt những dự án
phải trình Thủ tướng Chính phủ.

21 Khoản 2 Điều 2 Nghị định của chính phủ số 108/2006/Nđ-Cp ngày 22 tháng 9 năm 2006 Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư
22 Khoản 3 Điều 2 Nghị định của chính phủ số 108/2006/Nđ-Cp ngày 22 tháng 9 năm 2006 Quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Đầu tư


20
-

Đơn giản hóa thủ tục đầu tư và thẩm tra dự án đầu tư.
Với những trường hợp đặc thù, Chính phủ ban hành một loạt các văn bản
hướng dẫn:
+ Nghị định 69/2007/NĐ-CP ban hành ngày 20/4/2007 và Thông tư 07/2007
TT-NHNN ngày 29/11/2007 hướng dẫn hoạt động góp vốn, mua cổ phần
của NĐTNN vào các ngân hàng Thương mại ở Việt Nam. Theo đó, NĐTNN
chỉ được mua cổ phần của các Ngân hàng Thương mại mà không bao gồm
các tổ chức tín dụng hoạt động ở Việt Nam23
+ Quyết định 88/2009 QĐ-TTg ngày 18/6/2009 về Quy chế góp vốn, mua cổ
phần của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam đã sửa đổi một số quy
định, đặc biệt bãi bỏ hạn chế tỉ lệ tham gia của NĐTNN trong các doanh
nghiệp Việt Nam24. Quyết định 55/2009/QĐ-TTg về tỉ lệ tham gia của
NĐTNN trên thị trường chứng khoán Việt Nam quy định NĐTNN chỉ được
nắm giữa không quá 49% cổ phiếu trong tổng số cổ phiếu của công ty đại
chúng; tối đa 49% tổng số chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng
khoán đại chúng25

+ Nghị định 131/2010 TT-BTC ngày 6/9/2010 Hướng dẫn quy trình góp vốn,
mua cổ phần của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt Nam.
+ Nghị định 102/2010 NĐ-CP ngày 1/10/2010 thay thế nghị định 139/2007
Hướng dẫn Luật Doanh nghiệp quy định về quyền thành lập Doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài như sau:
1. “trường hợp doanh nghiệp mới do doanh nghiệp có trên
49% vốn điều lệ là sở hữu của NĐTNN thành lập hoặc
tham gia thành lập thì phải có dự án đầu tư và thực hiện
đăng kí đầu tư gắn với thành lập tổ chức kinh tế…giấy
chứng nhận dầu tư đồng thời là giấy chứng nhận đăng kí
kinh doanh.
2. trường hợp doanh nghiệp mới do doanh nghiệp có không
quá 49% vốn điều lệ là sở hữu của NĐTNN thành lập,
tham gia thành lập thì việc thành lập doanh nghiệp thực
hiện theo quy định của pháp luật Doanh nghiệp. Việc

23 Điều 1 Nghị Định 69/2007/NĐ-CP ngày 20/04/20017 về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của ngân
hàng thương mại Việt Nam
24 Điều 3 Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp việt nam, Ban hành
kèm theo Quyết định số 88/2009/QĐ-TTg
25 Điều 2 Quyết định số 55/2009/QĐ-TTg về Về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng
khoán Việt Nam


21

đăng kí đầu tư trong trường hợp này áp dụng theo quy
định tương ứng đối với dự án đầu tư trong nước”26
Kết luận:
Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò quan trọng đối với việc phát triển

kinh tế của nước ta nói riêng và nhiều nước đang trong quá trình phát triển nói chung.
Trong những năm gần đây, bằng việc tăng cường hội nhập và mở cửa, nguồn vốn đầu
tư từ nước ngoài vào nước ta tăng lên đáng kể, tập trung chủ yếu vào những ngành và
lĩnh vực có khả năng tăng trưởng và phát triển nhanh chóng.
Trong bối cảnh đó, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài
vào Việt Nam, cụ thể là pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
trong doanh nghiệp Việt Nam cần thiết được sửa đổi và hoàn thiện sao cho phù hợp,
đảm bảo mở rộng hành lang pháp lý – thuận lợi cho việc thu hút nguồn vốn FDI. Nhìn
chung, chế định về góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong doanh
nghiệp Việt Nam khá đầy đủ nhưng vẫn còn nhiều hạn chế: điển hình là pháp luật hiện
hành chưa quy định cụ thể thủ tục giải thể, phá sản của doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài; vấn đề trách nhiệm của NĐTNN đối với chủ nợ, người lao động v.v…
trong trường hợp doanh nghiệp FDI phá sản hay NĐTNN thoái vốn; vấn đề “tài khoản
bảo đảm” vẫn luôn là một băn khoăn với NĐTNN khi muốn tìm kiếm lợi nhuận ở Việt
Nam. Chính vì vậy, việc sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện pháp luật đầu tư là việc làm
cấp thiết và có ý nghĩa to lớn trong việc đẩy mạnh hội nhập và phát triển kinh tế đất
nước.
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ GÓP VỐN, MUA CỔ PHẦN CỦA NHÀ
ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRONG DOANH NGHIỆP VIỆT NAM:
Như đã đề cập ở phần trước, đối với các nước đang phát triển, vai trò của đầu tư
trực tiếp nước ngoài có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với nền kinh tế. đầu tư nước
ngoài với những tác dụng của nó như tạo điều kiện về vốn, công nghệ, kỹ năng và một
hệ thống thị trường phù hợp có khả năng phá vỡ “cái vòng luẩn quẫn nghèo khó” (R.
Nurkse và A. Samuelson), tạo lực bứt phá ra khỏi những hạn chế, cản trở để các nước
này hòa nhập vào xu thế phát triển chung của thế giới27.
26 Khoản 3 Điều 11 Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của
Luật Doanh nghiệp
27 Phó tiến sỹ Phạm Đắc Duyên, 1997, Những nội dung kinh tế - tài chính của Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam,
trang 50



22

Việt Nam trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước cần thiết phải có
một lượng vốn đầu tư lớn nhằm thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa,
thực hiện mục tiêu kinh tế chiến lược đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại vào năm 2050 (Nghị quyết Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam). Chính vì vậy, việc tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài là hết sức quan
trọng, nổi lên như một vấn đề cấp bách. Tuy nhiên, việc mở cửa cho dòng vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam không phải là không có những mặt tiêu cực. Đầu tư trực tiếp
nước ngoài có thể ảnh hưởng đến tài nguyên, môi trường sống của đất nước; làm chao
đảo cán cân thanh toán của nước nhận đầu tư và thậm chí là tác động tiêu cực tới độc
lập, chủ quyền quốc gia, kéo theo những luồng văn hóa độc hại ảnh hưởng đến thuần
phong mỹ tục, tới truyền thống tốt đẹp của dân tộc…
Pháp luật về góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong các doanh nghiệp Việt
Nam là một bộ phận của pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ những trình bày ở trên, có thể nhận thấy cần thiết phải có sự quan tâm, định hướng
và quản lý của Nhà nước đối với hoạt động đầy tiềm năng nhưng cũng chứa đựng
không ít rủi ro này. Vai trò của nhà nước không chỉ thể hiện trong việc tạo điều kiện và
giải quyết những vấn đề vướng mắc của các nhà đầu tư mà quan trọng hơn là giảm
thiểu những rủi ro mà đầu tư nước ngoài có thể mang lại. Nhà nước phải đảm bảo
những cơ chế, chính sách của mình là phù hợp với thực tiễn, đảm bảo lợi ích của Việt
Nam và các nhà đầu tư nước ngoài mà vẫn quản lý tốt nền kinh tế nội địa.
Tính đến tháng 6/2013,vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam là 21,6 tỷ
USD và vốn thực hiện đạt được 11,5 tỷ USD 28. Con số đó là một minh chứng hết sức
rõ ràng về sự phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, chất
lượng nguồn vốn FDI và những hạn chế từ pháp luật điều chỉnh hoạt động này vẫn còn
là vấn đề đáng lo ngại. Tiêu biểu là những nhược điểm sau:
-


Quy định cấm, hạn chế NĐTNN đối với một số ngành, lĩnh vực nhất định
nhưng lại không có cơ chế ngăn chặn đầu tư chéo (Cross Investment) theo mô
hình công ty Mẹ - Con hay tình trạng NĐTNN nhờ người Việt Nam đứng tên

-

mua cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam.
Quy định về việc thành lập tài khoản vốn đầu tư – điều kiện để NĐTNN được
góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam nhưng chỉ mới nêu

28 Số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư


23

một cách chung chung, khái quát; chưa có hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục
-

thành lập và quản lý tài khoản này.
Thủ tục thanh lý (giải thể, phá sản) doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn
chưa cụ thể, rõ ràng – đặc biệt là vấn đề trách nhiệm của NĐTNN đối với chủ
nợ, người lao động v.v… trong những trường hợp này cũng chưa có văn bản
nào quy định.

Trong phạm vi đề tài nghiên cứu này, nhóm tác giả sẽ trình bày hai hạn chế mà
theo nhìn nhận chủ quan của mình, chúng tôi cho rằng là những bất cập nghiêm trọng
nhất, cần thiết phải được khắc phục trong thời gian tới, bảo đảm cho nguồn vốn đầu tư
nước ngoài thực sự phát huy được vai trò to lớn của nó trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
2.1.


Pháp luật về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài

trong doanh nghiệp Việt Nam:
2.1.1. Quy định hiện hành về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài
không thông qua thị trường chứng khoán:
Điều 5 Thông tư 131/2010/TT – BTC ghi nhận về điều kiện góp vốn, mua cổ
phần của NĐTNN trong doanh nghiệp Việt Nam như sau:
Đối với nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức:
Có tài khoản vốn đầu tư mở tại ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Mọi hoạt động
mua, bán cổ phần, chuyển nhượng vốn góp, thu và sử dụng cổ tức, lợi nhuận được
chia, chuyển tiền ra nước ngoài và các hoạt động khác liên quan đến đầu tư vào
doanh nghiệp Việt Nam đều thông qua tài khoản này. Việc mở, đóng, sử dụng và quản
lý tài khoản vốn đầu tư phải phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan.
Đối với nhà đầu tư nước ngoài là cá nhân:
Có tài khoản vốn đầu tư mở tại ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Mọi hoạt động
mua, bán cổ phần, chuyển nhượng vốn góp, thu và sử dụng cổ tức, lợi nhuận được
chia, chuyển tiền ra nước ngoài và các hoạt động khác liên quan đến đầu tư vào
doanh nghiệp Việt Nam đều thông qua tài khoản này. Việc mở, đóng, sử dụng và quản
lý tài khoản vốn đầu tư phải phù hợp với quy định của pháp luật có liên quan.”
Theo đó, NĐTNN không phân biệt là tổ chức, cá nhân khi thực hiện hoạt động
góp vốn, mua cổ phần trong các doanh nghiệp Việt Nam thì phải thành lập một “tài
khoản vốn chuyên dùng” tại một ngân hàng thương mại – đó có thể là chi nhánh của tổ
chức tín dụng nước ngoài hoặc ngân hàng thương mại của tổ chức, cá nhân Việt Nam.


24

Mọi hoạt động liên quan đến phần vốn góp, cổ phần trong doanh nghiệp Việt Nam mà
NĐTNN đã mua bao gồm chuyển nhượng, sử dụng cổ tức, lợi nhuận được chia hay
chuyển tiền ra nước ngoài đều phải thực hiện thông qua tài khoản này. Đây là điều

kiện tiên quyết mà pháp luật Việt Nam yêu cầu đối với NĐTNN muốn đầu tư vào
doanh nghiệp Việt Nam không thông qua thị trường chứng khoán.
Hiện nay, khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO), việc ký kết và gia nhập những điều ước quốc tế về tự do hóa thương mại đòi
hỏi chúng ta phải từng bước một dỡ bỏ những rào cản thương mại – trong đó có hàng
rào kỹ thuật về thủ tục. Việc pháp luật Đầu tư còn tồn tại những quy định như điều
kiện góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN trong doanh nghiệp Việt Nam không thông
qua thị trường chứng khoán là một sự phân biệt đối xử được các nước thành viên khác
thừa nhận trong một thời hạn nhất định để đảm bảo rằng, nền sản xuất trong nước
không bị tổn hại; các NĐTTN có điều kiện thích ứng với môi trường cạnh tranh quốc
tế đầy khốc liệt. Theo một lộ trình định sẵn, trong tương lai, Việt Nam phải từng bước
dở bỏ các quy định kiểu này, đảm bảo môi trường tự do hóa và cạnh tranh lành mạnh
trong thương mại quốc tế.
Ý nghĩa của quy định về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước
ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài với đặc trưng cơ bản là đảm bảo quyền sở hữu và
quyền quản lý. Tuy nhiên, cần thừa nhận rằng mục đích của NĐTNN và nước nhận
đầu tư là không giống nhau. Nếu NĐTNN mong muốn thu lợi nhuận cao nhất thì nước
chủ nhà lại quan tâm nhiều đến hiệu quả kinh tế - xã hội và sự phát triển tổng thể của
nền kinh tế theo những mục tiêu, chiến lược đã đề ra. Việc nghiên cứu và xây dựng
pháp luật điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài phải đảm bảo giải quyết được mâu
thuẫn này trên cơ sở dung hòa lợi ích của cả hai phía nhằm đạt được những mục tiêu
đã đề ra bởi chỉ trên cơ sở thống nhất lợi ích mới mong có sự hợp tác phát triển.
Điều kiện góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh
nghiệp Việt Nam chính là một quy định đòi hỏi phải có sự dung hòa, thống nhất như
vậy. Đối với nhà nước, đại diện là các cơ quan quản lý về hoạt động đầu tư, quy định
này là cơ chế đảm bảo hiệu quả quản lý. Thông qua tài khoản vốn đầu tư và quy định
buộc NĐTNN thực hiện mọi hoạt động liên quan đến đầu tư phải thông qua tài khoản
đó, Nhà nước sẽ dễ dàng kiểm soát và ngăn chặn những hành vi không lành mạnh của



25

chủ thể này, điển hình là hành vi tẩu tán tài sản khi thua lỗ hay lợi dụng hoạt động đầu
tư để “Rửa tiền”. Mặt khác, việc quản lý tốt nguồn vốn đầu tư nước ngoài còn giúp
Nhà nước tránh thất thu thuế và kiểm soát chặt chẽ nguồn ngoại tệ. Không thể vì lý do
thiếu vốn, khả năng tài chính thấp mà cho phép những hoạt động kinh tế ngầm diễn ra
gây mất uy tín của Nhà nước trên thị trường quốc tế.
Dưới góc độ doanh nghiệp nhận đầu tư, quy định về điều kiện góp vốn, mua cổ
phần là cơ sở để hợp pháp hóa việc thu hút nguồn vốn và chuyển giao công nghệ, kinh
nghiệm quản lý của các công ty nước ngoài. Bên cạnh đó, trên cơ sở một tài khoản vốn
đầu tư nằm tại ngân hàng thương mại ở trong nước, các doanh nghiệp Việt Nam có thể
nắm bắt và đánh giá về nhu cầu cũng như sự thiện chí của các NĐTNN khi bỏ vốn vào
doanh nghiệp của mình, đồng thời đó cũng là một cơ chế bảo đảm trong những trường
hợp NĐTNN thoái vốn, trốn nợ.
Như vậy, về mặt lý luận, quy định về tài khoản vốn đầu tư có vai trò hết sức
quan trọng, là cơ chế mà thông qua đó nhà nước phát huy được vai trò quản lý và kiểm
soát hoạt động đầu tư nước ngoài một cách chặt chẽ. Đồng thời, quy định này còn có ý
nghĩa bảo vệ nền kinh tế trong nước tránh khỏi những tác động tiêu cực từ nguồn
ngoại tệ vốn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, tránh cho doanh nghiệp Việt Nam bị một số
NĐTNN biến thành trung gian để thực hiện hoạt động rửa tiền và những hành vi vi
phạm pháp luật khác. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này trên thực tiễn thì lại xuất
hiện nhiều kẻ hở và hạn chế, cho thấy nhà làm luật cần sớm đưa ra những sửa đổi và
bổ sung sao cho phù hợp với thực tế hiện nay.
2.1.2. Bất cập trog quy định về điều kiện góp vốn, mua cổ phẩn của NĐTNN trong

doanh nghiệp Việt Nam:
Thông tư 131/2010/TT – BTC về điều kiện góp vốn, mua cổ phần của NĐTNN
trong doanh nghiệp Việt Nam quy định: Sau khi có tài khoản vốn đầu tư, NĐTNN sẽ
thực hiện hoạt động góp vốn, mua cổ phần, chuyển nhượng phần vốn góp, chuyển tài

sản ra nước ngoài v.v… thông qua tài khoản đó 29. Điều này có nghĩa, khi NĐTNN
muốn thực hiện một dự án đầu tư, vốn và các khoản chi khác, cũng như lợi nhuận từ
dự án sẽ thông qua tài khoản này được sử dụng. Nói như vậy, việc kiểm soát nghiêm
ngặt tài khoản vốn đầu tư là hết sức cần thiết, vừa đảm bảo cho việc thực hiện dự án
theo đúng yêu cầu, vừa góp phần quản lý chặt chẽ nguồn ngoại tệ.
29 Điều 5 Thông tư 131/2010/TT – BTC


×